Tải bản đầy đủ (.pdf) (33 trang)

Pháp luật về công ty chứng khoán bảo đảm phù hợp với các cam kết quốc tế (tóm tắt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (545.19 KB, 33 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ DIỆU QUỲNH

PHÁP LUẬT VỀ CÔNG TY CHỨNG KHOÁN BẢO ĐẢM
PHÙ HỢP VỚI CÁC CAM KẾT QUỐC TẾ

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội, 2016


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ DIỆU QUỲNH

PHÁP LUẬT VỀ CÔNG TY CHỨNG KHOÁN BẢO ĐẢM
PHÙ HỢP VỚI CÁC CAM KẾT QUỐC TẾ

Chuyên ngành

: Luật Kinh tế

Mã số

: 60 38 01 07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Thuận



Hà Nội, 2016


MỤC LỤC
Lời cam đoan
Mục lục
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT ..................................... Error! Bookmark not defined.
MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 2
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT CÔNG TY CHỨNG
KHOÁN VÀ CÁC CAM KẾT QUỐC TẾ CÓ LIẾN QUAN .............................. 7
1.1.Những vấn đề cơ bản về công ty chứng khoán ..............................................8
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm công ty chứng khoán ...................................................... 8
1.1.2. Phân loại công ty chứng khoán ....................................................................... 12
1.1.3. Vai trò của công ty chứng khoán trên thị trường chứng khoán ..................... 15
1.2.Pháp luật về công ty chứng khoán............................................................... 17
1.2.1. Khái niệm pháp luật về công ty chứng khoán ................................................ 17
1.2.2. Nội dung pháp luật về công ty chứng khoán .................................................. 18
1.3.Các cam kết quốc tế có liên quan đến công ty chứng khoán ................. Error!
Bookmark not defined.
1.3.1. Cam kết về dịch vụ chứng khoán trong Tổ chức thương mại thế giới ... Error!
Bookmark not defined.
1.3.2. Cam kết về dịch vụ chứng khoán trong Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình
Dương ........................................................................ Error! Bookmark not defined.
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ CÔNG TY CHỨNG
KHOÁN THEO CÁC CAM KẾT QUỐC TẾ ĐÃ THAM GIA, KÝ KẾT . Error!
Bookmark not defined.
2.1.Pháp luật Việt Nam về công ty chứng khoán . Error! Bookmark not defined.
2.1.1. Quy định pháp luật về thành lập công ty chứng khoánError! Bookmark not
defined.

2.1.2. Quy định pháp luật về tổ chức công ty chứng khoánError! Bookmark not
defined.
2.1.3. Quy định pháp luật về hoạt động công ty chứng khoánError! Bookmark not
defined.
2.2.Đánh giá pháp luật Việt Nam về công ty chứng khoán theo các cam kết quốc
tế ...................................................................... Error! Bookmark not defined.


2.2.1. Nội dung cam kết quốc tế về dịch vụ chứng khoán nhìn từ pháp luật Việt
Nam .......................................................................... Error! Bookmark not defined.
2.2.2. Đánh giá pháp luật Việt Nam về công ty chứng khoán theo các cam kết trong
Tổ chức thương mại thế giới..................................... Error! Bookmark not defined.
2.2.3. Đánh giá pháp luật Việt Nam về công ty chứng khoán theo các cam kết trong
Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương ............. Error! Bookmark not defined.
2.3.Một số vấn đề từ thực trạng pháp luật Việt Nam về công ty chứng khoán theo
các cam kết quốc tế ............................................ Error! Bookmark not defined.
2.3.1. Tính kịp thời trong tuân thủ cam kết quốc tế. Error! Bookmark not defined.
2.3.2. Sự mâu thuẫn trong pháp luật về công ty chứng khoánError! Bookmark not
defined.
2.3.3. Xác định hiệu lực thi hành của Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương
Error! Bookmark not defined.
2.3.4. Năng lực của các công ty chứng khoán trong nướcError! Bookmark not
defined.
2.3.5. Vai trò của cơ quan quản lý nhà nước về chứng khoánError! Bookmark not
defined.
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CÔNG TY
CHỨNG KHOÁN ĐẢM BẢO PHÙ HỢP CÁC CAM KẾT QUỐC TẾ .... Error!
Bookmark not defined.
3.1.Vấn đề đặt ra cho việc hoàn thiện pháp luật về công ty chứng khoán đảm bảo
phù hợp với các cam kết quốc tế ......................... Error! Bookmark not defined.

3.1.1. Yêu cầu hoàn thiện pháp luật từ định hướng phát triển thị trường chứng
khoán .......................................................................... Error! Bookmark not defined.
3.1.2. Yêu cầu hoàn thiện pháp luật từ việc tham gia, ký kết các cam kết quốc tế
Error! Bookmark not defined.
3.1.3. Mục tiêu hoàn thiện pháp luật về công ty chứng khoán đảm bảo phù hợp các
cam kết quốc tế .......................................................... Error! Bookmark not defined.
3.2.Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về công ty chứng khoán đảm bảo phù
hợp các cam kết quốc tế ...................................... Error! Bookmark not defined.
3.2.1. Xây dựng các quy định khung về công ty chứng khoánError! Bookmark not
defined.
3.2.2. Đổi mới quy định về thành lập công ty chứng khoánError! Bookmark not
defined.


3.2.3. Sửa đổi quy định về tổ chức và hoạt động công ty chứng khoán ........... Error!
Bookmark not defined.
3.3.Một số giải pháp bổ trợ ................................. Error! Bookmark not defined.
3.3.1. Nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty chứng khoán trong nước .... Error!
Bookmark not defined.
3.3.2. Tăng cường năng lực xây dựng và cưỡng chế thực thi pháp luật .......... Error!
Bookmark not defined.
3.3.3. Nâng cao địa vị pháp lý của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước ............... Error!
Bookmark not defined.
KẾT LUẬN ................................................................. Error! Bookmark not defined.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................. 25
Phụ lục 01: Nội dung cam kết về dịch vụ chứng khoán trong WTO ................Error!
Bookmark not defined.
Phụ lục 02: Nội dung cam kết về dịch vụ chứng khoán trong TPPError! Bookmark
not defined.



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của Luận văn
CTCK là một tổ chức trung gian quan trọng trên thị trường chứng khoán,
đóng vai trò tạo ra cơ chế huy động vốn cho thị trường, cung cấp một cơ chế xác
định giá trị của các khoản đầu tư và giúp nhà đầu tư chuyển các khoản đầu tư thành
tiền; do vậy, sự hình thành và phát triển của các CTCK sẽ tác động tích cực đến sự
phát triển và hoàn thiện thị trường chứng khoán.
Từng bước hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đã chính thức gia nhập Tổ
chức Thương mại Thế giới (WTO) vào tháng 01/2007, thể hiện nỗ lực tích cực, chủ
động hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu. Việc gia nhập vào tổ chức thương mại toàn
cầu này đặt ra những cam kết cụ thể cho các ngành, các lĩnh vực, trong đó có dịch
vụ chứng khoán Việt Nam trong việc mở cửa thị trường theo lộ trình đã cam kết.
Cam kết mở cửa thị trường chứng khoán khi gia nhập WTO thể hiện định hướng mở
cửa nền kinh tế để thu hút vốn đầu tư nước ngoài, tích cực gắn kết nền kinh tế trong
nước với bối cảnh kinh tế khu vực và toàn cầu.
Ngày 13/11/2010, Việt Nam tiếp tục tuyên bố tham gia Hiệp định hợp tác
Kinh tế chiến lược Xuyên Thái Bình Dương (TPP) với tư cách một thành viên đầy
đủ, một Hiệp định gồm 12 nước tham gia ký kết, với mục tiêu thiết lập một mặt
bằng thương mại tự do chung cho các nước khu vực châu Á Thái Bình Dương. Tuy
nhiên, với cơ chế kết nạp thêm thành viên mới trong tương lai (sau khi Hiệp định
được ký kết và có hiệu lực); phạm vi điều chỉnh rộng về thương mại và các vấn đề
liên quan đến thương mại và kinh tế của các quốc gia thành viên của TPP hiện
chiếm 40% GDP của cả thế giới và 26% lượng giao dịch hàng hóa toàn cầu. Chính
vì vậy, có thể nói Hiệp định TPP là một hiệp định có tính quốc tế do tập hợp một
nhóm các nước khác nhau về địa lý, ngôn ngữ và lịch sử, quy mô và mức độ phát
triển và lấy nền tảng là hội nhập kinh tế khu vực để bao hàm cả những nền kinh tế
khác xuyên khu vực châu Á Thái Bình Dương.
Các cam kết về dịch vụ chứng khoán trong WTO và TPP được xác định trên
cơ sở đối tượng là các nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán (môi giới, tự doanh, bảo


2


lãnh phát hành, tư vấn đầu tư chứng khoán và một số nghiệp vụ bổ trợ khác) mà chủ
thể là CTCK nước ngoài được cung cấp tại Việt Nam. Theo pháp luật chứng khoán
các nước nói chung và Việt Nam nói riêng, việc xác định một pháp nhân kinh doanh
là CTCK dựa vào hoạt động nghiệp vụ chứng khoán hay các dịch vụ chứng khoán
mà công ty cung cấp. Các dịch vụ chứng khoán hay nghiệp vụ chứng khoán luôn
gắn liền với chủ thể thực hiện là CTCK, vì vậy, các cam kết về dịch vụ chứng khoán
có thể nói là tương đồng với cam kết về tổ chức và hoạt động của CTCK. Các cam
kết quốc tế trong WTO và TPP đặt ra yêu cầu mở cửa thị trường đối với một số dịch
vụ chứng khoán mà Chính phủ Việt Nam cam kết vẫn còn rất mới với các CTCK
trong nước - các tổ chức trung gian quan trọng trong thị trường chứng khoán; đặc
biệt trong bối cảnh tái cấu trúc thị trường chứng khoán, tái cấu trúc CTCK.
Đối với WTO, hiện tại là thời điểm Việt Nam phải thực hiện đầy đủ các cam
kết, sau khi kết thúc lộ trình 5 năm gia nhập; còn đối với TPP, không giống như
WTO cho phép thành viên thực hiện cam kết theo lộ trình, các cam kết sẽ hiệu lực
thi hành ngay khi các nước tham gia hoàn tất thủ tục phê chuẩn; trong khi đó, các
văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh tổ chức và hoạt động CTCK đang dần dần
hoàn thiện nên chưa đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất và phù hợp trong hệ thống
pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Do vậy tiếp tục nghiên cứu, rà
soát, đánh giá khung pháp lý về tổ chức và hoạt động CTCK trong tổng thể pháp
luật về thị trường chứng khoán và các cam kết quốc tế về dịch vụ chứng khoán là
rất cần thiết. Từ đó, có cơ sở lý luận và thực tiễn kiến nghị sửa đổi, bổ sung kịp thời
các quy định pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Một mặt đảm
bảo tuân thủ các cam kết quốc tế, mặt khác tạo hành lang pháp lý đồng bộ cho các
hoạt động kinh doanh của các CTCK trong nước và nước ngoài được an toàn phù
hợp. Đồng thời có biện pháp giám sát, quản lý thích hợp trong bối cảnh hội nhập
quốc tế, hạn chế rủi ro, hạn chế các tiêu cực trên thị trường chứng khoán để đảm

bảo cho chủ thể này phát triển bền vững, góp phần phát triển sâu rộng thị trường
chứng khoán Việt Nam với mong muốn thị trường chứng khoán Việt Nam là thị
trường chứng khoán có hạng trong khu vực và thế giới.

3


Từ những lý do trên, Học viên đã chọn đề tài “Pháp luật về công ty chứng
khoán bảo đảm phù hợp với các cam kết quốc tế” làm đề tài luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Theo nghiên cứu của tác giả, đã có một số công trình khoa học nghiên cứu có
liên quan đến đề tài luận văn. Trong đó, các tác giả chủ yếu nghiên cứu các quy
định pháp luật về CTCK và thị trường chứng khoán. Một số công trình nghiên cứu
có liên quan như: Luận văn Thạc sĩ Luật học của Nguyễn Hồng Nhung (2009),
Pháp luật về công ty chứng khoán ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học của Đào
Thị Cấm (2008), Pháp luật về hoạt động môi giới chứng khoán của công ty chứng
khoán ở Việt Nam - thực trạng và phương hướng hoàn thiện, Luận vặn thạc sĩ Luật
học của Lê Anh Đức (2009), Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công
ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư, Sách
chuyên khảo của tác giả Phương Tùng, Nguyễn Hiểu (1997), Luật pháp về chứng
khoán và công ty chứng khoán.
Các công trình nghiên cứu này bước đầu đã nêu và phân tích được bản chất
pháp lý và các quy định pháp luật hiện hành về CTCK và hoạt động của công ty
chứng khoán. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu này được thực hiện và hoàn
thành trước thời điểm Thông tư số 210/2012/TT-BTC được ban hành nên các quy
định pháp luật được trích dẫn, phân tích, đánh giá không còn phù hợp và bảo đảm
tính cập nhật, do đó, phần nào đã làm giảm giá trị tham khảo của các công trình này.
Mặt khác, các công trình này được thực hiện mới chỉ đánh giá và phân tích các quy
định những quy định pháp luật Việt Nam mà chưa đặt trong bối cảnh so sánh, yêu
cầu hoàn thiện trong mối tương quan với cam kết quốc tế, đặc biệt là WTO và TPP.

Do đó, các tác giả cũng chưa đề cập đến yêu cầu hoàn thiện các quy định pháp luật
về CTCK phù hợp với các cam kết quốc tế này.
Đáng chú ý hơn cả là công trình nghiên cứu khoa học (sách chuyên khảo)
của tác giả Lê Thị Thu Thủy (2011) với đề tài Pháp luật về công ty chứng khoán ở
Việt Nam. Đây là công trình nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện, đầy đủ về các quy
định pháp luật liên quan đến tổ chức và hoạt động của CTCK; là công trình nổi bật,

4


có giá trị quan trọng tại thời điểm tác giả thực hiện và hoàn thành (năm 2011). Tuy
nhiên, cũng giống như các công trình nghiên cứu trước đó, tác giả đã bước đầu phân
tích, đánh giá các quy định pháp luật về CTCK ở Việt Nam trên cơ sở so sánh, đối
chiếu với các quy định pháp luật quốc tế và chưa đề cập đến yêu cầu hoàn thiện
pháp luật về CTCK theo các cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia, ký kết như
WTO, TPP.
Mặc dù vậy, công trình nghiên cứu của tác giả Lê Thị Thu Thủy và các tác
giả nói trên là nguồn tài liệu quan trọng để tác giả tham khảo, kế thừa trong quá
trình thực hiện đề tài nghiên cứu.
Như vậy, có thể nói hiện nay chưa có bất kỳ công trình nghiên cứu khoa học
chuyên sâu nào nghiên cứu về pháp luật về CTCK ở Việt Nam bảo đảm phù hợp với
các cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia, ký kết như WTO và TPP. Chính vì vậy,
tác giả hi vọng đề tài luận văn của mình sẽ là công trình nghiên cứu khoa học có
chất lượng, có giá trị tham khảo về mặt lý luận và thực tiễn trong bối cảnh Việt Nam
hội nhập vào nền kinh tế quốc tế.
3. Mục tiêu nghiên cứu
3.1. Mục tiêu tổng quát
Mục tiêu của Luận văn là nhằ m nghiên cứu các v ấn đề cơ bản, bản chất của
các cam kết quốc tế về dịch vụ chứng khoán mà Việt Nam ký kết, gia nhập. Rà soát,
đánh giá pháp luật hiện hành về CTCK trên cơ sở nội dung các cam kết quốc tế; từ

đó, đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện khung pháp lý về CTCK đảm bảo phù
hợp với các cam kết quốc tế về dịch vụ chứng khoán mà Việt Nam đã tham gia, ký
kết; đồng thời đóng góp vào quá trình sửa đổi Luật Chứng khoán trong thời gian tới.
3.2. Mục tiêu cụ thể
Trên cơ sở nghiên cứu bản chất, nguyên tắc và mức độ của các cam kết quốc
tế về dịch vụ tài chính nói chung và dịch vụ chứng khoán nói riêng, kết hợp với
phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật của Việt Nam về CTCK, Luận văn đặt ra
mục tiêu cụ thể là: Xác định được “khoảng cách” giữa các quy định pháp luật hiện
hành so với các yêu cầu của các cam kết quốc tế và Đề xuất được những giải pháp

5


có cơ sở khoa học và thực tiễn, có tính khả thi nhằm đảm bảo cho các quy định
pháp luật của Việt Nam về CTCK tuân thủ đầy đủ theo các cam kết quốc tế và có sự
thống nhất, phù hợp trong hệ thống pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng
khoán.
4. Tính mới và những đóng góp của Luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu một cách tập trung, có hệ thống và toàn
diện các quy định pháp luật chứng khoán hiện hành về thành lập, tổ chức và hoạt
động của CTCK; nghiên cứu các vấn đề lý luận và yêu cầu đặt ra từ các cam kết
quốc tế về dịch vụ chứng khoán mà Việt Nam đã tham gia, ký kết. Từ đó, Luận văn
đưa ra những phân tích, đánh giá tổng thể thực trạng pháp luật Việt Nam về CTCK
và lập luận đánh giá mức độ nội luật hóa các nội dung cam kết về dịch vụ chứng
khoán của Việt Nam trong WTO, TPP.
Với bối cảnh hiện nay, cơ quan quản lý Nhà nước (UBCKNN) đang tiến
hành rà soát, đánh giá tổng thể hiệu quả của khung pháp lý về chứng khoán và thị
trường chứng khoán; thực hiện các bước của quy trình lập đề nghị xây dựng Luật
Chứng khoán (sửa đổi). Những phân tích, đánh giá pháp luật về CTCK và một số
giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về CTCK đảm bảo phù hợp với các cam kết

quốc tế mà tác giả đưa ra trong Luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo có giá trị
trong quá trình hoàn thiện các quy định pháp luật chứng khoán.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Với mục tiêu nghiên cứu đã nêu, Luận văn tập trung nghiên cứu các đối
tượng sau:
-

Quy định pháp luật chứng khoán hiện hành về CTCK trong bối cảnh tái cấu

trúc thị trường chứng khoán;
-

Các cam kết quốc tế về dịch vụ tài chính - chứng khoán mà Việt Nam đã ký

kết, tham gia.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu nêu trên, Luận văn xác định phạm vi

6


nghiên cứu như sau:
-

Các vấn đề cơ bản về các cam kết chung về dịch vụ và nội dung cụ thể các

cam kết về dịch vụ chứng khoán mà Việt Nam đã tham gia, ký kết trong WTO, TPP.
-


Các quy định về thành lập, tổ chức và hoạt động của CTCK trong phạm vi

pháp luật chuyên ngành chứng khoán.
6. Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu đề tài này một cách có hệ thống và hiệu quả, tác giả đã sử
dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu sau: tổng hợp, diễn giải, suy luận logic
để làm rõ các quy định của pháp luật Việt Nam về CTCK; so sánh, đánh giá pháp
luật về CTCK với các cam kết quốc tế về dịch vụ chứng khoán trong hệ thống pháp
luật về thị trường chứng khoán và trong mối tương quan với pháp luật khác có liên
quan; phân tích một số vấn đề liên quan đến việc tuân thủ cam kết quốc tế về dịch
vụ chứng khoán trong bối cảnh thị trường chứng khoán Việt Nam đang từng bước
hội nhập kinh tế quốc tế.
7. Bố cục dự kiến Luận văn:
Ngoài Phần Mở đầu, Danh mục các từ viết tắt, Kết luận, Danh mục tài liệu
tham khảo, Bố cục của luận văn được tổ chức gồm 03 chương như sau:
Chương 1. Những vấn đề cơ bản về pháp luật công ty chứng khoán và các
cam kết quốc tế có liên quan.
Chương 2. Thực trạng pháp luật Việt Nam về công ty chứng khoán theo các
cam kết quốc tế đã tham gia, ký kết.
Chương 3. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về công ty chứng khoán
đảm bảo phù hợp các cam kết quốc tế.

7


Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT CÔNG TY CHỨNG
KHOÁN VÀ CÁC CAM KẾT QUỐC TẾ CÓ LIẾN QUAN
1.1. Những vấn đề cơ bản về công ty chứng khoán
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm công ty chứng khoán
1.1.1.1. Khái niệm công ty chứng khoán

Theo pháp luật Nhật Bản, thuật ngữ CTCK được hiểu là “bất kỳ một CTCP
liên doanh nào đã được Bộ trưởng Bộ Tài chính cấp giấy phép tiến hành việc kinh
doanh chứng khoán”[22, Điều 2.9]. Giấy phép nêu trên được phân thành các loại
dựa trên những hoạt động kinh doanh cổ phiếu quy định cụ thể tại Luật chứng
khoán mà công ty thực hiện. Trong khi, tại Bungary, pháp luật về chứng khoán quy
định “các tổ chức trung gian đầu tư chứng khoán là các pháp nhân đã có giấy phép
hoạt động kinh doanh theo các hình thức hoạt động và giao dịch chứng khoán trong
khuôn khổ các điều kiện và quy định của Luật này, cũng như các ngân hàng có giấy
phép hoạt động trong lĩnh vực này theo các điều kiện và quy định của Luật Ngân
hàng”[20, Điều 54.3]. Tuy nhiên, khái niệm kinh doanh chứng khoán hay kinh
doanh cổ phiếu đều được Luật chứng khoán các nước quy định theo hướng liệt kê,
bao gồm mua, bán chứng khoán; hành động như trung gian, đại lý hoặc đại diện liên
quan đến việc mua, bán chứng khoán; bảo lãnh phát hành chứng khoán…
Luật chứng khoán và giao dịch chứng khoán Thái Lan cũng không đưa ra
khái niệm về CTCK mà quy định hoạt động kinh doanh chứng khoán chỉ được tiến
hành bằng việc thành lập công ty TNHH, công ty TNHH đại chúng hoặc bởi các tổ
chức tài chính được thành lập theo các luật khác và sau khi đã nhận được giấy phép
họat động của Bộ trưởng Bộ Tài chính theo đề nghị của Ủy ban chứng khoán.
Tương tự, Luật thị trường vốn Indonesia xác định chỉ công ty được Cơ quan giám
sát thị trường vốn cấp phép được hoạt động như một CTCK. Theo đó, CTCK phải
đáp ứng các yêu cầu cấp giấy phép nhất định như chuyên môn, vốn đầy đủ. CTCK
được cấp phép được hoạt động như một nhà bảo lãnh phát hành, nhà môi giới – tự
doạnh và/ hoặc nhà quản lý đầu tư và bất kỳ hoạt động kinh doanh khác do Cơ quan

8


giám sát thị trường vốn Indonesia cho phép.
Có thể thấy, điểm chung nhất trong pháp luật các nước đều chỉ quy định kinh
doanh chứng khoán là ngành, nghề kinh doanh có điều kiện, mang tính liệt kê các

hình thức/ hoạt động cụ thể và khái niệm CTCK được hiểu là pháp nhân thực hiện
kinh doanh chứng khoán, thoả mãn những điều kiện mà pháp luật quy định và phải
được cơ quan có thẩm quyền cấp phép thành lập và hoạt động. Như vậy, để nhận
biết và phân biệt CTCK với các chủ thể kinh doanh chứng khoán khác trên thị
trường chứng khoán thì dấu hiệu quan trọng nhất chính là các nghiệp vụ kinh doanh
chứng khoán mà chủ thể đó thực hiện.
Pháp luật các nước thường chỉ rõ nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán nào do
CTCK thực hiện, nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán nào thì CTCK không được
thực hiện nhằm tránh thao túng và mâu thuẫn, xung đột lợi ích giữa các hoạt động
kinh doanh chứng khoán. Thậm chí trong các hoạt động kinh doanh chứng khoán
thuộc về CTCK, pháp luật một số nước chỉ cho phép một CTCK thực hiện một số
hoạt động nhất định mà không được thực hiện toàn bộ các hoạt động kinh doanh
chứng khoán thuộc về CTCK. Ví dụ, theo pháp luật chứng khoán ở Mỹ, Nhật,
Canada, Hàn Quốc, đã thực hiện hoạt động tự doanh thì không được hoạt động môi
giới và ngược lại. Tuy nhiên, cũng có một số quốc gia châu Âu lục địa cho phép
thực hiện tất cả các nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán trong CTCK (đối với CTCK
đa nghiệp vụ) nhưng phải đảm bảo tách biệt các hoạt động kinh doanh này. Bên
cạnh đó, còn một số quốc gia như Đức, Úc cho phép ngân hàng, công ty bảo hiểm
cũng được đồng thời thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán.
Trên cơ sở xem xét, đánh giá quy định về CTCK theo pháp luật về chứng
khoán của một số quốc gia, có thể nói, CTCK là một loại hình doanh nghiệp nên có
đầy đủ các đặc tính của doanh nghiệp nói chung. Bên cạnh đó, do thực hiện kinh
doanh lĩnh vực đặc thù nên CTCK được xác định căn cứ vào các điểm riêng biệt,
giúp phân biệt với các doanh nghiệp kinh doanh khác: (i) Về lĩnh vực, ngành nghề
kinh doanh: CTCK là chủ thể kinh doanh trên thị trường chứng khoán có hoạt động
kinh doanh chính, thường xuyên và mang tính nghề nghiệp là kinh doanh chứng

9



khoán; (ii) Về hình thức tổ chức pháp lý: CTCK thường được tổ chức dưới hình
thức công ty TNHH hoặc CTCP theo quy định pháp luật doanh nghiệp. Việc quy
định hình thức pháp lý của CTCK như vậy đáp ứng được đòi hỏi đặc thù của hoạt
động kinh doanh chứng khoán là đảm bảo độ tin cậy cao và hạn chế rủi ro đồng thời
đáp ứng yêu cầu thị trường chứng khoán là thị trường mang tính quốc tế cao; (iii)
Về phương diện quản lý, CTCK đặt dưới sự quản lý nhà nước trực tiếp của cơ quan
quản lý chuyên trách và (iv) Pháp luật điều chỉnh CTCK là Luật chứng khoán và
các quy định pháp luật có liên quan.
1.1.1.2. Đặc điểm công ty chứng khoán
Nhìn nhận dưới góc độ pháp lý, CTCK cũng như tất cả các công ty khác đều
có một số đặc điểm chung trong quá trình hoạt động kinh doanh.Tuy nhiên, do kinh
doanh trong một lĩnh vực đặc biệt và quan trọng là chứng khoán và thị trường
chứng khoán nên khi nhìn nhận dưới góc độ pháp lý, các đặc điểm nêu trên luôn thể
hiện rõ ràng và ở mức độ cao hơn ở CTCK so với các công ty kinh doanh trong lĩnh
vực khác. Theo đó, CTCK có một số đặc điểm như sau:
Một là xung đột lợi ích trong quá trình hoạt động kinh doanh chứng khoán:
Trong quá trình hoạt động kinh doanh, CTCK vừa tiến hành hoạt động mua, bán
chứng khoán và đầu tư do khách hàng ủy thác, vừa mua, bán chứng khoán cho
chính công ty mình. Do vậy, xung đột lợi ích là vấn đề tất yếu sẽ xảy ra trong quá
trình hoạt động kinh doanh của công ty. Các xung đột lợi ích có thể xảy là giữa
CTCK với các nhà đầu tư khi công ty thực hiện hoạt động môi giới, tư vấn đầu tư,
quản lý danh mục đầu tư do khách hàng ủy thác cùng lúc với hoạt động tự doanh
của chính công ty; giữa CTCK với công ty phát hành trong quá trình ký kết và thực
hiện hợp đồng bảo lãnh phát hành chứng khoán; giữa CTCK với các CTCK khác
trong quá trình cạnh tranh để tìm kiếm lợi nhuận. Ngoài ra, còn tồn tại sự xung đột
với phía cơ quan quản lý do luôn mong muốn một sự công bằng và an toàn cho các
nhà đầu tư còn mục đích cao nhất của các CTCK là lợi nhuận tối đa. Vì vậy, các cơ
quan quản lý luôn có xu hướng kiểm soát chặt chẽ hoạt động kinh doanh của
CTCK, trong khi công ty lại luôn có xu hướng tự do trong kinh doanh. Xung đột lợi


10


ích giữa CTCK với chính các nhân viên trong công ty và giữa các nhân viên công ty
với khách hàng xảy ra không ít. Những nhân viên này thường có điều kiện thuận lợi
để kiếm lợi nhuận riêng cho bản thân trong khi thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh,
gây ảnh hưởng đến lợi ích của công ty vá các khách hàng.
Hai là ảnh hưởng của quyền tự do kinh doanh của CTCK tới sự an toàn của
thị trường: CTCK cũng như mọi loại hình doanh nghiệp khác, đều có quyền tự do
kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật để tìm kiếm lợi nhuận. Kinh doanh chứng
khoán là một loại hình kinh doanh hứa hẹn lợi nhuận cao nhưng cũng tiềm ẩn rất
nhiều rủi ro cho công ty, cho các nhà đầu tư cũng như cho cả nền kinh tế. Vì vậy,
quyền tự do trong hoạt động kinh doanh của CTCK có phạm vi đến đâu sẽ ảnh
hưởng rất lớn tới sự an toàn của thị trường chứng khoán. Xuất phát từ sự đặc biệt về
lĩnh vực và ngành nghề kinh doanh nên so với các loại hình công ty khác, pháp luật
luôn có một cái nhìn khắt khe hơn đối với các CTCK và luôn tìm cách dung hòa
giữa tính hấp dẫn về mặt kinh tế và tính an toàn pháp lý để đảm bảo hiệu quả hoạt
động của CTCK.
Ba là hoạt động kinh doanh chứng khoán đòi hỏi các chủ thể tham gia phải
có tiềm lực về tài chính và trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao: Dù kinh doanh trong
lĩnh vực nào, muốn có hiệu quả trong kinh doanh và đạt được lợi nhuận tối đa, chủ
thể kinh doanh phải có khả năng về tài chính và trình độ chuyên môn nghiệp vụ
nhất định. Tuy nhiên, đối với một số loại hình kinh doanh đặc biệt như kinh doanh
trong lĩnh vực ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm, yêu cầu trên được đặt ra ở mức
độ cao hơn để nhằm mục đích đảm bảo chỉ có những doanh nghiệp thực sự có năng
lực về tài chính và trình độ nghiệp vụ mới được tham gia thị trường. Đối với hoạt
động kinh doanh chứng khoán, nhằm mục đích bảo vệ các nhà đầu tư, kiểm soát các
rủi ro hệ thống và đảm bảo một thị trường hiệu quả, có trật tự và công bằng, CTCK
muốn được hoạt động kinh doanh phải đáp ứng những điều kiện nhất định do pháp
luật quy định. Đó là các điều kiện về hình thức pháp lý, điều kiện về vốn, điều kiện

về cơ sở vật chất kỹ thuật và điều kiện về nhân sự.
Bốn là sự ảnh hưởng của cá nhân đối với hoạt động của công ty: Nói chung,

11


các cá nhân luôn có vai trò mang tính quyết định đối với công ty mà họ tham gia
thành lập và làm việc. Kinh doanh trong những lĩnh vực mà sản phẩm càng vô hình
thì vai trò của cá nhân càng quan trọng. Đối với CTCK, do lĩnh vực kinh doanh đặc
biệt, đó là chứng khoán và các dịch vụ về chứng khoán nên sự ảnh hưởng này càng
có ý nghĩa lớn. Giám đốc và các nhân viên hành nghề của công ty có vai trò quyết
định đến kết quả kinh doanh và chất lượng dịch vụ mà công ty cung cấp cho khách
hàng. Chính vì vậy, pháp luật luôn đòi hỏi giám đốc và nhân viên hành nghề trong
CTCK phải đáp ứng những điều kiện nhất định, ví dụ các điều kiện về năng lực chủ
thể, về tư cách đạo đức, về trình độ văn hóa và nghiệp vụ.
1.1.2. Phân loại công ty chứng khoán
Hoạt động của CTCK rất đa dạng và phức tạp, khác hẳn với các doanh
nghiệp sản xuất và thương mại thông thường vì CTCK là một định chế tài chính đặc
biệt. Tuy nhiên, căn cứ vào phạm vi hoạt động nghiệp vụ mà luật cho phép, có thể
khái quát mô hình tổ chức kinh doanh chứng khoán của CTCK theo hai nhóm (i)
CTCK chuyên doanh và (ii) CTCK đa năng.
(i) CTCK chuyên doanh là mô hình mà chủ thể pháp nhân chỉ hoạt động kinh
doanh trong lĩnh vực chứng khoán, hoàn toàn độc lập, mang tính chuyên môn hóa
với các hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại. Ưu điểm của mô hình này
là tạo cho CTCK có tính chuyên môn hóa, chuyên nghiệp hóa cao, hạn chế được
xung đột lợi ích giữa các nghiệp vụ kinh doanh trong một CTCK đồng thời Nhà
nước dễ quản lý, giám sát hoạt động của các CTCK, giảm bớt các rủi ro hệ thống
ngân hàng, hệ thống tài chính; từ đó, tạo điều kiện cho thị trường chứng khoán phát
triển; tuy nhiên, mô hình hoạt động này làm tăng chi phí về nhân sự, vốn thấp nên
không tham gia bảo lãnh được những hợp đồng lớn và phù hợp với nền kinh tế có

thị trường chứng khoán phát triển. Do vậy, loại hình CTCK này được áp dụng ở
nhiều nước như Mỹ, Nhật, Canada, Hàn Quốc.
(ii) CTCK đa năng (đa nghiệp vụ) là một bộ phận cấu thành của các tổ chức
kinh doanh, thường là các ngân hàng thương mại, tập đoàn tài chính, tập đoàn bảo
hiểm… Các tổ chức này hoạt động trên nhiều lĩnh vực như kinh doanh tiền tệ,

12


chứng khoán, bảo hiểm và các hoạt động kinh doanh khác. Mô hình CTCK đa năng
được chia thành hai loại là đa năng một phần và đa năng hoàn toàn. Đối với loại
hình đa năng một phần, các ngân hàng, công ty bảo hiểm muốn kinh doanh chứng
khoán phải thành lập CTCK trực thuộc có tư cách pháp nhân để tiến hành kinh
doanh chứng khoán và thường được áp dụng tại Anh, Canada. CTCK đa năng hoàn
toàn là loại hình tổ chức kinh doanh chứng khoán được thực hiện đồng thời các
nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán và cả nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng, bảo
hiểm. Các ngân hàng, công ty bảo hiểm được kinh doanh chứng khoán bên cạnh
nghiệp vụ kinh doanh là tiền tệ, bảo hiểm trong một pháp nhân duy nhất. Mô hình
công ty kinh doanh chứng khoán này có ở Đức, Úc… Ưu điểm của mô hình đa năng
là ngân hàng có thể kết hợp nhiều lĩnh vực kinh doanh, bổ sung, hỗ trợ cho nhau
giữa các nghiệp vụ; do vậy có thể san sẻ lợi nhuận cũng như giảm bớt rủi ro cho
hoạt động kinh doanh chung và có khả năng chịu đựng các biến động của thị trường
chứng khoán. Bên cạnh đó, ngân hàng sẽ tận dụng được thế mạnh về trình độ
chuyên môn, mạng lưới hoạt động và vốn để kinh doanh chứng khoán có hiệu quả.
Mô hình CTCK này thích hợp ở những thị trường chứng khoán mới hình thành, thị
trường chứng khoán nhỏ chưa phát triển mạnh. Tuy nhiên, mô hình này có nhược
điểm là tính chuyên môn hóa không cao, khả năng thích ứng và linh hoạt kém, do
tham gia nhiều lĩnh vực kinh doanh, dễ dẫn đến tình trạng xung đột lợi ích giữa các
nghiệp vụ kinh doanh.
Trên cơ sở phân loại theo hoạt động kinh doanh, CTCK được chia thành hai

dạng là ngân hàng đầu tư và công ty môi giới chứng khoán. (1) Ngân hàng đầu tư là
một định chế tài chính hỗ trợ các cá nhân, công ty, và các chính phủ trong việc huy
động vốn bằng cách bảo lãnh phát hành hoặc làm đại lý của khách hàng trong việc
phát hành chứng khoán. Ngân hàng đầu tư cũng có thể cung cấp dịch vụ tư vấn sáp
nhập, mua lại và cung cấp dịch vụ phụ trợ như tạo lập thị trường cho chứng khoán
phái sinh. Có hai mảng kinh doanh chính trong dịch vụ ngân hàng đầu tư là kinh
doanh chứng khoán bằng tiền mặt hoặc chứng khoán khác hoặc thúc đẩy phát hành
chứng khoán là “dịch vụ bên bán”, trong khi “dịch vụ bên mua” là một thuật ngữ

13


được sử dụng để chỉ các tổ chức tư vấn có liên quan dịch vụ đầu tư bên mua. Các
quỹ cổ phần tư nhân, các quỹ tương hỗ, các công ty bảo hiểm nhân thọ, quỹ tín thác,
và các quỹ đầu tư mạo hiểm là các tổ chức bên mua phổ biến nhất. (2) Công ty môi
giới chứng khoán hiện nay trên thế giới được chia thành hai loại là công ty tổng hợp
(full-service brokerage firms) và công ty chuyên doanh (discount firms). Khi quyết
định sử dụng dịch vụ của một công ty chuyên doanh, nhà đầu tư chỉ có thể nhận
được hai loại dịch vụ duy nhất là thực hiện lệnh và thanh toán khi lệnh mua/ bán
của bạn đã được “khớp” với một hoặc nhiều lệnh khác. Một trong những ưu điểm
chính của các công ty chuyên doanh là phí hoa hồng sẽ thấp hơn khoảng từ 1/4 cho
đến 2/3 so với trường hợp các công ty tổng hợp. Nhà đầu tư sử dụng dịch vụ của các
công ty chuyên doanh thường là nhà đầu tư nhạy bén, có khả năng nắm bắt cũng
như phân tích thông tin một cách nhanh nhạy và chính xác. Các công ty tổng hợp,
ngoài việc cung cấp hai loại dịch vụ kể trên, còn cung cấp các dịch vụ khác như:
phát hành các bản nghiên cứu tình hình đầu tư do các chuyên viên phân tích của
phòng nghiên cứu soạn thảo, cung cấp dịch vụ quản lý tài sản, tư vấn đầu tư, giúp
lập các dự toán tài chính, tư vấn các biện pháp giảm hoặc tránh thuế… cho khách
hàng. Các công ty tổng hợp này tiếp tục được chia làm nhiều loại như: Công ty môi
giới chứng khoán tổng hợp phục vụ khách hàng cá nhân (Wire houses) là các công

ty cung cấp rất nhiều loại hình công cụ đầu tư cho khách hàng và đối tượng chủ yếu
của các công ty này là những nhà đầu tư cá nhân, mặc dù họ cũng phục vụ các nhà
đầu tư có tổ chức và tiến hành mua bán cho chính mình. Công ty môi giới chứng
khoán tổng hợp chuyên về một loại hình sản phẩm tài chính cụ thể (Specialized
firms) là những công ty chỉ chuyên cung cấp dịch vụ liên quan đến một hoặc một số
rất ít các công ty cụ đầu tư. Công ty môi giới chứng khoán có trụ sở ở những trung
tâm tài chính của một quốc gia (Carriage trade houses) chỉ các công ty có trụ sở tại
các trung tâm tài chính của một đất nước như thành phố New York, London. Khách
hàng của các công ty này đều được lựa chọn kỹ càng và đều là các khách hàng lớn
và dịch vụ do các công ty này cung cấp đều được cá nhân hóa cao độ để phù hợp
với từng khách hàng. Công ty môi giới chứng khoán chuyên môn hóa cao về sản

14


phẩm và khách hàng (Boutique firms) chỉ các công ty vừa có đặc điểm của một
công ty môi giới chứng khoán có trụ sở ở những trung tâm tài chính của một quốc
gia (carriage trade firm) vừa có đặc điểm của một công ty môi giới chứng khoán
tổng hợp phục vụ khách hàng cá nhân (wire house). Dịch vụ do các công ty này
cung cấp cũng mang tính chất cá nhân hóa như các công ty môi giới chứng khoán
có trụ sở ở những trung tâm tài chính của một quốc gia nhưng đối tượng là những
nhà đầu tư có thu nhập trung bình.
1.1.3. Vai trò của công ty chứng khoán trên thị trường chứng khoán
Với những đặc điểm và các dạng, mô hình đa dạng nêu trên, CTCK đóng vai
trò quan trọng đối với những chủ thể khác nhau trên thị trường chứng khoán.
Thứ nhất, đối với thị trường chứng khoán, CTCK thể hiện hai vai trò chính là
góp phần tạo lập giá cả và điều tiết thị trường. Giá cả chứng khoán là do thị trường
quyết định. Tuy nhiên, để đưa ra mức giá cuối cùng, người mua và người bán phải
thông qua các CTCK vì họ không được tham gia trực tiếp vào quá trình mua bán.
Các CTCK là những thành viên của thị trường, do vậy họ cũng góp phần tạo lập giá

cả thị trường thông qua đấu giá. Trên thị trường sơ cấp, các CTCK cùng với các nhà
phát hành đưa ra mức giá đầu tiên. Chính vì vậy, giá cả của mỗi loại chứng khoán
giao dịch đều có sự tham gia định giá của các CTCK. Thứ hai, các CTCK còn thể
hiện vai trò lớn hơn khi tham gia điều tiết thị trường. Để bảo vệ những khoản đầu tư
của khách hàng và bảo vệ lợi ích của chính mình, nhiều CTCK đã để lại một tỷ lệ
nhất định các giao dịch để thực hiện vai trò bình ổn thị trường.
Thứ hai, đối với các tổ chức phát hành, mục tiêu khi tham gia vào thị trường
chứng khoán của các tổ chức phát hành là huy động vốn thông qua việc phát hành
các chứng khoán. Vì vậy, thông qua hoạt động đại lý phát hành, bảo lãnh phát hành,
các CTCK có vai trò tạo ra cơ chế huy động vốn phục vụ các nhà phát hành. Một
trong những nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán là nguyên tắc trung
gian. Nguyên tắc này yêu cầu những nhà đầu tư và những nhà phát hành không
được mua bán trực tiếp chứng khoán mà phải thông qua các trung gian mua bán.
Các CTCK sẽ thực hiện vai trò trung gian cho cả người đầu tư và nhà phát hành. Và

15


khi thực hiện công việc này, CTCK đã tạo ra cơ chế huy động vốn cho nền kinh tế
thông qua thị trường chứng khoán.
Thứ ba, đối với các nhà đầu tư, thông qua các hoạt động như môi giới, tư vấn
đầu tư, quản lý danh mục đầu tư, CTCK có vai trò làm giảm chi phí và thời gian
giao dịch, do đó nâng cao hiệu quả các khoản đầu tư. Trên thị trường chứng khoán,
sự biến động thường xuyên của giá cả chứng khoán cũng như mức độ rủi ro cao sẽ
làm cho những nhà đầu tư tốn kém chi phí, công sức và thời gian tìm hiểu thông tin
trước khi quyết định đầu tư. Nhưng thông qua các CTCK, với trình độ chuyên môn
cao và uy tín nghề nghiệp sẽ giúp các nhà đầu tư thực hiện các khoản đầu tư một
cách hiệu quả.
Thứ tư, đối với các cơ quan quản lý thị trường, CTCK có vai trò cung cấp
thông tin về thị trường chứng khoán cho các cơ quan quản lý thị trường. Các CTCK

thực hiện được vai trò này bởi vì họ vừa là người bảo lãnh phát hành cho các chứng
khoán mới, vừa là trung gian mua bán chứng khoán và thực hiện các giao dịch trên
thị trường. Một trong những yêu cầu của thị trường chứng khoán là các thông tin
cần phải được công khai hoá dưới sự giám sát của các cơ quan quản lý thị trường.
Việc cung cấp thông tin vừa là quy định của hệ thống luật pháp, vừa là nguyên tắc
nghề nghiệp của các CTCK vì CTCK cần phải minh bạch và công khai trong hoạt
động. Các thông tin CTCK có thể cung cấp bao gồm thông tin về các giao dịch mua,
bán trên thị trường, thông tin về các cổ phiếu, trái phiếu và về tổ chức phát hành, về
các nhà đầu tư v.v… Nhờ các thông tin này, các cơ quan quản lý thị trường có thể
kiểm soát và chống các hiện tượng thao túng, lũng đoạn, bóp méo thị trường.
Ngoài ra, CTCK còn góp phần làm tăng tính thanh khoản của các tài sản tài
chính. Thị trường chứng khoán có vai trò là môi trường làm tăng tính thanh khoản
của các tài sản tài chính. Nhưng các CTCK mới là người thực hiện tốt vai trò đó vì
CTCK tạo ra cơ chế giao dịch trên thị trường. Trên thị trường sơ cấp, do thực hiện
các hoạt động như bảo lãnh phát hành, chứng khoán hoá, các CTCK không những
huy động một lượng vốn lớn đưa vào sản xuất kinh doanh cho nhà phát hành mà
còn làm tăng tính thanh khoản của các tài sản tài chính được đầu tư vì các chứng

16


khoán qua đợt phát hành sẽ dược mua bán giao dịch trên thị trường thứ cấp. Điều
này làm giảm rủi ro, tạo tâm lý yên tâm cho người đầu tư. Trên thị trường thứ cấp,
do thực hiện các giao dịch mua và bán các CTCK giúp người đầu tư chuyển đổi
chứng khoán thành tiền mặt và ngược lại. Những hoạt động đó có thể làm tăng tính
thanh khoản của những tài sản tài chính.
Tóm lại, CTCK là một tổ chức trung gian chuyên nghiệp trên thị trường
chứng khoán, có vai trò cần thiết và quan trọng đối với các nhà đầu tư, các nhà phát
hành đối với các cơ quan quản lý thị trường và đối với thị trường chứng khoán nói
chung; được thể hiện thông qua các nghiệp vụ hoạt động của CTCK.

1.2. Pháp luật về công ty chứng khoán
1.2.1. Khái niệm pháp luật về công ty chứng khoán
Hệ thống pháp luật chứng khoán và thị trường chứng khoán là tập hợp các
chế định pháp luật về hàng hóa trên thị trường (các loại chứng khoán), về chào bán
các loại hàng hóa đó, về niêm yết, giao dịch chứng khoán, về các tổ chức trung gian
trên thị trường chứng khoán…, mỗi chế định pháp luật điều chỉnh một nhóm các
quan hệ xã hội cụ thể trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán. Các
chế định pháp luật đó có tính độc lập tương đối với nhau nhưng lại có mối quan hệ
nội tại, gắn bó với nhau hoặc liên quan đến nhau, cùng điều chỉnh về các lĩnh vực
khác nhau về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Nghiên cứu nội dung và tính
chất của hệ thống các quy phạm pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng
khoán, có thể phân chia thành hai bộ phận, gồm (i) Luật chuyên ngành (Luật Chứng
khoán và các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Chứng khoán)
và (ii) Luật liên quan (như các luật và các văn bản dưới luật về đầu tư, tổ chức
doanh nghiệp, thương mại, ngân hàng, bảo hiểm, thuế, pháp luật về khiếu nại, tố
cáo, giải quyết tranh chấp …)[13, tr. 43 - 44].
Không những là một chủ thể của thị trường chứng khoán, CTCK còn là một
định chế tài chính trung gian không thể thiếu trên thị trường chứng khoán, có vai trò
to lớn trong việc kết nối nhà đầu tư với các tổ chức phát hành, bảo đảm các quyền

17


và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư chứng khoán, do vậy “pháp luật về CTCK là bộ
phận pháp luật chứng khoán không thể thiếu trong bất cứ luật chứng khoán của
quốc gia nào”[13, tr.43]. Do đó, pháp luật về CTCK có thể được hiểu là tổng thể
các quy phạm pháp luật điều chỉnh một cách trực tiếp hoặc gián tiếp các mối quan
hệ phát sinh trong tổ chức và hoạt động của CTCK nhằm mục đích duy trì và phát
triển chủ thể này, qua đó duy trì và phát triển thị trường chứng khoán. Các mối
quan hệ trực tiếp điều chỉnh CTCK là các quan hệ trong việc thành lập, tổ chức và

hoạt động, tổ chức lại, giải thể, phá sản… CTCK. Trong khung khổ của luận văn,
tác giả đi sâu nghiên cứu vấn đề này nhằm hoàn thiện pháp luật về CTCK phù hợp
với các cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia ký kết.
1.2.2. Nội dung pháp luật về công ty chứng khoán
1.2.2.1. Quy định pháp luật về thành lập công ty chứng khoán
Theo pháp luật về chứng khoán của hầu hết các nước trên thế giới, việc thành
lập CTCK để thực hiện các hoạt động kinh doanh chứng khoán phải được cơ quan
có thẩm quyền cấp phép thành lập và hoạt động. Ngoài ra, kinh doanh chứng khoán
là một hoạt động kinh doanh tiềm ẩn nhiều rủi ro và những biến động trong hoạt
động kinh doanh chứng khoán có ảnh hưởng dây chuyền đến toàn bộ nền kinh tế
cũng như tác động đến bộ phận lớn nhà đầu tư; nên pháp luật của các nước đều đặt
ra những điều kiện chặt chẽ về vốn, về nhân sự, về cơ sở vật chất kỹ thuật… trong
việc cấp phép thành lập và hoạt động cho các CTCK.
Do kinh doanh chứng khoán là một lĩnh vực kinh doanh đặc biệt, có ảnh
hưởng đến lợi ích của công chúng đầu tư nên việc đặt ra điều kiện về vốn pháp định
nhằm đảm bảo về mặt trách nhiệm tài sản đối với các nghĩa vụ của CTCK trong
hoạt động kinh doanh. Mức vốn pháp định thường được xác định cho từng nghiệp
vụ kinh doanh chứng khoán cụ thể, trên cơ sở mức độ rủi ro tương ứng. Tại Đài
Loan, vốn góp tối thiểu của CTCK thực hiện nghiệp bảo lãnh phát hành: 400 triệu
Đài tệ, tự doanh: 400 triệu Đài tệ và môi giới: 200 triệu Đài tệ. Như vậy, một CTCK
muốn thực hiện nhiều nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán thì cần phải có nhiều vốn.
Ví dụ, các CTCK ở Hàn Quốc muốn tham gia một trong ba loại hình kinh doanh

18


môi giới, tự doanh, bảo lãnh phát hành phải có vốn điều lệ tối thiểu là 59 tỷ won; ở
Malaysia, mức vốn này là 20 triệu M$... Tuy nhiên, tại một vài quốc gia, vấn đề vốn
pháp định không được đặt ra đối với CTCK như Hồng Kông.
Điều kiện về nhân sự, do tính chất đặc thù, kỹ thuật phức tạp và rủi ro cao

của hoạt động nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán đòi hỏi đội ngũ nhân sự trong
CTCK phải có trình độ chuyên môn, tinh thông nghiệp vụ và phẩm chất đạo đức
nghề nghiệp. Do vậy, điều kiện về con người là một trong các tiêu chí quan trọng
mà pháp luật các nước đặt ra khi xem xét cấp phép thành lập và hoạt động cho các
CTCK. Điều kiện này thường bao gồm trình độ chuyên môn, kiến thức nghiệp vụ,
kinh nghiệm làm việc và một số vấn đề về nhân thân được áp dụng đối với cả người
điều hành, quản lý và nhân viên thực hiện nghiệp vụ.
Điều kiện về cơ sở vật chất, thiết bị kỹ thuật là điều kiện cần thiết để bảo
đảm cho hoạt động kinh doanh chứng khoán có hiệu quả; do vậy pháp luật các nước
đều quy định về điều kiện này khi xem xét cấp giấy phép hoạt động kinh doanh
chứng khoán. Điều kiện về cơ sở vật chất có thể là mặt bằng trụ sở, phương tiện làm
việc để đảm bảo thực hiện các nghiệp vụ môi giới, tự doanh chứng khoán. Ngoài ra,
CTCK cũng cần trang bị các thiết bị kỹ thuật phục vụ nhận lệnh, thực hiện lệnh mua
bán chứng khoán cho khách hàng trong nghiệp vụ môi giới chứng khoán; tách bạch
tài sản của khách hàng và CTCK trong thực hiện nghiệp vụ tự doanh; hệ thống phần
mềm phục vụ hoạt động phân tích, đánh giá dữ liệu để thực hiện tư vấn đầu tư cho
nhà đầu tư…
Ngoài các điều kiện nêu trên, pháp luật chứng khoán của một số quốc gia có
thị trường chứng khoán mới nổi còn quy định hạn chế tỷ lệ vốn góp của bên nước
ngoài tại CTCK trong nước hoặc điều kiện tham gia của CTCK nước ngoài trên thị
trường chứng khoán. Như Malaysia, CTCK nước ngoài chỉ được phép tham gia
kinh doanh chứng khoán dưới hình thức liên doanh với công ty chứng khoán trong
nước. Tỷ lệ góp vốn của phía nước ngoài lúc đầu là 30%, sau đó là 49%. Tại Nhật
Bản thì tới năm 1972 mới cho phép CTCK nước ngoài mở chi nhánh tại Nhật Bản
sau khi được Bộ tài chính Nhật cho phép. Mặc dù vậy, phần lớn các thị trường

19


chứng khoán đã phát triển như Mỹ, Hồng Kông, Pháp,… đều không áp dụng các

biện pháp hạn chế sự tham gia của bên nước ngoài vào tổ chức, hoạt động CTCK.
Ví dụ, Hồng Kông không có quy định nào riêng biệt đối với các CTCK nước ngoài
kinh doanh trên thị trường và không có một sự phân biệt đối xử nào giữa các công
ty trong nước và công ty nước ngoài.
1.2.2.2. Quy định pháp luật về tổ chức công ty chứng khoán
Thông thường, về mặt pháp lý, CTCK được tổ chức dưới ba hình thức cơ bản
là công ty hợp danh, công ty TNHH và CTCP. Đối với CTCK tổ chức theo mô hình
công ty TNHH, việc đòi hỏi trách nhiệm của những người tham gia góp vốn giới
hạn trong số vốn mà họ đã góp, tạo ra tâm lý tốt hơn đối với những thành viên. Hơn
nữa, việc huy động vốn của CTCK TNHH đơn giản và linh hoạt hơn so với công ty
hợp danh nhưng khả năng huy động và chuyển nhượng vốn lại bị hạn chế hơn so
với CTCP.
Một trong các yếu tố quan trọng khi thành lập CTCK là mức vốn góp nhất
định; do vậy với ưu điểm số lượng thành viên tham gia góp vốn, sở hữu công ty lớn;
khả năng huy động vốn, chuyển nhượng vốn dễ dàng hơn công ty hợp danh hay
công ty TNHH, mô hình CTCP được nhiều CTCK lựa chọn tổ chức nhất. Nhược
điểm duy nhất của loại hình pháp lý này là tổ chức và quản lý nội bộ dễ dàng bị
thay đổi, gây xáo trộn trong hoạt động của công ty, do cổ phần được tự do chuyển
nhượng.
CTCK với đầy đủ các đặc điểm cơ bản của doanh nghiệp thông thường, dù
hoạt động kinh doanh ở một lĩnh vực đặc thù là chứng khoán, cũng đều có nhu cầu
thiết lập một hệ thống từ trụ sở chính đến các chi nhánh, văn phòng đại diện để phát
triển và mở rộng hoạt động kinh doanh. Trụ sở chính của CTCK là trung tâm lãnh
đạo, điều hành và thực hiện đầy đủ các nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán mà
CTCK được phép thực hiện. Việc thành lập chi nhánh hay văn phòng đại diện của
CTCK trước hết thực hiện theo các quy định chung của pháp luật doanh nghiệp; sau
đó tuân thủ các quy định riêng theo pháp luật chứng khoán.
Theo pháp luật doanh nghiệp, chi nhánh và văn phòng đại diện của doanh

20



nghiệp đều là các bộ phận trực thuộc công ty, không có tư cách pháp nhân, thực
hiện các hoạt động kinh doanh theo sự ủy quyền của công ty. Ngành, nghề kinh
doanh của chi nhánh phải phù hợp với ngành, nghề kinh doanh của bản thân doanh
nghiệp; trong khi đó hoạt động của văn phòng đại diện phù hợp với nội dung hoạt
động của doanh nghiệp và không được thực hiện các hoạt động kinh doanh.
Trên cơ sở quy định chung của pháp luật về doanh nghiệp, pháp luật chứng
khoán có quy định cụ thể hơn về chi nhánh, văn phòng đại diện và phòng giao dịch
của CTCK. Trong đó, chi nhánh là đơn vị thuộc CTCK và được thực hiện các
nghiệp vụ kinh doanh theo phân cấp, ủy quyền của CTCK, nằm trong phạm vi các
nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán mà bản thân CTCK được cơ quan quản lý nhà
nước cho phép thực hiện. Văn phòng đại diện cũng là đơn vị thuộc CTCK nhưng có
địa điểm không nằm trong phạm vi địa bàn tỉnh, thành phố nơi CTCK đặt trụ sở
chính hoặc chi nhánh và có nhiệm vụ đại diện theo uỷ quyền cho lợi ích của công ty
và thực hiện việc bảo vệ các lợi ích đó.
Chi nhánh và văn phòng đại diện đều là các đơn vị phụ thuộc của CTCK,
phải mang tên của CTCK; không có tư cách pháp nhân; hoạt động nhân danh (thừa
ủy quyền) chủ sở hữu hoặc người đại diện theo pháp luật của CTCK; do vậy, trên
thực tế, thường có sự nhầm lẫn giữa chi nhánh và văn phòng đại diện CTCK. Tuy
nhiên, vẫn có một số điểm để phân biệt chi nhánh và văn phòng đại diện.
Đối với chi nhánh của CTCK, về hoạt động kinh doanh, được thực hiện các
hoạt động có mục đích sinh lời trong phạm vi những nghiệp vụ kinh doanh chứng
khoán mà CTCK đã được cấp phép. Tuy nhiên, không phải tất cả các nghiệp vụ
kinh doanh mà CTCK được thực hiện thì chi nhánh cũng được phép hoạt động. Việc
chi nhánh được thực hiện toàn bộ hay chỉ một phần chức năng là tùy theo sự ủy
quyền của CTCK. Về thẩm quyền đại diện, giám đốc chi nhánh không đương nhiên
có thẩm quyền đại diện cho chi nhánh, mà quyền này chỉ phát sinh khi có sự ủy
quyền từ người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp. Người đại diện theo pháp
luật của CTCK được quyền điều phối toàn bộ vấn đề liên quan đến chi nhánh, kể cả

vấn đề đại diện. Điều này có thể hiểu là bất cứ hoạt động kinh doanh nào chi nhánh

21


×