Tải bản đầy đủ (.pdf) (63 trang)

THU hồi và tái CHẾ CHẤT THẢI rắn các TRẠM TRUNG CHUYỂN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (685.75 KB, 63 trang )

THU HỒI VÀ TÁI
CHẾ CHẤT THẢI
RẮN CÁC TRẠM
TRUNG CHUYỂN


Chương 6

THU HỒI VÀ TÁI CHẾ CHẤT THẢI RẮN
CÁC TRẠM TRUNG CHUYỂN
6.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TÁI CHẾ VÀ TÁI SỬ DỤNG LẠI CHẤT THẢI RẮN
ĐÔ THỊ
Tái chế là hoạt động thu hồi lại từ chất thải các thành phần có thể sử dụng để chế biến
thành các sản phẩm mới sử dụng lại cho các hoạt động sinh hoạt và sản xuất.
Tái chế vật liệu: bao gồm các hoạt động thu gom vật liệu có thể tái chế từ dòng rác, xử lý
trung gian và sử dụng vật liệu này để tái sản xuất các sản phẩm mới hoặc sản phẩm khác.
Tái chế nhiệt: bao gồm các hoạt động khôi phục năng lượng từ rác thải.
Củng có thể coi hoạt động tái chế như hoạt động tái sinh lại chất thải thông qua:
Tái sinh sản phẩm chuyển hóa hóa học: chủ yếu dùng phương pháp đốt để thành các sản
phẩm khí đốt, hơi nóng và các hợp chất hữu cơ.
Tái sinh các sản phẩm chuyển hóa sinh học: chủ yếu thông qua quá trình lên men, phân
hủy chuyển hóa sinh học, để thu hồi các sản phẩm như: phân bón, khí mêtan, protêin, các loại
cồn và nhiều hợp chất hữu cơ khác.
Tái sinh năng lượng từ các sản phẩm chuyển hóa: từ các sản phẩm chuyển hóa bằng quá
trình sinh học, hóa học có thể tái sinh năng lượng bằng quá trình đốt tạo thành hơi nước và
phát điện.
Hoạt động tái chế mang lại những lợi ích sau:
-

Tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên bởi việc sử dụng vật liệu được tái chế thay cho vật liệu
gốc;



-

Giảm lượng rác thông qua việc giảm chi phí đổ thải, giảm tác động môi trường do đổ
thải gây ra, tiết kiệm diện tích chôn lấp;

-

Một lợi ích quan trọng là có thể thu lợi nhuận từ hoạt động tái chế; hoạt động tái chế lúc
này sẽ mang tính kinh doanh và vì thế có thể giải thích tại sao các vật liệu có thể tái chế
hiện được thu gom ngay từ nguồn phát sinh cho tới khâu xử lý và tiêu hủy cuối cùng.

6.2. CÁC HOẠT ĐỘNG TÁI CHẾ VÀ THU HỒI CHẤT THẢI
-1-


Hoạt động tái chế và thu hồi chất thải được thực hiện thông qua hệ thống thu gom chất thải
rắn theo mạng lưới 3 cấp gồm: người thu gom, đồng nát và buôn bán phế liệu (hình 6.1).
Công nghiệp thu hồi có 3 cấp được chia thành 6 nhóm nghề:
1. Cấp thứ nhất (gồm người đồng nát và người nhặt rác): Hai nhóm người này có cùng
chức năng trong hệ thống thu gom, nhưng lại khác nhau về địa điểm hoạt động, công
cụ làm việc và nhu cầu vốn lưu động.
2. Cấp thứ hai (gồm những người thu mua đồng nát và người thu mua phế liệu từ người
thu nhặt tại bãi đổ rác, người nhặt rác và đồng nát trên vỉa hè trong toàn thành phố):
Những người thu mua phế liệu này củng tiến hành theo cách tương tự tại những nơi cố
định.
3. Cấp thứ ba: gồm những người buôn bán hoạt động kinh doanh với quy mô lớn hơn ở
nhiều địa điểm cố định và các đại lý thu mua thường là điểm nút đặc biệt trong buôn
bán như các bên trung gian giữa các ngành công nghiệp và người bán lại.
Tùy thuộc vào vị trí, nguồn nguyên liệu, công nghệ sản xuất, thành phần chất thải mà lựa

chọn các phương pháp tái sinh khác nhau.
Các loại chất thải rắn và xỉ không thể sử dụng được nữa được đổ ở bãi chôn lấp hoặc đổ
xuống biển.
Tất cả các vật liệu trước và sau khi sử dụng có thể cần cho hoạt động kinh doanh, có trong
rác thải đô thị như các chất hữu cơ, kim loại, nhựa, giấy, kinh v.v… được gọi là “vật liệu có
thể tái chế”.
Hoạt động tái chế củng cần chi phí để thu gom, vận chuyển, chế biến và ngăn chặn các tác
động tiêu cực lên môi trường do quá trình tái chế gây ra, do đó, nếu như chi phí tái chế cao
hơn lợi ích tái chế thì lúc đó hoạt động tái chế không được coi là hoạt động kinh doanh. Nếu
chi phí tái chế thấp hơn lợi ích tái chế thì hoạt động tái chế được coi là hoạt động kinh doanh.
Sơ đồ hệ thống thu hồi các chất và dòng lưu chuyển các nguồn vật liệu được thể hiện ở hình
6.2.

-2-


Nguồn phế thải
phế liệu

Bãi chôn lấp

Nhóm thu gom
phế liệu

Nhóm thu mua
phế liệu

Đội quân bới
rác tại bãi rác


Thu mua tại
bãi đổ rác

Nhóm buôn bán
và sử dụng lại
phế liệu

Bãi tập kết tạm thời
trạm trung chuyển

Các cơ sở sản
xuất ngành
công nghiệp

Xe đẩy rác tay
Đường phố

Đội quân
nhặt rác lưu
động

Thu mua
đồng nát tại
kho chứa

Thùng rác,
bể chứa rác

Đại lý và
những người

buôn bán

Các hộ gia đình

Khác sạn

Cơ quan
Trường học

Những người
mua đồng nát
lưu động

Hoạt động
thu mua dọc
đường phố

Nhà hàng ăn
uống, nhà trọ

Hình 6.1. Sơ đồ mạng lưới thu gom chất thải rắn của tư nhân

-3-

Xuất
khẩu


Tác động
môi trường


Tiêu hủy cuối cùng
(chôn lấp)

Sản xuất
Phân phối
Tiêu dùng

Chất thải

Xử lý trung
gian
“Xử lý tốt hơn”
(tái chế)

Tái chế
Môi trường
toàn cầu
(hệ sinh thái)

Tài nguyên
thiên nhiên

Tài nguyên
kinh tế

Hoạt động kinh tế
“kinh tế thị trường”
Các nguồn
tài nguyên

tái chế

Tái sản xuất

Tài nguyên có
thể tái chế

Các tác động
môi trường

Chai PET

Hình 6.2a. Dòng lưu chuyển các nguồn vật liệu
Sản xuất nhựa

Sản xuất nhựa

Sản xuất đóng chai

Sản xuất
Tái chế

Tiêu dùng

Tiêu dùng

Đổ thải rác

Đổ thải rác


Hình 6.2c. Mô hình dòng quay vòng giữa hai sản phẩm

-4-


Để tính lợi ích tái chế, người ta sử dụng công thức:
NBr.T = NBr.QPET

(6.1)

NBr : lợi ích tái chế
QPET : lượng chai PET
Hoặc:
NBr = [PV 1 – PV 2] + [CVE 1 + CVU 1 - CRE 1] + [CCW 1 – CCR 1] + CDW

1

(6.2)

Trong đó:
PV 1 – PV 2 : chênh lệch về chi phí giữa vật liệu thô
CVE 1 + CVU 1 - CRE 1 : chênh lệch chi phí bên ngoài
CCW 1 – CCR 1 : chênh lệch chi phí thu gom
CDW 1 : chi phí tiết kiệm đổ thải rác
Nếu kết quả tính theo phương trình (6.2) dương thì có nghĩa hoạt động tái chế mang lại
hiệu quả, còn nếu kết quả ngược lại thì có nghĩa là hoạt động tái chế không mang lại hiệu
quả.
Ở một số nước như Nhật Bản, các hoạt động tái chế được dựa trên cơ sở tính toán lượng rác
sản sinh ra, chi phí đổ thải và tỉ lệ tái chế. Các hoạt động tái sử dụng , quay vòng và thu hồi
chất thải là một trong những giải pháp có hiệu quả về mặt chi phí xử lý và tiêu hủy chất thải,

củng như bảo vệ được nguồn lực cho các hoạt động này. Sự thay đổi về tổng lượng rác đô thị
(rác thường) phát sinh ở Nhật Bản được minh họa ở hình 6.3. Tỷ lệ phát sinh chất thải trung
bình tại Nhật Bản là 1kg/người.ngày. Thay đổi về tổng chi phí đổ thải rác ở Nhật Bản được
minh họa trong hình 6.4.
Các hoạt động tái chế rác thải ở Nhật Bản được hỗ trợ bởi hệ thống luật và quy định của
nhà nước bao gồm:
-

Luật quản lý rác thải và giữ vệ sinh công cộng (1970);

-

Luật quản lý rác thải (1992);

-

Luật thúc đẩy sử dụng các nguồn tài nguyên có thể tái chế (1991);

-

Luật tái chế vỏ hộp và bao bì (1996);

-

Luật tái chế thiết bị điện (1998).

Theo con số thống kê tại Nhật Bản năm 1995 có khoảng 50% giấy loại được thu hồi và tái
chế; 100% các chai thủy tinh và 75% số lượng đồ hộp vỏ kim loại và nhôm được thu hồi và

-5-



tái chế. Hình 6.5 thể hiện lượng các thành phần thu hồi và tái chế từ rác thải thông thường
trong vòng 10 năm từ 1985 – 1995 tại Nhật Bản.
Sơ đồ hệ thống tái chế chất thải tại Đức (Duales System Deutschland), được minh họa ở
hình 6.6. Sơ đồ hệ thống tái chế chất thải tại Pháp được minh họa ở hình 6.7. Chỉ số quản lý
rác thải ở một số nước được thể hiện ở bảng 6.1.
Chính quyền
địa phương

Đốt rác,
chôn lấp

Hệ thống tái
chế chất thải

Tái chế

Người tiêu
dùng

* Đầu tư
* Đưa ra giá thu gom và tái chế
Các công ty
sản xuất và bán
Hình 6.6. Sơ đồ hệ thống tái chế chất thải tại Đức
Rác thải bao bì
Người tiêu dùng

Chất thải khác


Chính quyền
địa phương
(phân loại và
thu gom)

Đốt, chôn lấp
Tái chế

- Hỗ trợ về giá cả
- bao gồm tái chế nhiệt
Tái chế
- Đầu tư
- Áp dụng chi phí thu gom và tái chế
Công ty sản xuất
và bán hàng
Hìn 6.7. Sơ đồ hệ thống tái chế chất thải tại Pháp

-6-


Bảng 6.1. Chỉ số quản lý rác thải ở một số nước trên thế giới năm 1992
Thu nhập
Tên nước

Dân số

quốc nội

Chất thải


(triệu)

GDP

(kg/người.năm)

(USD)

Chôn
lấp
(%)

Đốt
(%)



Thu hồi

sinh học

tái chế

(%)

(%)

Nhật


125,4

41.080

400

22,5

72,8

-

3,1

Mỹ

269,4

27.590

701

67

16

2

15


Đức

81,9

28.860

417

68,9

15,5

3,1

12,5

Pháp

58,3

26.280

348

50

40

Anh


58,1

19.800

347

83

13

-

-

Hà Lan

15,6

25.850

484

52

27

8

13


Thụy Điển

8,8

25.770

314

38

55

7

-

Tây Ban Nha

39,7

14.200

323

75

5

20


-

Thụy Sỹ

7,2

43.420

406

11

76

13

-

Đan Mạch

5,2

32.250

351

16

71


Canada

29,7

19.200

646

82

8

-

10

Việt Nam

77,0

-

-

-

-

-


-

10

13

Nhiều phế thải nguy hiểm nhưng trong đó vẫn có những thành phần có thể thu hồi hay tái
sử dụng được. Những chất này có thể là:
-

Axit hay kiềm

-

Dung môi, dầu;

-

Kim loại nặng;

-

Kim loại quý;

-

Dung dịch ăn mòn;

Một số loại phế thải hạ cấp từ quá trình này song lại có thể sử dụng cho một quá trình khác.
Thí dụ: phế thải axit từ một số cơ sở công nghiệp có thể sử dụng như một nguồn nguyên liệu

ban đầu cho một đối tượng khác; dầu hay dung môi thải có thể tái chế sử dụng làm nhiên liệu
đốt; dung môi có thể thu hồi bằng cách chưng cất – các nhà máy sơn có thể giảm nhẹ những
vấn đề quản lý phế thải và giảm chi phí mua vật tư hoặc củng có thể thu hồi đồng dạng oxyt
hay hydroxyt từ dung dịch ăn mòn đồng; thu hồi các kim loại quý như bạc từ phế thải ngành
ảnh, hay vàng từ công nghệ mạ…
-7-


6.3. THU HỒI VÀ TÁI CHẾ CHẤT DẺO
Ở Việt Nam các sản phẩm chất dẻo bắt đầu thâm nhập vào cuộc sống từ những năm 1960.
Một số vật dụng gia đình trước đây chế tạo từ tre, nứa, sợi tự nhiên… lần lượt được thay thế
bằng nhựa. Bao gói thực phẩm bằng lá cây, giấy đã được thay thế bằng plastic.
Trong công nghiệp và xây dựng, vật liệu plastic cũng chiếm lĩnh thị trường trong nhiều lĩnh
vực như cấp thoát nước , trang trí…
Vật liệu plastic đã góp phần nâng cao mức độ văn minh của cuộc sống nhưng cũng đặt ra
không ít những vấn đề rắc rối liên quan đến công tác bảo vệ môi trường.
Tuy nhiên, dù bị chỉ trích nhiều nhưng vật liệu plastic vẫn được sử dụng rộng rãi do tính ưu
việt của nó cả về mặt kinh tế lẫn kỹ thuật. Với những tính năng ưu việt đó, plastic dẫn đầu so
với những vật liệu cạnh tranh với nó trong lĩnh vực bao gói như thủy tinh, năng lượng cần
thiết cho việc tạo ra nó củng nhỏ hơn 2 lần, khối lượng vật liệu ban đầu cần thiết để tạo ra nó
củng thấp hơn 20 lần, nhu cầu nước cần cho chế tạo giảm đi 1,5 lần và chất thải rắn giảm đi
một nữa. Mặt khác, so với túi xách catton thì quá trình chế tạo túi xách plastic thải ít ô nhiễm
hơn đối với môi trường như trình bày ở bảng 6.2.
Bảng 6.2. So sánh mức độ ô nhiễm trong quá trình chế tạo chất dẻo và giấy
Chất ô nhiễm

Chất dẻo

Giấy


SO2

100

284

NOx

100

159

COx

100

159

C

100

640

DCO

100

21,560


DCO5

100

215,500

Ô nhiễm không khí

Ô nhiễm nước

Tính bền vững của chất dẻo dẫn đến sự tồn tại dai dẳng của chúng trong thiên nhiên sau khi
sử dụng. Để phân rã sinh hoạt hoàn toàn plastic có nguồn gốc từ hóa dầu ngày nay cần có
một thời gian từ 2 – 4 thế kỷ.
Những vấn đề đặt ra khi thu gom và tái chế vật liệu chất dẻo:

-8-


Mặc dù chất dẻo hiện đang là vật liệu được ưa chuộng và có nhiều hứa hẹn trong tương lai
nhưng chúng cũng đồng thời đang bị các nhà môi trường phản đối do mức độ gây ô nhiễm
trong quá trình chế tạo, sử dụng và tiêu hủy. Các nhà môi trường phản đối vật liệu plastic vì
những lý do sau đây:
-

Chất độc thải ra trong quá trình chế tạo plastic;

-

Chất độ do phân hủy nhiệt plastic gây ra khi đốt rác;


-

Làm giảm lượng chất thải rắn, đặc biệt là chất lượng phân compost chế tạo từ rác.

Tuy nhiên việc thu gom plastic để tái sử dụng hay tiêu hủy chúng cùng với các thành phần
chất thải rắn khác củng cần phải được cân nhắc trên khía cạnh kinh tế hơn là khía cạnh kỹ
thuật. Khả năng tái sinh chất dẻo được xác định trên cơ sở phân tích tổ hợp các thông số sau
đây:
-

Cân bằng năng lượng tổng thể, yêu cầu năng lượng để thu gom và tiêu hủy chất thải;

-

So sánh chất lượng, giá thành vật liệu chất dẻo thu gom;

-

Ô nhiễm môi trường không khí trong quá trình chuyên chở và tiêu hủy chất thải rắn;

-

Ô nhiễm môi trường nước, đặc biệt là nước để rửa sản phẩm và lọc khói.

Theo kết quả của bảng này thì việc thu gom để tái chế chất plastic từ túi xách đã qua sử
dụng và chai lọ nhựa có hiệu suất năng lượng xấp xỉ nhau. Trong khi đó, nếu xử lý bằng
phương pháp đốt thì hiệu suất năng lượng của chai nhựa PVC chỉ bằng khoảng 50% hiệu suất
năng lượng của túi xách.
Tuy nhiên việc thu gom chất dẻo hiện nay chưa cho phép tạo ra sản phẩm nhựa tái sinh có
tỉ lệ chất lượng, giá thành tương đương với kỹ thuât chế tạo sản phẩm từ hạt nhựa nguyên

thủy. Việc thu gom chất dẻo chủ yếu để tái chế làm giảm năng lượng thu hồi bằng bằng
phương pháp đốt rác. Việc thu gom này chỉ có hiệu quả ở các bãi rác công nghiệp hay bãi rác
thương mại. Ngoài ra, ở các bãi rác khác người ta phải tiêu tốn một năng lượng đáng kể để
thu được một khối lượng chất dẻo có giá trị.
Vấn đề tập trung thu hồi và xử lý các chất thải polyme – chất dẻo đòi hỏi phải giải quyết
ngay trong điều kiện sản xuất nơi có nhu cầu chất dẻo. Thực tế có hai hướng:
1. Xử lý chế biến lại từng loại chất dẻo polyme ngay trong điều kiện sản xuất, ở đây chủ
yếu đối với các loại chất dẻo dùng phản ứng nhiệt.
2. Thu hồi tập trung các chất thải và vận chuyển tới nhà máy đặc biệt để chế biến sản
phẩm xác định. Vấn đề sử dụng chất thải là vật liệu polyme với công nghệ và tính kinh

-9-


tế càng trở nên phức tạp khi phải kể đến việc cải thiện tính chất của vật liệu chất dẻo
như: bền vững đối với quá trình oxy hóa, bền vững sinh học, cơ học… Những vật liệu
này không bị phân hủy tự nhiên(thối rữa, phong hóa, tan trong nước) mà dùng biện
pháp phân hủy cưỡng bức (đốt, sấy nóng, tàng trử một nơi) thì lại gây nhiễm bẫn môi
trường và do đó giá thành phá hủy lại cao hơn nhiều từ 6 – 8 lần so với chi phí xử lý và
phá hủy các chất thải của đa số các xí nghiệp công nghiệp khác.
Tốt nhất nên sử dụng chất thải polyme ở dạng làm nguồn nguyên liệu bổ sung. Việc ứng
dụng công nghệ khả thi để chế biến nguyên liệu polyme thứ cấp sẽ cho phép thỏa mãn các
nhu cầu của nền kinh tế quốc dân về loại vật liệu này.
Những nguồn chủ yếu của nguyên liệu polyme để sử dụng làm nguyên liệu thứ cấp là các
chất thải công nghệ khi chế biến chất dẻo và tạo sản phẩm bằng phương pháp cơ học, hoặc
các sản phẩm đã hao mòn bỏ đi rồi hoặc bán thành phẩm bỏ đi (phim, thùng, hộp…).
Việc chế biến thứ cấp có đặc điểm riêng và là một quá trình công nghệ phức tạp nhiều cấp.
tất nhiên việc chế biến lại lần hai cũng liên quan với việc tổng hợp polyme và tạo sản phẩm
lần đầu, liên quan tới phương hướng sử dụng tiếp theo. Do vậy giải quyết nhiệm vụ này phải
gắn liền giữa tập trung – chế biến lại lần hai với việc sử dụng tiếp và sao cho nhuần nhuyễn.

Khi giải quyết vấn đề sử dụng lại vật liệu polyme phải chia ra nhiều bước sau đây:
1. Tổ chức thu hồi tập trung các phế thải polyme trong công nghiệp.
2. Nhận dạng chính xác và nhanh chóng các loại phế thải phế thải nhằm mục đích thu
thập phế thải phù hợp với chủng loại vật liệu ban đầu.
3. Tạo lập sơ đồ mới và hoàn thiện các sơ đồ công nghệ có sẵn, thiết bị có sẵn để chế
biến lại lần hai.
4. Phân tích kinh tế một cách cẩn thận về các phương pháp gia công chế biến khác nhau.
6.4. THU HỒI VÀ CHẾ BIẾN CÁC SẢN PHẨM CAO SU
Trong công nghiệp chế tạo máy, việc sử dụng các sản phẩm cao su kỹ thuật rất đa dạng.
Trong đó phức tạp chủ yếu nhất là giải quyết vấn đề sử dụng các sản phẩm bỏ đi và cũ không
dùng nữa. Mặc dù cao su được sử dụng ở các thiết bị công nghệ các loại, nhưng tỷ lệ về
lượng thì lại rất thấp so với khối lượng của sản phẩm.
Để lấy miếng cao su từ trong kết cấu ra, đôi khi phải tháo dỡ các nút và các chi tiết ra.
Thông thường các công tác tháo dỡ khá lớn nên giá trị thu hồi không đáng kể. Vì vậy khi
thiết bị đã hỏng đi thì người ta đưa ra đống sắt vụn mà không phân chia các bộ phận riêng rẽ

- 10 -


được. Chính do sự tản mạn của các sản phẩm từ cao su trong toàn bộ khối lượng thiết bị nên
nó gây khó khăn cho việc tổ chức thu nhặt nguyên liệu thứ cấp.
Vấn đề tổ chức thu nhặt có ý nghĩa rất quan trọng. Việc tàng trử các chất thải cao su kỹ
thuật của các sản phẩm lớn như: săm lốp otô, băng chuyền, ống cao su mềm mang tính chất
lẻ tẻ, vụn vặt mà số lượng không nhiều, xảy ra tình trạng cấm không được giao đồ cao su mới
cho xí nghiệp công nghiệp nếu họ không giao nộp lại đồ cũ. Tuy nhiên không phải lúc nào
cũng thực hiện được vì khó khăn trong việc giao nộp tập trung và không có mạng lưới giao
nộp tập trung và không có mạng lưới tổ chức thu hồi thiết bị cao su. Việc vận chuyển một
lượng nhỏ chất thải trên một khoảng cách dài thì lại không lợi cho xí nghiệp. Vì vậy việc tập
trung hóa công tác gia công sơ bộ các chất thải sản xuất phải xét đến hệ thống thu nhặt cao su
cũ.

Trong trương hợp đang xét thì không thể dùng lực lượng của người tiêu thụ, sử dụng để
hoàn nguyên các chất thải cao su kỹ thuật được, bởi vì công nghệ phục hồi tính chất ban đầu
của cao su là một quá trình phức tạp nhiều giai đoạn đòi hỏi ở các trạm với thiết bị chuyên
dùng cũng như cán bộ được đào tạo chuyên môn. Công việc đó chỉ có thể thực hiện trong
điều kiện của xí nghiệp chế tạo săm lốp hoặc công nghiệp cao su kỹ thuật. Hoàn nguyên cao
su là một hướng cơ bản và có lợi nhất trong việc gia công lại các sản phẩm bỏ đi bởi vì cho
cao su hoàn nguyên vào lẫn với hỗn hợp cao su thì sẽ tiết kiệm được rất nhiều cao su mới và
các thành phần phụ gia khác, ta biết trong các loại cao su có tới 5 – 6 đến 20 thành phần chất
liệu khác nhau.
Quá trình hoàn nguyên bao gồm: công đoạn chuyển hóa cao su thành vật liệu đàn hồi dẻo
rồi tiếp theo là xử lý kỹ thuật và quá trình lưu hóa. Trước khi đưa cao su vào hoàn nguyên
người ta phải phân loại theo sản phẩm, theo dạng và lượng. Sau khi loại kim loại và các tạp
chất khác khỏi cao su, người ta nghiền nó thành bột tới mức nhất định nào đó và giải phóng
ra các mẫu kim loại đen.
Thực tiễn cho thấy tốt nhất nên thực hiện nghiền sơ bộ trong môi trường nitơ lỏng với nhiệt
độ -30 và -60. Cao su trở nên giòn và dễ tách khỏi kim loại. Kim loại vẫn giữ tính đàn hồi,
tính dẻo và không bị phá hủy, do đó cho phép thu hồi dễ dàng và hoàn toàn. Hỗn hợp thu
được sẽ qua khử lưu huỳnh, chuyển thành bán sản phẩm dẻo. Cao su hóa dẻo có cấu trúc
không gian 3 chiều do các phân tử cao su tạo thành dưới ảnh hưởng của nhiên liệu, nồng độ
oxy và các tác động cơ học. Sự phá hủy các liên kết hấp phụ của muội – cao su – muội củng

- 11 -


tạo khả năng hình thành sản phẩm phân hủy phân tử thấp. Người ta thực hiện khử lưu hóa
cao su trên cơ sở cao su tổng hợp với sự có mặt của các chất làm mềm, làm giảm tác động
tương hỗ giữa các phân tử trong cao su hoặc cho thêm một ít chất hoạt hóa (0,25 – 3,0%) là
chất cho phép rút ngắn thời gian quá trình và chi phí chất làm mềm và tăng tính dẻo, đàn hồi
của chất đã hoàn nguyên.
Khử lưu hóa cao su có thể được tiến hành tùy thuộc tính chất của cao su khi sử dụng các

phương pháp khác nhau. Khi dùng các phương pháp khác: hơi, trung hòa nước, kiềm… thì
người ta thực hiện khử lưu hóa cao su ở nhiệt độ 150 – 200oC với sự có mặt của oxy không
khí trong một số giờ.
Khi hoàn nguyên bằng các phương pháp cơ nhiệt để khử lưu hóa diễn ra dưới ảnh hưởng
của nhiệt độ 170oC và nhiều tác động cơ học khác trong vòng 1 – 15 phút. Ở Liên Xô người
ta nghiên cứu đề ra quá trình hoàn nguyên cao su bằng cách phân tán trong môi trường nước
chứa nhũ tương. Khối lượng phân tán sẽ hình thành sẽ được keo tụ và sấy khô. Sản phẩm thu
được có tính dẻo tốt. Tính chất bền chắc của cao su chế tạo bằng phương pháp này gần với
các thông số tương tự của cao su ban đầu.
Giai đoạn cuối cùng của quá trình hoàn nguyên cao su là làm sạch khối lượng đã thu được
khỏi các tạp chất lẫn vào và sử dụng cao su khi sản xuất các hỗn hợp công tác để lưu hóa. Sơ
đồ công nghệ tái chế lốp cao su được thể hiện ở hình 6.8.
Lốp cao su

Thu gom

Nhiệt phân

Dầu

Sử dụng

Khí

Làm vụn

Muội than

Công nghệ nặng


Sử dụng

Chế biến thành hạt
và bột cao su
Tái sử dụng

Hình 6.8. Công nghệ tái chế lốp cao su

- 12 -


6.5. THU HỒI VÀ TÁI CHẾ CÁC SẢN PHẨM CÔNG NGHIỆP KHÁC
Sơ đồ thu hồi và tái chế các sản phẩm khác như bóng đèn hỏng từ các nhà máy chế tạo bóng
đèn, dầu thải từ các xí nghiệp công nghiệp cơ khí, chế tạo hoặc trung tâm dịch vụ sửa chữa
xe, máy… được thể hiện ở hình 6.9 và hình 6.10.
Bóng đèn ống hỏng

Thu gom

Đập vỡ

Phân loại

Đui đèn

Thủy tinh

Phân loại

Tẩy rửa sạch


Vật liệu nhôm vụn

Làm men cho
SX gốm

Tái sử dụng

Sản xuất
bóng đèn

Thủy ngân
lọc lại

Ắc quy

Hình 6.9. Tái chế bóng đèn ống tại Brazin

- 13 -

Chế tạo
bóng mới

NaCl


Dầu thải

Khử nước bằng
phương pháp ly tâm


Xử lý nước

Chưng cất ở
100 – 160oC

Tách dầu nhẹ

Chưng cất ở
330 - 350oC

Tách chất bẩn
bằng graphite

Cô đặc dầu

Loại bỏ

Nhiên liệu

Sử dụng

Các chất cặn đáy

Đóng thùng

Asphalt

Sử dụng


Hình 6.10. Công nghệ thu hồi dầu thải ở Hồng Kông

6.6. THU HỒI NĂNG LƯỢNG TỪ CHẤT THẢI
Hoạt động thu hồi năng lượng từ quá trình xử lý trung gian mà chủ yếu là từ quá trình đốt
và quá trình ủ sinh học (bảng 6.3).
Mục đích

Công nghệ

-

Giảm khối lượng

-

Đốt rác

-

Thu hồi năng lượng (nhiệt và điện)

-

Đốt rác có tái chế nhiệt

-

Giữ ổn định các chất độc hại trong rác

-


Đốt rác có hệ thống nung chảy để giảm

thải
-

thể tích (công nghệ mới)

Giữ vệ sinh, an toàn cho sức khỏe cộng

-

đồng
-

Đốt khí có hệ thống nung chảy (mới
được sử dụng ở Nhật)

Tái chế

-

Tạo nguồn năng lượng mới từ rác thải
(RDF)

-

Giảm kích thước bằng các phương pháp
nén, ép…


-

Chế biến phân compost; cắt nhỏ và phân
loại (phương pháp xử lý trung gian)

- 14 -


Refuse Derived Fuel (RDF) là loại nhiên liệu thu từ rác thải có thể đốt được giống như than
(hình 6.10).
Xử lý rác thải sinh hoạt để sử dụng làm nhiên liệu cho các nồi chưng để tạo hơi nước điện.
Ưu điểm của công nghệ thu hồi nhiên liệu mới từ rác là:
-

Dễ lưu trữ;

-

Dễ vận chuyển;

-

Giá trị nhiệt lượng cao (3000 – 5000 kcal/kg)

-

Chất lượng đồng nhất;

-


Không sử dụng lò đốt tại nguồn phát sinh;

Tuy nhiên, công nghệ thu hồi nhiên liệu mới từ rác củng còn những bất lợi sau:
Bản thân nhiên liệu vẫn ở dạng rác thải, vì vậy khi đốt chúng cũng tương tự như đốt rác và
cần phải có phương pháp thu gom, xử lý lượng khí thoát ra. Việc đầu tư nhà máy loại này rẻ
hơn lò đốt nhưng đòi hỏi chi phí cho các trang thiết bị sử dụng loại nhiên liệu này. Quá trình
thu hồi nhiên liệu (RDF) từ rác thải đô thị được thể hiện ở hình 6.10b.
Công nghệ thu hồi khí và nung chảy dựa trên nguyên tắc sử dụng khí đốt thu hồi từ quá
trình nung chảy và đồng thời tái thu kim loại không chứa oxyt – đây là loại kim loại có giá trị
cao. Tuy nhiên hệ thống này rất đắt vì phải trang bị lò đốt thông thường kèm theo hệ thống
nung chảy. Sơ đồ hệ thống tạo khí và nung chảy được thể hiện ở hình 6.11.
Rác thải đô thị

Tách loại
lần 1

Tách loại
lần 2

Nghiền
lần 1

Sấy khô

Tách loại
lần 3

Nghiền
lần 2


Trộn

Làm nguội

Sàng

Vôi

Thành phẩm (RDF)

Hình 6.10b. Quá trình thu hồi nhiên liệu (RDF) từ rác thải đô thị

- 15 -


6.7. HOẠT ĐỘNG THU HỒI VÀ TÁI CHẾ CHẤT THẢI TẠI VIỆT NAM
ở Việt Nam, trong những năm gần đây, tốc độ công nghiệp hóa và đô thị hóa ngày càng gia
tăng mạnh mẽ tại vùng kinh tế trọng điểm đã làm nảy sinh nhiều vấn để nan giải trong công
tác bảo bệ môi trường. Bên cạnh những khó khăn nhất định trong việc triển khai các biện
pháp kỹ thuật và công nghệ xử lý nước thải, khí thải thì chất thải rắn đang thật sự là một mối
đe dọa lớn đối với môi trường và sức khỏe cộng đồng vì lượng thải ngày càng tăng đặc biệt
là các chất thải nguy hại ngày càng phong phú về cả số lượng lẫn chủng loại.
Tình trạng thu gom và xử lý chất thải rắn đô thị và công chưa đáp ứng yêu cầu hiện nay
cũng là một nguyên nhân quan trọng gây ô nhiễm môi trường nước, môi trường đất, vệ sinh
đô thị và ảnh hưởng xấu đến cảnh quan đô thị và sức khỏe cộng đồng.
Theo con số thống kê từ các tỉnh, thành phố, từ năm 1996 – 1999, lượng chất thải rắn bình
quân khoảng từ 0,6kg/người.ngày – 0,8 kg/người.ngày. Ở một số đô thị nhỏ, lượng chất thải
rắn phát sinh dao động từ 0,3 – 0,5 kg/người.ngày.
Lượng rác thải đô thị củng như công nghiệp ngày càng tăng, tính chất độc hại của rác thải
củng tăng. Ở Hà Nội năm 1995: thành phần nilon, chất dẻo trong rác thải sinh hoạt là 1,7%,

thành phần kim loại vỏ hộp là 1,2%, năm 1997 đã tăng lên 4,1% và 5,5%. Năm 1998, tỷ lệ về
thành phần chất rác thải củng có những biến đổi hơn so với những năm trước đó.
Các hoạt động thu hồi tái chế tại Việt Nam chủ yếu sẽ được tập trung vào các vấn đề sau:
-

Tăng cường thu hồi sản phẩm đã sử dụng để dùng lại cho cùng một mục đích, hoặc tìm
ra một mục đích sử dụng khác. Tái sử dụng tập trung chủ yếu vào các loại chai đựng đồ
uống, các loại bao bì vận chuyển thông qua khâu lưu thông dưới dạng đặt cọc để khép
kín một chu trình: sản xuất – lưu thông – tiêu dùng – lưu thông – sản xuất.

-

Khuyến khích các cơ sở tái chế chất thải rắn bằng cách thu hồi các sản phẩm đã qua sử
dụng, xử lý hoặc chế biến lại để đưa vào nền kinh tế dưới dạng các sản phẩm ban đầu
hoặc tạo ra các sản phẩm mới.

-

Tái sử dụng và tái chế chất thải rắn có thể thực hiện tốt ở các khu công nghiệp tập trung
trên cơ sở hình thành một hệ thống thông tin để trao đổi chất thải vì trong một số trường
hợp chất thải cần phải loại bỏ ở nơi này để trở thành nguyên liệu đầu vào ở nơi khác.

Tại thành phố Hà Nội, các hoạt động tái chế được thực hiện thông qua sơ đồ lưu chuyển ở
hình 6.13.

- 16 -


Nguồn sản sinh rác
(hộ gia đình, chợ, nhà

hàng, khách sạn…)

Thu gom
bằng xe đẩy tay

33,5 kg/người
Thu gom - ngày

Người mua phế
liệu

Người thu gom
mua phế liệu

12,9 – 26,2 kg/người.ngày

Ngành công
nghiệp tái chế

Người nhặt rác
Vận chuyển

Bãi chôn lấp

Người thu gom
mua phế liệu

Người mua
phế liệu


Hình 6.13. Sơ đồ lưu chuyển các dòng tái chế rác ở Hà Nội

Các vật liệu có thể tái chế được thu gom từ hộ gia đình, chợ , đường phố và khu chôn lấp
do những người thu gom hay người mua thuộc thành phần tư nhân. Trung bình mỗi ngày có
hơn 200 tấn vật liệu tái chế được thu gom. Các hoạt động tái chế tư nhân hiện đang diễn ra ở
Hà Nội dựa trên cơ sở thị trường giống các nước đang phát triển khác, tuy nhiên, các hoạt
động tái chế này hiện đang gặp rất nhiều khó khăn:
-

Ô nhiễm môi trường do các hoạt động tái chế sinh ra;

-

Chi phí lao động gia tăng;

-

Chi phí đổ thải rác thải;

-

Giảm giá trị các sản phẩm được tuần hoàn;

-

Sự cạnh tranh gay gắt với các sản phẩm giá thành rẻ hơn.

6.8. HOẠT ĐỘNG THU HỒI VÀ TÁI CHẾ CHẤT THẢI Ở CÁC NƯỚC
Các nước phát triển trước đây cũng sử dụng hệ thống tái chế tương tự ở Việt Nam. Tuy
nhiên hệ thống tái chế cũng đã từng thất bại do mất giá trị tái chế và do vật liệu có thể tái chế

được lẫn với rác thải.

- 17 -


Các nước đã phát triển hiện nay đang thay đổi lối sống là tiêu dùng các sản phẩm tái chế và
sẽ phát triển ngành kinh doanh tái chế mới trên cơ sở thị trường. Ví dụ ở Mỹ các đây 250
năm, tỷ lệ tái chế là hơn 90%. Năm 1970, tỷ lệ này giảm xuống chỉ còn 70% và hiện nay
giảm xuống còn khoảng 30%.
Đặc điểm của hoạt động thu hồi và tái chế chất thải ở các nước khác Việt Nam ở chỗ họ đã
tổ chức các dịch vụ công cộng có trách nhiệm đẩy mạnh tái chế rác bằng ngân sách.
Để giảm thiểu lượng rác thải sản sinh, nước Mỹ đã có những chính sách hỗ trợ các hoạt
động tái chế và hiện đang cố gắng thiết lập xã hội kinh tế tuần hoàn (nhà sản xuất phải xem
xét xem sản phẩm của mình có sinh ra ít chất thải hơn không? Và các chất thải liệu có khả
năng tái chế không? Hình 6.14).

Gom rác thải

Tái sử dụng
Tái chế

Xử lý trung gian
đúng quy cách
- Không có khí thải
- APR (trách nhiệm nhiều
hơn về sản phẩm)
- DIE (thiết kế cho môi
trường)
- Sản xuất tại


Đầu thải
cuối cùng
- ELCA
- Tài khoản môi trường
- Kế toán toàn bộ chi phí

Tối ưu hóa

Hình 6.14. Khái niệm về một xã hội kinh tế tuần hoàn

6.9. CÁC TRẠM TRUNG CHUYỂN CHẤT THẢI RẮN
Các trạm chuyển tiếp được sử dụng để tối ưu hóa năng lao động của đội thu gom và đội xe.
Chúng có thể được dùng để củng cố thêm lượng rác thu gom được từ các xe khác nhau, và
chúng thường được bố trí sao cho thời gian đi và khoảng cách mà các xe thu gom phải chạy
- 18 -


bên ngoài vòng thu gom bình thường của chúng là nhỏ nhất. Các trạm chuyển tiếp còn có thể
được dùng để thực hiện một chức năng quan trọng là giảm lượng rác thải đưa đến bãi chôn
lấp chung của thành phố và sử dụng lại các vật liệu có khả năng thu hồi, tạo điều kiện cho
những người bới rác không chính thức lẫn những đội quân bới rác có tổ chức thực hiện công
việc phân loại rác để tái sử dụng ngay tại các trạm này.
Trạm chuyển tiếp, do vậy là một cơ sở đặt tại gần khu vực thu gom, nơi mà các xe thu gom
có thể đổ rác của chúng xuống để sau đó rác lại được chất lại lên những xe tải lớn hơn để
chuyển một cách kinh tế đến bãi rác ở xa hơn.
Có hai loại trạm chuyển tiếp rác thải:
-

Loại phục vụ cho những xe thu gom ban đầu như những xe thủ công, những xe có động
cơ nhỏ, bao gồm xe xích lô máy và những xe tải đổ rác nhỏ (những loại này đôi khi

được gọi là những điểm chuyển tiếp để phân biệt chúng với loại thứ hai);

-

Loại phục vụ cho những loại xe lớn hơn, thường là những xe cơ giới như những xe thu
gom rác thông thường, có thể mang rác thải đến những trạm chuyển tiếp sau vòng thu
gom thứ cấp (những loại này đôi khi được gọi là những trạm trung chuyển).

Bất kể dùng loại chuyển tiếp nào, các cơ sở này đều có những mục tiêu chung. Các mục
tiêu của cơ sở chuyển tiếp bao gồm:
-

Đón tiếp những xe thu gom rác thải một cách có trật tự;

-

Xác định tải trọng của các xe;

-

Hướng dẫn các xe đến điểm đổ rác;

-

Đưa các xe ra một cách có trật tự;

-

Xử lý các rác thải thành từng khối đã được chọn trước;


-

Chuyển từng khối sang hệ thống vận chuyển hoạt động như một bộ phận trung gian
giữa hệ thống vận chuyển và các xe thu gom rác thải;

-

Giảm đến tối thiểu sự lộn xộn và tác động đến môi trường.

Việc thiết kế trạm trung chuyển tốt nhằm:
-

Cung cấp một hệ thống quản lý giao thông một cách có hiệu quả và trật tự cho những xe
thu gom đến (xếp hàng ít nhất, không phải xếp hàng trên đường quốc lộ, quay đầu
nhanh);

-

Giảm đến tối thiểu lượng chất thải phải xử lý;

- 19 -


-

Đảm bảo toàn bộ rác thải đều được chuyển đi hàng ngày và tạo điều kiện thuận lợi cho
làm sạch dễ dàng vào cuối ngày;

-


Đảm bảo toàn bộ rác thải đưa đến đều được chuyển đi theo một phương cách có kiểm
tra mà không làm cản trở sự hoạt động của trạm chuyển tiếp.

Trạm chuyển tiếp có thể được sử dụng để giúp cho duy trì hiệu quả chung của toàn hệ
thống thu gom rác thải. Thông thường, nếu thời gian đi và về một điểm thu gom rác thải là
tương đương hay lớn hơn một nữa thời gian chất rác trong ngày thì trạm trung chuyển lúc đó
là cần thiết.
Mặc dù các trạm chuyển tiếp có thể tiết kiệm, chúng lại tạo ra thêm các thao tác khác và dù
vậy có thể cần phải đánh giá lại hoạt động của các trạm chuyển tiếp. Để làm điều này cần
xem xét các điểm sau:
-

Số lượng xe đồng thời trong trạm chuyển tiếp;

-

Số lượng và loại rác được thu gom;

-

Bán kính có hiệu quả kinh tế đối với mỗi loại xe thu gom;

-

Thời gian để một xe thu gom đi đến điểm dỡ rác thải;

-

Khoảng cách của các vòng thu gom kể từ điểm thu gom cuối cùng;


-

Các chi phí tương đối tính theo thời gian được công nhận và các chi phí xe cộ từ nơi
thải đến bãi rác được coi như một phần của chu trình thu gom hay dùng một hệ vận
chuyển trung gian;

Bảng 6.5 trình bày sự so sánh hữu dụng về những chi phí khác nhau của các phương án vận
chuyển. Bảng này chỉ ra rõ ràng những ưu thế của việc sử dụng những phương tiện tiết kiệm
năng lượng cho việc vận chuyển những khối lượng lớn rác thải từ điểm chuyển tiếp đến bãi
chôn lấp.
Hình 6.15 minh họa tính kinh tế của việc chuyển tiếp và cách xác định điểm “hoàn vốn”
của thời gian/khoảng cách tại Bangkok-Thái Lan. Hình vẽ chỉ ra rằng đối với những tuyến
đường ngắn, về thời gian giữa điểm thu gom và bãi chôn lấp, khi thời gian và quảng đường
giữa nơi thu gom và chôn lấp tăng lên trên 30 phút hay 10 km, sử dụng trạm trung chuyển sẽ
có tính kinh tế hơn(tùy thuộc vào loại xe thu gom). Trong thí dụ này, với khoảng cách trên 25
km giữa nơi thu gom và bãi chôn lấp (khoảng hơn 1 – 1,5 giờ lái xe), sử dụng trạm chuyển
tiếp luôn luôn tiết kiệm được chi phí hơn so với một loại xe thu gom trong thành phố. Lưu ý
rằng thời gian là đại lượng có tính quyết định hơn là khoảng cách.

- 20 -


Chi phí (USD)

Chuyển trực tiếp

Chuyển bằng xe tải

Chuyển bằng sà


bằng xe thu gom

lan hay tàu kéo
3

Chi phí cố định và hoạt động của trạm chuyển tiếp (600m /ngày)
Các công việc thủ công

0

80.000

160.000

Thiết bị tĩnh

0

30.000

20.000

Các loại xe cộ

0

0

160.000


Khấu hao hàng năm

0

6.200

24.000

Vận hành và bảo dưỡng

0

6.200

36.000

Tổng các chi phí cố định và

0

12.200

60.400

0

0,06/m3

0,27/m3


Xe đổ rác kín 8 m3

Xe tải lớn 30m3

Xà lan 600 m3

2 chuyến/ngày

4chuyến/ngày

1 chuyến/ngày

Sử dụng 7 năm

Sử dụng 7 năm

Sử dụng 30 năm

(giá 15.000/xe)

(giá 60.000/xe +

(giá 810.000/tàu

2 toa rơmooc

kéo + 2 xà lan)

hoạt động mỗi năm
Tổng các chi phí cố định và

hoạt động tính cho 1m3 rác thải
Các chi phí vận tải
Các giả thiết

Khấu hao hàng năm

2.200

7.600

27.000

Lương cho lái xe

1.600

2.200

3.500

5,500(5 người)

1.100(1 người)

2.200(2 người)

Bảo hiểm, thuế…

1.500


2.000

6.000

Bảo dưỡng và vận hành hàng

3.800

15.000

80.000

14.600

28.900

118.700

2,5/m3

0,66/m3

0,54/m3

Lương cho đội ngũ công nhân

năm
Tổng chi phí vận chuyển hàng
năm
Chi phí tính theo m3 rác thải


Nguồn tài liệu S.J Coirnhau (1982). Quản lý môi trường chất thải rắn đô thị - Hướng dẫn
dự án. Tài liệu kỹ thuật phát triển đô thị số 5, Ngân hàng thế giới, Washington.
Ghi chú: Giá trị về tiền trong bảng 6.5 không còn đúng, vì thế các giá trị này chỉ nên xem
như những giá trị tương đối hơn là giá trị tuyệt đối.
- 21 -


6.10. CÁC LOẠI TRẠM CHUYỂN TIẾP
Chuyển tiếp không dùng thùng côngtennơ: là dạng đơn giản nhất và thường là hình thức
chuyển tiếp có hiệu quả nhất khi rác thải được thu gom bằng những xe nhỏ và đổ xuống các
bãi mà thường có nền bằng bêtông và đôi khi được xây bao quanh để tăng tính mỹ quan và
hạn chế mùi hôi thối, sẽ được chở đến bãi chôn thải bằng các xe thu gom thứ cấp.
Các loại rác thải củng có thể đổ trực tiếp vào thùng hở, hoặc các thiết bị có nén ép hay các
băng tải chuyển thẳng tới nơi phân tách và xử lý. Các hoạt động ở đây thường làm bằng thủ
công hay máy xúc.
Chuyển tiếp dùng thùng côngtennơ hoặc các phương tiện lưu chứa: có 3 phương án của
loại này sử dụng những xe vận chuyển tầm ngắn. Sơ đồ loại trạm chuyển tiếp có lưu trử được
thể hiện ở hình 6.16.
-

Loại 1 : rác thải được thu gom trong những xe thu gom ban đầu sẽ được đổ trực tiếp vào
những thùng côngtennơ và chuyển trực tiếp sau đó đến bãi chôn thải. Ở dạng đơn giản
nhất, hệ thống này chỉ bao gồm một thùng côngtennơ tại một bãi phẳng và thường chỉ
có tường bao xây lững để ngăn dọc theo vỉa hè. Mỗi ngày có một chuyến xe chở chúng
đến bãi chôn lấp (hình 6.16a).

-

Loại 2 : gồm một bãi phẳng, với hai tuyến đường một chiều cho những xe thu gom ban

đầu và thứ cấp. Các thùng côngtennơ được thu góp bởi những xe thu gom chính sẽ được
đặt trên khoảng trống giữa các tuyến đường xe để rồi sau đó sẽ được một xe lớn hơn, có
thể chở được một lúc nhiều côngtennơ bốc đi (hình 6.16b).

-

Loại 3 : gồm một bãi phẳng, có những hố chứa những thùng côngtennơ hở ở dưới. Các
xe tải thu gom chính sẽ đổ rác trực tiếp xuống các thùng ở dưới đó. Thường có khoảng
cách để đặt vài ba thùng một và một xe tải lớn sẽ chở vài thùng một đến bãi chôn thải
hàng ngày (hình 6.16c).

Thêm vào đó, khi bãi chôn lấp được đặt ở một nơi tương đối xa khu vực thu gom và trung
tâm thành phố (thường trên 20 km), các bãi chuyển tiếp thường có thể sử dụng những
phương tiện vận tải thứ cấp loại rẻ tiền về năng lượng, thí dụ như đường sắt và đường sông
(xà lan). Cách vận chuyển này có thể áp dụng cho những khu vực trung tâm lớn nhất, mà tại
đó rác thải có thể được chuyển đi đến những nơi tương đối xa.

- 22 -


Chương 7:

CHÔN LẤP VÀ TIÊU HỦY CHẤT THẢI RẮN ĐÔ THỊ

7.1. BÃI CHÔN LẤP HỢP VỆ SINH
7.1.1. Khái niệm
Trong các phương pháp xử lý và tiêu hủy chất thải rắn, chôn lấp là phương pháp phổ biến
và đơn giản nhất. Phương pháp này được áp dụng rộng rãi ở hầu hết các nước trên thế giới.
Về thực chất, chôn lấp là phương pháp lưu giữ chất thải trong một bãi và có phủ đất lên trên.
Chôn lấp hợp vệ sinh là một phương pháp kiểm soát sự phân hủy của chất thải rắn khi

chúng được chôn nén và phủ lấp bề mặt. Chất thải rắn trong bãi chôn lấp sẽ bị tan rữa nhờ
quá trình phân hủy sinh học bên trong để tạo ra sản phẩm cuối cùng là các chất giàu dinh
dưỡng như axit hữu cơ, nitơ, các hợp chất amon và một số khí như CO2, CH4 . Như vậy về
thực chất chôn lấp hợp vệ sinh chất thải rắn đô thị vừa là phương pháp tiêu hủy sinh học, vừa
là biện pháp kiểm soát các thông số chất lượng môi trường trong quá trình phân hủy chất thải
khi chôn lấp.
Theo quy định của TCVN 6696 – 2000, bãi chôn lấp chất thải rắn hợp vệ sinh(sau đây gọi
là bãi chôn lấp) được định nghĩa là: Khu vực được quy hoạch thiết kế, xây dựng để chôn lấp
các chất thải phát sinh từ các khu dân cư, đô thị và các khu công nghiệp. Bãi chôn lấp chất
thải rắn bao gồm các ô chôn lấp chất thải, vùng đệm, các công trình phụ trợ khác như trạm xử
lý nước, trạm xử lý khí thải, trạm cung cấp điện nước, văn phòng làm việc…
7.1.2. Điều kiện chôn lấp các chất thải rắn tại bãi chôn lấp
Chất thải rắn được chấp nhận chôn lấp tại bãi chôn lấp hợp vệ sinh là tất cả các chất thải
không nguy hại, có khả năng phân hủy tự nhiên theo thời gian, bao gồm:
-

Rác thải gia đình

-

Rác thải chợ, đường phố

-

Giấy, bìa, cành cây nhỏ và lá cây

- 23 -


-


Tro, củi gỗ mục, vãi, đồ da (trừ phế thải da có chứa crôm)

-

Rác thải từ văn phòng khách sạn, nhà hàng ăn uống

-

Phế thải sản xuất không nằm trong danh mục rác thải nguy hại từ các ngành công
nghiệp (chế biến lương thực, thực phẩm, thủy sản, rượu bia giải khát, giấy, giày, da…)

-

Bùn sệt thu được từ các trạm xử lý nước (đô thị và công nghiệp) có cặn khô lớn hơn
20%

-

Phế thải nhựa tổng hợp

-

Tro xỉ không chứa các thành phần nguy hại được sinh ra từ quá trình đốt rác thải

-

Tro xỉ từ quá trình đốt nhiên liệu

Rác thải không được chấp nhận chôn lấp tại bãi chôn lấp hợp vệ sinh là tất cả các loại rác

có các đặc tính sau:
-

Rác thải thuộc danh mục rác thải nguy hại (quản lý đặc biệt theo quy chế quản lý rác
thải nguy hại được ban hành kèm theo nghị định của chính phủ)

-

Rác thải có đặc tính lây nhiễm

-

Rác thải phóng xạ bao gồm những chất có chứa một hoặc nhiều hạt nhân phóng xạ theo
quy chế an toàn phóng xạ

-

Các loại tồn dư của thuốc bảo vệ thực vật và những phế thải có chứa hàm lượng PCB
cao hơn 50 mg/kg

-

Rác thải dễ cháy và nổ

-

Bùn sệt từ các trạm xử lý nước (đô thị và công nghiệp) có hàm lượng cặn khô thấp hơn
20%

-


Đồ dùng gia đình có thể tích to, cồng kềnh như giường, tủ, bàn, tủ lạnh…

-

Các phế thải vật liệu xây dựng, khai khoáng

-

Các loại đất có nhiễm các thành phần nguy hại vượt quá tiêu chuẩn TCVN 5941 – 1995
quy định đối với chất lượng đất

-

Các loại xác súc vật với khối lượng lớn

7.1.3. Các yếu tố cần xem xét khi lựa chọn bãi chôn lấp
a) Quy mô bãi
Quy mô bãi chôn lấp chất thải rắn đô thị phụ thuộc vào quy mô của đô thị như dân số,
lượng rác thải phát sinh, đặc điểm rác thải… Có thể căn cứ vào đặc điểm đô thị Việt Nam có

- 24 -


×