Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

QUY TRÌNH KỸ THUẬT TRỒNG CAO SU TRÊN ĐẤT RỪNG NGHÈO NGẬP ÚNG: KỸ THUẬT KHAI HOANG, THIẾT HẾ LÔ VÀ TRỒNG CAO SU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.46 KB, 5 trang )

QUY TRÌNH KỸ THUẬT TRỒNG CAO SU TRÊN ĐẤT RỪNG
NGHÈO NGẬP ÚNG: KỸ THUẬT KHAI HOANG, THIẾT HẾ LÔ VÀ
TRỒNG CAO SU
Kỹ thuật (KT) làm vườn ương tum trần
Để làm vườn ương tum trần, phải khai hoang và làm đất xong trước khi đặt hạt giống ít
nhất 15 ngày, nếu đất chua phải bón vôi bột. Vườn ương tum trần phải được thiết kế thành
những ô có kích thước 20m x 10m, giữa các ô có đường đi rộng 2m nối vào đường vận
chuyển. Mật độ thiết kế 80.000 điểm/ha.
Hạt giống làm gốc gép, ưu tiên sử
dụng hạt các dòng vô tính GT 1, PB
260, kế đến là hạt các dòng vô tính phổ
biến khác. Khi trồng cây ra vườn ương,
chọn những cây có thân mầm và rễ cọc
dài khoảng 3 – 10 cm, trồng lúc trời
mát. Bắt đầu ghép khi đường kính gốc
ghép đo cách mặt đất 10 cm, đạt trên
10mm và cây có tầng lá trên cùng ổn
định. Áp dụng kỹ thuật ghép mắt xanh
và xanh nâu theo phương pháp ghép
cửa sổ. Chọn mắt nách lá và vảy cá có mô mầm rõ, ghép cây vào lúc mát trời, không ghép lúc
gốc cây còn ướt.
Đối với công đoạn bứng, xử lý và bảo quản tum. Sau khi ghép 20 ngày mới được mở
băng ghép, ít nhất 15 ngày sau mở băng mới bứng tum. Cắt ngọn tum ở độ cao 5 - 7cm, cách
mí trên của mắt ghép, mặt cắt nghiêng về phía đối diện và bôi vaselin ngay sau khi cắt. Cắt
hết rễ bên, tránh phạm vào rễ cọc và cắt chừa rễ cọc dài ít nhất 45cm tính từ cổ rễ hoặc để dài
hơn tiêu chuẩn. Phần tum từ cổ rễ trở xuống được xử lý bằng cách nhúng trong hỗn hợp bùn
sệt gồm 2/3 đất nhão + 1/3 phân bò (trâu) tươi + 4% phân super lâm và nước. Tum vận
chuyển đi xa thì thời gian bảo quản không quá 10 ngày sau khi bứng. Tưới nước 2 lần/ngày
vào lúc trời mát trên đường vận chuyển.
Kỹ thuật làm vườn ương bầu và tum bầu có tầng lá
Mật độ thiết kế vườn ương bầu có tầng lá là 120.000 – 130.000 bầu/ha nếu kích thước


bầu là 18cm x 35cm, từ 150.000 – 160.000 bầu/ha nếu kích thước bầu là 16cm x 33cm. Vườn
ương bầu có tầng lá thiết kế hàng theo hai cách, hàng đơn và hàng kép.
Dùng bầu nhựa PE nguyên sinh dày 0,08 mm, một nửa chiều dài ở phần đáy có đục
nhiều lỗ, các lỗ cách nhau 6 cm, đường kính lỗ 5mm. Kích thước bầu nhựa PE tùy theo loại
đất. Đất cho vào bầu, chọn đất thịt có kết cấu tốt, với đất xám phải chọn đất có tỷ lệ cát thấp
để tránh vỡ bầu. Đất lúc cho vào bầu phải tương đối khô, phân bón lót, phân nung chảy 8 –
10g/bầu, phân hữu cơ vi sinh, 10g/bầu hoặc phân chuồng hoai 50 – 100g/bầu.
Trước khi trồng cây vào bầu 1 – 2 ngày, đất trong bầu phải được tưới đẫm nước. Chọn
những cây có rễ cọc và thân mầm dài khoảng 3 – 10 cm đặt vào bầu, chọn những cây cùng

1


chiều cao để trồng cùng lượt. Trong vòng 20 ngày sau khi ra cây, hàng ngày kiểm tra thay thế
ngay những cây không đạt yêu cầu.
Thường xuyên tưới nước, làm cỏ và bón phân. Ghép cây khi cây trong bầu có đường
kính gốc đạt trên 8 mm đo ở vị trí cách mặt đất 10 cm. Ghép cây lúc trời mát, không ghép khi
gốc ghép còn ướt, không tưới nước trong ngày ghép, sau khi ghép phải tưới nước bảo đảm đủ
ẩm. Gỗ ghép, có tuổi cành tương đương với gốc ghép, bóc vỏ dễ dàng. Có thể áp dụng
phương pháp ghép mắt non, mắt xanh hay mắt xanh nâu.
Sau khi ghép 20 ngày thì mở băng, ít nhất 15 ngày sau mở băng mới cắt ngọn. Cắt ngọn
bầu có cây ghép sống đạt đường kính trên 10 mm đo cách mặt đất 10 cm, cắt ngọn cao
khoảng 5 – 7 cm. Sau khi cắt ngọn, nhấc bầu lên khỏi rãnh, cắt bỏ phần rễ đâm ra ngoài bầu,
giữ bầu vừa đủ ẩm lúc vận chuyển để tránh long gốc, vỡ bầu. Bầu cắt ngọn được chuyển đến
vườn ương, đặt bầu theo hàng kép sâu khoảng 10 cm, mắt ghép quay ra phía ngoài, tưới nước
đủ ẩm, thường xuyên tỉa chồi dại, chọn bầu có tầng lá trên cùng ổn định, đồng đều để trồng.
Đối với kỹ thuật làm vườn ương bầu có tầng lá. Để sản xuất tum bầu 2 – 3 tầng lá cho
thời vụ trồng mới hoặc trồng dặm thì tum được đặt vào bầu trước đó khoảng 5 – 6 tháng.
Vườn ương thiết kế đảm bảo chóng xói mòn, thoát nước đồng thời thuận tiện cho việc thi
công, chăm sóc, quản lý và vận chuyển.

Dùng bầu PE nguyên sinh, dày 0,08 mm, nửa chiều dài bầu ở phần đáy có đục nhiều lỗ.
Bầu có kích thước 18 cm x 35 cm hoặc 16 cm x 33 cm đối với tum 6 – 8 tháng tuổi. (vụ sớm).
Phải xử lý rễ trước khi cắm vào bầu, bôi vaselin kín vết cắt đuôi chuột và hồ rễ lại trước khi
cắm vào bầu. Đất cho vào bầu phải tơi, mịn, được trộn phân bón lót theo định lượng. Đất cho
vào 2/3 túi bầu, lắc đều vừa đủ chặt, tiếp theo cho đất đầy bằng miệng bầu và lắc đều cho đất
xuống cách miệng bầu 1 cm, bầu đất phải tròn đều không gãy ở giữa.
Tưới đẫm nước cả bầu đất một ngày trước khi trồng. Sử dụng cây nọc xuyên lỗ giữa tâm
bầu đến độ sâu bằng chiều dài lỗ tum đã xử lý, cắm tum vào giữa bầu cho mí mắt ghép cách
đất 1 cm, mắt ghép quay ra phía ngoài. Sau khi cây đạt 2 tầng lá ổn định thì tiến hành đảo bầu
lần thứ nhất, trước khi trồng 1 tháng đảo bầu và phân riêng từng nhóm cây có mức sinh
trưởng tương đương, chọn những bầu có tầng lá trên cùng ổn định để trồng.
Vườn nhân gỗ ghép
Vườn nhân gỗ ghép có thể được thiết lập bằng các loại cây giống (tum trần và tum bầu
có tầng lá). Thiết kế cây trồng theo hàng đơn, cây cách cây 0,5 m, hàng cách hàng 1 m, mật
độ 20.000 gốc/ha. Cành gỗ ghép phải có kích thước và tuổi cành tương ứng với gốc ghép, bóc
vỏ dễ dàng. Tùy theo giống, số lượng mắt ghép khác nhau nhưng bình quân chung phải đạt 10
mắt hữu hiệu trên 1 m cành gỗ ghép dạng xanh hoặc xanh nâu.
Với vườn nhân gỗ ghép, phải nâng tầng lá và cắt cành gỗ ghép. Nâng tầng lá, trước khi
cắt cành 20 – 25 ngày, dùng dao sắc cắt lá chừa cuốn còn 1- 2 cm, cắt các tầng lá dưới thấp,
giữ lại hai tầng lá trên cùng. Cắt cành gỗ ghép, chỉ cắt cành gỗ ghép có tầng lá trên cùng ổn
định, dễ bóc vỏ, cắt cành vào lúc trời mát. Cành gỗ ghép ngay sau khi cắt phải được gom lại
nhẹ nhàng để bảo quản, tuyệt đối không để ngoài nắng. Nếu sử dụng ngay, cành gỗ ghép phải
được giữ ẩm trong bao bố thấm nước, để nơi thoáng mát. Khi chuyển đi xa, cành gỗ ghép phải
được nhúng nước hoặc vaselin ở hai đầu, buộc chặt gỗ thành từng bó, mỗi bó 20 cành, xe vận

2


chuyển phải có mui che thoáng mát, sàn xe rải mùn cưa ẩm hoặc trải bao bố. Thời gian từ khi
cắt đến khi ghép không quá 5 ngày.

Rừng khộp còn gọi là rừng thưa nhiệt đới hay rừng nhiệt đới rụng lá thường thấy ở
Đông Nam Á tại các vùng có cao trình dưới 1.000 m, với đặc điểm là tầng đất mặt mỏng.
Thực bì bao gồm cây rụng lá xen lẫn cây thường xanh ở mức độ khác nhau, trong đó cây chỉ
thị là những loài thuộc họ Dầu như: dầu đọt tím, dầu bao, dầu rái, kiền kiền, sao, vên vên,
sến.…Rừng khộp phân bố trên nhiều địa hình khác nhau, trên vùng đất bằng phẳng úng nước
trong mùa mưa và khô hạn trong mùa khô thường xuất hiện rừng khộp nghèo. Quy trình khai
hoang, thiết kế lô và xây dựng vườn cây này chỉ áp dụng trên đất rừng khộp nghèo ngập úng.
Khai hoang, làm đất và thiết kế lô
Đất trồng cao su phải có độ dốc bình quân dưới 300 và cao trình dưới 600 m. Trong
phạm vi từ mặt đất đến độ sâu 70 cm, đất
không bị ngập úng thường xuyên hơn 3
tháng, không có đá tảng dày đặc. Khi tiến
hành khai hoang, làm đất cần lưu ý các yêu
cầu sau: đất không ngập úng hoặc ngập úng
nhẹ tiến hành khai hoang trước, diện tích
ngập úng nặng thì chừa lại; không dồn gốc,
rễ, cành cây xuống các hợp thủy, khe suối
và các bàu trũng, sau khi khai hoang rà rễ
một lần trên hàng trồng, không cày đất; thiết
kế hệ thống mương tiêu chính trên bản đồ trước khi thiết kế lô. Trước khi đưa vào trồng, đất
phải được khai hoang hợp lý và hoàn chỉnh các công trình xây dựng vườn cây bao gồm đường
lô, đường liên lô và hệ thống thoát thủy vùng ngập úng.
Đối với thiết kế lô cao su, phải lập sơ đồ mặt bằng và thiết kế lô trồng trên bản đồ địa
hình có tỷ lệ 1/5.000 để làm cơ sở cho việc thiết kế ngoài thực địa. Thiết kế lô có diện tích
12,5 ha (500 m x 250 m). Trên vùng trũng, thấp thì thiết kế hàng cao su hướng về phía hợp
thủy chính hoặc khe suối ngay trong khu vực. Mật độ là 555 cây/ha theo khoảng cách 6 m x 3
m.
Trồng cao su trên đất rừng khộp nghèo ngập úng, việc thiết kế hệ thống mương tiêu
nước chống úng rất quan trọng. Tùy theo đặc điểm từng vùng, việc bố trí hệ thống mương tiêu
có đặc điểm riêng nhất định nhằm thỏa mãn yêu cầu tiêu nước của từng vùng dựa trên những

nguyên tắc chung sau: Tận dụng các hệ thống khe suối tiêu tự nhiên, bàu trũng sẵn có làm hệ
thống mương tiêu để giảm vốn đầu tư. Mương tiêu chính bố trí ở vị trí thấp nhất và phải có sự
liên kết với hệ thống thoát thủy tự nhiên bên ngoài để có thể tiêu tự chảy cho cả vùng trồng
cao su. Trong hệ thống mương tiêu nước, mương tiêu nhỏ cấp nước tự chảy cho mương tiêu
lớn hơn và trên từng cấp mương tiêu, đầu nhận nước phải cao hơn đầu thoát nước.
Hệ thống mương tiêu nước chống úng trên vùng trồng cao su gồm bốn cấp sau: mương
tiêu cấp 1 (T1), mương tiêu cấp 2 (T2), mương tiêu cấp 3 (T3), mương tiêu cấp 4 (T4). Phải
hoàn chỉnh hệ thống mương tiêu chậm nhất vào cuối năm thứ hai. Trên từng lô cao su nếu có
các diện tích úng cục bộ cần khơi dòng, đào rãnh dẫn nước ứ đọng về các mương cấp 4. Đầu
3


và giữa mùa mưa, tổ chức nạo vét các mương đạt độ sâu và độ dốc quy định. Bên cạnh đó,
thường xuyên kiểm tra các điểm thu, xả nước của các mương, cống, xử lý kịp thời các điểm
sạt lở, bồi lắng làm tắc nghẽn dòng chảy.
Trồng, chăm sóc, quản lý vườn cây trồng mới và KTCB
Hố trồng cao su có kích thước dài 70 cm, rộng 50 cm, sâu 60 cm, đáy hố rộng 50 cm x
50 cm. Ưu tiên sử dụng cơ giới để đào hố (xe múc), nếu đào thủ công phải để riêng lớp đất
mặt và lớp đất đáy. Bón lót, mỗi hố 300 g phân lân nung chảy, 10 kg phân hữu cơ đã hoai
mục, trộn phân lấp hố được thực hiện ngay sau khi đào hố và cắm cọc ở giữa tâm hố để đánh
dấu điểm trồng. Hoàn tất việc đào hố và bón lót trước khi trồng ít nhất 15 ngày.
Thời vụ trồng từ 15/5 đến 30/8 với bầu có tầng lá hoặc tum bầu 2 – 3 tầng lá. Tiêu chuẩn
bầu có tầng lá: đường kính gốc ghép đo cách mặt đất 10 cm đạt tối thiểu 12 mm, chồi ghép có
ít nhất một tầng lá ổn định, khỏe. Tiêu chuẩn tum bầu có tầng lá: chồi ghép có ít nhất hai tầng
lá ổn định, khỏe, bầu không bị bể, cây không long gốc.
Trước khi trồng bầu, dùng dao cắt sát đáy bầu và phần rễ cọc nhú ra khỏi bầu. Đặt bầu
thẳng đứng, rạch túi bầu PE theo đường thẳng đứng từ dưới lên, vừa lấp đất vừa kéo túi bầu
và dậm quanh đến khi đầy hố. Đối với tum bầu có tầng lá, khi cắt đáy bầu tránh phạm vào rễ
cọc tum (rễ gốc tum cắm). Trồng dặm định hình vườn cây ngay năm thứ nhất, chậm nhất là
năm thứ hai. Trồng dặm bằng cây con đúng giống và có mức phát triển tương đương với cây

trên vườn. Sau đó, thiết lập thảm phủ cây họ đậu ngay từ năm thứ nhất, trên diện tích có xen
cây ngắn ngày, nếu ngay sau khi ngưng trồng xen vườn cây cao su vẫn chưa giao tán phải
thiết lập thảm phủ họ đậu.
Đối với công đoạn chăm sóc cao su KTCB. Từ năm thứ hai trở đi, làm cỏ cách gốc cao
su mỗi bên 1,5 m, năm thứ 2 – 5 làm cỏ 4 lần/năm, từ năm thứ 6 trở đi làm cỏ 2 lần/năm. Sử
dụng thuốc diệt cỏ tranh, tre, le giữa hàng cao su. Tủ gốc với vật liệu thực vật vào cuối mùa
mưa hai năm đầu, trước khi tủ gốc phải xới phá váng lớp đất mặt quanh gốc. Ngoài ra, có thể
tủ gốc bằng màng phủ nông nghiệp (PE). Từ năm thứ 2 đào hố đa năng trên hàng cao su, số
lượng hố bằng một nửa số cây trồng. Giữa hai cây đào một hố, giữa hai hố cách nhau hai cây,
theo dạng nanh sấu. Hố đa năng có kích thước dài 80 cm, rộng 40 cm và sâu 30 cm. Từ năm
thứ tư hố đa năng được đào giữa hai hàng cao su, số lượng hố bằng một nửa số cây trồng, theo
dạng nanh sấu. Giữa bốn cây đào một hố, giữa hai hố cách nhau hai cây theo dạng nanh sấu.
Hố có kích thước dài 80 cm, rộng 50 cm và sâu 40 cm, được dùng làm điểm bón phân từ cuối
năm thứ tư trở đi.
Bón phân cho cao su KTCB gồm có phân vô cơ và hữu cơ. Phân vô cơ được chia làm 2
- 3 lần trong năm, bón phân khi đất đủ ẩm, không bón vào thời điểm mưa lớn. Từ năm thứ
nhất đến năm thứ hai, cuốc rãnh hình vành khăn hoặc bấu lỗ quanh gốc cao su theo hình chiếu
tán để bón phân, từ năm thứ ba trở đi bón vào hố đa năng. Phân bón qua lá được sử dụng
trong hai năm đầu. Lần đầu tiên phun khi cây có một tầng lá ổn định, các lần sau cách nhau 15
ngày. Phun vào những ngày không có mưa, phun từ 7 – 10 giờ sáng. Đối với phân hữu cơ, từ
năm thứ hai đến năm thứ ba, phân được bón vào hố dọc hai bên hàng cao su theo hình chiếu
tán của lá, sau đó vùi đất lấp phân. Lượng phân hữu cơ 1 – 2 kg/cây/năm, bón một lần vào đầu
mùa mưa và từ năm thứ tư trở đi, phân hữu cơ được bón vào hố đa năng.

4


Ngoài ra, phải tỉa chồi có kiểm soát trong giai đoạn đầu KTCB. Năm thứ nhất chỉ tỉa
chồi ngang khi tầng lá trên cùng ổn định. Từ năm thứ hai phải tỉa chồi có kiểm soát. Ở hai
tầng lá ổn định trên cùng của cây luôn để lại 2 – 3 chồi/tầng cùng phát triển.

P.Thắng.
Nguồn "Tạp chí Cao su Việt Nam"


5



×