Tải bản đầy đủ (.docx) (102 trang)

Quản lý nhà nước về phát triển du lịch tại thành phố Hạ Long, Quảng Ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (492.28 KB, 102 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC I

PHÙNG THỊ MAI

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ PHÁT TRIỂN DU LỊCH
TẠI THÀNH PHỐ HẠ LONG, TỈNH QUẢNG NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Quản lý kinh tế
Mã số: 60340410

HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS DOÃN THỊ MAI HƯƠNG

HÀ NỘI, NĂM 2016


2

LỜI CAM ĐOAN

Tác giả xin cam đoan luận văn: “Quản lý nhà nước về phát triển du lịch
tại thành phố Hạ Long, Quảng Ninh” này là công trình nghiên cứu khoa học,
độc lập của tôi được thực hiện dưới sự hướng dẫn của TS Doãn Thị Mai Hương.
Các tài liệu tham khảo, số liệu thống kê phục vụ mục đích nghiên cứu công
trình này được sử dụng đúng quy định, không vi phạm quy chế bảo mật của nhà
nước. Kết quả nêu trong luận văn là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng.
Tác giả xin cam đoan rằng những số liệu nêu trên là hoàn toàn đúng sự
thật. Nếu sai tác giả xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN


Phùng Thị Mai


3

LỜI CẢM ƠN
Luận văn là kết quả của quá trình học tập, nghiên cứu tại Khoa Sau đại
học Học viện Chính trị Khu vực I và nỗ lực của học viên trong liên hệ, vận dụng
kiến thức vào thực tiễn của bản thân để nghiên cứu đề tài.
Để hoàn thành luận văn, ngoài cố gắng của bản thân, học viên đã nhận
được sự giúp đỡ to lớn và quý báu của mọi người. Trước hết em xin chân thành
cảm ơn các thầy, cô giáo Học viện Chính trị Khu vực I đã giảng dạy đầy tận tâm
và trách nhiệm. Em cũng xin cảm ơn sâu sắc cô giáo hướng dẫn, TS Doãn Thị
Mai Hương, trường Đại học Lao động Xã hội- người đã trực tiếp hướng dẫn tận
tình cho em trong suốt quá trình làm luận văn.
Em xin gửi lời cảm ơn đến tất cả những người thân, bạn bè, đồng nghiệp
đã giúp đỡ để em hoàn thành luận văn của mình.


4

MỤC LỤC


5

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
ANTT
ANTT-ATGT
BQL

CK
CNH, HĐH
CSVC-KT
GDP
HĐDL
KCHT
KHCN
KT-XH
ODA
QLNN
TNHH
TNHH MTV
TP
UBND
UBND - HĐND
VNĐ
VTOS
WTO

An ninh trật tự
An ninh trật tự - An toàn giao thônh
Ban quản lý
Cùng kỳ
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Cơ sở vật chất – kỹ kuật
Tổng sản phẩm quốc nội
Hợp đồng du lịch
Kết cấu hạ tầng
Khoa học công nghệ
Kinh tế - xã hội

Hỗ trợ phát triển chính thức
Quản lý nhà nước
Trách nhiệm hữu hạn
Trách nhiệm hữu hạn một thành viên
Thành phố
Ủy ban nhân dân
Ủy ban nhân dân – Hội đồng nhân dân
Việt Nam đồng
Tiêu chuẩn kỹ năng nghề du lịch Việt Nam
Tổ chức Thương mại thế giới


6

DANH MỤC BẢNG, BIỂU


7

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thành phố Hạ Long là trung tâm văn hóa, kinh tế, chính trị của tỉnh
Quảng Ninh đồng thời được xác định là một trung tâm của vùng bắc vùng duyên
hải Bắc Bộ, có vị trí thuận lợi trong việc phát triển ngành du lịch cũng như có
điều kiện thu hút khách du lịch trong nước và quốc tế; đặc biệt Hạ Long có nhiều
cơ hội để phát triển để trở thành một trong những đô thị sầm uất nhất Việt Nam.
Trong chiến lược phát triển kinh tế của thành phố Hạ Long, du lịch được xác
định là ngành kinh tế mũi nhọn, là động lực thúc đẩy phát triển các lĩnh vực kinh
tế khác.
Được thành lập từ năm 1993 trên cơ sở thị xã Hồng Gai cũ, Thành phố Hạ

Long nằm trong tam giác phát triển kinh tế Bắc Bộ Hà Nội - Hải Phòng - Quảng
Ninh, có quan hệ mật thiết về các hoạt động kinh tế, khoa học và văn hoá xã hội
với Thủ đô Hà Nội, thành phố Hải Pḥng, các tỉnh đồng bằng sông Hồng và ven
biển; có mối quan hệ về kinh tế với thị trường quốc tế và khu vực rộng lớn,
thông qua khu kinh tế cửa khẩu Móng Cái tạo nên mối liên quan giao lưu, gần
gũi giữa Việt Nam và Trung Quốc. Với chiều dài 50km, trên đó có mạng lưới
đường bộ, cảng biển lớn đang được mở rộng và phát triển, đặc biệt là cảng nước
sâu Cái Lân giữ vai trò cửa mở lớn ra biển cho cả nước ở phía Bắc, để chuyển tải
hàng hoá xuất nhập khẩu, đẩy mạnh giao lưu kinh tế với các vùng trong cả nước
và với nước ngoài. Đồng thời còn có khả năng thiết lập mối quan hệ hàng hải và
hàng không với các nước trong khu vực Đông Nam Á, Đông Á và thế giới. Đây
là một ưu thế đặc biệt của Thành phố Hạ Long.
Trong những năm qua, hoạt động du lịch của thành phố Hạ Long không
ngừng phát triển và đạt được nhiều bước tiến quan trọng. Chỉ tính riêng năm
2015, tổng khách du lịch đến Hạ Long đạt 5,5 triệu lượt, tăng 11% so với cùng
kỳ, trong đó khách quốc tế đạt 2,4 triệu lượt, tổng doanh thu đạt 2.805 tỷ đồng.
Cùng với đó, Hạ Long tập trung thu hút và thực hiện được các dự án lớn, qua đó


8

đã góp phần đa dạng hóa sản phẩm du lịch, tạo bước đột phá trong phát triển du
lịch của địa phương. Số lượng khách sạn, nhà hàng, du thuyền cao cấp được đưa
vào hoạt động ngày càng tăng, đáp ứng yêu cầu phát triển của ngành du lịch
trong giai đoạn mới. Tính đến nay, Hạ Long có khoảng 595 cơ sở lưu trú du lịch,
trong đó có trên 100 khách sạn được xếp hạng từ 1 đến 5 sao; hơn 500 tàu du
lịch (trong đó 168 tàu nghỉ đêm) và hơn 600 nhà hàng, điểm mua sắm các loại
phục vụ khách du lịch. Các khu vui chơi giải trí, điểm mua sắm thương mại trên
địa bàn thành phố được chú trọng đầu tư phát triển mang tính đặc trưng như:
Khu du lịch Tuần Châu, Big C, Vincom Center Hạ Long, dịch vụ thủy phi cơ

ngắm Hạ Long… Đặc biệt, với mục tiêu đưa Bãi Cháy và Tuần Châu trở thành
một khu vui chơi đẳng cấp quốc tế, Hạ Long đã rất thành công trong việc thu hút
đầu tư nhiều dự án lớn, như Hạ Long Marina của Tập đoàn BIM Group với tổng
số vốn đầu tư xấp xỉ 50 triệu USD, khu phức hợp nghỉ dưỡng và du lịch Tuần
Châu với tổng số vốn đầu tư 3,5 tỷ USD, Công viên Hạ Long Ocean Park của tập
đoàn Sun Group với tổng số vốn đầu tư 300 triệu USD, Khu nghỉ dưỡng cao cấp
Hạ Long Vinperl Resort Đảo Rều với số vốn đầu tư 50 triệu USD …
Nhiều năm qua, Hạ Long vẫn là trung tâm du lịch lớn nhất của tỉnh nhưng
thực tế du lịch vẫn chưa phải là ngành kinh tế mũi nhọn, phát triển chưa xứng
tầm so với tiềm năng, thế mạnh của địa phương. Nhận thức về phát triển du lịch
của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân còn hạn chế, chậm đổi mới, chưa
theo kịp với yêu cầu phát triển và hội nhập quốc tế. Công tác quản lý nhà nước
chưa theo kịp tốc độ phát triển, sản phẩm du lịch còn ít, chất lượng một số sản
phẩm và dịch vụ du lịch chưa đáp ứng được yêu cầu, nhất là đối với các cơ sở
lưu trú du lịch đạt chuẩn phục vụ khách; kết cấu hạ tầng và các dịch vụ hỗ trợ
còn thiếu đồng bộ… Đây đang là những thách thức mà du lịch Hạ Long hiện vẫn
chưa khắc phục triệt để được.
Một trong những chủ đề công tác năm 2016 trong Nghị quyết của Ban
Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Ninh là xây dựng thành phố du lịch Hạ Long. Đây là


9

tiền đề quan trọng trong hành trình phấn đấu xây dựng Quảng Ninh cơ bản trở
thành tỉnh dịch vụ công nghiệp vào năm 2020 theo Nghị quyết Đại hội Đảng bộ
tỉnh lần thứ XIV đã đề ra. Để hiện thực hoá mục tiêu này, Hạ Long đã và đang
nỗ lực thực hiện nhiều giải pháp trên quan điểm phát triển du lịch bền vững, gắn
với việc bảo vệ giá trị tài nguyên và môi trường. Trong đó, giải pháp quan trọng
hàng đầu là huy động sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, cộng đồng dân cư
trên địa bàn cùng tham gia phát triển du lịch; Tiếp tục đổi mới, nâng cao năng

lực quản lý nhà nước đối với hoạt động du lịch, nhất là quản lý hoạt động du lịch
trên Vịnh Hạ Long,… đều phải hướng đến là thành phố du lịch văn minh và hội
nhập quốc tế. Để góp phần xác định vai trò, nội dung quản lý nhà nước đối với
phát triển du lịch tại thành phố Hạ Long, từ đó đề xuất phương hướng và giải
pháp quản lý nhà nước đối với phát triển du lịch tại thành phố Hạ Long, đây là lý
do tác giả luận văn lựa chọn đề tài nghiên cứu “Quản lý nhà nước về phát triển
du lịch tại thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh”.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Từ khi có chủ trương đổi mới của Đảng, cùng với những thành tựu đạt
được trong lĩnh vực kinh tế, hoạt động du lịch cũng có những bước phát triển
toàn diện và giữ được mức tăng trưởng đều đặn qua các năm. Số lượng và chất
lượng phục vụ du lịch ngày càng được nâng cao, mức hưởng thụ các loại hình
thăm quan du lịch bình quân đầu người hàng năm liên tục tăng, từng bước đáp
ứng nhu cầu xã hội. Hoạt động du lịch đã góp phần ổn định chính trị, phát triển
văn hoá và kinh tế - xã hội, nâng cao dân trí, đầu tư chiều sâu cho xã hội, tạo tiền
đề cho sự phát triển đất nước nói chung, thành phố Hạ Long - tỉnh Quảng Ninh
nói riêng. Vì vậy, vấn đề QLNN về du lịch là nhiệm vụ quan trọng trong phát
triển ngành kinh tế. Các nhà khoa học và hoạt động thực tiễn đã quan tâm,
nghiên cứu về quản lý du lịch trên địa bàn ở nhiều góc độ khác nhau:
- Hà Thu Quyên (2014) “Giải pháp tăng cường quản lý nhà nước đối với
phát triển du lịch tại Quảng Ninh”, Luận văn thạc sĩ, Đại học Thương mại. Luận


10

văn đã phân tích thực trạng quản lý nhà nước đối với phát triển du lịch tại Quảng
Ninh trong thời gian từ năm 2010-2015; đề xuất giải pháp và kiến nghị nhằm
tăng cường quản lý nhà nước đối với phát triển du lịch tại Quảng Ninh trong thời
gian tới. Tuy nhiên, tác giả chưa nghiên cứu vấn đề QLNN về du lịch ở một địa
phương cụ thể trong tỉnh Quảng Ninh.

- Nguyễn Thị Thanh Hiền (1995) “Quản lý nhà nước về du lịch trong giai
đoạn phát triển mới của nền kinh tế Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ khoa học kinh
tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Luận văn đã phân tích đặc điểm,
vai trò của ngành du lịch trong giai đoạn đầu phát triển nền kinh tế thị trường
Việt Nam, đánh giá thực trạng QLNN về du lịch nói chung và đề xuất những giải
pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu lực QLNN về du lịch. Tuy nhiên, tác giả
chưa nghiên cứu vấn đề QLNN về du lịch ở một địa phương cụ thể.
Ngoài ra, còn một số bài viết liên quan đến vấn đề phát triển du lịch và
QLNN về du lịch, cụ thể như sau:
- Trần Xuân Ảnh (2007), "Giải pháp tăng cường quản lý nhà nước về thị
trường du lịch", Tạp chí Quản lý nhà nước, số 132.
- Vũ Khoan (2005), “Đưa du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn vào
năm 2010”, Tạp chí Du lịch, số 11.
- Võ Thị Thắng (2001), "Tăng cường quản lý nhà nước để du lịch Việt Nam
phát huy vai trò ngành kinh tế mũi nhọn", Tạp chí Quản lý nhà nước, số 7(66).
- Hoàng Anh Tuấn (2007), “Du lịch Việt Nam - Thành tựu và phát triển”,
Tạp chí Quản lý nhà nước, số 133.
Như vậy, chưa có tác giả nào tiến hành nghiên cứu sâu quản lý nhà nước
về phát triển du lịch trên địa bàn thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh. Do vậy,
việc nghiên cứu đề tài quản lý nhà nước về phát triển du lịch trên địa bàn thành
phố Hạ Long là vấn đề mà thực tiễn đòi hỏi, cần có những nghiên cứu để tìm ra
giải pháp nhằm nâng cao chất lượng quản lý du lịch đáp ứng yêu cầu phát triển
du lịch hiện nay trên địa bàn thành phố Hạ Long trong thời gian tới. Trong quá


11

trình nghiên cứu, Luận văn có tiếp thu và kế thừa các thành quả của các công
trình nghiên cứu đi trước nhằm luận giải những vấn đề thực tiễn đặt ra và hướng
đổi mới quản lý Nhà nước về phát triển du lịch của thành phố Hạ Long.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường quản lý nhà nước về phát triển
du lịch tại thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh đến năm 2020.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về quản lý nhà nước đối với phát triển du lịch.
- Phân tích thực trạng quản lý nhà nước đối với phát triển du lịch tại thành
phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh.
- Đề xuất một số giải pháp tăng cường quản lý nhà nước về phát triển du
lịch tại thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Quản lý nhà nước đối với phát triển du lịch tại
thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về không gian: thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh.
+ Về thời gian: nghiên cứu thực trạng quản lý nhà nước về phát triển du
lịch trong giai đoạn 2010-2015 và đề xuất giải pháp tăng cường quản lý nhà nước
về phát triển du lịch thành phố Hạ Long giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2020.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành đề tài, tác giả sử dụng những phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp.
- Phương pháp phân tích tư liệu và tổng hợp kết quả.
- Phương pháp khảo sát thực tế.
- Phương pháp điều tra, thăm dò ý kiến.
- So sánh, dự báo xu thế phát triển.


12

6. Những đóng góp về mặt khoa học và ý nghĩa thực

tiễn của luận văn
6.1. Về mặt khoa học
Hệ thống hóa cơ sở lý luận về quản lý nhà nước đối với phát triển du lịch.
6.2. Về mặt thực tiễn
Đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về phát triển du lịch tại thành phố
Hạ Long, đề xuất những giải pháp chủ yếu tăng cường quản lý nhà nước về phát
triển du lịch tại thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, danh mục tài liệu tham
khảo và phụ lục, kết cấu của luận văn gồm 03 Chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý nhà nước đối với phát triển du lịch
Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước về phát triển du lịch tại thành
phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về
phát triển du lịch tại thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh


13

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN DU LỊCH
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Du lịch
Hoạt động du lịch đã xuất hiện rất lâu trong lịch sử phát triển của loài
người, song cho đến nay khái niệm du lịch được hiểu khác nhau từ các quốc gia
khác nhau và từ nhiều góc độ khác nhau, như một chuyên gia du lịch đã nhận định
“đối với du lịch, có bao nhiêu tác giả nghiên cứu thì có bấy nhiêu định nghĩa”.
Theo Từ điển Bách khoa Toàn thư Việt Nam, du lịch được hiểu trên hai
khía cạnh: Thứ nhất, du lịch là một dạng nghỉ dưỡng sức, tham quan tích cực của

con người ngoài nơi cư trú với mục đích: nghỉ ngơi, giải trí, xem danh lam thắng
cảnh, di tích lịch sử, công trình văn hóa nghệ thuật. Theo nghĩa này, du lịch được
xem xét ở góc độ cầu, góc độ người đi du lịch. Thứ hai, du lịch là một ngành
kinh doanh tổng hợp có hiệu quả cao về nhiều mặt: nâng cao hiểu biết về thiên
nhiên, truyền thống lịch sử và văn hóa dân tộc, từ đó góp phần làm tăng thêm
tình yêu đất nước; đối với người nước ngoài là tình hữu nghị với dân tộc mình;
về mặt kinh tế du lịch là lĩnh vực kinh doanh mang lại hiệu quả rất lớn; có thể
coi là hình thức xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tại chỗ. Theo nghĩa này, du lịch
được xem xét ở góc độ một ngành kinh tế.
Theo Chương I, Điều 4 của Luật Du lịch Việt Nam: “Du lịch là các hoạt
động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên
của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong
một khoảng thời gian nhất định”
Theo Tổ chức Du lịch Thế giới: “Du lịch bao gồm tất cả những hoạt động
của cá nhân đi, đến và lưu lại ngoài nơi ở thường xuyên trong thời gian không
dài (hơn một năm) với những mục đích khác nhau ngoại trừ mục đích kiếm tiền
hàng ngày”.


14

Trên cơ sở các yếu tố hợp lý của các định nghĩa về du lịch nêu trên, khái
niệm du lịch sử dụng trong luận văn được hiểu là: Du lịch là bao gồm tất cả các
mối quan hệ, các hoạt động liên quan đến chuyến đi và lưu trú của con người ở
ngoài nơi cư trú thường xuyên của họ nhằm đáp ứng nhu cầu tìm hiểu, khám
phá, nghỉ dưỡng, chữa bệnh, giải trí, phát triển thể chất và tinh thần kèm theo
việc tiêu thụ những giá trị về tự nhiên, kinh tế và văn hóa trong một khoảng thời
gian nhất định.
Như vậy, một mặt du lịch mang ý nghĩa thông thường của từ: việc đi lại
của con người với mục đích nghỉ ngơi, giải trí... Mặt khác, du lịch được nhìn

nhận dưới góc độ một hoạt động gắn chặt với những kết quả kinh tế (sản xuất,
tiêu thụ) do chính nó tạo ra.
Ở khía cạnh thứ nhất, trong điều kiện kinh tế phát triển, du lịch là một
hoạt động không thể thiếu được trong cuộc sống bình thường của mỗi người dân.
Ở các chuyến du lịch trong và ngoài nước, con người không chỉ dừng lại ở việc
nghỉ ngơi, giải trí,... mà còn thỏa mãn cả những nhu cầu to lớn về mặt tinh thần.
Ở khía cạnh thứ hai, du lịch là một hiện tượng kinh tế - xã hội thu hút hàng
tỷ người trên thế giới. Bản chất kinh tế của nó là ở chỗ sản xuất và cung cấp hàng
hóa phục vụ việc thỏa mãn nhu cầu vật chất, tinh thần của khách du lịch.
1.1.2. Phát triển du lịch
Phát triển du lịch là sự đáp ứng đầy đủ nhất, tiện nghi nhất các nhu cầu
của khách du lịch, tạo sức hút du khách đến vùng, điểm du lịch ngày nay đồng
thời bảo vệ và nâng chất lượng cho tương lai. Nó được định ra để hướng việc
quản lý toàn bộ các tài nguyên, các điều kiện tự nhiên, môi trường sinh thái và
các điều kiện kinh tế, xã hội, văn hoá kèm theo, theo cách mà chúng ta có thể
thoả mãn các nhu cầu về kinh tế, xã hội và thẩm mỹ, đồng thời duy trì tính toàn
vẹn về văn hoá, các quá trình sinh thái chủ yếu, sự đa dạng sinh học và các hệ
thống duy trì nuôi dưỡng sự sống.
Phát triển du lịch có thể được nhận thức đầy đủ khi nghiên cứu 5 nội dung sau:


15

Thứ nhất, là sự tăng trưởng. Những chỉ tiêu quan trọng nhất thể hiện sự tăng
trưởng là: Mức gia tăng lượng khách du lịch; Mức tăng thu nhập từ du lịch; Mức
tăng quy mô cơ sở vật chất kỹ thuật; số lượng việc làm tăng thêm từ phát triển
du lịch.
Thứ hai, mức độ thay đổi phương thức tiến hành các hoạt động du lịch theo
hướng ngày càng hiện đại và hiệu quả đem lại từ các hoạt động du lịch đó. Cụ
thể là những sản phẩm du lịch, những hướng phát triển hiệu quả có tốc độ phát

triển nhanh, những công nghệ, phương thức phục vụ hiện đại có năng suất cao
được chú trọng phát triển; cơ sở hạ tầng cho phát triển du lịch được đầu tư có
hiệu quả bảo đảm sự phát triển có tính bền vững cao.
Thứ ba, mức độ và chất lượng tham gia của du khách, dân cư và chính quyền
địa phương cũng như các nhà kinh doanh du lịch và quá trình phát triển ngày càng tự
giác, tích cực trên cơ sở tinh thần cộng đồng và sự hài hòa về lợi ích.
Thứ tư, phát triển du lịch hiện tại không làm tổn hại đến khả năng hưởng
thụ du lịch của các thế hệ tương lai.
Thứ năm, phát triển du lịch phải bảo đảm sự hài hoà giữa 3 mục tiêu: kinh
tế - xã hội và môi trường. Về kinh tế, phải bảo đảm duy trì nhịp tăng trưởng theo
thời gian và sự tăng trưởng phải dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động và hiệu
quả cao chứ không phải chỉ dựa trên sự gia tăng của các yếu tố đầu vào. Về mặt
xã hội, ít nhất phải được hiểu trên cơ sở quan điểm toàn diện và bình đẳng giữa
những người, giữa các bên tham gia vào quá trình hoạt động du lịch không phải
chỉ là thu nhập và trên tất cả các phương diện khác. Tiếp đến phải quan tâm đến
sự bình đẳng giữa các thế hệ. Mở rộng cơ hội lựa chọn hưởng thụ các sản phẩm
du lịch của thế hệ hôm nay, nhưng không làm tổn hại đến cơ hội lựa chọn của thế
hệ mai sau. Về mặt môi trường, chứa đựng tư tưởng cơ bản sau: các quyết định
khai thác tài nguyên du lịch đặc biệt là tài nguyên thiên nhiên phải bảo tồn, tái
sinh các hệ sinh thái, bảo đảm chất lượng môi trường cho hiện tại và cho tương
lai; bảo đảm sự phối hợp giữa các hoạt động kinh doanh du lịch với các hoạt
động kinh tế, xã hội khác v.v..


16

1. Phát triển du lịch bền vững, theo quy hoạch, kế hoạch, bảo đảm hài hoà giữa
kinh tế, xã hội và môi trường; phát triển có trọng tâm, trọng điểm theo hướng du
lịch văn hoá - lịch sử, du lịch sinh thái; bảo tồn, tôn tạo, phát huy giá trị của tài
nguyên du lịch.

2. Bảo đảm chủ quyền quốc gia, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
3. Bảo đảm lợi ích quốc gia, lợi ích cộng đồng, lợi ích chính đáng và an
ninh, an toàn cho khách du lịch, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân
kinh doanh du lịch.
4. Bảo đảm sự tham gia của mọi thành phần kinh tế, mọi tầng lớp dân cư
trong phát triển du lịch.
5. Góp phần mở rộng quan hệ đối ngoại và giao lưu quốc tế để quảng bá
hình ảnh đất nước, con người Việt Nam.
6. Phát triển đồng thời du lịch trong nước và du lịch quốc tế, tăng cường thu
hút ngày càng nhiều khách du lịch nước ngoài vào Việt Nam.
1.1.3. Quản lý nhà nước đối với phát triển du lịch
Quản lý nhà nước về du lịch ở một thành phố là thực hiện quản lý nhà nước
đối với một ngành phát triển trong phạm vi địa phương. Do đó, đòi hỏi phải
hướng tới các yêu cầu sau:
- Mục đích của quản lý nhà nước đối với du lịch ở một thành phố là nhằm
cho ngành du lịch ở đây phát triển mạnh mẽ, bền vững. Thị trường du lịch được
mở rộng, thể chế thị trường du lịch được mở rộng, thể chế thị trường được xác lập,
sự vận động của các yếu tố thị trường thông suốt. Sự phát triển du lịch ở địa
phương góp phần đắc lực vào sự phát triển của ngành du lịch của Tỉnh và cả nước.
- Du lịch là một ngành tổng hợp trong tổng thể các lĩnh vực ngành nghề
phát triển tại địa phương sự phát triển của ngành du lịch (với tư cách là một
ngành có lợi thế phát triển ở địa phương) phải là động lực để phát triển kinh tế
chung của thành phố, tạo nên sắc thái riêng của kinh tế địa phương (cơ cấu kinh
tế hợp lý với nhân lõi là ngành du lịch phát triển).


17

- Quản lý nhà nước đối với ngành du lịch trên địa bàn địa phương là nhằm
phát triển ngành, phát triển địa phương, nâng cao phúc lợi địa phương (mức sống,

sự văn minh, công bằng, an ninh, môi trường sinh thái được cải thiện).
1.2. Nội dung quản lý nhà nước về phát triển du lịch
1.2.1. Xây dựng bộ máy quản lý nhà nước về phát triển du lịch và đào
tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực du lịch ở địa phương
1.2.1.1. Xây dựng bộ máy quản lý nhà nước về phát triển du lịch
Quá trình phát triển của du lịch chịu sự tác động của quy luật khách quan
trong nền sản xuất xã hội. Song, hoạt động du lịch không thể thiếu vắng sự quản
lý của nhà nước. Bởi vì, nhà nước là chủ thể đặc biệt trong các mối quan hệ xã
hội, đảm bảo cho các quan hệ xã hội được thực hiện theo hướng ngày một tự do,
bình đẳng hơn. Để đảm bảo cho việc tìm kiếm, hưởng thụ, bảo vệ và tái tạo
những tài nguyên này, nhà nước phải điều phối các thành viên, các nhóm xã hội
khác nhau để họ thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình khi tham gia hoạt động
du lịch với tư cách là một chủ thể (người bán, người mua và người trung gian).
Ngoài ra, bộ máy tổ chức và đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước cũng có ảnh
hưởng lớn đến sự phát triển du lịch. Thực tiễn cho thấy, nếu một quốc gia, một
vùng, một địa phương nào đó xây dựng được đội ngũ cán bộ quản lý có chuyên
môn nghiệp vụ về du lịch, có trình độ ngoại ngữ tốt, am hiểu luật pháp quốc tế về
du lịch, sử dụng thành thạo các thiết bị thông tin, điện tử... cộng với tổ chức bộ máy
quản lý nhà nước đối với hoạt động du lịch thống nhất, đồng bộ thì sẽ thúc đẩy du
lịch phát triển nhanh. Ngược lại, sẽ làm cho du lịch chậm phát triển, thậm chí
không phát triển và sử dụng lãng phí tài nguyên du lịch.
Để hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nước về du lịch, ngày 13/3/2014, Thủ
tướng Chính phủ ban hành Quyết định 23/2014/QĐ-TTg về chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Tổng cục Du lịch trực thuộc Bộ Văn hóa,
Thể thao và Du lịch. Theo Quyết định này, Tổng cục Du lịch thực hiện chức
năng tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quản lý nhà


18


nước và tổ chức thực thi pháp luật về du lịch trong phạm vi cả nước, quản lý các
dịch vụ công về du lịch theo quy định của pháp luật. Từ chức năng đó, Tổng cục
Du lịch có cơ cấu tổ chức gồm 6 Vụ, Văn phòng; Viện nghiên cứu phát triển du
lịch; Tạp chí du lịch; Báo Du lịch; Trung tâm thông tin du lịch.
Cơ quan tham mưu cho Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh trong quản lý
nhà nước về du lịch là Sở Du lịch, được thành lập theo Quyết định số
1270/2016/QĐ-UBND ngày 28-4-2016 của Chủ tịch UBND tỉnh với bộ máy
gồm Giám đốc và không quá 03 Phó Giám đốc cùng các phòng chuyên môn,
nghiệp vụ: Văn phòng; Thanh tra; Quản lý Lữ hành; Quản lý cơ sở lưu trú và
dịch vụ du lịch; Kế hoạch – Phát triển tài nguyên du lịch. Sở Du lịch tỉnh Quảng
Ninh tham mưu, giúp UBND tỉnh thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về du
lịch; quản lý Nhà nước các dịch vụ công thuộc lĩnh vực du lịch trong phạm vi
quản lý của Sở; chịu sự chỉ đạo, quản lý về tổ chức, biên chế và công tác của
UBND tỉnh.
Cơ quan tham mưu quản lý nhà nước cấp thị xã, thành phố, huyện là
Phòng Văn hóa và Thông tin, với biên chế một đến hai chuyên viên phụ trách
công tác du lịch.
Các cơ chế chính sách phát triển du lịch được bổ sung, tạo môi trường cho
du lịch hoạt động thông thoáng. Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Quảng
Ninh đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 đã được UBND tỉnh phê duyệt; quy
hoạch các vùng du lịch và các trọng điểm du lịch đã được xây dựng; tạo điều
kiện để đẩy mạnh quản lý du lịch và xây dựng các dự án đầu tư. Các dự án quy
hoạch chi tiết du lịch đang được khẩn trương thực hiện, tạo điều kiện thu hút vốn
đầu tư trong nước và nước ngoài, góp phần quản lý, khai thác tài nguyên du lịch
ngày một hiệu quả.
Chính sách, thể chế tạo nền tảng thúc đẩy du lịch phát triển đã được hình
thành và đổi mới phù hợp với điều kiện và xu hướng phát triển du lịch thế giới.
Luật Du lịch năm 2005 là khung pháp lý cao nhất, bước ngoặt quan trọng, khẳng



19

định vai trò của Ngành và thể chế hoá đường lối phát triển du lịch của Đảng và
Nhà nước; tạo điều kiện cho hoạt động du lịch phát triển đi vào nề nếp và có
định hướng, mục tiêu rõ ràng. Các nghị định, thông tư hướng dẫn thực hiện Pháp
lệnh Du lịch về các lĩnh vực quản lý chi nhánh, văn phòng đại diện du lịch ở
trong và ngoài nước; lữ hành, hướng dẫn du lịch; lưu trú; thanh tra du lịch; xử
phạt hành chính; quản lý môi trường du lịch… đã được ban hành và thực hiện có
hiệu quả. Các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến du lịch như Pháp lệnh
xuất, nhập cảnh, cư trú, đi lại cho người Việt Nam; cho người nước ngoài và các
văn bản liên quan khác được bổ sung; thủ tục hải quan được cải tiến thuận tiện
hơn cho khách và các nhà đầu tư. Việc miễn thị thực song phương cho công dân
các nước ASEAN và đơn phương cho công dân Nhật Bản, Hàn Quốc, 4 nước
Bắc Âu, Nga và miễn lệ phí visa trong khuôn khổ Chương trình Ấn tượng Việt
Nam, đang nghiên cứu xem xét đơn phương miễn thị thực cho công dân một số
thị trường du lịch trọng điểm khác… là giải pháp chủ động, tích cực trong bối
cảnh suy giảm kinh tế và dịch bệnh hiện nay để thu hút khách và các nhà đầu tư.
1.2.1.1. Đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực du lịch ở địa phương
Nhằm xây dựng được nguồn nhân lực du lịch đủ về số lượng, cơ cấu hợp lý
và đạt tiêu chuẩn về chất lượng, đáp ứng được yêu cầu, mục tiêu phát triển du lịch
của khu vực trong giai đoạn tới và sử dụng được nguồn nhân lực nhàn rỗi trong
cộng đồng dân cư địa phương để phục vụ cho ngành du lịch, cần phải thực hiện
các vấn đề sau:
Một là: Tăng cường các hoạt động tuyên truyền giáo dục để nâng cao nhận
thức mỗi người dân, đặc biệt là học sinh phổ thông trung học về đặc điểm của các
ngành nghề du lịch, nhấn mạnh các ưu thế (Có cơ hội giao tiếp rộng, tiếp cận được
văn hóa của nhiều nước, công việc không đơn điệu...) đồng thời chỉ rõ những khó
khăn, thử thách của nghề nghiệp (Làm việc vào các ngày, giờ nghỉ, cường độ làm
việc...). Hoạt động tuyên truyền, giáo dục này nhằm vào mục tiêu định hướng cho
việc lựa chọn đúng nghề, khuyến khích lòng yêu nghề, khắc phục các tư tưởng,

suy nghĩ lệch lạc hiện có về nghề nghiệp như: nghề du lịch là nghề "nhàn nhã",


20

hoặc nghề du lịch cận kề với "tệ nạn mại dâm", hoặc nghề du lịch không cần đào
tạo cũng có thể làm được, hoặc nghề du lịch rất vất vả, lương thấp.
Hai là: Tổ chức thường xuyên các lớp bồi dưỡng kiến thức về quản lý và
văn hóa kinh doanh du lịch cho tất cả đội ngũ lao động du lịch trên địa bàn. Vì
thực tế cho thấy, có khá nhiều nhà quản lý du lịch có kiến thức khác với quản lý
du lịch, thậm chí chưa có kiến thức quản lý, do điều kiện kinh doanh, đầu tư
hoặc các điều kiện khác mà trở thành nhà quản lý du lịch.
Ba là: Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng tại chỗ và đào tạo lại về nghiệp vụ, kỹ
năng chuyên môn du lịch, ngoại ngữ cho đội ngũ lao động du lịch là hộ kinh
doanh cá thể, người dân địa phương tham gia kinh doanh du lịch, các lực lượng
đang lao động trong các đơn vị du lịch trên địa bàn và các nhà quản lý du lịch.
Cụ thể:
- Coi trọng việc đào tạo ngắn hạn thích ứng với hoạt động du lịch cộng
đồng. Đối tượng là con em của địa phương vừa lao động ngành nghề khác vừa
có thể hướng dẫn khách du lịch tham quan hoặc phục vụ lưu trú, ăn uống… Đối
với các khoá học này cần nghiên cứu hình thành các chương trình, tài liệu du lịch
phù hợp ðể giảng dạy nhý kèm cặp, bắt tay chỉ việc, những ngýời giỏi truyền
nghề cho ngýời mới, ngýời chýa có kinh nghiệm trong từng công việc cụ thể sao
cho thành thạo dần. Nội dung bồi dýỡng phải thiết thực và cập nhật cả kỹ nãng
nghiệp vụ, trang thiết bị.
- Tổ chức các khóa học về quản lý doanh nghiệp nhỏ và kinh tế gia đình cho
chủ doanh nghiệp, chủ hộ có tham gia kinh doanh du lịch trên địa bàn góp phần
tạo một nét mới về kinh tế dịch vụ trong nông nghiệp, nông thôn, làm chuyển biến
đời sống văn hóa và cải thiện đời sống vật chất của nhân dân ở các điểm đến của
khách du lịch.

- Tổ chức các khoá học ngắn hạn tại chỗ vừa đào tạo kỹ năng phục vụ, vừa
xây dựng ý thức bảo vệ môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm và an ninh, an
toàn trong phục vụ du lịch. Hướng dẫn việc tổ chức các loại dịch vụ phù hợp với
đặc điểm sản xuất sinh hoạt của dân cư như chèo thuyền, làm hàng thủ công, cấy


21

ghép cây ăn trái, trồng tỉa cây bonsai tạo nên nét sinh động phù hợp với nhu cầu
khám phá, hòa nhập cộng đồng của du khách ở các địa điểm tham quan du lịch.
- Mời các chuyên gia, giảng viên du lịch, kinh doanh dịch vụ đến các khu
du lịch (do các doanh nghiệp kết hợp với các hộ gia đình cùng thực hiện) hoặc
đến các hộ gia đình có điều kiện tổ chức điểm tham quan du lịch tìm hiểu để xây
dựng nội dung chương trình đào tạo cho phù hợp với đặc điểm địa hình, sinh
hoạt dân cư và hoạt động kinh tế nông nghiệp ở các địa phương.
- Riêng đào tạo ngoại ngữ, các cơ sở kinh doanh du lịch phải hướng tới việc
đào tạo và sử dụng nhân lực lâu dài để có kế hoạch đầu tư và cho cá nhân tự đầu
tư thời gian học ngoại ngữ.
- Có thể thực hiện đào tạo theo quy mô số đông thành lớp tập trung trong một thời
gian hoặc tổ chức lớp học theo từng mô-đun chia thành nhiều đợt ngắt quãng.
Bốn là, bên cạnh việc đào tạo nghiệp vụ ngoại ngữ, cần chú ý đến cung cấp
kiến thức về môi trường sinh thái như: cảnh quan tự nhiên, các giá trị du lịch
sinh thái, hiểm họa môi trường sinh thái với phát triển kinh tế - xã hội, phát triển
du lịch, xã hội hóa du lịch... Các kiến thức về nhu cầu, sở thích, thói quen, tập
quán giao tiếp ứng xử của khách du lịch (cả khách quốc tế và khách nội đia). Từ
đó, các điểm du lịch, các cơ sở du lịch sẽ được khuyến khích khả năng sáng tạo,
cho ra đời những dịch vụ du lịch phù hợp nhất, đồng thời khai thác có hiệu quả
tiềm năng du lịch của địa phương. Chẳng hạn việc tổ chức các tour xuyên rừng
(trekking tour), qua sông và làng bản,…góp phần khai thác tiềm năng du lịch,
vừa khuyến khích sự tham gia của dân cư địa phương, vừa giúp du khách thỏa

mãn nhu cầu.
Năm là, cần tổ chức các lớp bồi dưỡng ngắn ngày cho những lao động thời
vụ vốn là dân cư địa phương. Bởi đây là lực lượng không thuần nhất, không có
kỹ năng, nghiệp vụ chuyên môn. Họ được tham gia vào phục vụ trong một số
công việc lao động đơn giản phụ trợ cho các hoạt động du lịch. Tất cả họ cần
được trang bị kiến thức cơ bản về giao tiếp ứng xử, kỹ năng bán hàng, vệ sinh


22

môi trường, tiếp thị du lịch…. Có như vậy, du lịch mới phát triển bền vững góp
phần phát triển kinh tế - xã hội địa phương.
1.2.2. Xây dựng chiến lược và quy hoạch phát triển du lịch
- Xây dựng chiến lược phát triển du lịch: Chiến lược đề ra với những nội
dung chủ yếu quan điểm, mục tiêu, giải pháp và chương trình hành động cụ thể.
Quan điểm của ngành là phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn,
chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong cơ cấu GDP, tạo động lực thúc đẩy phát triển
kinh tế - xã hội; theo hướng chuyên nghiệp, có trọng tâm; phát triển song song
du lịch nội địa và du lịch quốc tế, gắn chặt với việc bảo tồn và phát huy các giá
trị văn hóa dân tộc, đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa, tập chung huy động mọi
nguồn lực cả trong và ngoài nước cho sự phát triển du lịch.
Để đạt được những mục tiêu đề ra ngành du lịch phải có những giải pháp
kịp thời như: Phát triển sản phẩm du lịch; đầu tư hệ thống hạ tầng, cơ sở vật chất
kỹ thuật phục vụ du lịch đi đôi với đào tạo và phát triển nguồn nhân lực; phát
triển thị trường xúc tiến quảng bá thương hiệu, gắn liền với đầu tư và chính sách
phát triển đồng thời tích cực triển khai thực hiện hợp tác quốc tế về du lịch, hoàn
thiện thể chế, cơ chế, chính sách và liên quan đến du lịch.
- Nội dung quy hoạch tổng thể phát triển du lịch gồm:
+ Xác đinh vị trí, vai trò và lợi thế của du lịch trong quá trình phát triển
KT- XH của địa phương, vùng quốc gia, quốc gia.

+ Phân tích, đánh giá tiềm năng, hiện trạng tài nguyên du lịch, thị trường
du lịch, các nguồn lực phát triển du lịch.
+ Xác định các quan điểm, mục tiêu, tính chất, quy mô phát triển cho khu
vực quy hoạch; dự báo các chỉ tiêu và luận chứng các phương án phát triển du lịch.
+ Tổ chức không gian du lịch; kết cấu hạ tầng, cơ sở vật chất- kỹ thuật du lịch.
+ Xác định danh mục các khu vực, các dự án ưu tiên đầu tư; nhu cầu sử
dụng đất, vốn đầu tư, nguồn nhân lực cho du lịch.


23

+ Đánh giá tác động môi trường, các giải pháp bảo vệ tài nguyên du lịch
và môi trường.
+ Đề xuất cơ chế, chính sách, giải pháp quản lý, phát triển du lịch theo
quy hoạch.
- Nội dung quy hoạch cụ thể:
+ Phân khu chức năng; bố trí mặt bằng, công trình kết cấu hạ tầng, cơ sở
vật chất kỹ thuật du lịch; phương án sử dụng đất.
+ Xác định danh mục các dự án đầu tư và tiến độ đầu tư.
+ Phân tích hiệu quả kinh tế, xã hội môi trường.
+ Đề xuất biện pháp để quản lý, thực hiện quy hoạch.
1.2.3. Xây dựng chính sách và kế hoạch phát triển du lịch
Chính sách pháp luật, bản thân nó mới chỉ là những quy định của nhà
nước, là ý chí của nhà nước bắt mọi chủ thể khác (trong đó có chính bản thân
nhà nước) phải phục tùng. Tuy nhiên, trên thực tế, sự phục tùng ý chí của nhà
nước phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố: sự hiểu biết pháp luật và sự tự giác thực
hiện các quy định pháp luật của đối tượng bị quản lý; sự có trách nhiệm của các
cơ quan nhà nước trong việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật đến nhân dân; sự
gương mẫu và có trách nhiệm, đúng phận sự của nhà chức trách khi thi hành
công vụ... Vì vậy, vấn đề quan trọng mang tính quyết định của quản lý nhà nước

bằng pháp luật trong lĩnh vực du lịch là: Nhà nước, bằng những khả năng vốn có
của mình, hãy bằng mọi cách làm cho pháp luật đi vào đời sống. Pháp luật, chỉ
phát huy hiệu quả khi nó có cơ hội được thực hiện trên thực tế, để Nhà nước
quản lý hoạt động du lịch; bằng không, nó chỉ là những quy định sáo rỗng, vô
cảm. Trong trường hợp đó, bản thân hoạt động du lịch sẽ không cần đến pháp
luật, và Nhà nước dù có mạnh đến đâu cũng chẳng thể kiểm soát được mọi hoạt
động diễn ra trong lĩnh vực du lịch. Do vậy, việc tổ chức để đưa pháp luật đi vào
đời sống cũng chính là chức năng vốn có của quản lý nhà nước về du lịch, là nội
dung quan trọng của quản lý nhà nước bằng pháp luật trong lĩnh vực du lịch.


24

Trong điều kiện hiện nay, việc tổ chức thực hiện pháp luật trong lĩnh vực du lịch
bao gồm những nội dung sau đây:
Một là, coi trọng công tác tuyên tuyền, phổ biến, giáo dục pháp luật
Một trong những chức năng cơ bản của pháp luật là chức năng giáo dục.
Chức năng giáo dục của pháp luật được thực hiện thông qua sự tác động của pháp
luật vào ý thức con người, làm cho con người hành động phù hợp với cách xử sự
thể hiện trong quy phạm pháp luật. Vì vậy, việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục
pháp luật sẽ tác động đến ý thức của con người, làm cho con người nhận thức
được rằng: cần phải xử sự như thế nào khi ở vào những hoàn cảnh mà pháp luật đã
mô tả và nếu không xử sự như thế thì phải chịu những hậu quả bất lợi như thế nào.
Trên cơ sở đó, hướng con người đến những hành vi xử sự phù hợp với quy định
của pháp luật, phù hợp với cách thức mà Nhà nước mong muốn.
Các quan hệ trong lĩnh vực du lịch trong nền kinh tế thị trường diễn ra hết
sức đa dạng, đòi hỏi Nhà nước cũng phải ban hành một hệ thống pháp luật tương
ứng để quản lý. Thực tế cho thấy, với số lượng các văn bản pháp luật đã được
ban hành và đang tiếp tục được ban hành nhằm điều chỉnh hoạt động du lịch thì
việc tạo điều kiện để các cơ quan nhà nước, các tổ chức, những người tham gia

hoạt động du lịch và mọi công dân biết được đầy đủ thông tin pháp luật là việc
làm cần thiết, dù khó khăn, tốn kém đến đâu. Bởi, sự hiểu biết pháp luật là một
trong những yếu tố đầu tiên, quyết định hành vi xử sự của các chủ thể pháp luật.
Hai là, đảm bảo sự tuân thủ, thi hành, sử dụng và áp dụng
pháp luật đúng đắn
Tuân thủ pháp luật là tự kiềm chế, không thực hiện những hành vi pháp
luật cấm; thi hành pháp luật là thực hiện các nghĩa vụ pháp lý; sử dụng pháp luật
là thực hiện các quyền mà pháp luật cho phép; còn áp dụng pháp luật là đặc
quyền của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà chức trách được pháp luật
giao quyền. Vì vậy, việc tổ chức thực hiện pháp luật trong trường hợp này phải


25

đảm bảo nguyên tắc: “Nhà nước chỉ được làm những gì pháp luật quy định”; còn
“Công dân thì được làm tất cả những gì pháp luật không cấm”.
Trong nền kinh tế thị trường, khi nguyên tắc tự do kinh doanh, tự do đi lại...
đã trở thành quyền cơ bản của công dân được pháp luật công nhận thì vấn đề quan
trọng là, nhà nước phải tạo điều kiện thuận lợi để trên thực tế những nguyên tắc
này được thực hiện một cách dễ dàng, không chỉ là những quy định trên giấy mà
còn là những việc làm cụ thể của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền như cơ
quan cấp phép đăng ký kinh doanh, cơ quan cấp phép xuất, nhập cảnh...
Ba là, tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật
QLNN trong lĩnh vực du lịch là sự tác động có tổ chức, có hệ thống bằng
pháp luật, nhằm điều chỉnh có hiệu lực, hiệu quả hoạt động du lịch theo ý chí của
nhà nước. Trong quá trình tác động, điều chỉnh bằng pháp luật, nhà nước phải
thường xuyên tiến hành công tác kiểm tra, giám sát nhằm loại trừ những hành vi
bất hợp pháp ra khỏi đời sống kinh tế - xã hội. Có thể hiểu công tác kiểm tra,
giám sát việc thực hiện pháp luật là một khâu nằm trong quản lý nhà nước về
lĩnh vực du lịch, thiếu khâu này hoạt động quản lý sẽ kém hiệu lực, hiệu quả.

Thông qua công tác kiểm tra, giám sát nhằm phát hiện những sai sót trong quá
trình thực hiện pháp luật để kịp thời khắc phục những tiêu cực; đồng thời cũng
thông qua công tác kiểm tra, giám sát để phát hiện những quy định pháp luật
không phù hợp, từ đó có kế hoạch sửa chữa, bổ sung kịp thời.
1.2.4. Tổ chức thực hiện chính sách và kế hoạch phát triển du lịch
Sau khi xây dựng chính sách và kế hoạch phát triển du lịch, địa phương
căn cứ chức năng, nhiệm vụ, chủ động phối hợp với các sở, ngành, đơn vị triển
khai tổ chức thực hiện thành công chính sách và kế hoạch phát triển du lịch.
Khuyến khích thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia đầu tư phát
triển du lịch, đồng thời đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính để tháo gỡ những
khó khăn vướng mắc của các nhà đầu tư trong việc giao đất, thuê đất đầu tư phát
triển du lịch, nhất là sản phẩm du lịch mới, đặc thù hấp dẫn.


×