Tải bản đầy đủ (.pdf) (3 trang)

Thần học là ngành nghiên cứu về thiên chúa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (104.97 KB, 3 trang )

ần học là ngành nghiên cứu về iên chúa
kinh nghiệm và khái niệm, sử dụng những điều đó để
đi tìm bằng chứng cho việc các hữu thể tồn tại và phát
triển như thế nào, cuối cùng là đi đến việc khám phá
những điều huyền bí.
Các thần học gia sử dụng nhiều hình thức phân tích và
lý lẽ (kinh nghiệm, triết học, nhân chủng học, lịch sử)
để tìm hiểu, giải thích, kiểm tra, phê bình, bảo vệ hay
phát triển bất cứ chủ đề thần học nào. Trong triết học
đạo đức và luật tố tụng, các tranh luận thường thừa
nhận sự tồn tại của những vấn đề đã được giải quyết
trước đó, các tranh luận được nâng cao bởi việc tạo ra
những so sánh giữa chúng để dẫn đến những suy luận
mới trong những hoàn cảnh mới.
Bản chất của thần học là tìm hiểu, suy tư về các vấn đề
siêu nhiên và thiêng liêng bằng phương diện đức tin.
Bất cứ thắc mắc hay câu hỏi có liên quan đến những
điều thiêng liêng như thần linh, ma quỷ, thiên đàng,
hỏa ngục,… đều liên quan đến thần học. Việc nghiên
cứu thần học giúp các thần học gia hiểu biết sâu sắc về
truyền thống tôn giáo của họ, truyền thống các tôn giáo
khác, tư tưởng thần học chứa đựng trong thần thoại các
tộc người, nó có thể giúp các thần học gia khám phá sự
tự nhiên của thần học ngoài các suy luận tới truyền
thống riêng biệt. ần học có thể được sử dụng để lưu
truyền, phục dựng, biện minh cho 1 truyền thống tôn
giáo hoặc nó có thể được dùng để so sánh, thách thức
hay chống lại 1 truyền thống tôn giáo. ần học cũng
có thể giúp các thần học gia chuyển tải những tình
huống hiện thời hay điều cần thiết qua 1 truyền thống
tôn giáo, hoặc tìm ra những cách thức có thể để lý giải


thế giới.

Thánh Alberto Cả

ần học là ngành nghiên cứu về iên chúa, hay rộng
hơn là về niềm tin tôn giáo, thực hành và trải nghiệm
tôn giáo, về linh hồn. ần học giúp các nhà thần học
hiểu rõ hơn về truyền thống tôn giáo của chính mình,[1]
về các truyền thống tôn giáo khác,[2] cũng như so sánh
giữa các truyền thống tôn giáo khác nhau,[3] … ần
học, nguyên nghĩa trong tiếng La Tinh là eologia,
ghép 2 từ trong tiếng Hy Lạp là eos (nghĩa là thần
linh) và logos (nghĩa là lời); vậy eologia là môn học
nghiên cứu về những lời, lý lẽ phù hợp với iên Chúa.
Ngày nay, thần học được giảng dạy trong các chủng
Xét theo tôn giáo thì có thần học Do ái giáo, thần
viện, trường dòng, học viện, đại học của các tôn giáo.
học Ki-tô giáo, thần học Hồi giáo, thần học Ấn Độ giáo.
Định nghĩa
Trong thần học Ki-tô giáo có thần học Công giáo, thần
Cũng có nhiều định nghĩa khác nhau về thần học. học Tin Lành, thần học Chính ống giáo, thần học
ánh Augustine định nghĩa thần học là những tranh Anh giáo. Những suy tư về thần linh của các triết gia
luận, lập luận liên quan đến iên Chúa. Richchard Hy Lạp cổ đại cũng có thể coi là suy tư thần học.
Hooker thì cho rằng thần học là khoa học về những
điều thiêng liêng. ần học bắt đầu với giả thuyết cho
rằng sự thiêng liêng hiện hữu trong 1 số hình thái như
vật lý, siêu nhiên, tâm lý hay các thực thể xã hội; đó
là những sự hiển nhiên xảy ra trong cuộc sống khi con
người trải nghiệm về tôn giáo, tâm linh hay trong các
ghi chép lịch sử về các trải nghiệm như thế trong suốt

dòng lịch sử con người. Việc nghiên cứu các giả thuyết
này không phải là 1 phần của các chuyên ngành thần
học riêng biệt nhưng được tìm thấy trong triết học tôn
giáo, tâm lý tôn giáo và thần kinh học. Với tư cách là 1
khoa học, thần học nhắm tới thiết lập và đào sâu những

ần học của các tôn giáo
Ấn Độ giáo
Trong triết học Ấn Độ giáo, có 1 truyền thống cổ xưa
và vững chắc trong việc suy đoán triết học về tự nhiên
của vũ trụ, của ượng Đế (sử dụng các thuật ngữ
Brahman, Paramatma hay Bhagavan), của Atman (linh
hồn). Ngôn từ Sankrit được sử dụng trong nhiều trường
phái triết học Ấn Độ giáo là Darshana, có nghĩa là quan
điểm. ần học Vaishnava có 1 lĩnh vực nghiên cứu cho
nhiều tín đồ sùng đạo, các triết gia, các nhà thông thái
trong nhiều thế kỷ. Một bộ phận lớn của việc nghiên
1


2
cứu này nằm trong việc sắp xếp và cấu hình sự biểu lộ
của hàng ngàn các vị thần cùng những đặc trưng của
họ. Trong những thập kỷ gần đây, lĩnh vực nghiên cứu
này được đảm nhận bởi những tổ chức hàn lâm ở châu
Âu, ví dụ như Trung tâm nghiên cứu Ấn Độ giáo của
đại học Oxford, trường cao đẳng Bhaktivedanta,…
Do ái giáo
Trong thần học Do ái giáo, sự thiếu vắng mang tính
lịch sử của quyền lực chính trị có ý nghĩa rằng sự phản

chiếu mang tính thần học nhất đã hiện diện trong bối
cảnh của cộng đoàn và hội đường Do thái giáo, hơn là
trong các tổ chức hàn lâm đặc thù, bao gồm các tranh
luận về giáo lý của các Rabbi (các thầy tư tế và luật
sĩ Do ái giáo) trong luật Do ái và các lời chú giải
Kinh ánh Do ái. Về mặt lịch sử, nó rất hiệu quả, có
ý nghĩa cao lớn đối với thần học Ki-tô giáo và Hồi giáo
và có tính chất tốt đẹp đối với thần học Do ái giáo.
Ki-tô giáo
ần học Ki-tô giáo là việc nghiên cứu niềm tin và thực
hành đức tin Ki-tô giáo. Việc nghiên cứu như vậy trước
hết tập trung vào các bản văn Cựu Ước và Tân Ước
cúng như truyền thống Ki-tô giáo. Các nhà thần học
Ki-tô giáo sử dụng các lời giải thích Kinh ánh, các
phân tích và tranh luận hợp lý. ần học cũng có thể
được thực hiện để giúp các nhà thần học hiểu rõ hơn
các giáo lý Ki-tô giáo, để tạo nên sự so sánh giữa Ki-tô
giáo với các truyền thống khác, để bảo vệ Ki-tô giáo
trước những lời phản đối và phê bình, để làm dễ dàng
hơn cho các sửa đổi bên trong Ki-tô giáo, để hỗ trợ cho
việc rao giảng Ki-tô giáo, để đưa những cách thức của
truyền thống Ki-tô giáo nhằm chuyển tải những tình
huống hiện thời hay cần thiết, hoặc nhiều lý do khác.
ần học Ki-tô giáo sở hữu 1 nền tảng vô cùng vững
chắc, đó là triết học Hy Lạp. Khi Ki-tô giáo vượt ra ngoài
biên giới của đất nước Do ái để vươn đến những vùng
đất mới, Ki-tô giáo đã đối mặt với triết học Hy Lạp.
Để rao giảng thành công tín lý Ki-tô giáo cũng như để
thuyết phục người ngoại giáo đến với giáo hội, các giáo
phụ thời kỳ đầu đã can đảm sử dụng triết học Hy Lạp để

giải thích các mầu nhiệm Ki-tô giáo. Triết học Hy Lạp
cung cấp các thuật ngữ, triết lý để các nhà tư tưởng Kitô giáo trình bày thần học; ví dụ khái niệm Logos của
Heraclitus và thuyết ý niệm của Plato đã được sử dụng
để giải thích mầu nhiệm nhập thể của Ngôi Lời. Do đó,
triết học Hy Lạp đã trở thành nữ tỳ phục vụ nữ hoàng
thần học Ki-tô giáo.
ần học Ki-tô giáo có nhiều chuyên ngành như thần
học mạc khải, thần học ánh Kinh, thần học luân lý,
thần học tu đức, thần học hệ thống, thần học Chúa Ba
Ngôi, thần học về Đức Ki-tô, thần học về giáo hội,… và
có nhiều thần học gia nổi tiếng như thánh Augustine,
thánh Albert Cả, thánh omas Aquinas,…
Tuy thần học Ki-tô giáo có nhiều chuyên ngành nhưng
để suy tư thần học, bắt buộc phải dựa vào Kinh ánh
cũng như tư tưởng của các giáo phụ.

1

CHÚ THÍCH

Hồi giáo
Sự tranh luận về thần học Hồi giáo song hành với tranh
luận thần học Ki-tô giáo được gọi là “Kalam”, thuật
ngữ này xuất hiện vào thời Trung cổ và “Kalam” được
xem là thần học kinh viện của Hồi giáo. Những điểm
tương tự về Hồi giáo trong các tranh luận thần học Kitô giáo sẽ trở nên những nghiên cứu và chi tiết đặc thù
hơn trong bộ luật Sharia hay Fiqh (sự hiểu biết về các
hướng dẫn hợp lý trong Hồi giáo). ần học Hồi giáo đa
dạng với nhiều trường phái tư tưởng như Sunni, Shia,
Kharijites; những trường phái này ra đời vào những

thế kỷ đầu của Hồi giáo, sau này có trường phái Sufi
chuyên nghiên cứu về những điều huyền nhiệm, có 1
nhà tư tưởng vô cùng nổi tiếng đi theo trường phái này,
đó là Abu Hamid Muhammad al-Ghazali. Tuy có những
khác biệt về tư tưởng, các trường phái nói trên đều tập
trung vào tín lý Hồi giáo (Aqidah).
Cũng giống như thần học Ki-tô giáo, thần học Hồi giáo
đưa ra những suy tư dựa trên ánh Kinh ran. ần
học Hồi giáo cũng từng lấy triết học Hy Lạp làm nền
tảng, tuy nhiên đã có 1 số nhà tư tưởng Hồi giáo quá
chú trọng đức tin (nguồn tri thức thần học) hơn lý trí
(nguồn tri thức triết học) nên tư tưởng Hồi giáo đã đi
xa con đường lý trí.

1 Chú thích
[1] See, e.g., Daniel L. Migliore, Faith Seeking
Understanding: An Introduction to Christian eology.
2nd ed.(Grand Rapids: Eerdmans, 2004).
[2] See, e.g., Michael S. Kogan, “Toward a Jewish eology
of Christianity” in e Journal of Ecumenical Studies.
32.1 (Winter 1995), 89–106; available online at www.
icjs.org/scholars/kogan.html.
[3] See, e.g., David Burrell, Freedom and Creation in ree
Traditions. (Notre Dame: University of Notre Dame
Press, 1994).


3

2


Nguồn, người đóng góp, và giấy phép cho văn bản và hình ảnh

2.1

Văn bản

• ần học Nguồn: Người đóng góp: TXiKiBoT,
Langtucodoc, Callidior, Luckas-bot, Xqbot, angbao, KamikazeBot, TjBot, TuHan-Bot, EmausBot, ZéroBot, ChuispastonBot,
WikitanvirBot, Cheers!-bot, MerlIwBot, Vagobot, TuanUt, AlphamaBot2, Addbot, Sumohuy, Tran trubg và 5 người vô danh

2.2

Hình ảnh

• Tập_tin:AlbertusMagnus.jpg Nguồn: Giấy phép: Public
domain Người đóng góp: First uploaded by sv:Användare:Lamré to Swedish Wikipedia as sv:Bild:AlbertusMagnus.jpg Nghệ sĩ đầu tiên:
Tommaso da Modena
• Tập_tin:Wikiquote-logo.svg Nguồn: Giấy phép: Public
domain Người đóng góp: Tác phẩm do chính người tải lên tạo ra Nghệ sĩ đầu tiên: Rei-artur
• Tập_tin:Wiktionary_small.svg Nguồn: Giấy phép: CC
BY-SA 3.0 Người đóng góp: ? Nghệ sĩ đầu tiên: ?

2.3

Giấy phép nội dung

• Creative Commons Aribution-Share Alike 3.0




×