Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

BỘ TÀI LIỆU ÔN LUYỆN THPTQG MÔN NGỮ VĂN PHẦN 6 KÈM VIDEO BÀI GIẢNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (9.52 MB, 76 trang )

KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI

VỢ CHỒNG A PHỦ - TÔ HOÀI (TIẾT 1)

Lời mở: Chúng ta từng biết đến người con của dòng sông Tô, phủ Hoài Đức qua những trang văn
nổi tiếng trong Dế mèn phiêu lưu kí hay những bức tranh hiền lành vùng dệt lĩnh ven đô- không gian
nghệ thuật quen thuộc trong sáng tác của nhà văn Tô Hoài. Nếu như trước cách mạng, ông nổi tiếng
với những tác phẩm viết cho thiếu nhi, thì sau Cách mạng tháng Tám, người ta lại biết đến Tô Hoài
nhiều hơn qua những tác phẩm đặc sắc viết về vùng cao trong tập Truyện Tây Bắc mà nổi tiếng nhất
có lẽ phải kể đến tác phẩm: Vợ chồng A Phủ- tác phẩm được giải Nhất về văn xuôi (1954-1955).
I. Tìm hiểu chung
1. Tác giả
1.1. Cuộc đời
Nhà văn Tô Hoài (1920 - 2014) tên thật là Nguyễn Sen, sinh tại quê nội Thanh Oai, Q.Hà Đông, Hà
Nội, và lớn lên tại quê ngoại thị trấn Nghĩa Đô, Từ Liêm, Hà Nội.
- Tô Hoài là một trong những nhà văn sáng lập ra Hội Nhà văn Việt Nam, là chủ tịch đầu tiên của
Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Hà Nội.
- Các giải thưởng tiêu biểu của ông: Giải nhất tiểu thuyết với tác phẩm Truyện Tây Bắc của Hội Văn
nghệ Việt Nam năm 1956, giải A với tiểu thuyết Quê nhà giải thưởng Hội Văn nghệ Hà Nội năm
1967, giải thưởng Hoa Sen của Hội Nhà văn Á Phi với tiểu thuyết Miền Tây năm 1970... Ông được
trao Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học - nghệ thuật đợt 1 năm 1996.
- Chỉ được học hết bậc Tiểu học, phải làm nhiều nghề để kiếm sống trước khi cầm bút (liên hệ các
tác giả: Macxim Gorki (Nga), Nguyên Hồng, Kim Lân (Việt Nam) để thấy vai trò của “trường đời”
và tự học đối với sự thành công của các nghệ sĩ)
• Gắn bó sâu sắc với lứa tuổi thiếu nhi - cơ sở của những tác phẩm viết cho trẻ em.
• Đi nhiều, vốn sống phong phú, đặc biệt trong lĩnh vực phong tục và sinh hoạt đời thường - có
những trang viết chân xác, đằm thắm về đất và người nhiều vùng đất, nhất là đất và người Tây Bắc.
• Có cái nhìn hồn nhiên, trong trẻo mà sắc sảo, hóm hỉnh, thông minh về các sự vật, hiện tượng, con
người trong cuộc sống.
Ông từ trần trưa 6.7.2014 tại Hà Nội.
1.2. Sự nghiệp


- Tô Hoài là nhà văn có sức sáng tạo dồi dào nhất của nền văn học Việt Nam hiện đại. Hơn 60 năm
cầm bút, ông để lại gần hai trăm tác phẩm thuộc đủ các thể loại.
- Thể loại: đa dạng,
- Đề tài: hai đề tài
* Đồng thoại về thế giới loài vật
* Cuộc sống, số phận và vẻ đẹp người lao động nghèo ở miền xuôi và miền ngược.
- Nội dung:
* Cái nhìn trìu mến, bao dung, nhân ái, độ lượng với trẻ thơ.
* Giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo mới mẻ, độc đáo.
• Nghệ thuật:
* Khả năng miêu tả, phân tích tâm lí nhân vật chân xác, sâu sắc, tinh tế.
* Cách kể chuyện sống động, hóm hỉnh, có duyên.
* Lời văn: giàu tính tạo hình và chất thơ.
- Tác phẩm tiêu biểu: Dế mèn phiêu lưu kí (đồng thoại, 1941), O chuột (tập truyện ngắn về loài vật,
1942), Nhà nghèo (tập truyện ngắn, 1944), Truyện Tây Bắc (tập truyện, 1953), Mười năm (tiểu
thuyết, 1967)…
2. Tác phẩm
2.1. Hoàn cảnh ra đời
MOON.V N

- hotline: 04.32.99.98.98


KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI
- 1952: Tô Hoài theo đơn vị bộ đội vào giải phóng Tây Bắc, sống gắn bó với đồng bào tám tháng.
“Năm 1952, tôi theo bộ đội chủ lực, tiến quân vào miền Tây, tham dự chiến dịch giải phóng Tây
Bắc… Cái kết quả lớn nhất và trước mắt của chuyến đi tám tháng ấy là đất nước và con người miền
Tây đã để thương để nhớ cho tôi nhiều quá, không thể bao giờ quên”
- Chia tay, Tô Hoài viết tập truyện bằng sự am hiểu tường tận cuộc sống, phong tục, nhất là tâm hồn
phóng khoáng, tự do phảng chút hoang dại của đồng bằng miền núi; nỗi ám ảnh về những kỉ niệm

gắn bó và món nợ ân tình với người Tây Bắc.
- “Vợ chồng A Phủ” là một tác phẩm xuất sắc được in trong tập “Truyện Tây Bắc” (1953).
2.2. Kết cấu: 2 phần
• Phần 1: Bức tranh thiên nhiên và cuộc sống của người dân lao động miền núi Tây Bắc trước cách
mạng.
Phần thể hiện bút lực Tô Hoài trong tác phẩm này là những trang viết tài hoa về hương sắc vùng
cao, thể hiện giá trị hiện thực, nhân đạo mới mẻ, cảm động và khả năng miêu tả và phân tích
tâm lí nhân vật sắc sảo (Ba ý lớn)
• Phần 2: Quá trình vận động từ tự phát tới tự giác của người lao động.
2.3. Thành công và hạn chế
2.3.1. Thành công
“Ý bao quát trong khi tôi viết Truyện Tây Bắc là: Nông dân các dân tộc ở Tây Bắc bao năm gian khổ
chống đế quốc và bọn chúa đất. Cuộc đấu tranh giai cấp, riêng ở Tây Bắc, mang một sắc thái đặc
biệt. Nhìn lướt qua, nơi thế lực phong kiến còn đương kéo lùi đất nước lại hàng trăm năm trước,
chúng ta dễ tưởng những cảnh những người ở đấy cứ muôn thuở lặng lẽ. Không, ở nơi rừng núi mơ
màng ấy, các dân tộc đã không lặng lẽ chịu đựng. Họ đã thức tỉnh. Cán bộ của Đảng tới đâu thì các
dân tộc đứng lên tới đấy, trước nhất là những người trẻ tuổi. Họ thật đẹp và yêu đời”
* Đem vào tác phẩm không khí thời đại.
* Thấy được quá trình vận động trong tư tưởng, cuộc sống người lao động: từ cam chịu, khổ nhục
đến chủ động giành lấy tự do, hạnh phúc, từ hành động phản kháng tự phát đến hoạt động cách mạng
tự giác.
* “Một vấn đề khác nữa là chất thơ trong văn xuôi. Ở mỗi nhân vật và trùm lên tất cả miền Tây, tôi
đã đưa vào một không khí vời vợi, làm cho đất nước và con người bay bổng hơn lên”
2.3.2. Hạn chế: Hình tượng nhân vật trung tâm hành động theo sự dàn xếp của tác giả nhằm chứng
minh cho một luận đề: sự giác ngộ đến với cách mạng của quần chúng bị áp bức, đôi chỗ viết dễ dãi.
II. Đọc hiểu văn bản
1. Tóm tắt: Mị, một cô gái xinh đẹp, yêu đời, có khát vọng tự do, hạnh phúc, bị bắt về làm con dâu
gạt nợ cho nhà Thống lí Pá Tra. Lúc đầu Mị phản kháng nhưng dần dần trở nên tê liệt, chỉ "lùi lũi
như con rùa nuôi trong xó cửa". Đêm tình mùa xuân đến, Mị muốn đi chơi nhưng bị A Sử (chồng
Mị) trói đứng vào cột nhà. A Phủ vì bất bình trước A Sử nên đã đánh nhau và bị bắt, bị phạt vạ và trở

thành kẻ ở trừ nợ cho nhà Thống lí. Không may hổ vồ mất một con bò, A Phủ đã bị đánh, bị trói
đứng vào cọc đến gần chết. Mị đã cắt dây trói cho A Phủ, hai người chạy trốn đến Phiềng Sa. Mị và
A Phủ được giác ngộ, trở thành du kích.
2. Chủ đề: Qua việc miêu tả cuộc đời, số phận của Mị và A Phủ, nhà văn đã làm sống lại quãng đời
tăm tối, cơ cực của người dân miền núi dưới ách thống trị dã man của bọn chúa đất phong kiến, đồng
thời khẳng định sức sống tiềm tàng, mãnh liệt không gì hủy diệt được của những kiếp nô lệ, khẳng
định chỉ có sự vùng dậy của chính họ, được ánh sáng cách mạng soi đường sẽ dẫn tới cuộc đời tươi
sáng.
3. Hình tượng nhân vật
3.1. Nhân vật Mị
3.1.1. Sự xuất hiện của Mị
“Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lí Pá Tra…” : giọng kể thoảng hương cổ tích ca dao, chuẩn bị
không khí cho mẫu nhân vật cổ tích xuất hiện, tạo tâm thế cho người đọc tiếp nhận một motip quen
thuộc.
• Không gian: “ngồi quay sợi bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa”, xuất hiện cùng thế giới đồ vật
câm lặng.
MOON.V N

- hotline: 04.32.99.98.98


KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI
* Vị trí của nhân vật.
* Hình ảnh tảng đá câm nín, u uất, bất động, không sinh khí, không sẻ chia (liên hệ với sự hóa thân
của người em trong Sự tích Trầu cau)
• Tư thế: “cúi mặt, mặt buồn rười rượi” với nhịp điệu mòn mỏi, thường xuyên, lặp lại vô hồn – “lúc
nào cũng vậy” .
• Đối lập: hình ảnh một cô gái lẻ loi, đơn độc, u trầm, buồn khổ – cảnh tấp nập, giàu sang nhà thống
lí.
Nhận xét: tác giả đã phác hoạ hình ảnh người con gái câm lặng như chìm lẫn vào thế giới đồ vật vô

tri, không cảm giác. Từ đó hé lộ cuộc sống tủi cực, cảnh ngộ éo le của nhân vật. Cách dẫn dắt khéo
léo theo điểm nhìn từ xa, bên ngoài tiến gần hơn vào bên trong để thâm nhập nhân vật; tạo ra mâu
thuẫn ở lời kể để vén bức màn bí mật về một phận người (hỏi ra mới rõ,… cô ấy là vợ A Sử, con trai
thống lí Pá Tra).
3.1.2. Vẻ đẹp
Mị vốn là đóa hoa đẹp của núi rừng:
+ Nhan sắc rực rỡ tươi thắm tỏa ra sức cuốn hút: Ngày tết, trai làng đến đứng nhẵn cả chân vách đầu
buồng Mị
+ Tâm hồn phong phú, bay bổng, tài hoa: khẽ uốn chiếc lá trên môi là cả thế giới xa xăm kì diệu sẽ
mở ra, Mị thổi sáo giỏi, bao nhiêu người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị.
+ Chăm làm
+ Hiếu thảo
+ Tràn đầy khát vọng tự do
+ Xứng đáng được yêu, và cũng đã từng được yêu, say mê trong những đêm tình hò hẹn, hồi hộp
lặng lẽ đợi chờ…
Thế nhưng, hạnh phúc ngắn ngủi và quá đỗi mong manh, bởi Mị sinh ra đã phải đội trên đầu món nợ
truyền kiếp…
3.1.3. Số phận bất hạnh: Con dâu gạt nợ.
Câu chuyện Mị về làm dâu:
• Lý do: bố lấy mẹ không đủ tiền cưới, phải vay nhà thống lí, tận khi già mà chưa trả hết nợ. Mẹ
chết, thống lí đòi lấy Mị làm con dâu để xoá nợ, mối nợ truyền kiếp, dai dẳng, khó thoát, bóng của
kiếp sống nô lệ, cùng khổ đổ lên người dân nghèo qua thế hệ này đến thế hệ khác. Câu nói từ bên
trong của bố Mị “không thể nào khác được con ơi” giống như một dấu triện đóng lên thân phận nô lệ
của Mị.
• Phản ứng: đề nghị bố lao động trả nợ chứ quyết không muốn bị bán cho nhà giàu: “Con nay đã
biết cuốc nương làm ngô, con phải làm nương trả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu”.
Ta chợt đau lòng nhớ đến câu nói của cái Tí ngày nào “con van thầy, con van u, thầy u đừng bán con
tội nghiệp, để con ở nhà chơi với em con” (Tắt đèn- Ngô Tất Tố). Điều đó cho thấy Mị thà sống vất
vả, nghèo khổ mà tự do còn hơn sống trong giàu sang mà chịu đoạ đày nô lệ. Đó cũng là khát vọng
tự do mãnh liệt và niềm tin trong sáng, hồn nhiên của tuổi trẻ.

• Bị nhà thống lí lừa bắt đi, ban đầu “hàng mấy tháng, đêm nào cũng khóc”, nhận thức sâu sắc tình
cảnh quẫn bách của bản thân: sống cũng như chết, Mị đã tìm đến lá ngón để tự tử. Đây là phản ứng
tiêu cực của lòng yêu sống và khát vọng tự do.
• Dần dần, cha chết, Mị không còn nghĩ tới cái chết, Mị đã mất đi khả năng phản ứng với cuộc sống
phi nhân tính, thực chất, cô chỉ còn sống đời sống vật chất, còn tinh thần và tâm hồn đã chết, nhẫn
nhục, cam chịu, vô hồn.
* Cùng với thời gian, “lần lần, mấy năm qua, mấy năm sau”, khi được chết thì Mị lại không buồn
chết nữa. Cách sử dụng phép đối, cách đếm thời gian chậm rãi, đều đặn cho ta thấy khoảng thời gian
đủ để vô hồn hoá con người, nhấn con người vào câm lặng, “Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”.
Mị tưởng: mình cũng là con trâu, con ngựa. Nhưng không chỉ thế, “Con ngựa, con trâu làm còn có
lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc làm cả
đêm cả ngày”- bị bóc lột sức lao động tàn nhẫn. Càng ngày, Mị càng lùi lũi như con rùa nuôi trong
xó cửa. Mị đã bị tê liệt khả năng phản ứng với cuộc sống vô nghĩa, phản ứng của con người không
còn cảm thấy ý nghĩa cuộc đời, cam chịu sống mảnh đời khuất lấp, quên lãng, như cái cây, tảng đá,
MOON.V N

- hotline: 04.32.99.98.98


KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI
đồ vật trong không gian nhà thống lí. Từ vị trí con dâu (quyền thế, đáng trọng) đến thân thế: con nợ,
người ở (rẻ rúng, coi thường), ta đã đủ thấy cái tàn nhẫn bất công với Mị.
• Căn buồng, không gian sống của Mị là một nơi kín mít, chỉ có một chiếc cửa sổ bé, đúng hơn là chỉ
có một lỗ vuông bằng bàn tay, lúc nào trông ra cũng chỉ thấy mờ mờ trăng trắng, không biết là sương
hay là nắng, Mị đã mất hết ý niệm về thời gian. Đó là một không gian tối tăm, bức bối, lạnh lẽo, đầy
âm khí- biểu tượng ám gợi về địa ngục trần gian, nơi cầm tù tuổi thanh xuân của con người, biến Mị
từ một cô gái trẻ trung phơi phới thành một con người vô cảm, cam chịu.
Tóm lại: Mỵ là hiện thân những đau khổ của người phụ nữ nói riêng, của người dân miền núi trước
Cách mạng nói chung.
- Bị bóc lột sức lao động tàn nhẫn, phải làm quần quật như một thứ lao động khổ sai: Tết đến thì lên

núi hái thuốc phiện, giữa mùa thì giặt đay, se đay, đến mùa thì đi nương, bẻ bắp...bao giờ cũng thế,
suốt năm suốt đời như thế, lời văn của Tô Hoài nặng trĩu những day dứt xót xa...
- Bị chà đạp về thể xác, bị đánh đập dã man, bị bắt trói bất cứ lúc nào. Muốn đi chơi: trói; muốn sưởi
lửa: trói; làm mất một con bò: trói...
- Bị đầy đoạ về tinh thần, Mị trở thành con người vô cảm, bị đè nặng bởi ý nghĩ: ta là thân đàn bà, bị
bắt về trình ma nhà nó rồi, chỉ còn đợi ngày rũ xương ở đây thôi... Cuộc sống của Mỵ ở nhà Thống
Lý Pá Tra như ngục thất (ý nghĩa căn buồng Mỵ ở). Bị bóng ma vô hình cột chặt cuộc đời nô lệ với
nhà Thống lý, nhiều khi trở nên cam chịu, sống mà như chết.
Tiểu kết:
Miêu tả cuộc sống làm dâu, nhà văn khám phá một mảng hiện thực mới: cuộc sống, số phận đau khổ
của người lao động miền núi – những con người bị cường quyền, thần quyền, cái nghèo, những áp
chế về tinh thần đẩy vào tình trạng sống vô nghĩa, vô cảm.
Phải chăng cô Mị trẻ đẹp, tràn đầy xuân sắc xuân tình của ngày xưa đã chết? Không, ngòi bút nhân
đạo của Tô Hoài đã cho ta thấy, dù lay lắt đói khổ, bị đọa đày cùng cực đến đâu, sức sống của người
lao động chỉ tạm thời bị vùi lấp chứ không thể bị triệt tiêu, nó vẫn như đốm than hồng từ lâu âm ỉ
cháy, chỉ đợi ngọn gió lành là sẽ bùng lên. Và ngọn gió ấy đã tới trong đêm tình mùa xuân, để ta thấy
một cô Mị lạc quan, yêu đời đang dần dần hồi sinh trong sự sống.
Đó cũng là nội dung chúng ta sẽ tìm hiểu tiếp ở tiết học thứ hai.
MOON.V N

- hotline: 04.32.99.98.98


KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI

VỢ CHỒNG A PHỦ - TÔ HOÀI (TIẾT 2)

3.1.4. Mỵ là hiện thân của sức sống tiềm tàng, sức mạnh vùng lên giải phóng
Sức sống tiềm ẩn mà mãnh liệt được thể hiện qua bốn chi tiết:
+ Câu nói phản kháng hôn nhân

+ Ý định ăn lá ngón tự tử
+ Biểu hiện rõ nhất trong đêm hội mùa xuân và đêm đông cởi trói cho A Phủ.
3.1.4.1. Sự thức tỉnh và hồi sinh khát vọng sống trong đêm tình mùa xuân
- Khung cảnh:
• Bức tranh mùa xuân: Mùa xuân đã về trên rẻo cao. Quyến rũ và say lòng biết bao là những đêm
tình miền núi. Năm ấy, Hồng Ngài ăn tết sớm. Niềm vui đón xuân như được nhân lên cùng niềm vui
thu hoạch mùa màng. Vạn vật đổi thay, đất trời như có men say, sự sống đang âm thầm cựa mình
xôn xao trong cây cỏ. Gió và rét dữ dội thổi vào cỏ gianh vàng ửng, cái màu sắc tươi thắm đang có
sức lan tỏa, cựa quậy tự trong linh hồn tạo vật, cái màu sắc tươi vui, đầy sức sống, ánh sáng, đối lập
với không gian sống tăm tối của Mị. Trên các mỏm núi: váy hoa xoè như con bướm sặc sỡ, đầy màu
sắc, phấn chấn, náo nức. Đám trẻ nô đùa cười ầm trước sân. Tiếng sáo vọng lại thiết tha bồi hồi.
Thiên nhiên rực rỡ màu sắc, náo nức âm thanh, sự hiện diện của một thế giới căng tràn nhựa sống.
• Đêm tình mùa xuân:
* Trong nhà: mọi người nhảy đồng, hát
* Bên ngoài: tiếng sáo gọi bạn yêu lơ lửng ngoài đường, tiếng sáo như có hình, lơ lửng, bồng bềnh,
như tình ai không tan, như lòng ai vẫn đợi. Đó là chi tiết trở đi trở lại như một ám ảnh, mời gọi,
vương vấn, khơi gợi kí ức và khát vọng yêu, sống trong Mị.
* Nội dung tiếng sáo: “Mày có con trai con gái rồi/ Mày đi làm nương/ Ta không có con trai con gái/
Ta đi tìm người yêu”, tiếng sáo mang khát vọng đôi lứa, khát vọng sống.
* Không gian, thời gian rạo rực khát vọng, thôi thúc con người tìm đến với men say tình yêu, men
say sự sống.
- Diễn biến tâm trạng:
• Mị lén lấy hũ rượu, uống ực từng bát…, u uất, mất cảm giác, không sống trong thực tại, mà lặn vào
vô thức, như nuốt cả bao nhiêu đau khổ.
• Đột nhiên thấy lòng phơi phới trở lại, có cảm xúc (nhận ra tiếng sáo)
• Nhận thấy mình còn rất trẻ. Ý thức về bản thân trở lại: Mị còn trẻ lắm, Mị vẫn còn trẻ, Mị muốn đi
chơi, Mị cũng sắp đi chơi, câu văn như dựng nhân vật dậy, đi lại nôn nao rạo rực trên trang sách.
• Lúc sức sống trở về với niềm khao khát nhất thì Mị lại muốn chết: Nếu có nắm lá ngón trong tay
lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay chứ không buồn nhớ lại nữa, nhớ lại chỉ thấy nước mắt ứa ra…khi
cảm xúc, ý thức trở về là lúc Mị muốn chết, phi lí mà logic: ý thức tình trạng sống không bằng chếtgiải thoát.

• Do tiếng sáo- quên cái chết - xắn miếng mỡ khêu lại đèn, lấy váy, quấn tóc, những động tác nhanh,
mạnh, dứt khoát…
* Khát vọng được sống được yêu trở lại, kéo theo hành động: muốn được thấy ánh sáng, muốn làm
đẹp, ý thức về sự tồn sinh của mình (Liên hệ chi tiết: Mùi xà phòng trên áo của Đào trong “Mùa lạc”
khi kể cho Huân nghe về duyên mới, sự hồi sinh nữ tính thường được các nhà văn sử dụng để biểu
trưng cho sự trỗi dậy mạnh mẽ, sâu sắc nhất của khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc)
- Sự vùi dập phũ phàng: bị A Sử trói, khát vọng vừa hồi sinh đã bị vùi dập.
- Nhưng sợi dây trói của A Sử chỉ trói được thân xác Mị, tâm hồn Mị vẫn bồng bềnh theo những
cuộc chơi, những đám chơi. Tiếng sáo từ chỗ ở ngoài Mị nay đã thành tiếng lòng của Mị: trong đầu
Mị rập rờn tiếng sáo. Rập rờn là từ tượng hình, âm thanh như lá đang reo, như cánh bướm giữa vườn
xuân đang vấy, rạo rực, xôn xao trong lòng thiếu phụ…Cả đêm hôm ấy, Mị lúc mơ, lúc tỉnh. Trong
MOON.V N

- hotline: 04.32.99.98.98


KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI
bóng tối, Mị đứng yên lặng, Mị như không biết mình đang bị trói. Chân Mị vẫn vùng bước đi, đi theo
tiếng gọi của tự do. Nhưng sợi dây trói thít lại nhắc Mị nhớ cảnh ngục tù. Mị không nghe tiếng sáo
nữa. Tiếng gọi của sự sống, của tự do đã tắt. Chỉ còn tiếng chân ngựa đạp vào vách, khô khan, tàn
nhẫn như biểu tượng của thân phận.
- Đêm mùa xuân không mảy may làm thay đổi cuộc đời Mị, tuy nhiên nó đã được nhóm lên để chuẩn
bị rực cháy trong hành động cứu A Phủ và cứu mình.
* Tiểu kết:
Qua nhân vật Mị, nhà văn thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc và mới mẻ:
- Tố cáo thế lực thống trị, cường quyền, thần quyền đã liên kết để cày đạp tước đoạt quyền sống của
những con người đáng ra phải được hạnh phúc nhất.
- Đồng cảm sâu sắc với số phận con người nghèo khổ miền núi trước cách mạng.
- Khám phá, phát hiện vẻ đẹp, phẩm chất người lao động, đặc biệt là khát vọng sống tự do.
1.4.2. Đêm mùa đông cắt dây trói cứu A Phủ

- Bối cảnh: những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn, nếu không có ngọn lửa kia Mị cũng
chết héo. Sáng nào Mị cũng sưởi lửa, hơ tay, lâu lắm rồi, Mị chỉ còn biết, còn ở với ngọn lửa. Bị
A Sử đánh, đêm sau Mị vẫn ra sưởi, gan lì, bướng bỉnh. Nhà văn gài một chi tiết báo hiệu sự phản
kháng của Mị
- Chứng kiến cảnh A Phủ bị bắt, trói:
+ Lúc đầu, Mị thản nhiên: “Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi”. Cảnh bị trói đến chết
không phải là hiếm hoi ở nhà thống lí. Mặt khác, Mị đã chịu đựng quá nhiều đau khổ về thể xác lẫn
tinh thần, trơ lì cảm xúc, tê liệt khả năng cảm thông, chia sẻ với cảnh ngộ khốn cùng của người
khác. Cuộc sống bao năm làm con rùa lầm lũi xó cửa khiến Mị quen cam chịu, nhẫn nhục, sức ì,
quán tính quá lớn.
+ Hôm sau: lé mắt trông sang, thấy một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen
lại- chi tiết duy nhất trong đoạn trích thiên về phản ánh nội tâm A Phủ (A Phủ gần như được xây
dựng đơn giản hơn Mị: nhân vật của số phận và hành động) nước mắt ở một thanh niên bản lĩnh, gan
góc, yêu đời, mạnh mẽ diễn tả sâu xót nỗi đau, sự tủi cực, tình cảnh khốn cùng (có lẽ A Phủ cũng
đang hình dung mình sẽ bị trói cho đến chết). Giọt nước mắt tuyệt vọng của người đàn ông khỏe
mạnh đã làm thức lên sức mạnh của phái yếu, làm tan chảy cõi lòng giá băng, đánh thức hồi ức đau
thương, tuyệt vọng trong quá khứ của Mị. Mị chợt nhớ lại mình, thương mình đêm năm trước, cũng
bị A Sử trói như thế, nước mắt rơi xuống má, xuống cổ không lau đi được. Trời ơi, nó trói người ta
đến chết! Mị lại nhớ có người đàn bà đã từng bị trói đến chết trong nhà này. Giọt nước mắt nối liền
ba số phận. Lần đầu tiên, Mị ý thức tội ác của kẻ thù, nhận thấy ta là thân đàn bà, đợi ngày chết ở đây
thôi, người kia việc gì phải chết thế! Nhận thấy việc A Phủ phải chết là một điều vô lí, oan ức, bất
công, Mị biết thương người cùng cảnh ngộ.
- Độc thoại nội tâm: đồng cảm với A Phủ, với những người cùng cảnh ngộ, bất bình, tình thương trỗi
dậy.
- Giả định: A Phủ trốn, Mị bị trói đứng, phải chết trên cái cọc ấy, không sợ: thương A Phủ quên thân,
vị tha chiến thắng vị kỉ.
* Tô Hoài đã cắt nghĩa logic hành động của Mị: Mị ý thức tình trạng không còn gì để mất của mình
sâu sắc.
- Hành động: rút dao, cắt dây trói cứu A Phủ Đó là một việc làm táo bạo và hết sức nguy hiểm
nhưng nó phù hợp với nét tâm lí của Mị trong đêm mùa đông này. Sau khi cắt dây cởi trói cho A

Phủ, Mị cũng không ngờ mình dám làm một chuyện động trời đến vậy. Mị thì thào lên một tiếng “đi
ngay” rồi Mị nghẹn lại. A Phủ vùng chạy đi còn Mị vẫn đứng lặng trong bóng tối. Câu văn được
tách riêng thành một dòng đặc biệt, khoảnh khắc ấy có tính chất quyết định đến cả một cuộc đời. Ta
có thể hình dung được nét tâm lí ngổn ngang trăm mối của Mị lúc này. Lòng Mị rối bời với trăm câu
hỏi: chạy theo A Phủ hay ở đây chờ chết?.
- Thế là cuối cùng sức sống tiềm tàng đã thôi thúc Mị phải sống và Mị vụt chạy theo A Phủ.
Trời tối lắm nhưng Mị vẫn băng đi. Bước chân của Mị như đạp đổ uy quyền, thần quyền của bọn
lãnh chúa phong kiến đương thời đã đè nặng tâm hồn Mị suốt bao nhiêu năm qua. Mị đuổi kịp A Phủ
và nói lời đầu tiên. Mị nói với A Phủ sau bao nhiêu năm câm nín: “A Phủ. Cho tôi đi! Ở đây thì chết
MOON.V N

- hotline: 04.32.99.98.98


KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI
mất”. Đó là lời nói khao khát sống và khát khao tự do của nhân vật Mị. Câu nói ấy chứa đựng biết
bao tình cảm và làm quặn đau trái tim bạn đọc. Đó chính là nguyên nhân - hệ quả của việc Mị cắt đứt
sợi dây vô hình ràng buộc cuộc đời của mình. Thế là Mị và A Phủ dìu nhau chạy xuống dốc núi. Hai
người đã rời bỏ Hồng Ngài - một nơi mà những kỉ niệm đẹp đối với họ quá ít, còn nỗi buồn đau, tủi
nhục thì chồng chất không sao kể xiết. Hai người rời bỏ Hồng Ngài và đến Phiềng Sa, nhưng những
ngày phía trước ra sao họ cũng chưa biết đến…
- Rõ ràng, trong đêm mùa đông này, sức sống tiềm tàng đóng một vai trò hết sức quan trọng.
Chính nó đã giúp Mị vượt lên trên số phận đen tối của mình. Mị cứu A Phủ cũng đồng nghĩa với việc
Mị tự cứu lấy bản thân mình.
- Qua đoạn trích trên, Tô Hoài đã ca ngợi những phẩm chất đẹp đẽ của người phụ nữ miền núi
nói riêng và những người phụ nự Việt Nam nói chung. Tô Hoài đã rất cảm thông và xót thương cho
số phận hẩm hiu, không lối thoát của Mị. Thế nhưng bằng một trái tim nhạy cảm và chan chứa yêu
thương, Tô Hoài đã phát hiện và ngợi ca đốm lửa còn sót lại trong trái tim Mị. Tư tưởng nhân đạo
của nhà văn sáng lên ở đó. Đồng thời qua tác phẩm, Tô Hoài cũng đã khẳng định được chân lí muôn
đời: ở đâu có áp bức bất công thì ở đó có sự đấu tranh để chống lại nó dù đó là sự vùng lên một cách

tự phát như Mị. Quả thật qua đó tác phẩm này giúp ta hiểu được nhiều điều trong cuộc sống.
* Nhận xét:
• Hành động tự cứu mình của Mị là hành động có tính chất tự phát, nhưng cội nguồn sâu xa của nó là
khát vọng sống mãnh liệt.
• Hành động làm thay đổi vị thế hai con người: nô lệ, cam chịu- tự do, nổi loạn.
• Hai nhân vật gặp gỡ nhau trong đau thương, cùng đường, nhờ khát vọng tự do mà vùng lên tự thay
đổi cuộc đời.
1.5. Một số đặc sắc về nghệ thuật.
+ Nghệ thuật xây dựng nhân vật: nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật sắc sảo.
Nghệ thuật miêu tả đời sống nội tâm của nhân vật, ít miêu tả hành động bên ngoài, nếu miêu tả thì
chú ý những hành động lặp đi lặp lại (thường cúi mặt, mặt buồn rười rượi )
Mượn hình tượng thiên nhiên để miêu tả tâm trạng (mùa xuân của thiên nhiên của đất trời như gợi
lên cả sức sống mùa xuân trong lòng Mỵ).
Trực tiếp miêu tả diễn biến tâm trạng tinh tế và hợp lý (phân tích cách miêu tả diễn biến tâm trạng
Mỵ theo hai cảnh: Đêm mùa xuân nghe tiếng sáo gọi bạn và đêm mùa đông cắt dây trói cứu A- Phủ)
+ Nghệ thuật kể chuyện: kể chuyện kết hợp nhiều điểm nhìn (bên ngoài, bên trong, xa, gần), dần dần
khám phá thế giới nội tâm sâu thẳm và ngọn lửa sống âm ỉ đằng sau vẻ ngoài vô cảm của Mị.
+ Ngôn ngữ, hình ảnh: giàu chất thơ, chân xác.s
Chất thơ ấy, sự chân xác trong miêu tả hiện thực ấy còn được thể hiện rõ hơn nữa trong các nhân vật
A Phủ và cha con thống lí Pá tra. Đó là những nhân vật ta sẽ tiếp tục tìm hiểu trong giờ học tiếp.
MOON.V N

- hotline: 04.32.99.98.98


KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI

VỢ CHỒNG A PHỦ - TÔ HOÀI (TIẾT 3)

3.2. Hình tượng nhân vật A Phủ

3.2.1. Vị trí của nhân vật
3.2.2. Sự xuất hiện: “Một người to lớn chạy vụt ra vung tay ném con quay rất to vào mặt A Sử. Con
quay gỗ ngát lăng nào giữa mặt. Nó vừa kịp bưng tay lên. A Phủ đã xộc tới, nắm cái vòng cổ, kẹo
dập đầu xuống, xé vai áo, đánh tới tấp". Một đoạn văn ngắn với hàng loạt các động từ cùng lối miêu
tả các động tác nhanh, gấp: chạy vụt ra, ném, lăng, xộc tới, nắm cái uổng cổ, kéo dập đầu xuống, xé
lai áo, đánh tới tấp... cho thấy sức mạnh và tính cách con người A Phủ qua hành động. Cách giới
thiệu nhân vật gây ấn tượng, hé mở tính cách quật cường.
- Khung cảnh: đêm tình mùa xuân.
- Sự kiện: A Phủ đánh A Sử
- Văn cảnh (xét trong hệ thống cốt truyện): khi xung đột trong Mị đang dâng lên, tạo yếu tố kịch tính
giữa khát vọng hạnh phúc và hiện thực phũ phàng.
3.2.3. Số phận: bất hạnh
- Lai lịch: tuổi thơ đã mồ côi cả cha lẫn mẹ, không còn người thân thích trên đời vì cả làng không
mấy ai qua được trận dịch. A Phủ phải đi làm thuê cuốc mướn từ năm 10 tuổi, motip nhân vật mồ côi
bất hạnh trong cổ tích.
- Khó có được hạnh phúc giản dị của một người con trai trưởng thành: không thể lấy nổi vợ.
- Chỉ vì đánh A Sử, bị bắt, bị đánh đập dã man (mặt sưng, đuôi mắt giập chảy máu, hai đầu gối sưng
bạnh như mặt hổ phù), cúng ma, bị cho vay nợ để nộp phạt, khao làng, không có tiền trả, phải ở nợ,
cuộc đời từ đây bị cột chặt trong vòng riết xoắn của kiếp trừ nợ. A Phủ trở thành người ở trừ nợ.
• Bị bóc lột sức lao động tàn tệ:
Đốt rừng, cày nương, cuốc nương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa, quanh năm một thân một
mình bôn ba rong ruổi ngoài gò ngoài rừng, câu văn liệt kê, con người làm việc cơ học, như một cỗ
máy, triền miên, ngày qua ngày, tháng nối tháng, năm tiếp năm, mòn mỏi.
• Bị trừng phạt vì làm mất bò của chủ, tự mình lấy dây mây cột mình theo lệnh của thống lí, hiện
thực oái oăm, diễn tả sâu sắc, thấm thía tình cảnh tủi cực, ngang trái của kiếp đời nô lệ, cuộc gặp gỡ
tự nhiên giữa Mị và A Phủ.
* Cuộc gặp gỡ với số phận con dâu gạt nợ của Mị, bổ sung cho hình tượng những người lao động: vì
nghèo mà chịu đời nô lệ.
3.2.4.
Phẩm chất:

- Gan góc, bộc trực, thẳng thắn. Từ nhỏ, khi có người bắt A Phủ đem xuống bán đổi lấy thóc của
người Thái. Tuy mới mười tuổi, nhưng A Phủ gan bướng, không thích ở dưới cánh đồng thấp, trốn
thoát lên núi, lưu lạc tới Hồng Ngài.
- Cá tính ấy lại được chính cuộc sống hoang dã của núi rừng cùng hoàn cảnh ở đợ làm thuê nhiều cực
nhọc, vất vả hun đúc để A Phủ trở thành một chàng trai có tính cách mạnh mẽ, táo bạo, có thể chất
dồi dào: khỏe, chạy nhanh như ngựa. Biết làm mọi việc: đúc lưỡi cày, đục cuốc, đi săn bò tót rất bạo,
là thanh niên chăm chỉ, chịu khó, tháo vát.
- A Phủ trở thành chàng trai Mông dũng cảm, niềm tự hào của trai làng, niềm ước ao của gái bản.
Con gái trong làng nhiều người mê, nhiều người nói: "Đứa nào được A Phủ cũng bằng được con trâu
tốt trong nhà, chẳng mấy lúc mà giàu". Người ta ao ước đùa thế thôi, chứ A Phủ vẫn rất nghèo. A
Phủ không có cha, không có mẹ, không có ruộng, không có bạc, suốt đời làm thuê, làm mướn, phép
làng và tục lệ cưới xin ngặt nghèo sẽ không cho A Phủ có cơ hội để lấy vợ. Dù thế nhưng ngày Tết,
cũng như bao trai làng khác, A Phủ vẫn cùng trai làng chơi xuân.
MOON.V N

- hotline: 04.32.99.98.98


KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI
- Ở vùng núi cao, bọn chúa đất như thống lí Pá Tra là một thứ trời con, con trai thống lí là con trời,
không ai dám đụng tới. Nhưng A Phủ không sợ. Với A Phủ, A Sử chỉ là đứa phá đám cuộc chơi, cần
phải đánh. Dám đánh lại A Sử – con trai thống lí chứng tỏ A Phủ không sợ cường quyền. Dù phải trả
một cái giá rất đắt cho hành động táo tợn ấy, nhưng là người đơn giản, A Phủ không quan tâm.
- Dám làm, dám chịu, khi bị đánh, A Phủ chỉ quỳ chịu đòn, im như tượng đá, gan góc, sức chịu đựng
phi thường.
- Khi đã phải sống thân phận của kẻ làm công trừ nợ, A Phủ vẫn là một chàng trai của tự do, dù phải
quanh năm một thân một mình "đốt rừng, cày nương, cuốc nương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò, chăn
ngựa..." nhưng cũng là quanh năm A Phủ "bôn ba rong ruổi ngoài gò ngoài rừng" làm phăng phăng
mọi thứ, không khác với những năm tháng trước kia. Khi rừng đói, vì mải bẫy nhím, để hổ bắt mất
bò, A Phủ điềm nhiên vác nửa con bò hổ ăn đó về. A Phủ nói chuyện đi "lấy con hổ về" một cách

thản nhiên và coi đó là một chuyện rất dễ dàng. A Phủ cãi lại thống lí cũng rất điềm nhiên: A Phủ
không biết sợ các uy của bất cứ ai. Con hổ hay thống lí Pá Tra cũng thế thôi. Kể cả khi lẳng lặng đi
lấy cọc và dây mây, rồi đóng cọc để người ta trói đứng mình chết thế mạng cho con vật bị mất, A
Phủ cũng làm các việc ấy một cách thản nhiên, không nói. Là người mạnh mẽ và gan góc, A Phủ
không sợ cả cái chết...
* Nhân vật mang vẻ đẹp khoẻ khoắn, cá tính, bản lĩnh, gan góc, tiềm ẩn sức sống, sức mạnh phản
kháng, chống bạo tàn của thanh niên lao động miền núi.
+ Nhân vật A Phủ là một đóng góp mới của tác giả về phương diện xây dựng nhân vật.
Sở trường quan sát nhạy bén và khả năng thiên phú trong việc nắm bắt cá tính con người là hai yếu
tố đã giúp nhà văn, chỉ với mấy nét đơn sơ mà tạo dựng được một hình tượng đặc sắc.
3.3. Cha con thống lí Pá Tra, A Sử
Tuy là hai nhân vật thuộc tuyến phản diện, thực chất thống lí Pá Tra và A Sử chỉ là một, kẻ này là
hậu thân của kẻ kia, chúng đều là hiện thân của CÁI ÁC. Người đọc dễ dàng liên tưởng đến những
điển hình phản diện ở miền xuôi của văn học hiện thực phê phán như Nghị Lại (của Nguyễn Công
Hoan), Nghị Quế (của Ngô Tất Tố), Nghị Hách (của Vũ Trọng Phụng), Bá Kiến (của Nam Cao)... để
thấy rằng, Tô Hoài đã góp thêm một điển hình của miền núi để hoàn thiện bộ sưu tập phản diện ấy.
3.3.1. Lai lịch nhân vật
Đời bố Pá Tra đã làm thống lý, đến Pá Tra bây giờ cũng làm thống lý – người cai quản một vùng bản
làng miền núi của người Mèo (như chức chánh tổng ở miền xuôi), quyền uy nhất vùng: “Nhà Pá Tra
làm thống lý, ăn của dân nhiều, đồn Tây lại cho muối về bán, giàu lắm, nhà có nhiều nương, nhiều
bạc, nhiều thuốc phiện nhất làng”
3.3.2. Bản chất của Pá Tra
- Tàn ác tham lam đến lạnh lùng vô cảm
+ Mục đích bóc lột khống chế người dân để làm giầu và làm tăng thế lực.
+ Thủ đoạn: Cho vay nặng lãi để bóc lột người dân một cách tàn ác, trói buộc người dân vào thân
phận nô lệ. Thủ đoạn này truyền từ đời bố thống lí Pá Tra đến đời của Pá Tra : “Ngày xưa bố Mị lấy
mẹ Mị không có đủ tiền cưới phải đến vay nhà thông lí, bố của thống lí Pá Tra bây giờ. Mỗi năm
đem nộp lãi cho chủ nợ một nương ngô. Đến tận khi hai vợ chồng về già rồi mà cũng chưa trả được
nợ. Người vợ chết cũng chưa trả hết nợ” Đến đời Pá Tra cũng cho vay nặng lãi (cho A phủ vay tiền)
+ Cách thu nợ tàn ác: Cướp đoạt tuổi thanh xuân của con người “Cho tao đứa con gái này về làm

dâu thì tao xóa hết nợ cho”. Hoặc bắt đi ở để trừ nợ “Mày không có bạc trăm thì tao cho mày vay để
mày ở nợ. Bao giờ có tiền giả thì tao cho mày về, chưa có tiền giả thì tao bắt mày ở làm con trâu con
ngựa cho nhà tao. Đời mày, đời con, đời cháu mày tao cũng bắt thế, bao giờ hết nợ tao mới thôi”.
+ Cấu kết với thực dân để bóc lột người dân “Đồn Tây cho muối về bán”; “Ăn của dân nhiều”
+ Dùng thế lực cường quyền và bóng ma thần quyền để cai trị người dân. Cường quyền là quyền lực
của thống lí còn thần quyền là gọi con ma về nhận mặt con dâu gạt nợ, nô lệ trừ nợ. Cảnh xử kiện bất
công quái gở: Pá Tra đi kiện, Pá Tra xử kiện, Pá Tra thắng kiện. Bọn chức việc “Đục nước béo cò”
+ Đối xử độc ác phi nhân tính với người ở. Trói người đánh người bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào (Đàn
bà bị trói bằng dây đay, đàn ông bị trói bằng dây mây…Có người còn trói vợ ba ngày đi chơi khi về
vợ đã chết. Công việc của họ, phải làm luôn chân luôn tay, thân phận không bằng con trâu con bò…
+ Ghê rợn nhất là cung cách làm việc ác đến mức thản nhiên lạnh lùng của cha con tên chúa đất. Ta
MOON.V N

- hotline: 04.32.99.98.98


KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI
đã chứng kiến hàng loạt hành vi ghê rợn : chúng có thể vừa hút thuốc phiện vừa tra tấn người, vừa ăn
uống vừa tiêu khiển bằng cách thưởng thức cảnh hành hạ con người, có thể co chân đạp thẳng vào
mặt vợ, có thể trói và bỏ đói một người lực lưỡng ngoài trời sương muối cho đến tiều tụy, đến chết rũ
xương... Cách A Sử trói Mị: như đang bó một bó củi, hay đang trói, đang xích một con chó, vậy thôi.
Trói vợ xong, nó thản nhiên trang điểm (sửa cái vòng bạc trên cổ có những tua chỉ xanh đỏ, thắt lại
cái thắt lưng có cái khoá bằng bạc...), tắt đèn, khép cửa, đi chơi hội. Đó là một chuỗi việc làm của A
Sử. Bình tĩnh, thản nhiên, lạnh tanh, cái ác đã ngấm vào máu.
3.3.3. Nghệ thuật xây dựng nhân vật Pá Tra
- Qua lời kể của các nhân vật khác : “Người ta thường nói nhà Pá Tra làm thống lí…” “Người nghèo
ở Hồng Ngài thì vẫn kể lại…” “Câu chuyện người ta vẫn kể…” Qua lời nói và hành động của nhân
vật Pá Tra. Qua nghệ thuật tả cảnh : Cảnh xử kiện, cúng ma…Tô Hoài là nhà văn rất có sở trường về
tả cảnh (Thiên nhiên và con người miền núi)
- Dùng môtip đã quen thuộc và có phần công thức của truyện cổ dân gian, nhưng nhờ hết sức chân

thực trong chi tiết và hết sức hợp lí trong mạch vận động mà Tô Hoài đã tạo được ấn tượng sâu đậm
khi mô tả chân tướng CÁI ÁC. Hình tượng, vì thế, có một sức sống thật độc đáo.
4. Phân tích giá trị của tác phẩm
4.1. Giá trị hiện thực
Phản ánh bộ mặt giai cấp thống trị miền núi với tội ác về cường quyền và tội ác về thần quyền.
Phản ánh đời sống của người dân lao động nghèo khổ bị áp bức (đời sống tăm tối đau khổ)
Sự bùng lên đấu tranh tự phát bột phát - tự giác.
Những nội dung hiện thực nói trên được thể hiện qua các hiện tượng Thống Lý Pá Tra, A Sử điển
hình cho giai cấp thống trị, Mỵ và A- Phủ điển hình cho người nông dân lao động bị áp bức.
4.2. Giá trị nhân đạo mới mẻ độc đáo.
- Tố cáo thế lực thống trị, cường quyền, thần quyền đã liên kết để tước đoạt quyền sống, không chỉ
tước đoạt quyền sống mà con cướp đi cả sức sống của con người, những con người đáng ra phải
được hạnh phúc nhất. Mỵ từ cô gái nết na xinh đẹp giàu sức sống trở thành một công cụ lao động
biết nói mà không dám nói, A- Phủ từ một chàng trai khoẻ mạnh trở thành một nông nô có lúc cũng
trở lên cam chịu mất cả sức sống.
- Đồng cảm sâu sắc với số phận con người nghèo khổ miền núi trước cách mạng. Niềm thương cảm
trước những số phận đau khổ, bị chà đạp cả về thể xác và tinh thần (với niềm thương cảm sâu sắc,
tác giả như đã hoá thân vào nhân vật Mỵ để nói lên những đau khổ, khát vọng của người phụ nữ
này).
- Khám phá, phát hiện vẻ đẹp, phẩm chất người lao động, đặc biệt là khát vọng sống tự do. Khẳng
định, ca ngợi sức sống tiềm tàng, sức mạnh vùng lên giải phóng của người lao động bị áp bức (nôi
dung trọng tâm thể hiện qua cả hai nhân vật: Mỵ và A- Phủ, đặc biệt là nhân vật Mỵ).
(Ở mỗi luận điểm: phân tích ở cả hai nhân vật, có sự đối chiếu, liên hệ khéo léo với các nhân vật
đồng dạng khác trong văn học)
- Giải pháp đấu tranh xuất hiện mang ý nghĩa nhân đạo: con người có khả năng thực hiện những
khát vọng của mình bằng con đường vùng lên đấu tranh (so sánh hình tượng nhân vật Mỵ với hình
tượng nhân vật chị Dậu để thấy được tác phẩm văn học Cách mạng không chỉ phản ánh lý giải hiện
thực mà còn góp phần cải tạo hiện thực)
4.3. Giá trị nghệ thuật
MOON.V N


- Khắc hoạ sinh động nhân vật và có cá tính rõ nét. Hai nhân vật Mị và A Phủ có số phận giống
nhau nhưng tính cách khác nhau được tác giả thể hiện bằng những bút pháp thích hợp.
+ Mị được miêu tả bằng rất ít hành động, mà chủ yếu là sự lặp đi lặp lại những công việc lao
động của người phụ nữ trong cuộc sống tù hãm, một số nét phác hoạ chân dung cũng được nhắc đi
nhắc lại gây ấn tượng đậm, thể hiện chủ yếu qua dòng ý nghĩ tâm tư, nhiều khi là tiềm thức chập
chờn. Giọng trần thuật của tác giả nhiều chỗ nhập vào dòng tâm sự của nhân vật => Diễn tả những ý
nghĩ, tâm trạng và cả những trạng thái mơ hồ của tiềm thức nhân vật.
+ A Phủ với tính cách gan góc, bộc trực, táo bạo thì lại được thể hiện bằng nhiều hành động,
công việc và vài lời đối thoại rất ngắn ngủi, giản đơn.
- hotline: 04.32.99.98.98


KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI
- Ngòi bút sâu sắc và tinh tế khi soi vào tâm lí nhân vật => Diễn tả những xung động diễn biến
của nội tâm nhân vật.
- Ngòi bút tả cảnh đặc sắc, am tường những nét sinh hoạt, phong tục riêng.
- Nghệ thuật kể chuyện cũng rất thành công, cách giới thiệu gây sự chú ý, tạo ấn tượng.
- Ngôn ngữ sinh động và chọn lọc, có sáng tạo. Lối văn giàu tính tạo hình, giọng kể, nhịp kể
chậm, trầm lắng phù hợp với sự cảm thông, yêu mến hai nhân vật chính.
“Ở Vợ chồng A Phủ, nhà văn đã có sự dụng công và thành công trong miêu tả, trong dựng
cảnh. Ông đã dựng lên cho bạn đọc thấy diễn biến tâm lí cùng đời sống nội tâm của nhân vật qua
hàng loạt chi tiết bên ngoài như một dáng ngồi, một cách ăn mặc, một vài câu hỏi, một cái nhìn, một
bước đi… đến một tảng đá hay một ô cửa sổ… khi miêu tả như thế, do đã được nhập vào với số phận
của nhân vật, thuộc được hoàn cảnh sống đầy biến động và đổi thay của nhân vật, nhà văn đã định ra
được một cách tự nhiên một mạch lời kể chuyện vừa phù hợp với tâm lý riêng của họ, vừa mang sự
gãy gọn của ngôn ngữ văn xuôi hiện đại” (Nguyễn Quốc Luân)
III. Tổng kết
- Vợ chồng A Phủ là thành công có tính khai phá của Tô Hoài về đề tài miền núi trong nền văn
học mới. Đời sống và con người miền núi đi vào tác phẩm với những nét bản chất, bằng tình cảm yêu

mến và cái nhìn nhân đạo tích cực, quan điểm giai cấp rõ ràng.
- Tư tưởng nhân đạo cách mạng thấm nhuần ý thức giai cấp, phát hiện khát vọng sống, khả
năng giác ngộ và con đường đi tới Cách mạng của người dân miền núi, đề cao tình hữu ái giai cấp, sự
đồng cảm của những con người nghèo khổ cùng cảnh ngộ, đó là những điểm đáng chú ý trong thành
công của tác phẩm này.
- Khi những dòng cuối cùng của tác phẩm khép lại, trong ta như vẫn còn văng vẳng tiếng sáo
gọi bạn đầu làng, tiếng trẻ con nô đùa cười ầm trước sân, cảnh uống rượu trong nhà thống lí Pá tra,
cảnh trai gái hẹn hò ngày Tết, cảnh cô dâu lúc nào mặt cũng cúi...Thế giới Tây Bắc xa xăm với
những cảnh, những việc, những người vẫn không nguôi đọng lại trong tâm trí mỗi người. Nếu không
gắn bó sâu sắc với hiện thực, không sẵn lòng cảm thông, chia sẻ, không có một bút lực dồi dào, khó
có thể nào viết được những trang văn đặc sắc như vậy.
MOON.V N

- hotline: 04.32.99.98.98


KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI

VỢ CHỒNG A PHỦ - TÔ HOÀI (TIẾT 4)

Dạng đề 1: Phân tích một chi tiết, hình ảnh…
Dạng đề 2: Phân tích nhân vật
Dạng đề 3: Phân tích một khía cạnh giá trị tác phẩm (giá trị nhân đạo mới mẻ độc đáo của tác
phẩm, giá trị hiện thực sâu sắc, nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật)
Dạng đề 4: Phân tích một trích đoạn (đêm tình mùa xuân, đêm mùa đông cắt dây trói cho A Phủ)
Dạng đề 5: Dạng đề liên kết (So sánh hình tượng người phụ nữ trong hai tác phẩm “Vợ chồng A
Phủ” và “Vợ nhặt”; so sánh hai đoạn trích; so sánh nhân vật Pá tra, Bá Kiến…)
GỢI Ý CÁCH LÀM CÁC DẠNG BÀI
Dạng 1: Cách làm bài: các ý cơ bản cần đảm bảo
Ý 1: tái hiện chi tiết, tình tiết, hình ảnh, vị trí và tình huống mà chi tiết xuất hiện

Ý 2: Phân tích ý nghĩa biểu đạt về nội dung và nghệ thuật của chi tiết, hình ảnh
Ý 3: Đánh giá sự đặc sắc của chi tiết hình ảnh trong việc thể hiện chủ đề tư tưởng tác phẩm, trong
thành công của nghệ thuật tác phẩm.
Ví dụ: Chi tiết tiếng sáo được nhắc đến nhiều lần
+ Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi
+ Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng
+ Mà tiếng sao gọi bạn yêu vẫn lơ lửng bay ngoài đường
+ Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi,..
- Ý nghĩa
+ Tiếng sáo biểu hiện cho vẻ đẹp của phong tục, nét đẹp văn hóa người dân miền núi. Tiếng sáo là
biểu tượng đẹp đẽ nhất của tình duyên, của tuổi thanh xuân căng đầy sức sống của Mỵ.
+ Là biểu tượng cho tiếng gọi cuộc sống, tình yêu; nó đã lay gọi, khơi gợi lòng yêu đời, yêu cuộc
sống tự do trong Mị. Trong đêm tình xuân, tiếng sáo ấy làm Mỵ “thiết tha, bổi hổi”, là tác nhân quan
trọng làm thức dậy trong Mị khát vọng tình yêu và hạnh phúc - dấu hiệu đầu tiên của sự hồi tỉnh là
Mị sống lại với những kỉ niệm ngày trước. Nếu như trước đây, Mị tồn tại trong trạng thái vô hồn, vô
cảm, với cảm thức phi thời gian, thì bây giờ Mị đã có ý thức về thời gian, trái tim đã đập những nhịp
bồi hồi, xao xuyến, thôi thúc Mỵ bất chấp cảnh ngộ, muốn đi chơi.
+ Có quan hệ mật thiết với quá trình diễn biến tâm lí của Mị, là động lực thúc đẩy Mị đi đến hành
động chuẩn bị đi chơi xuân
+ Thể hiện tư tưởng của tác phẩm: sức sống con người cho dù bị giẫm đạp, trói buộc nhưng vẫn luôn
âm ỉ chờ cơ hội bùng lên  giá trị nhân đạo
2- Chi tiết căn buồng Mị
- Đó là căn buồng “kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng
chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng”
- Ý nghĩa tả thực: là nơi Mị sống hằng ngày, chật chội và tù túng.
- Ý nghĩa biểu tượng: Như một nhà tù đã giam hãm cuộc đời và tuổi xuân của Mị, làm tê liệt ý thức
sống, ý thức phản kháng của Mị. Sống ở đó Mị đã mất hết ý thức về thời gian, không còn nghĩ đến
quá khứ hiện tại, tương lai mà xem “mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa”, ngày càng “lùi
lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”  Phản ánh cuộc sống đen tối, mờ mịt của người lao động miền
núi dưới ách thống tị của cường quyền và thần quyền. Giá trị hiện thực, tố cáo.

3- Chi tiết lá ngón
Mị nghĩ đến lá ngón 3 lần:
- Lần 1: “Mị ném nắm lá ngón xuống đất, nắm lá ngón Mị đã tìm hái trong rừng, Mị vẫn giấu
trong áo”- định ăn lá ngón để tự tử -> ý thức về cuộc sống tủi nhục của mình -> không chấp nhận
kiếp sống “người-vật”.
MOON.V N

- hotline: 04.32.99.98.98


KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI
- Ý nghĩa:
+ “Lá ngón” xuất hiện lần đầu tiên như một lối thoát. Đây là lối thoát ngắn và hữu hiệu nhất, sự phản
kháng quyết liệt nhưng vô vọng – một hình thức phản kháng bị động.
+ Sự xuất hiện của “lá ngón” lúc này mang tầm ý nghĩa tố cáo xã hội ép buộc con người lương thiện
đi tìm cái chết.
+ Lá ngón cũng là hiện thân cho nỗi thống khổ của nhân dân, cho những tích tụ đắng cay, đầy đau
đớn và uất hận.
+ Tự mình tìm đến lá ngón – độc dược của rừng xanh là sự can đảm của người con gái. Nhưng ném
đi độc dược để tiếp tục sống khổ lại càng can đảm hơn. Đối với Mị, thà chết đi hơn sống nhục, nhưng
rồi lại thà sống nhục còn hơn bất hiếu. Chính chữ hiếu là bản lĩnh cao đẹp nơi người con gái trẻ.
+ “Lá ngón” như vậy, đã mang một tầng ý nghĩa nhân sinh tuy bản thân tượng trưng cho cái chết.
Tìm đến cái chết như một phương tiện giải thoát chính là hành động để khẳng định lòng ham sống,
khát vọng tự do. Điều đó cho thấy, phải tha thiết sống lắm thì khi mất nó người ta mới muốn chết
ngay đi. Còn khi niềm khao khát sống, khao khát hạnh phúc đã băng giá lại thì cũng chẳng còn gì
thúc đẩy người ta nghĩ về cái chết. Đó là lí do cắt nghĩa vì sao khi người cha đã mất rồi mà ý nghĩ về
nắm lá ngón không trở lại với Mị, chừng nào cô còn là một cái bóng vật vờ trôi theo guồng công việc
và không còn nhớ đến cả sự xót thương mình.
- Lần 2 : “Lần lần, mấy năm sau, bố Mị chết. Nhưng Mị cũng không còn tưởng đến Mị có thể ăn
lá ngón tự tử nữa. Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”

Người thân duy nhất qua đời nhưng cái thôi thúc giải thoát trong Mị nay đã tắt. Mị không còn nghĩ
đến đấu tranh bởi lẽ sống hay chết đối với cô lúc này không quan trọng nữa và đương nhiên “lá
ngón” cũng chẳng còn trong tâm trí đã ngủ quên. Đó chính là sự xuất hiện lần thứ hai của “lá ngón”
vì ở lần này, “lá ngón” xuất hiện bằng cách ra đi. Lá ngón phai mờ tượng trưng cho sự ham sống đã
nguội lạnh.
- Lần 3 : Trong đêm tình xuân: “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay,
chứ không buồn nhớ lại nữa”.
+ Tiếng sáo gọi bạn làm Mỵ nhớ lại những tháng ngày tươi đẹp trong quá khứ
+ Mị lấy rượu ra uống “ực từng bát”- Mị đang uống khát khao, mơ ước, căm hận vào lòng, nhưng
càng uống càng tỉnh, nhớ lại mình ngày xưa, so với mình hiện tại, giật mình cho những gì bấy lâu
phải chịu đựng, ý thức cá nhân dâng lên mạnh mẽ, không thể chấp nhận nhục nhã đớn đau trong cái
cảnh “sống không ra người”, không thể tự do thể xác, lá ngón một lần nữa xuất hiện. Khi muốn giải
thoát, Mị tìm tới lá ngón; khi Mị muốn chết, lá ngón lại hiện về “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc
này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa”. Lá ngón lại lần nữa xuất hiện với tầng
ý nghĩa giải thoát, nhưng được lên một nấc của “sự tự ý thức”, đánh dấu sự trở lại của ý thức sống,
đánh dấu sự thức tỉnh của một tâm hồn tưởng chừng như đã “chết đi trong cõi sống”.
+ Lần xuất hiện này của lá ngón là quan trọng nhất, mạnh mẽ nhất. Mị nghĩ đến lá ngón với sự
cương quyết tột cùng, trạng thái phẫn nộ và ý thức rõ nhất vì giờ đây, cô không còn gì để hối tiếc.
Tuổi xuân đầu đời – thời gian đẹp nhất – nay đã hết, cha già – nguồn yêu thương vô tận cũng không
còn. Lòng Mị nay là cõi chết. Lá ngón đối với nàng không là liều thuốc độc, mà trở thành thứ
phương tiện, hình thức, con đường để đi đến một bến bờ khác không còn đớn đau, Mị tìm đến lá
ngón là tìm đến cái chết như một sự tự cứu và phản kháng.
- Khái quát: chấm màu xanh lá ngón vào bức tranh xô bồ của thời cuộc, Tô Hoài đã đưa “lá ngón”
từ chỗ độc dược ngàn đời của núi rừng, là cái chết từ thiên nhiên, nay bỗng nhiên lại là sự giải thoát.
Lá ngón xuất hiện ba lần với ba tầng ý nghĩa ngày càng sâu sắc hơn, dữ dội hơn. Cái độc của lá ngón
còn thua cái độc của xã hội. Lá càng độc là đớn đau đồng bào chịu càng nhiều. Lá ngón trở thành dấu
hiệu báo động cho sự khẩn thiết, cầu cứu của đồng bào miền cao.
Dạng 2
Phân tích nhân vật Mị
+ Tổng quát: Giới thiệu chung về tác giả, tác phẩm. Vị trí, ý nghĩa hình tượng nhân vật Mị trong việc

biểu hiện nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.
+ Phân tích: Số phận bất hạnh. Sự hồi sinh khát vọng sống và khát vọng tự do.
MOON.V N

- hotline: 04.32.99.98.98


KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI
+ Đánh giá: Vai trò, ý nghĩa hình tượng với giá trị tác phẩm: giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo mới
mẻ, độc đáo. Đặc sắc nghệ thuật xây dựng hình tượng. So sánh với hình tượng phụ nữ khác.
Phân tích nhân vật A Phủ
+ Tổng quát: Giới thiệu chung về tác giả, tác phẩm. Vị trí, ý nghĩa hình tượng nhân vật A Phủ trong
việc biểu hiện nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.
+ Phân tích: Số phận bất hạnh. Phẩm chất:
+ Đánh giá: Vai trò, ý nghĩa hình tượng với giá trị tác phẩm: giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo mới
mẻ, độc đáo. Đặc sắc nghệ thuật xây dựng hình tượng
Dạng 3: Giá trị nhân đạo mới mẻ độc đáo.
+ Phân tích dựa vào ba luận điểm.
- Tố cáo thế lực thống trị, cường quyền, thần quyền đã liên kết để tước đoạt quyền sống của những
con người đáng ra phải được hạnh phúc nhất.
- Đồng cảm sâu sắc với số phận con người nghèo khổ miền núi trước cách mạng.
- Khám phá, phát hiện vẻ đẹp, phẩm chất người lao động, đặc biệt là khát vọng sống tự do.
+ Ở mỗi luận điểm: phân tích ở cả hai nhân vật, có sự đối chiếu, liên hệ khéo léo với các nhân vật
đồng dạng khác trong văn học.
Dạng 4: Phân tích đêm tình mùa xuân
Dựa vào phần kiến thức cơ bản, phân tích diễn biến tâm trạng của Mị, qua đó thấy được:
+ Khát vọng sống và khát vọng tự do mãnh liệt.
+ Nghệ thuật miêu tả nội tâm tinh tế.
Dạng 5: So sánh
1. So sánh hình tượng người phụ nữ trong hai tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” và “Vợ nhặt”.

+ So sánh dựa trên các đặc điểm chủ yếu: Số phận và Phẩm chất.
+ Qua so sánh thấy được đặc trưng thi pháp văn học kháng chiến, đồng thời làm rõ nét riêng trong
giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của hai tác phẩm
2. So sánh nhân vật Pá tra và Bá Kiến
Nội dung chính
Phân tích nhân vật Bá Kiến
Lai lịch nhân vật: Nhà Bá Kiến bốn đời làm tổng lí. Con trai hắn làm lí trưởng. Bản thân Bá Kiến
làm lí trưởng rồi làm chánh tổng. Hắn leo lên đỉnh cao của danh vọng “Bá hộ tiên chỉ làng Vũ Đại”
“Chánh hội đồng kì hào, huyện hào, Bắc kì nhân dân đại biểu”. Hắn có phe cánh mạnh luôn đối địch
với bọn cường hào trong làng.
Bản chất Bá Kiến
- Gian hùng, nham hiểm
- Thủ đoạn dùng người
- Ném đá giấu tay.
- Đểu cáng tàn bạo, dâm ô đồi bại:
Nghệ thuật xây dựng nhân vật. Bá Kiến là nhân vật điển hình.
+ Bá Kiến có nét chung của giai cấp thống trị tham lam tàn bạo không từ một thủ đoạn nào để bóc lột
người nghèo (giống Nghị Quế, Nghị Lại…)
+ Bá Kiến có nét riêng của tên ác bá gian hùng, nham hiểm, thủ đoạn (cái cười để thử dây thần kinh
người, lối nói giả dối…)
+ Nghệ thuật độc đáo, sắc sảo của Nam Cao: Các nhà văn hiện thực khác chỉ chú ý miêu tả ngoại
hình giai cấp thống trị, còn Nam Cao ít chú ý ngoại hình khi xây dựng nhân vật Bá Kiến. Ông chủ
yếu khắc họa tâm địa “Cụ cười nhạt nhưng giòn giã lắm”, “Bao giờ cụ cũng quát để thử dây thần
kinh người”, “tiếng cười Tào Tháo”…
Tóm lại: Bá Kiến là nhân vật tiêu biểu cho giai cấp thống trị đương thời. Bá Kiến là sự hội tụ những
nét tàn bạo, xảo quyệt, đểu cáng của bọn người bóc lột.
Nhân vật Pá Tra
Lai lịch nhân vật: Đời bố Pá Tra đã làm thống lý, đến Pá Tra bây giờ cũng làm thống lý – người cai
quản một vùng bản làng miền núi của người Mèo (như chức chánh tổng ở miền xuôi), quyền uy nhất
MOON.V N


- hotline: 04.32.99.98.98


KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI
vùng: “Nhà Pá Tra làm thống lý, ăn của dân nhiều, đồn Tây lại cho muối về bán, giàu lắm, nhà có
nhiều nương, nhiều bạc, nhiều thuốc phiện nhất làng”
Bản chất của Pá Tra: Tàn ác tham lam đến lạnh lùng vô cảm
+ Mục đích bóc lột khống chế người dân để làm giầu và làm tăng thế lực.
+ Thủ đoạn: Cho vay nặng lãi để bóc lột người dân một cách tàn ác, trói buộc người dân vào thân
phận nô lệ. Cách thu nợ tàn ác. Dùng thế lực cường quyền và bóng ma thần quyền để cai trị người
dân. Đối xử độc ác phi nhân tính với người ở
Nghệ thuật xây dựng nhân vật Pá Tra
Giống nhau: Bản chất tàn ác thâm hiểm của giai cấp bóc lột trong xã hội thực dân nửa phong kiến từ
đó thấy được giá trị tố cáo hiện thực sâu sắc của tác phẩm. Gợi căm phẫn trong lòng người đọc về xã
hội bất công và mong ước xã hội công bằng. Đây là điểm gặp gỡ của những nhà văn hiện thực và
nhân đạo chủ nghĩa.
Khác nhau
+ Về nội dung : Bá Kiến điển hình cho giai cấp thống trị ở miền xuôi trước cách mạng Tháng Tám
trong không khí xã hội ngột ngạt, mâu thuẫn xung đột dữ dội. Pá Tra tiêu biểu cho giai cấp thống trị
miền núi, dưới chế độ phong kiến thổ ti, lang đạo, u mê.
+ Nghệ thuật xây dựng nhân vật: Nam Cao có nghệ thuật xây dựng nhân vật điển hình, tài năng
diễn tả tâm lí nhân vật, ngôn ngữ trần thuật …Tô Hoài có tài năng ở nghệ thuật tả cảnh và phong tục
tộc quán, cảnh xử kiện, cảnh sinh hoạt rất đặc trưng cho miền núi và tính cách nhân vật tiêu biểu cho
giai cấp thống trị lạnh lùng tàn ác phi nhân tính.
Kết thúc vấn đề: Nam Cao xây dựng Bá Kiến thể hiện sức sáng tạo dồi dào của cây bút là bậc thầy
của chủ nghĩa hiện thực. Ông được coi là “Đồng minh không ngờ của cách mạng” góp phần tố cáo
xã hội bất công. Tô Hoài xây dựng thành công nhân vật Pá Tra mở ra cái hiện thực về chế độ phong
kiến bất công ở miền núi xưa như ông quan niệm “Viết văn là một quá trình đấu tranh để nói ra sự
thật”.

MOON.V N

- hotline: 04.32.99.98.98


KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI

VỢ NHẶT - KIM LÂN (TIẾT 1)
I. Tìm hiểu chung
1- Tác giả
- Kim Lân tên khai sinh là Nguyễn Văn Tài, quê ở tỉnh Bắc Ninh. Do hoàn cành gia đình khó khăn,
ông chỉ học hết tiểu học rồi vừa làm việc kiếm sống vừa viết văn. Năm 1994, ông tham gia Hội Văn
hóa cứu quốc và hoạt động văn nghệ phục vụ kháng chiến, cách mạng. Năm 2001, ông được tặng
Giải thưởng Nhà nước về Văn học và nghệ thuật. Một số tác phẩm tiêu biểu: truyện ngắn “Làng”,
“Vợ nhặt”, tập truyện ngắn “Con chó xấu xí”,..
- Kim Lân là cây bút chuyên viết truyện ngắn với đề tài chính là nông thôn và người nông dân. Ông
viết chân thật, xúc động về cuộc sống và người dân quê mà ông hiểu sâu sắc cảnh ngộ và tâm lí của
họ - những con người gắn bó tha thiết với quê hương và Cách mạng. Trong tác phẩm của Kim Lân ta
thấy thấp thoáng cuộc sống của làng quê Việt Nam nghèo khổ, thiếu thốn mà yêu đời, thật thà, chất
phác,..
2- Tác phẩm
2.1. Hoàn cảnh sáng tác/ Xuất xứ: “Vợ nhặt” là truyện ngắn xuất sắc của Kim Lân in trong tập “Con
chó xấu xí” (1962). Tiền thân của truyện là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư”- được viết ngay sau CMT8
nhưng dang dở và thất lạc bản thảo. Sau khi hòa bình lập lại (1954), ông dựa vào một phần cốt truyện
cũ để viết truyện ngắn này.
2.2. Tóm tắt
II. Đọc hiểu văn bản
1. Tình huống truyện và ý nghĩa
1.1 Khái niệm, vai trò của tình huống truyện
- Có thể hiểu theo nghĩa rộng: tình huống truyện chính là bối cảnh, hoàn cảnh (không gian, thời gian,

địa điểm…tạo nên câu chuyện).
- Theo nghĩa chặt chẽ của từ: tình huống là sự kiện đặc biệt của đời sống được tái hiện trong tác
phẩm nhằm thể hiện sâu sắc tư tưởng chủ đề, khắc họa sâu tính cách nhân vật.
- Có ba loại tình huống phổ biến trong truyện ngắn: tình huống hành động; tình huống tâm trạng;
tình huống nhận thức. Nếu tình huống hành động chủ yếu nhằm tới hành động có tính bước ngoặt
của nhân vật; tình huống tâm trạng chủ yếu khám phá diễn biến tình cảm, cảm xúc của nhân vật; thì
tình huống nhận thức chủ yếu cắt nghĩa giây phút “giác ngộ” chân lý của nhân vật. Tình huống càng
độc đáo, mới lạ, càng giúp cho tác phẩm hấp dẫn, ấn tượng, sâu sắc với người đọc.
1.2. Thâu tóm tình huống: Tràng - một gã trai ngèo khổ, thô kệch lại là dân ngụ cư - lâu nay ế vợ,
bỗng dưng nhặt được vợ mà lại là vợ theo hẳn hoi; Tràng có vợ vào lúc không ai lại đi lấy vợ.
1.3. Diễn biến của tình huống: một chuỗi ngạc nhiên kế tiếp: người dân xóm ngụ cư ngạc nhiên, bà
cụ Tứ ngạc nhiên và cuối cùng, chính Tràng cũng ngạc nhiên.
1.4. Tính chất và ý nghĩa của tình huống
1.4.1. Chuyện đùa mà không đùa: Hoàn cảnh tàn ác đang đem những chuyện hệ trọng thiêng liêng
vào bậc nhất của con người ra làm trò đùa, con người bị cuốn vào và rồi đã bước ra khỏi trò đùa kia
với tư cách của Con người.
1.4.2. Đám cưới ở giữa đám ma hay là sự sống nảy sinh giữa cái chết. Cuộc tương tranh giữa Sự
sống và Cái Chết. Cuộc tương tranh giữa Bóng Tối và Ánh Sáng.
1.4.3. Tình huống truyện mà Kim Lân xây dựng vừa bất ngờ lại vừa hợp lí. Qua đó, tác phẩm
thể hiện rõ giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo và giá trị nghệ thuật.
1.4.4. Đây là tình huống độc đáo, lạ khi mà anh Tràng thô kệch, nghèo mà lại lấy được vợ một cách
dễ dàng. Và là một tình huống thật bi hài khi anh thanh niên này đi lấy vợ trong nạn đói khủng khiếp,
khi mà cái chết như đang cận kề. Ý nghĩa: Tố cáo tội ác của bọn thực dân, phong kiến, phát xít đã
đẩy nhân dân vào nạn đói, khiến giá trị con người trở nên thật rẻ rúng. Ca ngợi nhân dân lao động: sự
MOON.V N

- hotline: 04.32.99.98.98


KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI

yêu thương, cưu mang, đùm bọc lẫn nhau giúp họ vượt qua tất cả. Dù trong hoàn cảnh khó khăn
nhưng con người vẫn luôn khát khao về hạnh phúc, mái ấm gia đình.
2. Phân tích nhân vật
2.1. Phân tích nhân vật Tràng
CÁCH 1
- Kim Lân là một trong những nhà văn xuất sắc của nền văn xuôi hiện đại Việt Nam trước và sau
Cách mạng tháng Tám. Một trong những tác phẩm tiêu biểu của Kim Lân được viết ngay sau khi
Cách mạng tháng Tám thành công là truyện ngắn “Vợ nhặt”, được in trong tập truyện “Con chó xấu
xí”. Tác phẩm mà Kim Lân đã tái hiện thành công bức tranh ảm đạm và khủng khiếp về nạn đói Ất
Dậu (1945) của nước ta. Trên cái nền tăm tối và đau thương ấy, nhà văn đã đặt vào đó hình ảnh của
nhân vật Tràng: nghèo đói, bất hạnh nhưng giàu tình người và khát vọng hạnh phúc. Điều đó được
thể hiện qua chính câu chuyện nhặt vợ của anh giữa ngày đói.
2.1.1. Thật vậy, xuất hiện trong tác phẩm, Tràng vốn là một gã trai nghèo, sống ở xóm ngụ cư,
có một mẹ già và làm nghề đẩy xe bò mướn. Đã vậy,Tràng lại có một ngoại hình xấu xí, thô kệch với
“cái đầu trọc nhẵn”; “cái lưng to rộng như lưng gấu”; “hai con mắt gà gà, nhỏ tí” lúc nào cũng
đắm vào bóng chiều. Thêm vào đó, tính tình của Tràng lại có phần “dở hơi”. Có thể nói,Tràng có
một cảnh ngộ thật bất hạnh và tội nghiệp.
2.1.2. Diễn biến tâm lí của nhân vật Tràng. Vậy mà, con người có thân phận thấp hèn ấy bỗng
nhiên lại trở thành một chú rể có thể coi là hạnh phúc: Tràng bỗng dưng có vợ. Tràng có vợ bằng
cách “nhặt” được chỉ qua hai lần gặp gỡ, vài câu nói đùa và bốn bát bánh đúc giữa ngày đói. Qủa
thật, chuyện lấy vợ của Tràng là một lạ mà thú vị - đùa mà thật , thật mà cứ như đùa.
- Lúc đầu, khi người phụ nữ đói nghèo, rách rưới đồng ý theo không Tràng về làm vợ, Tràng không
phải không biết “chợn”: “Thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không , lại còn
đèo bòng”. Nhưng rồi anh ta chặc lưỡi “Chậc, kệ!”. Có vẻ như một quyết định không nghiêm túc
như phóng lao phải theo lao vậy.Việc hai người đến với nhau bề ngoài có vẻ ngẫu nhiên nhưng bên
trong lại là tất nhiên: người đàn bà cần Tràng để có một chỗ dựa qua thì đói kém, còn Tràng cũng cần
người phụ nữ nghèo ấy để có vợ và để biết đến hạnh phúc.
- Trên đường đưa vợ về nhà, Tràng thật sự vui và hạnh phúc : “Trong một lúc, Tràng như quên hết
những cảnh sống ê chề, tăm tối hàng ngày, quên cả đói khát đang đe doạ…Trong lòng hắn, lúc này
chỉ còn tình nghĩa với người đàn bà đi bên.Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn

ông ấy…”. Có thể nói , trong tác phẩm, có tới hơn hai mươi lần nhà văn nhắc đến niềm vui và nụ
cười thường trực của Tràng khi đã có vợ bằng các từ ngữ rất gợi tả và gợi cảm: mặt phớn phở, mắt
sáng lên lấp lánh, miệng cười tủm tỉm…
- Chỉ sau một đêm “nên vợ nên chồng”. Tràng thấy mình đổi khác “trong người êm ái , lửng lơ như
người từ giấc mơ đi ra.Việc hắn có vợ đến hôm nay hắn vẫn còn ngỡ như không phải”. Tràng “bỗng
nhiên thấy thương yêu và gắn bó với căn nhà”; “Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con
đẻ cái ở đấy. Cái nhà như tổ ấm che mưa che nắng…Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, thấy hắn
có bổn phận phải lo cho vợ con sau này…”
Niềm vui của Tràng thật cảm động, lẫn cả hiện thực và ước mơ. “Hắn xăm xăm chạy ra giữa
sân, hắn muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà”. So với cái dáng “ngật ngưỡng” của
Tràng ở đầu tác phẩm, hành động “xăm xăm” này của Tràng là một đột biến quan trọng, một bước
ngoặt đổi thay cả số phận lẫn tính cách của Tràng: từ đau khổ sang hạnh phúc, từ chán đời sang yêu
đời, từ ngây dại sang ý thức. Tràng đã thật sự “phục sinh tâm hồn”- đó chính là giá trị lớn lao của
hạnh phúc. Có một hiện thực tuy chưa rõ nét nhưng đã hiện ra ở cuối tác phẩm, trong suy nghĩ của
Tràng “cảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp. Đằng trước có lá cờ đỏ to
lắm”. Đoàn người đi phá kho thóc của Nhật và lá cờ Việt Minh. Đây là hiện thực nhưng cũng là ước
mơ về một tương lai hướng về Đảng về cách mạng của tràng và những người như Tràng.
3. Kết bài: Tóm lại, Kim Lân miêu tả tâm trạng nhân vật Tràng xoay quanh tình huống nhặt vợ hết
sức đặc biệt. Cũng từ đó, hình tượng nhân vật Tràng có vai trò lớn trong việc thể hiện tư tưởng chủ
đề của tác phẩm: Những người đói, họ không nghĩ đến cái chết mà luôn nghĩ đến sự sống.
Cũng qua Tràng và câu chuyện nhặt vợ của anh, nhà văn giúp người đọc cảm nhận được vẻ đẹp tâm
hồn của những người dân lao động nghèo :đó là vẻ đẹp tình người và niềm tin tưởng vào tương lai.
MOON.V N

- hotline: 04.32.99.98.98


KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI
CÁCH 2
2.1. Vị trí của nhân vật

Tràng là nhân vật chính trong Vợ nhặt. Câu chuyện ở đây là câu chuyện của chính anh. Phân tích
nhân vật, có nghĩa là phân tích toàn diện một con người trong văn học, từ lai lịch, diện mạo cho đến
ngôn ngữ, hành động, tâm trạng... Tuy nhiện, anh Tràng là một người lao động rất bình thường, tính
cách đơn giản, khác với bà cụ Tứ, anh ít có những suy nghĩ bên trong. Khi phân tích, tập trung vào
mấy điểm:
2.1.1. Lai lịch, ngoại hình
- Tràng là một gã trai nghèo khổ, dân cư ngụ, làm nghề đẩy xe bò thuê, nuôi mẹ già. Dân cư ngụ là
nhưng người vốn từ nơi khác đến. Vì thế, dân cư ngụ không có ruộng đất, những thứ vô cùng quan
trọng đối với người nông dân thời xưa. Đã vậy, họ còn bị phân biệt đối xử, thường phải ở nơi bìa
làng, hoặc ở chỗ hẻo lánh. Nhà cửa của anh ta, cái được gọi là “nhà” thì luôn vắng teo đứng rúm ró
trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại. Hơn nữa, vì là dân ngụ cư, Tràng bị coi khinh,
chẳng mấy ai thèm nói chuyện, trừ lũ trẻ hay chọc ghẹo khi anh ta đi làm về.
- Tràng có ngoại hình xấu xí, thô kệch. Mỗi buổi chiều về, hắn bước ngật ngưỡng trên con đuờng
khẳng khiu luồn qua cái xóm chợ của những người ngụ cư vào bên trong bến. Hắn vừa đi vừa tủm
tỉm cười, hai con mắt nhỏ tí, gà gà đắm vào bóng chiều, hai bên quai hàm bạnh ra, rung rung làm cho
cái bộ mặt thô kệch của hắn lúc nào cũng nhấp nhỉnh những ý nghĩ vừa lý thú vừa dữ tợn... Còn đầu
của Tràng thì cạo trọc nhẵn, cái lưng to rộng như lưng gấu, ngay cả cái cuời cũng lạ, cứ phải ngửa
mặt lên cười hềnh hệnh.
2.1.2. Tính cách
- Tràng là người vô tư, nông cạn.
+ Tràng là người hầu như không biết tính toán, không ý thức hết hoàn cảnh của mình. Anh ta thích
chơi với trẻ con và chẳng khác chúng là mấy. Mỗi lần Tràng đi làm về, trẻ con trong xóm cứ thấy cái
thân hình to lớn, vập vạp của hắn dốc chợ đi xuống là ùa ra vây lấy hắn, reo cười váng lên. Rồi
chúng, đứa túm đằng trước, đứa túm đằng sau, đứa cù, đứa kéo, đứa lôi chân không cho đi. Khi ấy,
Tràng chỉ ngửa mặt lên cười hềnh hệch. Anh với lũ trẻ con như anh em, bè bạn và cái xóm ngụ cư ấy
mỗi chiều lại xôn xao lên được một chút.
+ Ngay cả chuyện quan trong như lấy vợ, Tràng cũng chỉ quyết định trong chốc lát. Đó là lần gò
lưng kê cái xe thóc vào dốc tỉnh, Tràng hò một câu chơi cho đỡ nhọc. Chủ tâm của anh ta là vui đùa.
Thế rồi, một người đàn bà đang đói bám lấy để được ăn bánh, Tràng cũng vui vẻ chấp nhận. Lần thứ
hai, cô ta tới ăn vạ, Tràng chấp nhận đưa về nhà để thành… vợ chồng! Xưa nay chưa có ai quyết

định việc lấy vợ nhanh chóng như Tràng!
- Tràng là người đàn ông nhân hậu phóng khoáng.
+ Thật ra, ban đầu Tràng không chủ tâm tìm vợ. Thấy người đàn bà đói, anh cho ăn. Khi thấy thị
quyết theo mình thì Tràng vui vẻ chấp nhận. Tràng lấy vợ trước hết vì lòng thương đối với một con
người đói khát hơn mình.
+ Khi người phụ nữ chấp nhận làm vợ, Tràng đã có ý thức chăm sóc: Hôm ấy hắn đưa thị vào chợ
tỉnh bỏ tiền ra mua cho thị cái thúng con đựng vài thứ lặt vặt và ra hàng cơm đánh một bữa no nê…
Anh còn mua hai hào dầu thắp để vợ mới vợ miếc cũng phải cho nó sáng sủa một tí.
+ Lấy nhau chẳng phải vì tình, lại “nhặt vợ” một cách dễ dàng, nhưng không vì thế mà Tràng coi
thường người vợ của mình. Anh muốn làm cho người ấy được vui (khoe mua dầu về thắp sáng), có
lúc muốn thân mật nhưng không dám suồng sã. Tràng trân trọng, nâng niu hạnh phúc mà mình có
được: trong chốc lát, Tràng như quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hằng ngày, quên cả đói khát
ghê gớm đang đe doạ, quên cả những tháng ngày trước mặt. Trong lòng hắn bây giờ chỉ còn tình
nghĩa giữa hắn với người đàn bà đi bên. Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn ông
nghèo khổ ấy, nó ôm ấp mơn man khắp da thịt Tràng, tựa hồ như có bàn tay vuốt ve nhẹ trên sống
lưng.
- Sau khi lấy vợ, Tràng trở thành một người sống có trách nhiệm.
+ Anh ngoan ngoãn với mẹ, tránh gợi niềm tủi hờn ở người khác. Đặc biệt, đối với Tràng, có vợ là
bước sang một quãng đời khác: sáng hôm sau, mặt trời lên bằng con sào, Tràng mới trở dậy. Trong
người êm ái lửng lơ như người vừa trong mơ đi ra.
MOON.V N

- hotline: 04.32.99.98.98


KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI
+ Từ một anh phu xe cục mịch, chỉ biết việc trước mắt, sống vô tư, Tràng đã là người quan tâm đến
những chuyện ngoài xã hội và khao khát sự đổi đời. Khi tiếng trống thúc thuế ngoài đình vang lên
vội vã, dồn dập, Tràng đã thần mặt ra nghĩ ngợi, đây là điều hiếm có đối với Tràng xưa nay. Trong ý
nghĩ của anh lại vụt hiện ra cảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp để cướp kho

thóc của Nhật và đằng trước là lá cờ đỏ to lắm. Tràng nhớ tới cảnh ấy và lòng ân hận, tiếc rẻ và trong
óc vẫn thấy đám người đói và lá cờ bay phấp phới... Tràng đã mở đầu cho câu chuyện Vợ nhặt bằng
những bước ngật ngưỡng trên con đường khẳng khiu luồn qua cái xóm chợ của những người ngụ cư
vào buổi chiều chạng vạng mặt người và cũng chính anh đã kết thúc câu chuyện ấy vào buổi sớm
mai với một hình ảnh mới lạ về đoàn người nghèo đói vùng lên dưới bóng lá cờ đỏ bay phấp phới.
2.1.3. Số phận
- Cuộc đời của Tràng tiêu biểu cho số phận của người dân nghèo trước cách mạng tháng Tám. Khi
chưa có nạn đói thì nghèo đến nỗi không lấy nổi vợ (con trai lão Hạc trong tác phẩm cùng tên Nam
Cao cũng vì nghèo không lấy vợ, phẫn chí mà bỏ đi làm mộ phu), trong nạn đói lại lấy vợ, niềm hạnh
phúc đan xen với bất hạnh.
- Cuộc đời của những người như Tràng nếu không có một sự thay đổi mang tính đột biến của cả xã
hội sẽ sống mãi trong sự tăm tối, đói khát. Ở Tràng, tuy chưa có được sự thay đổi đó, nhưng cuộc
sống đã bắt đầu hé mở cho anh một hướng đi. Đó là con đường đến với cách mạng một cách tự nhiên
và tất yếu mà những người như Tràng sẽ đi và trong thực tế lịch sử, người nông dân Việt Nam đã đi.
2.1.4. Nghệ thuật xây dựng nhân vật của nhà văn
- Kim Lân đã khắc hoạ nhân vật Tràng với đầy đủ diện mạo, ngôn ngữ, hành động, đặc biệt là diễn
biến tâm trạng của Tràng bằng ngòi bút sắc sảo. Anh chàng phu xe cục mịch nhưng có một đời sống
tâm lý sống động, khi hãnh diện, cái mặt vênh vênh tự đắc với mình bởi vừa mới nhặt được vợ, lúc
lật đật chạy theo người đàn bà, như người xấu hổ chạy trốn, hay lúng túng, tay nọ xoa xoa vào vai
kia, cũng có khi lòng quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hằng ngày, chỉ còn tình nghĩa với
người đàn bà đi bên. Anh thô kệch nhưng không sỗ sàng, trái lại biết ngượng nghịu, biết sợ, nhất là
biết lo nghĩ cho cuộc sống về sau.
- Qua nhận vật Tràng, không những nhà văn phản ánh một mặt trận đen tối trong hiện thực xã hội
trước năm 1945 cùng số phận của người dân nghèo mà còn phát hiện vẻ đẹp tâm hồn của họ. Kim
Lân đã tiếp nối những trang viết giàu chất nhân bản về người lao động bình thường của những nhà
văn trước đó như Ngô Tất Tố, Thạch Lam, Nam Cao...
MOON.V N

- hotline: 04.32.99.98.98



KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI

VỢ NHẶT - KIM LÂN (TIẾT 2)
2.2. Nhân vật người vợ nhặt
2.2.1. Trên cái nền tăm tối và đau thương ấy, nhà văn đã đặt vào đó hình ảnh của nhân vật người vợ
nhặt: nghèo đói, bất hạnh nhưng lại có một khát vọng sống mãnh liệt. Xuất hiện trong bối cảnh
ngày đói quay quắt, ý chí bám lấy sự sống vấn rất mạnh mẽ trong nhân vật (bỏ qua ý thức về danh
dự, chấp nhận theo không Tràng).
2.2.2. Về cảnh ngộ, xuất hiện trong tác phẩm, người vợ nhặt không tên tuổi, không quê hương,
không gia đình, không nghề nghiệp… Từ đầu đến cuối tác phẩm chị chỉ được gọi bằng cô ả, thị,
người đàn bà…
- Chân dung không mấy dễ nhìn, gầy vêu vao, ngực gầy lép, khuôn mặt lưỡi cày xám xịt, quần áo thì
rách như tổ đỉa.
2.2.3. Về tính cách, trước khi trở thành vợ Tràng, thị là một người phụ nữ ăn nói chỏng lỏn, táo bạo
và liều lĩnh. Lần gặp đầu tiên, thị chủ động làm quen ra đẩy xe bò cho Tràng và “liếc mắt cười tít”
với Tràng. Lần gặp thứ hai, thị “sầm sập chạy tới”, “sưng sỉa nói” và lại còn “đứng cong cớn” trước
mặt Tràng. Đã vậy, thị còn chủ động đòi ăn. Khi được Tràng mời ăn bánh đúc, thị đã cúi gằm ăn một
mạch bốn bát bánh đúc. Ăn xong còn lấy đũa quẹt ngang miệng và khen ngon…Cái giỏi của Kim
Lân là miêu tả người đàn bà vừa xấu- nghèo- đói- rách- chao chát- chỏng lỏn- thô tục…nhưng người
ta vẫn không có cảm giác khinh thường. Cách viết của nhà văn cứ khiến ta hiểu rằng, tất cả những
biểu hiện trên của thị suy cho cùng cũng là vì đói. Cái đói trong một lúc nào đó nó có thể làm biến
dạng tính cách của con người. Nhà văn thật sự xót xa và cảm thông cho cảnh ngộ đói nghèo của
người lao động. Bởi vì khi trở thành vợ Tràng, thị đã trở về với chính con người thật của mình là một
người đàn bà hiền thục, e lệ, lễ phép, đảm đang.
+ Điều đó được thể hiện qua dáng vẻ bẽn lẽn đến tội nghiệp của thị khi bên Tràng vào lúc trời
chạng vạng (thị đi sau Tràng ba bốn bước, cái nón rách che nghiêng, “rón rén, e thẹn” , ngượng
nghịu,“chân nọ bước díu cả vào chân kia”...) thật tội nghiệp cho cảnh cô dâu mới theo chồng về
nhà: một cảnh đưa dâu không xe hoa, chẳng cỗ cưới mà chỉ thấy những khuôn mặt hốc hác u tối của
những người trong xóm và âm thanh của tiếng quạ, tiếng khóc hờ người chết tang thương…

+ Người đàn bà khốn khổ này trao thác thân phận mình cho Tràng chỉ bằng bốn bát bánh đúc và
một câu nói đùa → đến với Tràng trước hết như đến với một nơi chốn có thể nương tựa lúc đói kém
… Kim Lân đã rất tinh khi thi thoảng điểm vào truyện một vài thất vọng thầm kín của người vợ nhặt
ấy trước gia cảnh khốn cùng của nhà chồng :
+ Một tiếng thở dài cố nén trong cái ngực gầy lép nhô hẳn lên, trước túp nhà rách nát và rúm ró.
+ Cách nhếch mép cười nhạt nhẽo và nét mặt bần thần khi bước vào nơi ở của anh chàng vừa nãy
thôi còn vỗ túi hớn hở “rích bố cu”.
+ Hai con mắt thoáng tối lại khi được bà lão mời ăn cháo cám.
- Chị đã trở thành một người đàn bà khác kể từ khi làm vợ Tràng (so với Tràng, người vợ nhặt đến
với cuộc sống gia đình với nhiều phấp phỏng hơn).
+ Trên con đường (“đưa dâu”) từ chợ về qua xóm ngụ cư, người đàn bà cong cớn trơ trẽn ở chợ bỗng
trở nên e dè, ngượng ngập, và có khó chịu lắm trước những tò mò trêu chọc thì cũng chỉ dám càu
nhàu trong miệng – khẽ đến mức Tràng đi bên cạnh cũng không nghe thấy.
+ Đôi mắt tư lự khi bỡ ngỡ đặt bước chân lên con đường mới, dáng điệu khép nép ngồi mớm ở mép
giường và tiếng chào u lúng túng … -> Người đàn bà gầy rạc, xám xịt và rách rưới kia bỗng có cảm
giác của một nàng dâu mới.
+ Sự thay đổi ở người vợ nhặt khiến Tràng phải ngạc nhiên : “Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ
ràng là người đàn bà hiền hậu, đúng mực, không còn gì là vẻ chao chát chỏng lỏn như mấy lần Tràng
gặp ngoài tỉnh”
MOON.V N

- hotline: 04.32.99.98.98


KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI
- Cuộc đời dưới cái nhìn của Kim Lân éo le mà nhân hậu: chị vợ kia chịu đi theo một người đàn ông
xấu xí và xa lạ thoạt đầu như để tránh sự cô đơn, sự đói. Nhưng về đến nhà chồng, cái cảnh đói xem
ra không tránh được. Nhưng cuộc đời bất ngờ dành cho chị một sự đền bù: không thoát được đói rách
nhưng dần dần chị đã có được tình thâm, có được tình thương, có được ý thức bổn phận với những
con người khác → trong đói khát tột cùng tình thương quí hơn bát cơm manh áo, chính tình thương

khiến những con người khốn khổ được sống như những con người.
- Một chi tiết khiến người đọc không thể quên ở người vợ nhặt là chi tiết chi bưng lấy bát chè cám
mà người mẹ chồng đưa cho. Hai con mắt chị “tối lại” nhưng ngay lúc đó chị “điềm nhiên và vào
miệng” → Chị không muốn làm mất đi niềm vui của người mẹ già nua kia. => Người vợ nhặt vô
danh nhưng không vô nghĩa. Bóng dáng của chi hiện lên gợi lên một sự ấm áp. Chị mang đến một
làn gió tươi mát cho cuộc sống tối tăm bên bờ cõi chết
- Sau một ngày làm vợ, chị dậy sớm, quét tước, dọn dẹp cho căn nhà khang trang, sạch sẽ. Đó là hình
ảnh của một người vợ biết lo toan, thu vén cho cuộc sống gia đình – hình ảnh của một người vợ hiền,
một cô dâu thảo.
+ Trong bữa cơm cưới giữa ngày đói, chị tỏ ra là một phụ nữ am hiểu về thời sự khi kể cho mẹ và
chồng về câu chuyện ở Bắc Giang người ta đi phá kho thóc của Nhật. Chính chị đã làm cho niềm hy
vọng của mẹ và chồng thêm niềm hy vọng vào sự đổi đời trong tương lai.
- Tóm lại, người phụ nữ không tên tuổi, không gia đình, không tên gọi, không người thân ấy đã thật
sự đổi đời bằng chính tấm lòng giàu tình nhân ái của Tràng và mẹ Tràng. Bóng dáng của thị hiện ra
tuy không lộng lẫy nhưng lại gợi nên sự ấm áp về cuộc sống gia đình. Phải chăng thị đã mang đến
một làn gió tươi mát cho cuộc sống tăm tối của những người nghèo khổ bên bờ của cái chết….
- Nghệ thuật miêu tả nhân vật: đặt nhân vật trong tình huống “nhặt được vợ” vừa lạ vừa tội nghiệp,
cùng với khả năng phân tích tâm lí sắc sảo, ngòi bút Kim Lân đã đi sâu khơi tìm đằng sau hiện thực
khốn quẫn là vẻ đẹp tâm hồn của con người, một vẻ đẹp tiềm ẩn, khó thấy, khuất lấp của người phụ
nữ bên cạnh số phận đau khổ, cảnh sống khốn cùng, trong đó, tâm điểm nghệ thuật của Kim Lân là
khát vọng sống mãnh liệt, là những căn tích tốt đẹp bây lâu bị cái đói làm cho chìm khuất.
2.3. Nhân vật bà cụ Tứ
2.3.1. Trên cái nền tăm tối và đau thương ấy, nhà văn đã viết rất hay về tâm trạng của bà cụ Tứ một người mẹ già, nghèo khổ nhưng giàu tình thương con và giàu lòng nhân hậu.
2.3.2. Khái quát về cuộc đời của bà cụ: xuất hiện trong tác phẩm là một người đàn bà nông dân, hồn
hậu và có một cuộc đời thật nhiều thương cảm: nhà nghèo, goá bụa, sống gian khổ, thầm lặng.
2.3.3. Bối cảnh – tình huống và diễn biến tâm trạng của bà cụ:
Bà cụ Tứ lần đầu tiên xuất hiện trong thiên truyện là lúc bóng hoàng hôn tê tái phủ xuống xóm ngụ
cư giữa ngày đói. Cùng lúc đó, người con trai đáng thương của bà làm nghề đẩy kéo xe trên huyện,
đưa một người đàn bà lạ về nhà.
+ Ban đầu, bà ngỡ ngàng trước việc có một người phụ nữ lạ xuất hiện trong nhà mình. Trạng thái

ngỡ ngàng của bà cụ được nhà văn diễn tả bằng hàng loạt những câu nghi vấn: “Quái, sao lại có
người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con trai mình
thế kia? Sao lại chào mình mình bằng u?...” sự cùng quẫn của hoàn cảnh đã đánh mất ở người mẹ sự
nhạy cảm vốn có trước hạnh phúc của con, có lẽ chưa bao giờ bà nghĩ đến cảnh con bà có vợ.
+ Sau khi hiểu ra cơ sự, bà lão không nói gì mà chỉ “cúi đầu im lặng”- một sự im lặng chứa đầy nội
tâm: xót xa, buồn vui, lo lắng, thương yêu lẫn lộn . Bà mẹ đã tiếp nhận hạnh phúc của con bằng kinh
nghiệm sống, bằng sự trả giá của một chuỗi đời nặng nhọc, bằng ý thức sâu sắc trước hoàn cảnh.
- Bằng lòng nhân hậu thật bao dung của người mẹ, bà nghĩ :“Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau
qua được cơn đói khát này không?”.Trong chữ “chúng nó” , người mẹ đã đi từ lòng thương con trai
để ngầm chấp nhận người đàn bà lạ làm con dâu của mình.
- Rồi tình thương lại chìm vào nỗi lo , tạo thành một trạng thái tâm lý triền miên day dứt : bà nghĩ
đến bổn phận chưa tròn , nghĩ đến ông lão, đến con gái út, nghĩ đến nỗi khổ của đời mình, nghĩ đến
tương lai của con …để cuối cùng dồn tụ bao lo lắng – yêu thương trong một câu nói giản dị :
“ Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá”.
- Sau một ngày con trai có vợ, người mẹ giàu lòng thương con ấy thật sự vui và hạnh phúc trước
hạnh phúc của con : bà cùng con dâu dọn dẹp, thu vén căn nhà ; trong bữa cơm ngày đói, bà toàn nói
MOON.V N

- hotline: 04.32.99.98.98


KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI
chuyện vui để xua đi thực tại hãi hùng, để nhen nhóm niềm tin vào cuộc sống cho con :“Khi nào có
tiền ta mua lấy đôi gà …”.
+ Thật cảm động, khi Kim Lân để cái ánh sáng kỳ diệu của tình mẫu tử toả ra từ nồi cháo cám :
“Chè khoán đây, ngon đáo để cơ”. Chữ ‘ngon”này không phải là xúc cảm về vật chất (xúc cảm về vị
cháo cám) mà là xúc cảm về tinh thần : ở người mẹ, niềm tin về hạnh phúc của con biến đắng chát
của cháo cám thành ngọt ngào . Chọn hình ảnh nồi cháo cám, Kim Lân muốn chứng minh cho
cái chất NGƯỜI của người dân lao động : trong bất kỳ hoàn cảnh nào , tình nghĩa và hy vọng của
con người vẫn không thể bị tiêu diệt – con người vẫn muốn sống cho ra sống. Chính chất NGƯỜI đã

thể hiện ở cách sống tình nghĩa và hy vọng.
+ Tuy nhiên niềm vui của bà cụ Tứ trong hoàn cảnh ấy vẫn là niềm vui tội nghiệp, bởi thực tại vẫn
nghiệt ngã với nồi cháo cám “đắng chát và nghẹn bứ”.
2.3.4. Khái quát
Có thể nói, nhân vật bà cụ Tứ là một nhân vật tiêu biểu cho vẻ đẹp tình người và lòng nhân ái mà
Kim Lân đã gửi gắm trong tác phẩm “Vợ nhặt”.Thành công của nhà văn là đã thầu hiểu và phân tích
được những trạng thái tâm lý khá tinh tế của con người trong một hoàn cảnh đặc biệt . Vượt lên hoàn
cảnh vẫn là một vẻ đẹp tinh thần của những người nghèo khổ. “Vợ nhặt” là ca về tình người của
những người nghèo khổ, đã biết sống cho ra người ngay giữa thời túng đói quay quắt .

MOON.V N

- hotline: 04.32.99.98.98


KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI

VỢ NHẶT - KIM LÂN (TIẾT 3)
3. Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo của truyện ngắn Vợ nhặt ( Kim Lân)
3.1. Giới thiệu vắn tắt về Kim Lân và truyện ngắn Vợ nhặt
Vợ nhặt là một trong những truyện ngắn đặc sắc của nhà văn Kim Lân, in trong tập Con chó xấu xí.
Vợ nhặt có tiền thân là truyện Xóm ngụ cư – viết ngay sau Cách mạng tháng Tám. Bản thảo chưa in
thì bị thất lạc, sau này được tác giả viết lại.
3.2. Giá trị hiện thực của tác phẩm Vợ nhặt
- Bối cảnh của truyện ngắn Vợ nhặt là khung cảnh nông thôn Việt Nam vào một thời kì ngột ngạt và
đen tối nhất- đó là nạn đói năm Ất Dậu 1945. Bọn thực dân Pháp và phát xít Nhật buộc người nông
dân phải nhổ lúa và hoa màu để trồng đay, phục vụ cho nhu cầu chiến tranh. Người dân các tỉnh ở
đồng bằng Bắc bộ lâm vào nạn đói khủng khiếp, gần hai triệu người chết đói. Hiện thực đau thương
đó đã được phản ánh trong nhiều truyện của Nguyên Hồng, Tô Hoài và thơ của Văn Cao… Nhà văn
Kim Lân cũng góp tiếng nói tố cáo của mình trong tác phẩm Vợ nhặt.

- Đặc sắc nghệ thuật của nhà văn Kim Lân trong tác phẩm Vợ nhặt là mặc dù không có một dòng nào
tố cáo trực tiếp tội ác của bọn thực dân Pháp và phát xít Nhật, hình ảnh của chúng cũng không một
lần xuất hiện, nhưng tội ác của chúng vẫn hiện lên một cách rõ nét. Khung cảnh làng quê ảm đạm, tối
tăm. Những căn nhà úp súp. Những xác chết nằm còng queo bên đường. Không khí vẩn lên mùi ẩm
thối của rác rưởi và mùi gây của xác người…
- Cuộc sống của người nông dân bị đẩy đến bước đường cùng. Tính mạng của con người lúc này thật
rẻ rúng, người ta “nhặt” được vợ giống như nhặt cái rơm, cái rác ở bên đường. Thông qua tình huống
truyện lấy vợ của Tràng, Kim Lân không chỉ nói lên được thực trạng đen tối của xã hội Việt Nam
trước Cách mạng, mà còn thể hiện được thân phận đói nghèo, bị rẻ rúng của người nông dân trong
chế độ xã hội cũ (Chú ý phân tích cảnh bữa cơm đón nàng dâu mới ở nhà Tràng vào thời điểm đói
kém: giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối và một đĩa muối ăn với cháo…rồi nồi “ chè
khoán” nấu bằng cám). Ở phần cuối của tác phẩm, những nhân vật nghèo khó này cũng khao khát sự
đổi thay về số phận. Chúng ta cũng thấy thoáng hiện lên niềm dự cảm của tác giả về tương lai, về
cách mạng (qua hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng và những đoàn người đi phá kho thóc của Nhật).
MOON.V N

3.3. Giá trị nhân đạo của tác phẩm Vợ nhặt
- Kim Lân đã viết về cuộc sống của người nông dân Việt Nam trước cách mạng với một niềm đồng
cảm, xót xa, day dứt. Nếu không có một tình cảm gắn bó thực sự với người nông dân, không trải qua
những năm tháng đen tối ấy, không dễ gì viết nên được những trang sách xúc động và thấm thía đến
thế.
- Giá trị nhân đạo của tác phẩm còn được thể hiện ở chỗ, nhà văn đã phát hiện và miêu tả những
phẩm chất tốt đẹp của người lao động. Mặc dù bị xô đẩy đến bước đường cùng, mấp mé bên cái chết,
nhưng những người nông dân vẫn cưu mang, giúp đỡ nhau, chia sẻ cho nhau miếng cơm, manh áo.
Hiện thực cuộc sống càng đen tối bao nhiêu (chú ý phân tích cảnh bà cụ Tứ chấp nhận cô con dâu
mới trong lúc gia đình cãng đang rất khó khăn, không biết sống chết lúc nào, để làm nổi rõ tình
người của họ).
- Kim Lân cũng thể hiện một sự trân trọng đối với khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc và mái ấm
gia dình của người nông dân.
Trong hoàn cảnh khó khăn, nhưng bà cụ Tứ và vợ chồng Tràng vẫn luôn hướng tới một cuộc sống

gia đình đầm ấm, hạnh phúc (cần chú ý những chi tiết diễn tả tâm trạng bà cụ Tứ, thái độ của Tràng,
vợ Tràng trong bữa ăn, rồi nhà cửa, sân vườn đều được quét tước, thu dọn sạch sẽ, gọn ghẽ). Một cái

- hotline: 04.32.99.98.98


KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI
gì mới mẻ, khác lạ đang đến với mỗi thành viên trong gia đình bà cụ Tứ và hé mở trước họ một niềm
tin về tương lai.
3.4. Giá trị nghệ thuật
- Tình huống truyện
- Xây dựng nhân vật: diễn biến tâm lí được miêu tả chân thực, tinh tế;
- Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, phù hợp với tính cách nhân vật, một thứ ngôn ngữ như được bứng lên
từ ruộng đồng còn hăng mùi cỏ rả. Nào là những bước đi ngật ngưỡng, vẻ mặt phớn phở, cử chỉ
ngửa cổ cười hềnh hệch...hình như những cái đó chỉ có ở riêng các nhân vật Kim Lân.
- Nghệ thuật trần thuật hấp dẫn, kịch tính…
III. Kết luận
Vợ nhặt là một tác phẩm thành công của nhà văn Kim Lân. Qua tác phẩm này, chúng ta không chỉ
nhận thấy tài năng của nhà văn, sự hiểu biết sâu sắc, cặn kẽ của ông về cuộc sống của người nông
dân, mà điều quan trọng hơn đó chính là cái tâm, cái tấm lòng gắn bó thiết tha, sâu nặng của Kim
Lân đối với những người lao động nghèo khó trước Cách mạng

MOON.V N

- hotline: 04.32.99.98.98


KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI

VỢ NHẶT - KIM LÂN (TIẾT 4)

Dạng đề 1
1- Ý nghĩa chi tiết bữa ăn ngày đói. Ý nghĩa nồi cháo cám
- Bữa ăn ngày đói thật thảm hại. Trên cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối và một đĩa muối
ăn với cháo lõng bõng. Bà mẹ Tràng còn chuẩn bị một nồi cháo cám “đắng chát, nghẹn bứ” mà bà
gọi là “chè khoán ngon đáo để”
thực dân, phong kiến
+ Thể hiện tình người cao đẹp: Cưu mang đùm bọc lẫn nhau giúp họ vượt qua được bóng tối đang
trị nhân đạo
+ Khát vọng sống mãnh liệt của con người dù trong hoàn cảnh khắc nghiệt nhất
+ Khát khao hạnh phúc, mái ấm gia đình.
2- Ý nghĩa chi tiết cuối truyện “Trong ý nghĩ của hắn vụt hiện ra cảnh những người nghèo đói
ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp. Đằng trước có lá cờ đỏ to lắm”
- Kim Lân đã thể hiện rất hay tình cảm của hàng triệu nông dân Việt Nam hướng về cách mạng. Cứu
đói, cứu khổ, cứu đời và đem đến độc lập, tự do cho dân tộc chính là sự xuất hiện lá cờ đỏ ấy. Đồng
thời cũng thể hiện mối quan hệ giữa cách mạng và quần chúng nhân dân: Quần chúng là sức mạnh
lớn lao, là lực lượng đông đảo để tham gia vào cuộc kháng chiến chống quân xâm lược cứu nước.
Nhưng sức mạnh ấy sẽ không thể phát huy tối đa nếu không có lá cờ đỏ của Cách mạng là ánh sáng
dẫn đường. Chi tiết còn thể hiện niềm tin của nhà văn vào tương lai, một hi vọng sẽ đổi đời.
Dạng đề 2: Hãy phân tích truyện ngắn Vợ nhặt để làm sáng tỏ ý kiến sau:“Dù bị đẩy vào hoàn cảnh
khốn cùng những người dân xóm ngụ cư vẫn yêu thương và khao khát hạnh phúc”.
I. Đặt vấn đề
KL là nhà văn một lòng đi về với “đất”, với “người”, với “thuần hậu nguyên thủy” của cuộc sống
nông thôn. Bằng tình cảm, tâm hồn của một con người vốn là con đẻ của đồng ruộng, sau cách mạng
KL có nhiều truyện ngắn hay viết về mảng đề tài này, tiêu biểu là tác phẩm “Vợ nhặt”.Ở truyện ngắn
này, KL đã có những khám phá mới mẻ về người lao động: dù bị….hp.
II. Giải quyết vấn đề
- Truyện ngắn “Vợ nhặt” được in trong tập “Con chó xấu xí”, xuất bản năm 1962, tiền thân là truyện
“Xóm ngụ cư”. Sau này tác phẩm được KL viết lại và đổi tên.- Toàn bộ câu chuyện xoay quanh tình
huống: anh cu Tràng dân xóm ngụ cư nhặt được vợ trong những ngày tối sầm vì đói khát. " Qua đó
nhà văn muốn thể hiện cái nhìn chân thực về cuộc sống và số phận của người nông dân trong nạn đói

1945 và vẻ đẹp sâu sắc trong tâm hồn họ.
1. Hoàn cảnh khốn cùng
- Bức tranh ngày đói được dựng lên bằng: hình ảnh, âm thanh, mùi vị.· Câu chuyện mở ra trong
không khí thê thảm của người đói. Cái đói đã hiện ra ở những hình ảnh ghê rợn thảm thương: bóng
người xanh xám như bóng ma. Cái đói làm cho con đường về làng trở nên khẳng khiu, lũ trẻ ngồi ủ
rũ dưới những xó tường không buồn nhúc nhích.· Âm thanh của tiếng quạ kêu cứ gào lên từng hồi
thê thiết càng khiến bức tranh ngày đói trở nên ảm đạm.· Bao trùm lên toàn bộ bức tranh ngày đói là
mùi thối của rác rưởi và mùi gây của xác người." Tất cả những âm thanh, hình ảnh, mùi vị đó gợi lên
bầu không khí chết chóc của cõi âm, cõi địa ngục. Qua những trang văn của KL ta như được trải lòng
MOON.V N

- hotline: 04.32.99.98.98


×