Tải bản đầy đủ (.docx) (40 trang)

Tiểu luận: Xu Hướng ODA trên thế giới hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (483.84 KB, 40 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG CƠ SỞ 2
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
*********

Chuyên ngành: Kinh tế đối ngoại
Môn: Đầu tư quốc tê

TIỂU LUẬN
XU HƯỚNG ODA TRÊN THẾ GIỚI HIỆN NAY

TP.Hồ Chí Minh, Tháng 8 năm 2017


Danh sách thành viên nhóm
STT
1
2
3
4
5
6
7
8

Họ và tên
Nuyễn Thị Tú Lịch
Tống Nguyễn Nhật Linh
Nguyễn Văn Lợi
Phạm Thị Hồng Mai
Trần Thị Diễm My
Hoàng Thị Oanh


Nguyễn Thanh Phương
Nguyễn Văn Thành

MSSV
1501015250
1501015269
1501015285
1501015298
1501015318
1501015414
1501015436
1501015494

Đánh giá


DANH MỤC BẢNG BIỂU

Tên Bảng,
Biểu đồ
Biểu đồ
2.1.
Biểu đồ
2.2.
Biểu đồ
2.3.
Bảng 2.1.
Biểu đồ
4.1.
Bảng 4.1.

Bảng 4.2.
Biểu đồ
4.2.
Bảng 4.3
Bảng 4.4.
Biểu đồ
4.5.

Mục Lục

Nội dung
Lượng vốn ODA ròng năm 1980-2015 tính theo tỉ giá hiện tại

Số
trang
5

ODA ròng theo % GNI của DAC và một số nước 2000-2016

6

Tỉ trọng các ngành sử dụng nguồn vốn ODA từ các nước
DAC
Danh sách của DAC về các nước nhận vốn ODA vào năm
2014-2016
Cơ cấu vốn ODA và vốn vay ưu đãi ký kết theo nhà tài trợ
thời kỳ 2011 - 2015
ODA ký kết theo ngành và lĩnh vực thời kỳ 2011 - 2015
Báo cáo hoàn thành dự án (PCR) và Báo cáo kiểm toán thực
hiện hoàn thành dự án (PPAR) của Nhóm 6 Ngân hàng Phát

triển
Kết quả đánh giá hoạt động trên cơ sở cấp quốc gia trên cơ sở
hoàn thành dự án (PCR) giai đoạn 2005-2014
Tỷ trọng vốn ODA và vốn vay ưu đãi so với GDP, Tổng vốn
đầu tư toàn xã hội và Tổng vốn đầu tư từ NSNN thời kỳ 2011
- 2015
Vốn ODA ký kết phân bổ theo vùng thời kỳ 2011 - 2015
Nhu cầu huy động vốn ODA và vốn vay ưu đãi của các Bộ,
ngành và địa phương thời kỳ 2016 - 2020

6
7
23
24
26
26
27
34
36


4

LỜI MỞ ĐẦU
Đối với các nước đang phát triển, vốn có vai trò đặc biệt quan trọng và cần thiết
để giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội khác. Xuất phát từ nhu cầu thực tế đó, vốn
ODA ra đời nhằm giúp các nước nghèo giải quyết tình trạng thiếu vốn. Nguồn vốn
này chủ yếu được đầu tư vào những lĩnh vực giữ vai trò đầu tàu của nền kinh tế, từ đó
kéo theo sự phát triển mạnh của các ngành khác. Trên thực tế vai trò của ODA hết sức
quan trọng. Có thể minh chứng điều đó qua thực tế ở Châu Âu sau chiến tranh thế giới

thứ hai, nhờ vào nguồn vốn viện trợ của Mỹ mà EU đạt được sự tăng trưởng ngoạn
mục, trở về thời thịnh vượng như trước chiến tranh, thậm chí còn phát triển hơn trước.
Nhật Bản và Hàn Quốc cũng là hai nước nhận được nhiều viện trợ của Mỹ. Kết quả
sau một thời gian nhất định, Nhật Bản trở thành cường quốc kinh tế sau Mỹ; còn Hàn
Quốc cũng vươn lên thuộc nhóm các nước công nghiệp mới – NICs. Trong quá trình
đổi mới, tình trạng thiếu vốn cho phát triển đã được giải quyết một phần đáng kể khi
Việt Nam bắt đầu nhận viện trợ ODA từ năm 1993. Đây là nguồn vốn bổ sung quan
trọng: trung bình đóng góp 11% tổng vốn đầu tư cho toàn xã hội, trong giai đoạn
2006-2010. Các nước và vùng lãnh thổ như Trung Quốc, Đài Loan nhờ vào nguồn
vốn ODA và việc sử dụng có hiệu quả nguồn vốn này đã tạo ra một nền kinh tế phát
triển cao và ngày nay bắt đầu trở thành nước cung cấp viện trợ cho các nước khác.
Ngoài ra, viện trợ ODA cũng đóng góp một phần tỷ lệ đáng kể vào tăng trưởng GDP
của các nước đang phát triển, bình quân 1-2%/năm. Như vậy, có thể thấy viện trợ
ODA sẽ giúp giải quyết phần nào “cơn khát vốn” này và mang lại luồng sinh khí mới
cho các nước đang phát triển và sẽ làm “thay da đổi thịt” cho nhiều nền kinh tế nếu
ODA được sử dụng một cách hiệu quả.


5

1.1.

CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ ODA
Khái niệm

Hiện nay trên thế giới có rất nhiều quan điểm khác nhau về ODA nhưng nói
chung những quan điểm ấy đều dẫn chung đến một bản chất. Theo cách hiểu
chung nhất thì ODA là các khoản viện trợ không hoàn lại hoặc cho vay với những
điều kiện ưu đãi của các cơ quan tài chính thuộc các tổ chức Quốc tế các nước,
các tổ chức Phi chính phủ nhằm hỗ trợ cho sự phát triển và thịnh vượng của các

nước khác (không tính đến các khoản viện trợ cho mục đích thuần tuý quân sự ).
Nghị định 87-CP của chính phủ Việt Nam quy định về nguồn vốn ODA là sự
hợp tác phát triển giữa nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam với một hay
nhiều Quốc gia, tổ chức Quốc tế. Hình thức của sự hợp tác có thể là hỗ trợ cán
cân thanh toán, hỗ trợ theo chương trình, hỗ trợ theo kỹ thuật hoặc theo dự án.
Phân loại
• Phân loại theo nước nhận: theo phân loại này thì ODA có 2 loại:
- ODA thông thường: hỗ trợ cho các nước có thu nhập bình quân đầu
1.2.

-

người thấp.
ODA đặc biệt: hỗ trợ cho các nước đang phát triển với thời hạn cho vay

ngắn, lãi suất cao hơn.
• Phân loại theo nguồn cung cấp: bao gồm
- ODA song phương: là các khoản viện trợ trực tiếp từ nước này tới nước
khác thông qua việc ký kết giữa chính phủ hai nước.
-

ODA đa phương: Là viện trợ chính thức của một tổ chức quốc tế (IMF,
WB1...) hay tổ chức khu vực (ADB, EU,...) hoặc của một chính phủ của
một nước dành cho chính phủ của một nước nào đó, nhưng có thể được
thực hiện thông qua các tổ chức đa phương như chương trình phát triển
Liên hiệp quốc ( UNDP ), quĩ nhi đồng Liên Hiệp quốc ( UNICEF )...
cũng có thể không.




Phân loại ODA theo tính chất nguồn vốn
- Viện trợ không hoàn lại: bên nước ngoài cung cấp viện trợ ( mà bên
nhận viện trợ không phải thanh toán lại ) để bên nhận có thể thực hiện
các chương trình, dự án đã được thỏa thuận giữa hai bên như: hỗ trợ kỹ


6

thuật ( thực hiện việc chuyển giao công nghệ cho nước nhận việc trợ ),
-

bằng hiện vật ( lương thực, thuốc chữa bênh, …).
Viện trợ có hoàn loại: nhà tài trợ cung cấp cho nước cần vốn một khoản
tiền ( tùy theo quy mô và mục đích đầu tư ) với mức lãi suất ưu đãi và
thời gian hoàn trả thích hợp, các ưu đãi thường là: lãi suất thấp, thời

-

gian vay dài ( 20-30 năm ),…
ODA cho vay hỗn hợp: là các khoản ODA kết hợp một phần ODA
không hoàn lại và một phần tín dụng thương mại theo các điều kiện của
tổ chức hợp tác kinh tế và phát triển mạnh hơn cả về đời sống kinh tế xã

hội.
Đặc điểm
• ODA là nguồn vốn mang tính chất ưu đãi: vì bao giờ cũng có phần không
1.3.

hoàn lại là chủ yếu, còn phần cho vay chủ yếu là cho vay ưu đãi với lãi suất
thấp hơn lãi suất ngân hàng rất nhiều ( thường dưới 3% một năm ) nhưng

thời gian sử dụng vốn rất dài ( thường là 20-50 năm ).
• ODA luôn bị ràng buộc trực tiếp hoặc gián tiếp: Đi kèm với ODA bao giờ
cũng có những ràng buộc nhất định về kinh tế , chính trị. Bao gồm: nước
viện trợ phải đáp ứng yêu cầu cho bên cấp viện trợ như việc thay đổi chính
sách đối ngoại, chính sách kinh tế, thể chế chính trị,… cho phù hợp với mục
đích của bên cấp viện trợ.
• Khả năng gây nợ cho nước nhận đầu từ của ODA: Khi tiếp nhận và sử dụng
nguồn vốn ODA do tính chất ưu đãi nên gánh nặng nợ thường chưa xuất
hiện. Một số nước do không sử dụng hiệu quả ODA có thể tạo nên sự tăng
trưởng nhất thời, nhưng sau một thời gian lại lâm vào vòng nợ nần do
không có khả năng trả nợ. Vấn đề là ở chỗ vốn ODA không có khả năng
đầu tư trực tiếp cho sản xuất, nhất là cho xuất khẩu trong khi việc trả nợ lại
dựa vào xuất khẩu thu ngoại tệ. Do đó, trong khi hoạch định chính sách sử
dụng ODA phải phối hợp với các nguồn vốn để tăng cường sức mạnh kinh
tế và khả năng xuất khẩu.


7

CHƯƠNG II: BIẾN ĐỘNG VÀ XU HƯỚNG ODA TRÊN THẾ GIỚI HIỆN NAY
2.1. Biến động của ODA
2.1.1. Sự biến động trong lượng vốn
Biểu đồ 2.1. Lượng vốn ODA ròng năm 1980-2015 tính theo tỉ giá hiện tại
(Đơn vị: Tỷ USD) (Nguồn: )

Giai đoạn 1980-1990: Hỗ trợ phát triển chính thức tăng tương đối đều, tỉ trọng
ODA nằm trong khoảng 29,06 tỷ USD đến 58,234 tỷ USD. Từ những năm 1990, giá
trị ODA có sự giảm nhẹ do chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng đầu những năm
1990 tác động đến nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên, từ những năm 2000, dòng vốn
ODA có dấu hiệu khởi sắc khi tăng tương đối đều với tốc độ cao. Cụ thể, trong giai

đoạn 2000-2005, tổng giá trị vốn đã tăng hơn gấp đôi từ 49,831 tỷ USD lên 108,2 tỷ
USD. Tuy vào năm 2008 có khủng hoảng tài chính, lượng vốn vẫn chỉ giảm nhẹ trong
năm đó và tiếp tục tăng những năm sau. Từ đó đến hiện tại, tốc độ tăng trưởng của
mức vốn ODA tương đối bền vững.

Nhìn chung, lượng vốn ODA tăng qua các năm, tuy nhiên mức độ tăng không
ổn định, tuỳ thuộc vào tình hình thế giới nói chung và các quyết định trong việc viện
trợ nói riêng.


8

Trong tổng số vốn viện trợ song phương, phần lớn vốn được cấp bởi các nước
OECD/DAC, cụ thể năm 2015 là 131.555 tỷ USD ( theo số liệu của data.oecd.org)
trên tổng 152,513 tỷ USD của toàn thế giới (tương đương 86,26%). DAC là các nước
thuộc tổ chức OECD cam kết thường xuyên cung cấp vốn ODA, hiện nay gồm 30
thành viên. Ngoài ra, vốn viện trợ song phương còn được đóng góp một phần nhỏ từ
các nước không thuộc DAC. Bên cạnh đó tồn tại ODA đa phương, là nguồn vốn từ
các định chế tài chính và tổ chức quốc tế, cụ thể như: các cơ quan của UN, WB, IMF,
ADB, AfDB,…
2.1.2 Sự biến động theo tỉ lệ ODA và GNI
Biểu đồ 2.2.ODA ròng theo % GNI của DAC và một số nước 2000-2016 (nguồn
data.worldbank.org) (đơn vị %)

Tuy tỉ trọng vốn ODA có xu hướng tăng, nhưng khi so tỉ lệ với tổng thu nhập

quốc dân của các nước tài trợ lại có xu hướng không đổi. Khái niệm 0,7% ODA/GNI
lần đầu được chấp nhận vào năm 1970 và được nhấn mạnh tầm quan trọng nhiều lần
tại các hội nghị viện trợ và phát triển quốc tế. Cho đến nay, mục tiêu quốc tế nổi bật
nhất trong lĩnh vực viện trợ là nâng cao vốn phát triển chính thức (ODA) bằng 0,7%

thu nhập quốc dân của các nhà tài trợ. Tuy nhiên, tính đến thời điểm hiện tại, chỉ có
một vài nước đã chạm và duy trì được chỉ tiêu này (bao gồm Na Uy,Thuỵ Điển, Hà
Lan, Lúc-xăm-bua, Đan Mạch, UAE). Đặc biệt, các tiểu vương quốc Ả Rập Thống
nhất, tuy mới gia nhập DAC vào năm 2014, nhưng dựa vào chỉ số ODA/GNI đã cho
thấy UAE xứng đáng được công nhận là một nhà tài trợ tầm cỡ thế giới.


9

2.1.3. Sự biến động trong cơ cấu ODA
2.1.3.1 Sự biến động trong lượng vốn đổ vô các ngành

2005

2015

Biểu đồ 2.3. Tỉ trọng các ngành sử dụng nguồn vốn ODA từ các nước DAC

Nguồn ODA có mặt ở hầu hết các lĩnh vực kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội.
Các chương trình, dự án ODA đã góp phần tăng trưởng kinh tế, xóa đói giảm nghèo
và cải thiện đời sống của nhân dân. Cơ cấu ODA ký kết vào các lĩnh vực như biểu đồ
trên, trong đó, có thể thấy phát triển cơ sở hạ tầng và sản xuất vẫn luôn chiếm một vị
trí trọng tâm trong tổng vốn ODA, bởi nó là nền móng thúc đẩy một nền kinh tế đi
lên. Đặc biệt, cơ sở hạ tầng kinh tế (giao thông, liên lạc, mạng lưới phân phối, định
chế tài chính và cung cấp năng lượng) tăng tỉ trọng mạnh qua các năm. Đa số các
nước nhận ODA đang trong giai đoạn kinh tế phát triển nên việc xây dựng hệ thống
kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại sẽ là yếu tố quan trọng thúc đẩy quá trình cơ cấu lại
nền kinh tế, nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế. Ngoài ra, viện trợ nhân
đạo cũng có cơ cấu tăng, chứng tỏ các quốc gia ngày càng quan tâm đến các vấn đề
phúc lợi xã hội.

2.1.3.2. Tỉ trọng ODA dành cho các khu vực


10


11

Trên là tổng hợp danh sách cách quốc giai nhận được ODA giai đoạn 2012 – 2013. Và
theo như bảng thống kê thì Afghanistan chính là nước nhận được ODA nhiều nhất,
theo sau chủ yếu là các nước thuộc Châu Phi như Algeria, Kenya, Algeria,… và đông
đảo các quốc gia thuộc khu vực có thu nhập thấp và trung bình thấp. Lượng vốn ODA
dành cho các quốc gia này rất mạnh, và nó chủ yếu đến từ Mỹ và Nhật Bản. Chính
đều này cũng cho thấy cả Mỹ và Nhật Bản đều muốn khẳng định tầm ảnh hưởng của
mình tại đây. Ngoài ra, World Bank cũng tang hỗ trợ ODA cho các nước nhằm xóa bỏ
tỷ lệ đói nghèo cũng như xây dựng các cơ sở hạ tầng, chương trình giáo dục giúp nâng
cao đời sống kinh tế, xã hội của các quốc gia.
2.2. Xu hướng ODA hiện nay
Trong giai đoạn hiện nay đã xuất hiện một số đặc điểm quan trọng sau:
Thứ nhất
Tỉ trọng ODA song phương có xu thế tăng lên, ODA đa phương có xu thế
giảm đi. Quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới và xu thế hội nhập đã tạo
điều kiện cho các quan hệ kinh tế, chính trị... giữa các quốc gia ngày càng được đẩy
mạnh và tăng cường. Hoạt động của một số tổ chức đa phương tỏ ra kém hiệu quả
làm cho một số nhà tài trợ ngần ngại đóng góp cho các tổ chức này. Điều đó là
nguyên nhân chính tạo nên

sự chuyển dịch, tỉ trọng ODA song phương có xu thế

tăng lên, ODA đa phương có xu hướng giảm đi. Điều đó đã được chứng minh trên

thực tế là trong các năm 1980 - 1994 trong tổng số ODA của thế giới, tỉ trọng ODA
song phương từ 67% tăng lên 69% trong khi đó tỉ trọng ODA đa phương giảm từ
33% xuống 31%.
(Nguồn: Bộ Kế hoạch - Đầu tư).
Thứ hai
Sự cạnh tranh ngày càng tăng trong quá trình thu hút ODA.
Trên thế giới, một số nước mới giành được độc lập hoặc mới tách ra từ các nhà nước
liên bang tăng lên đáng kể và có nhu cầu lớn về ODA. Một số nước công hoà thuộc
Nam Tư cũ và một số nước Châu Phi bị tàn phá nặng nề trong chiến tranh sắc tộc
đang cần đến sự hỗ trợ quốc tế. ở Châu á, Trung Quốc, các nước Đông Dương,
Myanmar... cũng đang cần đến nguồn ODA lớn để xây dựng kinh tế, phát triển xã hội.
Số nước có nhu cầu tiếp nhận ODA là rất lớn vì vậy sự cạnh tranh giữa
các nước ngày càng trở nên gay gắt. Các vấn đề mà các nước cung cấp ODA


12

quan tâm đến tạo nên sự cạnh tranh giữa các nước tiếp nhận là năng lực kinh tế của
quốc gia tiếp nhận, các triển vọng phát triển, ngoài ra còn chịu nhiều tác động của
các yếu tố khác như: Nhãn quan chính trị, quan điểm cộng đồng rộng rãi, dựa trên
sự quan tâm nhân đạo và hiểu biết về sự cần thiết đóng góp vào ổn định kinh tế - xã
hội quốc tế. Cùng mối quan hệ truyền thống với các nước thế giới thứ ba của các
nước phát triển, hay tầm quan trọng của các nước đang phát triển với tư cách là bạn
hàng (thị trường, nơi cung cấp nguyên liệu, lao động). Mặt khác, chính sách đối
ngoại, an ninh và lợi ích chiến lược, trách nhiệm toàn cầu hay cá biệt... cũng là nhân
tố tạo nên xu hướng phân bổ ODA trên thế giới theo vùng. Ngoài ra còn có thêm lý
do đó là sự chuẩn bị đáp ứng nhu cầu riêng biệt về thủ tục, quy chế, chiến lược, viện
trợ ... khác nhau của các nhà tài trợ trên thế giới cũng tạo nên sự chênh lệch trong
quá trình thu hút và sử dụng ODA giữa các quốc gia hấp thụ nguồn vốn này. Chính
sự cạnh tranh gay gắt đã tạo nên sự tăng giảm trong tiếp nhận viện trợ của các nước

đang phát triển. Kể từ năm 1970, ODA chủ yếu hướng vào Tiểu vùng Sahara và
Trung Đông kể cả Ai Cập. Bên cạnh đó, Trung Mỹ là vùng nhận được tỷ trọng viện
trợ tăng lên chút ít, tỷ trọng này đã thực sự bị cắt giảm mạnh đối với các vùng Nam
Á (đặc biệt là Ấn Độ) và Địa Trung Hải trong vòng 10 năm, từ tài khoá 1983/1984
đến 1993/1994, tỷ trọng thu hút ODA thế giới của tiểu vùng Sahara đã tăng từ
29,6% lên 36,7%, của Nam và Trung á khác và Châu Đại Dương từ 20,3% lên
22,9%; Châu Mỹ La Tinh và vùng Caribê từ 12% lên 14% (nguồn: Bộ Kế hoạch Đầu tư).
Thứ ba
Sự phân phối ODA theo khu vực nghèo của thế giới không đồng đều.
Nguyên nhân tạo nên sự khác biệt như vậy có thể có rất nhiều lý giải khác nhau, có
thể là do những mong muốn của các quốc gia đi viện trợ như mở rộng quan hệ hợp
tác về chính trị hay kinh tế, mục đích xã hội, điều đó phụ thuộc rất nhiều vào ý
muốn chủ quan của nhà tài trợ. Lúc đầu họ chỉ quan tâm đến việc thiết lập các mối
quan hệ với các nước láng giềng của mình, nhưng sau họ lại nhận thấy rằng cần
thiết lập các quan hệ với các nước khác trên thế giới để tìm kiếm thị trường trao đổi
buôn bán hay đầu tư mà việc đầu tiên thiết lập quan hệ ngoại giao bằng cách viện
trợ ODA. Mặt khác chính những yếu tố trong nội bộ của quốc gia cũng tạo nên
những khác biệt lớn trong quá trình nhận viện trợ như các mối quan hệ với các nước


13

phát triển, hay những thành tích trong phát triển đất nước hay cũng có thể là do nhu
cầu hết sức cần thiết như chiến tranh, thiên tai...
Thứ tư
Triển vọng gia tăng nguồn vốn ODA ít lạc quan.
Mặc dù Đại hội đồng Liên Hợp Quốc đã khuyến nghị dành 1% GNP của các nước
phát triển để cung cấp ODA cho các nước nghèo. Nhưng nước có khối lượng ODA
lớn như Nhật Bản, Mỹ... thì tỷ lệ này mới chỉ đạt ở mức trên dưới 0,3% trong nhiều
năm qua. Tuy có một số nước như Thụy Điển, Na uy, Phần Lan, Đan Mạch... đã có

tỷ lệ ODA chiếm hơn 1% GNP, song khối lượng ODA tuyệt đối của các nước này
không lớn. Thêm vào đó tình hình kinh tế phục hồi chậm chạp ở các nước đang phát
triển cũng là một trở ngại gia tăng ODA. Ngoài ra, hàng năm các nước cung cấp
ODA dựa vào kết quả hoạt động của nền kinh tế của mình để xem xét khối lượng
ODA có thể cung cấp được. Nhưng hiện nay các nước phát triển đang có những dấu
hiệu đáng lo ngại trong nền kinh tế của mình như khủng hoảng kinh tế hay hàng loạt
các vấn đề xã hội trong nước, chịu sức ép của dư luận đòi giảm viện trợ để tập trung
giải quyết các vấn đề trong nước.
Tuy nhiên, ở các nước phát triển, kinh tế tăng bình quân 6%/năm trong các năm 1991
- 1994 (4%/năm trong thập kỷ 80). Đời sống nhân dân đang được cải thiện rõ rệt. Do
sự phục hồi kinh tế ở các nước phát triển, nguồn vốn chuyển dịch vào các nước đang
phát triển có thể sẽ giảm sút trong các năm tới, ODA là một khoản vốn mà các nước
phát triển hỗ trợ cho các nước đang phát triển nó được thực hiện từ rất lâu, qua các
giai đoạn nhất định, có những xu thế vận động riêng, nhìn chung lại, xu hướng vận
động hiện nay hàm chứa cả các yếu tố thuận lợi lẫn khó khăn cho một số nước đang
phát triển như nước ta đang tìm kiếm nguồn hỗ trợ phát triển chính thức, tuy nhiên
các yếu tố thuận lợi là cơ bản. Xét trên phạm vi quốc tế, ODA có thể huy động được
lại tuỳ thuộc voà chính sách đối ngoại khôn khéo và khả năng hấp thụ vốn nước ngoài
của chính nền kinh tế nước đó. Qua đó ta có thể thấy rõ được những đặc điểm riêng
biệt của ODA so với các nguồn vốn khác.


14

CHƯƠNG III: TÁC ĐỘNG CỦA NGUỒN VỐN ODA ĐẾN NƯỚC CẤP/NHẬN NGUỒN
VỐN
3.1. Tác động đối với nước nhận viện trợ
3.1.1. Tác động tích cực
• Nguồn bổ sung vốn quan trọng cho các nước đang phát triển
Tất cả các quốc gia khi thực hiện Công nghệ hoá - Hiện đại hoá đều cần đến một

lượng vốn đầu tư rất lớn và đây là thách thức đối với các nước đang phát triển. Với nội lực
còn hạn chế thì vốn trong nước không thể đáp ứng được nhu cầu về vốn đầu tư, do đó việc
huy động vốn từ nước ngoài trở nên tất yếu. Đặc biệt, nguồn ODA tập trung đầu tư cho các
lĩnh vực cơ sở hạ tầng ở các nước đang phát triển là một giải pháp hữu hiệu để khắc phục sự
thiếu vốn. Tại Việt Nam, năm 2016, tổng vốn ODA đạt 142,6 tỷ USD, trong đó khoảng 80%
lượng vốn ODA được dành cho đầu tư vào lĩnh vực cơ sở hạ tầng, số vốn này chiếm khoảng
40% tổng vốn đầu tư của toàn xã hội cho cơ sở hạ tầng. (Theo Tổng cục Thống kê Việt
Nam)
• Tiếp cận với thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến và phát triển nguồn nhân lực
a/ Thành tựu khoa học tiên tiến
Thông qua hình thức viện trợ kèm theo ràng buộc phải sử dụng dịch vụ hay hàng hoá
của nhà tài trợ, nước nhận đầu tư có cơ hội được tiếp cận với những công nghệ sản xuất hay
quản lý tiên tiến.
Trong lĩnh vực khoa học, công nghệ: dự án ODA về công nghệ cao, tiên tiến trong
các lĩnh vực công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu, công nghệ xây
dựng... Dự án phát triển hạ tầng khu công nghệ cao và Trung tâm vũ trụ Việt Nam tại khu
Công nghệ cao Hòa Lạc, Hà Nội do Nhật Bản tài trợ là một thí dụ điển hình.
b/ Phát triển nguồn nhân lực
Nhận thấy vai trò then chốt của phát triển nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế của
một quốc gia nên các nhà tài trợ rất chú trọng ưu tiên cho lĩnh vực này. Đào tạo nguồn nhân
lực có thể được thực hiện ở trong và ngoài nước nhận đầu tư. Đặc biệt, các nhà tài trợ
thường quan tâm đến việc đào tạo cho nhóm nhân sự tham gia vào quản lý nhà nước nhằm


15

nâng cao năng lực quản lý cho họ. Đầu tư cho nguồn nhân lực mang lại hiệu quả lâu dài
trong quá trình phát triển.
• Góp phần phát triển kinh tế địa phương va xoá đói giảm nghèo
ODA còn tác động tích cực đến phát triển kinh tế xã hội của các địa phương và vùng

lãnh thổ, đặc biệt là ở các thành phố lớn: nguồn vốn này trực tiếp giúp cải thiện điều kiện về
vệ sinh y tế, cung cấp nước sạch, bảo vệ môi trường. Đồng thời nguồn ODA cũng góp phần
tích cực trong việc phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn, phát triển lưới điện nông thôn, phát
triển nông nghiệp, xoá đói giảm nghèo. Trong năm 2014 Tổng công ty Điện lực miền Trung
(EVN CPC) đã nhận hơn 236 triệu USD từ Ngân hàng Thế giới (chiếm 60% trong tổng số
hơn 300 triệu USD vốn ODA), để thực hiện các dự án điện khí hóa nông thôn và phát triển
lưới điện khu vực miền Trung - Tây Nguyên. Hay với 2 triệu EURO (tương đương khoảng
40 tỷ đồng) kinh phí của Dự án xây dựng Trường Cao đẳng nghề Việt - Đức Vĩnh Phúc
(tỉnh Vĩnh Phúc) từ Chính phủ CHLB Đức, đã mang lại cho các trường nghề một lượng
trang thiết bị tương đối đầy đủ, hiện đại, chất lượng tốt, đáp ứng xu hướng hiện đại hóa
trong đào tạo nghề. (Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư)
• Góp phần thu hút FDI và các nguồn vốn đầu tư khác
Trong năm 2015 Tổng vốn theo Hiệp định đã kí kết của 10 chương trình, dự án hơn
7.180 tỷ đồng (trong đó, vốn ODA không hoàn lại: gần 342 tỷ đồng, ODA vay: hơn 7.109 tỷ
đồng). Nhu cầu vốn cho các dự án chủ yếu tập trung vào lĩnh vực giao thông vận tải, phát
triển đô thị, nông nghiệp và phát triển nông thôn, môi trường, giáo dục và đào tạo, y tế,
khoa học và công nghệ... (Theo thống kê của Bộ Tài Chính).
Đối với các nước đang phát triển thì nguồn vốn ODA được sử dụng chủ yếu vào các
lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội. Đây là lĩnh vực có nhu cầu vốn đầu tư
lớn song khả năng sinh lời lại thấp nên không hấp dẫn các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Với mục đích là tìm kiếm lợi nhuận, các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ quan tâm đến
những nước có môi trường đầu tư thuận lợi nhằm giảm chi phí. Vì vậy, cơ sở hạ tầng kỹ
thuật yếu kém, môi trường chính sách không thông thoáng, không ổn định sẽ làm nản lòng
các nhà đầu tư.


16

Một quốc gia đang phát triển nhận được nhiều và sử dụng có hiệu quả vốn ODA góp
phần vào việc xây dựng được môi trường đầu tư thuận lợi và sẽ tạo điều kiện cho các nguồn

vốn khác như vốn FDI và vốn đầu tư trong nước phát huy hiệu quả.
3.1.2. Tác động tiêu cực
• Các nước đang phát triển rất dễ rơi vào tình trạng nợ nần chồng chất. Điểm này
được thể hiện rất rõ ở hình thức đầu tư gián tiếp (ODA).
Các nước nghèo quá cần vốn nên có tâm lý được bao nhiêu hay bấy nhiêu, thậm chí
còn xem đây là “tiền chùa”. Điều này đã được kiểm chứng qua thực tế tại hai nước gặp khó
khăn trong thập niên 60, vì “nghiện” ODA mà không phát triển nhanh được, đó là Myanmar
và Philippines, dẫn đến gia tăng nợ công và đặc biệt là nợ nước ngoài.
• Nước nhận đầu tư dễ rơi vào tình trạng phụ thuộc. Sự phụ thuộc được thể hiện trên
nhiều cấp độ như phụ thuộc về vốn (khi dòng vốn đầu tư nước ngoài bị rút nhanh thì sẽ gây
ra tác động nghiêm trọng tới nền kinh tế), từ phụ thuộc về vốn dễ dẫn tới phụ thuộc kinh tế
(thị trường tiêu thụ sản phẩm) và có thể dẫn tới phụ thuộc về chính trị. Ví dụ điển hình là dự
án đường sắt đô thị Cát Linh - Hà Đông phải mua tàu và chọn nhà thầu chính Trung Quốc
mà không được chọn nhà thầu hay hợp tác bất kì nào hết. Mối quan hệ giữa nước ta và
Trung Quốc từ lâu đã không thực sự tốt như bên ngoài. Vì vậy khi dự án được nhà thầu
Trung Quốc thực hiện đã gây ra không ít sự tranh cãi, nhất là về vấn đề chính trị.
• Nước nhận đầu tư phải chia sẻ lợi ích quyền lợi. Như trong lĩnh vực khai thác dầu
thô, tuy tài nguyên là của Việt Nam nhưng khi thu hút các nhà đầu tư nước ngoài thì Việt
Nam phải chia một phần lợi nhuận cho việc họ phân bổ tỷ lệ lợi nhuận theo vốn đầu tư của
họ.
• Nền kinh tế có thể rơi vào tình trạng phát triển lệch lạc, mất cân đối. Sự mất cân đối thể
hiện về mất cân đối cơ cấu ngành cũng như mất cân đối về cơ cấu lãnh thổ. Như ở Việt
Nam các nhà đầu tư chỉ quan tâm tới những ngành có lợi nhuận cao trong khi đó các ngành
như trồng rừng hoặc như nông nghiệp v.v… thu hút được rất ít vốn đầu tư. Cơ cấu lãnh thổ
thu hút đầu tư rất mất cân đối ví dụ như ở Việt Nam chỉ có một vài tỉnh và thành phố lớn là
có thể thu hút được các nhà đầu tư như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai.
Ngoài ra, thực tế đã xảy ra trên cùng một địa bàn thôn, xã... có nhiều công trình tập
trung vào việc phát triển mạng lưới điện và năng lượng và không nhắm vào phát triển cơ sở
hạ tầng và an sinh xã hội, cùng với đó là chính quyền địa phương không đủ năng lực quản



17

lý và thiếu nguồn tài chính nhằm duy trì hoạt động của các công trình này một cách có hiệu
quả để phục vụ lâu dài cho người dân. (Theo Tổ chức Tài Chính Công Việt Nam)
• Nước nhận đầu tư có thể trở thành bãi rác thải công nghệ.
Việc tiếp nhận những dây chuyền công nghệ của nhà đầu tư nước ngoài là một vấn
đề vô cùng nan giải. Do vậy phải so sánh các mặt lợi, hại khi tiếp nhận dự án đầu tư, thu hút
đầu tư vào các khu vực công nghệ cao, hoặc thu hút vào lĩnh vực sử dụng nhiều lao động là
hai mục tiêu khác nhau. Dự án sử dụng nhiều lao động thì khả năng công nghệ áp dụng vào
đó là công nghệ lạc hậu, nhưng dự án đầu tư vào khu vực công nghệ cao thì sẽ được sử
dụng công nghệ cao do vậy Chính phủ phải cân nhắc kỹ càng trước khi chấp thuận cho các
dự án đầu tư vào đất nước. Ví dụ điển hình là việc nhập công nghệ lạc hậu trong hàng loạt
lĩnh vực như sản xuất xi măng, mía đường, nhiệt điện chạy than, sản xuất thép, giấy. “Tình
trạng này không những làm cho năng suất lao động nước ta yếu kém mà gây ô nhiễm môi
trường nghiêm trọng” - sự thẩm định không tốt ở nhiều dự án đã khiến chúng ta phải chi
hàng ngàn tỉ đồng để xử lý hệ lụy. (Đại biểu Quốc hội tỉnh Bình Thuận - Ngô Đức Mạnh)
• Ngoài ra khi nhận viện trợ ODA còn xảy ra các tình trạng sử dụng vốn sai mục
đích và không hiệu quả, nhất là vấn đề về đạo đức của các nhà cầm quyền. Gần đây nhất,
Ngân hàng Thế giới (WB) đã cấm Louis Berger Group, một công ty của Mỹ, nhận thầu các
công trình có vốn vay từ WB trong thời gian một năm vì đưa hối lộ tại hai dự án tại Việt
Nam. Vụ việc này lại làm rộ lên sự quan tâm trong nước về tham nhũng tại các dự án có
nguồn

vốn

ODA

(Theo


Phạm

Chí

Dũng

-

VOA)

 Nguồn: Thư viện học liệu mở Việt NamThống kê của Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư, Bộ Tài
Chính )

3.2. Tác động với nước cấp viện trợ
3.2.1. Tác động tích cực
• Viện trợ song phương tạo điều kiện cho các công ty của bên cấp viên trợ hoạt động
thuận lợi hơn tại các nước nhận viện trợ một cách gián tiếp. Cùng với sự gia tăng của
vốn ODA, các dự án đầu tư của những nước viện trợ cũng tăng theo với những điều
kiện thuận lợi, đồng thời kéo theo sự gia tăng về buôn bán giữa hai quốc gia. Năm
2015, Chính phủ Trung Quốc chuyển khoản vay ưu đãi bên mua 300 triệu USD sang
sử dụng cho dự án đường cao tốc Móng Cái - Vân Đồn và bổ sung khoản vay ưu đãi
chính phủ 250 triệu USD cho dự án đường sắt đô thị Cát Linh - Hà Đông; Trung


18

Quốc tuyên bố sẽ cung cấp viện trợ 1 tỷ nhân dân tệ trong 5 năm tới để giúp VN xây
dựng các công trình cải thiện dân sinh như trường học, bệnh viện... Đổi lại, Việt Nam
gia tăng thương mại với Trung Quốc. kim ngạch xuất nhập khẩu 2 nước lên 100 tỉ
USD, tạo điều kiện thuận lợi để các mặt hàng có thế mạnh của hai bên được tiếp cận

thị trường của nhau


Nước viện trợ được mở cửa thị trường bảo hộ cho nhiều danh mục hàng hoá và
những ưu đãi như được cho phép đầu tư vào những lĩnh vực hạn chế, có khả năng
sinh lời cao.



Thể hiện mục đích nhân đạo và mang tính phúc lợi xã hội của viện trợ ODA là nhằm
khôi phục, cải tạo và phát triển nền kinh tế - xã hội của nước nhận viện trợ.
Nước viện trợ còn đạt được những mục đích về chính trị, ảnh hưởng của họ về mặt

kinh tế - văn hoá đối với nước nhận cũng sẽ tăng lên. Thời gian qua, quan hệ Việt Nam Nhật Bản đã không ngừng phát triển, trở thành đối tác chiến lược toàn diện trên mọi lĩnh
vực, đặc biệt nhất là kinh tế, thương mại và đầu tư. Nhật Bản là quốc gia viện trợ phát triển
chính thức (ODA) lớn nhất cho Việt Nam. (Hội nghị Xúc tiến đầu tư Việt Nam tháng
1/2017)


ODA là công cụ để thiết lập, khẳng định và duy trì vị thế kinh tế - chính trị của nước
tài trợ trên bình diện chính trị thế giới.



Nước viện trợ nguồn vốn ODA có được quyền giám sát và quyền đề ra những điều
kiện nhất định mang tính ràng buộc. Ví dụ nguồn vốn đầu tư này chỉ được đầu tư vào
dự án này, hoặc khoản mục này mà không được đầu tư vào dự án khác tuân theo quy
định, sự kiểm định của nước tài trợ, tuỳ theo những mục đích nhất định. Hay điều
kiện phải sử dụng các chuyên gia, kĩ sư, công nghệ, máy móc của nước tài trợ…


3.2.2. Tác động tiêu cực
• Nhà tài trợ không trực tiếp quản lý dự án trong nước nhận viện trợ.


Philippin những năm (1970 – 1980), Trung Quốc (1980 – 1990) không đưa ra chiến
lược thu hút cụ thể nên vốn ODA sử dụng tản mạn không tập trung, tình trạng tham
nhũng xảy ra phổ biến hay những nước ở Nam sa mạc Shahara như Kenya, Uganda
(những năm 1975 – 1980) đã thu hút vốn ODA vào xây dựng và duy tu những tuyến
đường xuyên sa mạc kém hiệu quả dẫn đến không có khả năng thu hồi vốn, rơi vào


19

tình trạng khó khăn trong việc trả nợ nước ngoài. (Viện nghiên cứu Lập pháp Việt
Nam).
Mặc dù viện trợ cho nước ngoài chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong ngân sách, nhưng
nó là một trong những hạng mục đầu tiên bị cắt giảm. Các nước OECD đang phải đấu tranh
để kiểm soát việc thâm hụt ngân sách và kiềm chế việc gia tăng trong chi tiêu của chính
phủ. Người dân ở những nước này muốn chính phủ giảm bớt ngoại viện để tập trung giải
quyết những vấn đề kinh tế, xã hội, môi trường trong nước.


Điều nguy hiểm nhất có thể xảy ra của viện trợ ODA là các nước cấp viện trợ không
nhằm cải tạo nền kinh tế - xã hội của nước đang phát triển mà nhằm vào các mục
đích quân sự. Chúng ta cũng biết nước láng giềng Trung Quốc là một nhà đầu tư
ODA lớn cho Việt Nam, nhưng chúng ta cũng không vì thế mà để nền kinh tế phụ
thuộc quá vaò nước bạn, đặc biệt là tình hình trên biển Đông. Hai bên luôn tôn trọng
lợi ích chính đáng của nhau; thực hiện nghiêm túc các nhận thức chung và thỏa thuận
của lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai nước; duy trì nguyên trạng, không có hành động
làm phức tạp, mở rộng tranh chấp, gây căng thẳng tình hình. (Báo Pháp Luật Đời

sống)



Các nước giàu khó khăn trong việc cân đo đong đếm để tìm được nước nhận viện
trợ. Tình trạng tài chính của các nước nghèo mắc nợ nhiều và khả năng hấp thụ vốn
ODA của nhiều nước nhận viện trợ còn hạn chế là những nguyên nhân “làm nguội”
nhiệt tình của các nhà tài trợ.


20

CHƯƠNG IV: LIÊN HỆ TÌNH HÌNH VỐN ODA Ở VIỆT NAM
4.1. Thu hút vốn ODA ở Việt Nam
4.1.1. Sự thay đổi về môi trường và chính sách hợp tác phát triển
4.1.1.1.Môi trường hợp tác phát triển
Kể từ năm 2010 khi Việt Nam trở thành nước thu nhập trung bình thấp, môi trường hợp tác
phát triển ở nước ta bắt đầu thay đổi theo hướng chuyển dần từ quan hệ viện trợ sang quan
hệ đối tác. Sự thay đổi này một mặt phản ánh sự công nhận quốc tế đối với những thành
tựu phát triển kinh tế - xã hội mà Việt Nam đã đạt được trong 30 năm đổi mới, trong đó có
hơn 20 năm được sự hợp tác và hỗ trợ của cộng đồng tài trợ quốc tế, mặt khác đòi hỏi Việt
Nam phải có sự thay đổi căn bản từ nhận thức, tư duy, hoạch định chính sách đến phương
thức hợp tác, trách nhiệm của các bên trên tinh thần quan hệ đối tác trong các hoạt động
hợp tác phát triển với mục đích gắn kết cao nhất hiệu quả viện trợ với hiệu quả phát triển.
4.1.1.2.Chính sách hợp tác phát triển
Để phù hợp với môi trường hợp tác phát triển thay đổi nêu trên, trong thời kỳ 2016 - 2020
dự kiến các đối tác phát triển sẽ thay đổi chính sách hợp tác phát triển với những đường
nét chủ yếu được dự báo như sau:

a) Các đối tác phát triển đã kết thúc chương trình hỗ trợ phát triển chính thức dành cho Việt

Nam:
Các đối tác phát triển này sẽ tập trung chủ yếu đẩy mạnh phát triển quan hệ thương mại và
hợp tác đầu tư với Việt Nam trong khung khổ các thỏa thuận thương mại và đầu tư song
phương hoặc đa phương, bao gồm các Hiệp định thương mại tự do. Chính phủ các nước
đối tác này sẽ hỗ trợ gián tiếp quan hệ hợp tác trực tiếp giữa các chủ thể của hai bên với
những lĩnh vực và phương thức thực hiện theo thỏa thuận chung (các trường đại học, các
viện nghiên cứu, các cơ quan, tổ chức công và tư, các địa phương, các tổ chức phi Chính
phủ và các cá nhân). Chính phủ hai bên sẽ đóng vai trò gián tiếp tạo môi trường thuận lợi
và cung cấp những sự hỗ trợ nhất định để các bên trực tiếp phát triển quan hệ với nhau.
Các đối tác phát triển này cũng có thể cung cấp các khoản hỗ trợ cụ thể cho các cơ quan và
tổ chức Việt Nam thông qua các Quỹ toàn cầu hoặc khu vực, các tổ chức của Liên hợp
quốc, các tổ chức phi Chính phủ của Việt Nam hoặc nước ngoài hoặc các đối tác phát triển
song phương và đa phương khác đang hoạt động tại nước ta.


21

b) Các đối tác phát triển tiếp tục duy trì chương trình hỗ trợ phát triển chính thức dành cho
Vệt Nam sẽ điều chỉnh chính sách phù hợp với môi trường mới:

- Một số đối tác phát triển song phương sẽ tiếp tục hỗ trợ Việt Nam trong các lĩnh vực
truyền thống như xây dựng chính sách và phát triển thể chế, cải thiện quản trị quốc gia,
tăng cường năng lực con người, ứng phó với biến đổi khí hậu và giảm nhẹ thiên tai, xóa
đói, giảm nghèo bền vững, một số dự án đầu tư quy mô nhỏ trong ngành y tế và giáo dục
và đào tạo, hỗ trợ thực hiện các cam kết toàn cầu như Chương trình Nghị sự 2030 vì sự
phát triển bền vững (SDGs). Tuy nhiên quy mô hỗ trợ giảm dần, phạm vi hỗ trợ tập trung
hơn và phương thức hỗ trợ sẽ linh hoạt hơn. Trong các đối tác phát triển song phương một
số đã lên kế hoạch kết thúc chương trình hỗ trợ phát triển chính thức dành cho Việt Nam
trong thời kỳ 2016 - 2020.


- Ủy ban Châu Âu (EC) sẽ tiếp tục chương trình hợp tác phát triển đã hình thành trong 5
năm qua và sẽ tập trung hỗ trợ nhiều hơn các lĩnh vực liên quan đến việc thực hiện Hiệp
định thương mại tự do (FTA) giữa Việt Nam và EU.

- Các Tổ chức thuộc Hệ thống Liên hợp quốc đang trong quá trình hợp tác với Chính phủ
định vị vai trò của Liên hợp quốc ở Việt Nam tập trung hỗ trợ Chính phủ với tư cách là
nhà tư vấn chính sách phát triển thay vì nhà tài trợ; áp dụng những mô hình hỗ trợ linh
hoạt hơn và hợp tác chặt chẽ với các cơ quan Việt Nam vận động các nguồn lực bổ sung
để đáp ứng nhu cầu hỗ trợ đang tăng lên trong bối cảnh ngân sách của Liên hợp quốc hạn
hẹp.

- Nhóm các Ngân hàng phát triển bao gồm ADB, AFD, JICA, KfW, KEXIM và WB nguồn cung cấp vốn ODA và vốn vay ưu đãi chủ yếu của Việt Nam, tập trung đầu tư
các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội như phát triển đường bộ, cảng biển, cảng
hàng không; xây dựng các nhà máy điện và hệ thống truyền tải và phân phối; phát triển
hạ tầng đô thị (hệ thống cấp thoát nước, xử lý rác thải, phát triển giao thông nội đô,
…); phát triển nông nghiệp và nông thôn kết hợp xóa đói, giảm nghèo; xây dựng hệ
thống thủy lợi; phát triển y tế; giáo dục; …..

- Trong 5 năm tới các Ngân hàng Phát triển sẽ tiếp tục cung cấp hỗ trợ phát triển chính thức
cho Việt Nam, song mức độ ưu đãi sẽ giảm dần, trong đó WB sẽ chấm dứt cung cấp vốn
vay ODA (IDA) sau chu kỳ IDA-17 trong năm 2017, còn ADB sẽ dừng cung cấp vốn vay
ODA (ADF) trong một hoặc hai năm sau đó. Tình hình đó dẫn tới vốn vay sẽ tăng giá đòi


22

hỏi các cơ quan Việt Nam cần phải tính toán, cân nhắc toàn diện khi quyết định sử dụng
nguồn vốn của các ngân hàng phát triển nhằm đạt được hiệu quả đầu tư và bảo đảm an
toàn nợ công.


4.1.2. Đánh giá tình hình thu hút ODA ở Việt Nam
4.1.2.1.Quan hệ hợp tác phát triển giữa Việt Nam và cộng đồng các nhà tài trợ
tiếp tục được tăng cường và phát triển
Tình hình cam kết, ký kết và giải ngân vốn ODA và vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ
nước ngoài trong thời kỳ 2011 - 2015 đã có bước chuyển biến tích cực:

a) Ký kết các điều ước quốc tế cụ thể về ODA và vốn vay ưu đãi đạt được nhiều tiến bộ
Tổng vốn ODA và vốn vay ưu đãi ký kết theo các điều ước quốc tế cụ thể thời kỳ 2011 2015 tính đến ngày 25 tháng 12 năm 2015 đạt trên 27,782 tỷ USD, cao hơn 31,47% so với
mức của thời kỳ 2006 - 20101, trong đó ODA vốn vay và vốn vay ưu đãi đạt 26,527 tỷ
USD chiếm khoảng 95,48% và ODA viện trợ không hoàn lại đạt 1,254 tỷ USD chiếm
khoảng 4,52% so với tổng vốn ODA và vốn vay ưu đãi đã ký kết cho thời kỳ này.
Cơ cấu vốn ODA và vốn vay ưu đãi theo nhà tài trợ được thể hiện trong Hình 1 dưới đây.
Điều dễ nhận thấy đó là các nhà tài trợ Nhóm 6 Ngân hàng Phát triển (ADB, AFD, JICA,
KfW, KEXIM, WB)2 vẫn chiếm vị trí vượt trội. Tổng giá trị vốn vay ODA và vốn vay ưu đãi
ký kết với các nhà tài trợ này trong thời kỳ 2011 - 2015 đạt khoảng 26,308 tỷ USD, trong đó
khoảng 4,5 tỷ USD vốn vay kém ưu đãi của ADB, AFD và WB.

1 Tổng vốn ODA và vốn vay ưu đãi ký kết thời kỳ 2006 - 2010 đạt 21,131 tỷ USD.

2 Các nhà tài trợ Nhóm 6 Ngân hàng Phát triển chủ yếu cung cấp các khoản vay ODA và vốn vay ưu đãi và

tập trung vào các chương trình, dự án đầu tư hạ tầng kinh tế - xã hội quy mô lớn.


23

Biểu đồ 4.1.Cơ cấu vốn ODA và vốn vay ưu đãi ký kết theo nhà tài trợ thời kỳ 2011 2015
Đơn vị: Triệu USD
NHÀ TÀI TRỢ KHÁC
EC EIB PHÁP ĐỨC

HÀN QUỐC
ADB WB
NHẬT BẢN

0

2.000

4.000

6.000

8.000

10.000

12.000

Nguồn: Bộ Kề hoạch và đầu tư

Về cơ cấu vốn ODA và vốn vay ưu đãi theo ngành và lĩnh vực, Bảng 1 dưới đây cho
thấy các lĩnh vực giao thông vận tải, môi trường (cấp, thoát nước, ứng phó với biến đổi khí
hậu, tăng trưởng xanh,…) và phát triển đô thị, năng lượng và công nghiệp là những ngành
có tỷ trọng vốn ODA và vốn vay ưu đãi tương đối cao trong khi ngành nông nghiệp và
phát triển nông thôn kết hợp với xóa đói giảm nghèo, y tế, xã hội, giáo dục và đào tạo,
khoa học công nghệ, tăng cường năng lực thể chế,... chiếm tỷ lệ khá khiêm tốn. Nguyên
nhân của tình hình này là tỷ lệ sử dụng vốn ODA không hoàn lại trong tổng vốn ODA và
vốn vay ưu đãi của các ngành này thường cao. Hiện nay vốn ODA không hoàn lại giảm
mạnh, cùng với đó phần lớn các chương trình và dự án trong các ngành này không có khả
năng hoàn vốn, do vậy khó sử dụng vốn vay, nhất là vốn vay ưu đãi (lãi suất cao, thời gian

trả nợ ngắn sát với điều kiện vay thương mại), đồng thời nguồn vốn vay ODA (lãi suất
thấp, thời gian trả nợ dài) hiện đang giảm mạnh.


24

Bảng 4.1.
ODA ký kết theo ngành và lĩnh vực thời kỳ 2011 - 2015
Đơn vị: Triệu USD

Trong đó

Tổng
ODA và

Vốn vay

vốn vay

ODA và vay

Viện

ưu đãi
9.913,73

ưu đãi
9.565,94

trợ

347,79

35,68

2. Môi trường (cấp, thoát nước, đối
phó với biến đổi khí hậu,…) và phát
triển đô thị

5.181,26

5.048,76

132,51

18,65

3. Năng lượng và công nghiệp

4.762,50

4.730,15

32,34

17,14

2.632,23

2.514,79


117,44

9,47

5. Y tế - Xã hội

1.292,30

1.073,12

219,18

4,65

6. Giáo dục và đào tạo

930,13

767,85

162,28

3,35

3.070,14

2.827,35

242,79


11,05

27.782,29

26.527,95

1.254,34

100,00

Ngành, lĩnh vực
1. Giao thông vận tải

4. Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Xóa đói giảm nghèo

7. Ngành khác (khoa học công nghệ, tăng
cường năng lực thể chế,...)
Tổng số

Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư

Tỷ lệ
(%)


25

b) Giải ngân vốn ODA và vốn vay ưu đãi có bước đột phá
Dưới sự chỉ đạo sát sao của Chính phủ với sự nỗ lực cao của các ngành, các cấp và sự hợp
tác chặt chẽ với các nhà tài trợ, trong 5 năm 2011-2015, tình hình thực hiện chương trình,

dự án ODA và vốn vay ưu đãi đã đạt được tiến bộ rõ rệt cả về tiến độ thực hiện chương
trình, dự án, cũng như số vốn giải ngân.
Có thể thấy giải ngân vốn ODA và vốn vay ưu đãi trong thời kỳ 2011 - 2015 đã có những
tiến bộ vượt bậc. Tổng vốn ODA và vốn vay ưu đãi giải ngân thời kỳ này ước đạt 22,325
tỷ USD (bình quân khoảng 4,46 tỷ USD/năm). Mức giải ngân này cao hơn từ 39,53 59,46% so với mục tiêu3 đề ra trong Đề án ODA 2011 - 2015 và cao gấp 1,6 lần tổng vốn
ODA giải ngân trong thời kỳ 2006 - 20104. Giải ngân của các nhà tài trợ quy mô vốn lớn
(WB, Nhật Bản) đã có những cải thiện đáng kể. Tỷ lệ giải ngân của Nhật Bản tại Việt Nam
năm 2011 đứng thứ hai và năm 2012 đứng thứ nhất trong số các nước nhận ODA của Nhật
Bản, tỷ lệ giải ngân của WB tại Việt Nam tăng từ 13% năm 2011 lên 19% năm 2012.
Tình hình giải ngân vốn ODA, vốn vay ưu đãi được cải thiện đưa tới kết quả nhiều công
trình đầu tư bằng vốn ODA, vốn vay ưu đãi để phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội,
trong đó có nhiều công trình tầm cỡ quốc gia đã hoàn thành và đưa vào khai thác đúng hạn
góp phần tăng trưởng kinh tế và cải thiện đời sống nhân dân.

c) Việt Nam đạt tỷ lệ cao về số lượng dự án hoàn thành đạt kết quả phát triển và đạt các mục
tiêu đề ra

- Theo báo cáo hoàn thành dự án (PCR) và Báo cáo kiểm toán thực hiện hoàn thành dự
án (PPAR) do các nhà tài trợ Nhóm 6 Ngân hàng Phát triển thực hiện đến hết năm 2014,
số lượng các dự án thành công của Việt Nam chiếm tỷ lệ cao (xem Bảng 2), cụ thể:
+ Về các báo cáo hoàn thành dự án (PCR), số dự án thành công của ADB: 55/56, JICA:
17/17, KEXIM: 5/5, WB: 67/69.
+ Về các báo cáo kiểm toán thực hiện hoàn thành dự án (PPAR), số dự án thành công của
ADB: 11/16, KfW: 20/26, KEXIM: 16/16, WB: 63/69.

3 Mục tiêu đề ra trong Đề án là vốn ODA và vốn vay ưu đãi giải ngân khoảng 14 - 16 tỷ USD trong thời kỳ

2011 – 2015.
4 Tổng vốn ODA và vốn vay ưu đãi giải ngân trong thời kỳ 2006 - 2010 đạt 13,86 tỷ USD, bằng 67,25% vốn


ký kết.


×