Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

TÀI LIỆU MÔN LUẬT SO SÁNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (224.38 KB, 30 trang )

LUẬT SO SÁNH
MỤC LỤC

1


Câu 1: Trình bày Lịch sử hình thành phát triển dòng họ civil law
1. Giai đoạn từ thế kỉ V TCN đến thế kỉ VI SCN
- Sự ra đời của luật La Mã được đánh dấu bằng sự ra đời của luật 12 Bảng (449 TCN).
Luật 12 Bảng chủ yếu là các tập quán Latinh và vay mượn luật pháp Hi Lạp cổ đại.Đó là
các qui tắc cơ bản chứ chưa phải là các văn bản pháp luật hoàn chỉnh.Tuy nhiên đây được
coi là pháp điển sớm nhất của luật La Mã.
- Năm 528, hoàng đế Justinian I (527-565), với ý đồ kết hợp giá trị pháp lí truyền thống
và những thành tựu đương thời, đã ra lệnh tập hợp, củng cố, hệ thống hóa và điển chế hóa
luật La Mã và Tập hợp các chế định luật dân sự Coprus Juris Civils ra đời.
2. Giai đoan từ thế kỉ XI đến thế kỉ XVIII
- Từ thế kỉ V đến thế kỉ X, luật La Mã ở châu Âu bị lu mờ, thậm chí bị tầm thường hóa
bởi các tộc người Giecmanh xâm chiếm lãnh thổ La Mã.
- Từ thế kỉ XI đến thế kỉ XIII, "thời kì phục hưng" của luật La Mã được đánh dấu bằng sự
kiện Bộ tổng luật Corpus Juris Civils được nghiên cứu và đem vào giảng dạy tại các
trường đại học tổng hợp châu Âu. Trường đại học tổng hợp Bologna (Ý) là trung tâm đầu
tiên giảng dạy luật La Mã ở châu Âu cuối thế kỉ XI.
Quá trình nghiên cứu và giảng dạy đã làm "sống lại" và dần hoàn thiện luật La Mã. Kéo
theo đó là sự ra đời của các trường phái mà mỗi trường phái nhấn mạnh tới và có một
phương pháp riêng trong bình luận và giải thích luật La Mã (4). Đó là : trường phái của
các luật sư (glossators), trường phái của các nhà bình luận (post - glossators), trường phái
của các nhà nhân văn (humanistes), trường phái của các nhà pháp điển hiện đại
(pandectists), trường phái pháp luật tự nhiên (natural law) trong đó trường phái pháp luật
tự nhiên đóng vai trò quan trọng nhất.
Thuyết pháp luật tự nhiên cho rằng luật tồn tại sẵn có trong tự nhiên mà những người làm
luật nên cố gắng tuân theo. Trường phái này không coi pháp luật như một hiện tượng tự


nhiên mà là một sản phẩm của lí trí, phù hợp với điều kiện XH.Trường phái này khởi
xướng và hình thành xu hướng thay đổi nhận thức về vai trò pháp luật trong khoa học
pháp lí, bác bỏ lối nhận thức kinh viện, máy móc.
Trường phái này có 2 sự thành công lớn nhất:
+ Khẳng định tầm quan trọng của việc phân chia luật công (Ius publicum) và luật tư (Ius
privatum) trong đó nhấn mạnh việc phát triển pháp luật công sẽ là cơ sở cho phát triển

2


pháp luật tư tức là bảo đảm các quyền tự nhiên của con người cũng như tự do của mỗi cá
nhân.
+ Nâng kĩ thuật lập pháp lên pháp điển hóa. Tư tưởng của trường phái pháp luật tự nhiên
là biến pháp luật được giảng dạy tại các trường đại học thành pháp luật thực định.Tư
tưởng này được đưa vào XH làm các nhà cầm quyền thấy cần phải xem xét lại toàn bộ hệ
thống pháp luật.Từ đó dẫn đến pháp điển hóa.Tuy nhiên việc pháp điển hóa các bộ luật ở
các nước khác nhau là khác nhau.Điều này dẫn đến việc Civil law được áp dụng linh
hoạt, mềm dẻo tại các nước (khác với Common law được áp dụng một cách đồng bộ).
Tuy nhiên pháp điển hóa - kết quả của trường phái luật tự nhiên cũng có mội số hạn chế
như : coi trọng pháp luật quốc gia mà bỏ qua ý tưởng luật là qui tắc ứng xử XH và có bản
chất siêu quốc gia ; làm xuất hiện trường phái thực chứng pháp luật (legal positivist) đánh
giá quá cao pháp điển hóa, chỉ coi văn bản qui phạm pháp luật là nguồn và không công
nhận tư tưởng luật tự nhiên.
3. Giai đoạn từ thế kỉ XVIII đến nay
- Các nguyên tắc và nền tảng của luật La Mã tiếp tục được kế thừa phát triển ở giai đoạn
Cách mạng tư sản cuối thế kỉ XVIII cùng với tên tuổi của các nhà tư tưởng như :
Montesquieu (1689 - 1775), Rousseau (1712 - 1778)...
- Sang thế kỉ XIX, hệ thống pháp luật châu Âu diễn ra xu hướng pháp điển hóa mạnh mẽ.
Nổi bật nhất là sự ra đời của Bộ luật Dân sự Pháp ( Bộ luật Napoleon 1804). Đây là bộ
luật dung hòa giữa pháp luật La Mã và pháp luật phong kiến, tập quán và luật thành văn,

quan điểm tôn giáo và trào lưu phi tôn giáo.
Bộ luật Dân sự Napoleon được coi là kinh điển cho các nước Civil law vì:
+ Hầu như mọi quan hệ dân sự chủ yếu trong XH đều được bộ luật điều chỉnh.
+ Được coi là tạo ra cuộc cách mạng về kĩ thuật lập pháp : các chương, điều,qui phạm
pháp luật được sắp xếp theo từng chế định, trình bày rõ ràng và logic ; các khái niệm,
nguyên lí, nguyên tắc trong bộ luật được nêu ngắn gọn, chuẩn xác và đầy đủ.
- Ngày nay, Civil law được áp dụng tại nhiều nước trên thế giới, có những học tập từ
những hệ thống pháp luật khác trên thế giới, đặc biệt là từ hệ thống Common law.
Civil law được mở rộng ra thế giới thông qua 2 con đường.Thứ nhất là mở rộng thuộc địa
(chủ yếu). Thứ hai là do sự học hỏi văn minh pháp lí phương Tây của các nước.

3


Câu 2: Trình bày Lịch sử hình thành phát triển dòng họ Common Law hay gọi đơn
giản hơn là hệ thống pháp luật Anh - Mỹ:
dòng họ Common Law là pháp luật ra đời ở Anh, sau này phát triển ở Mĩ và
những nước là thuộc địa của Anh, Mĩ trước đây. Đây là hệ thống pháp luật phát triển từ
những tập quán (custom), hay còn được gọi là hệ thống pháp luật tập quán, hay hệ thống
pháp luật coi trọng tiền lệ (precedents/ judge made law).
Common Law hiện nay cần phải được hiểu theo 3 nghĩa khác nhau:
- Thứ nhất, đó là một hệ thống pháp luật lớn trên thế giới dựa trên truyền thống hệ thống
pháp luật của Anh;
- Thứ hai, trên phương diện nguồn luật, án lệ (Case law) của Common Law được tạo ra
bởi tòa án, phân biệt với đạo luật của Nghị viên;
- Thứ ba, trên phương diện hệ thống Tòa án, Tòa án và các án lệ của Common Law cũng
khác biệt với Tòa án và các án lệ của Equity Law.
Về lịch sử hình thành, nguồn gốc của hệ thống luật này bắt đầu từ năm 1066 khi
người Normans xâm chiếm Anh quốc và Hoàng Đế William bắt đầu tập trung quyền lực
vào tay triều đình mới. Thuật ngữ luật chung ( Common Law ) xuất phát từ quan điểm

cho rằng các tòa án do nhà vua lập ra, áp dụng các tập quán chung ( Common Custom)
của vương quốc, trái ngược với những tập tục luật pháp địa phương áp dụng ở các miền
hay ở các tòa án của điền trang, thái ấp phong kiến.
Các nguyên tắc bền vững của luật chung đã được tạo ra bởi ba tòa án được vua
Henry II (1133 - 1189) thành lập là Tòa án Tài chính (Court of Exchequer) để xét xử các
tranh chấp về thuế; Tòa án thỉnh cầu phổ thông ( Court of Common Pleas) đối với những
vấn đề không liên quan trực tiếp đến quyền lợi của nhà vua; và Tòa án Hoàng Đế ( Court
of the King’s Bench) để giải quyết những vụ việc liên quan trực tiếp đến quyền lợi của
Hoàng gia.
Thực chất, trước đó dưới thời của Hoàng đế William, những tập quán của Anh ít
nhiều chịu ảnh hưởng của văn hóa Đức ở Châu Âu lục địa. Tòa án lúc đó là những người
dân được triệu tập để cùng giải quyết tranh chấp và nếu không xử được người ta dùng
phương pháp thử tội (ordeal) bằng việc bắt bị cáo cầm vào một miếng sắt nung đỏ, hoặc
cầm một viên đá đã được ngâm trong nước sôi, hoặc hình thức thề độc. Nếu vết thương
đó lành sau một thời gian xác định, anh ta sẽ bị tuyên là vô tội và ngược lại.
Năm 1154, Vua Henry II đã tạo ra một hệ thống luật chung và sáng tạo ra một hệ
thống tòa án thống nhất đầy quyền năng, ông đưa các thẩm phán từ tòa án Hoàng gia đi

4


khắp nơi trong nước và sưu tầm, chọn lọc cách thức giải quyết các tranh chấp. Sau đó
những thẩm phán này sẽ trở về thành Luân đôn và thảo luận về những vụ tranh chấp đó
với các thẩm phán khác. Những phán quyết này sẽ được ghi lại và dần trở thành án lệ
(precedent), hay theo Tiếng Latin là stare decisis. Theo đó, khi xét xử thẩm phán sẽ chịu
sự ràng buộc bởi những phán quyết đã có từ trước đó. Thuật ngữ “Common Law” bắt đầu
xuất hiện từ thời điểm đó.Như vậy trước khi Nghị viện ra đời trong lịch sử pháp luật của
Anh, Common Law đã được áp dụng trên toàn bộ vương quốc trong vài thế kỉ.
Đến thế kỷ thứ 15, khi đó xuất hiện một thực tiễn pháp lý là khi luật “Common
Law” không đủ sức để giải quyết một vụ việc, và người đi kiện cho rằng cách giải quyết

của Common Law là chưa thỏa đáng. Thí dụ, trong một vụ kiện về đất đai, người đi kiện
cho rằng khoản tiền bồi thường mà theo cách giải quyết của Common law là không đủ
bồi thường cho hành vi mà người xâm phạm đã cướp không của họ, họ yêu cầu rằng
người vi phạm này còn phải bị đuổi và phải trả lại phần đất lấn chiếm đó. Chính điều này
là cơ sở để xuất hiện hệ thống mới là hệ thống pháp luật công bình (system of equity),
đồng thời xuất hiện thiết chế Tòa công bình, do viên Tổng chưởng lý (Lord Chancellor)
đứng đầu. Về bản chất thì luật công bình vẫn chiếm ưu thế hơn so với luật Common Law
trong trường hợp có sự xung đột.Điều này đã được nêu trong Đạo luật hệ thống tư pháp
(Judicature Acts) năm 1873 và 1875.
Ngày nay bên cạnh án lệ với tư cách là một loại nguồn pháp luật đặc thù của hệ
thống Common Law, luật thành văn và các loại qui tắc khác cũng được coi là một bộ
phận cấu thành của hệ thống pháp luật này. Khi xét xử những nước theo hệ thống pháp
luật Common Law thường căn cứ vào hai câu hỏi lớn, đó là câu hỏi sự thật khách quan
(question of fact) và câu hỏi về luật - theo nghĩa rộng(question of law). Trong bất cứ vụ
việc nào, ngày nay khi xét xử các thẩm phán của Common Law vẫn dựa cả vào án lệ, luật
viết và những căn cứ thực tế để xét xử.
Câu 3: Những đặc điểm khác nhau cơ bản của hai hệ thống này được thể hiện rõ nét
nhất ở 4 tiêu chí: nguồn gốc của luật (origin of law); tính chất pháp điển hóa
(codification); thủ tục tố tụng (Procedure); Vai trò của thẩm phán và luật sư (Role
of the Jurists)
3.1. Về nguồn gốc của luật:
Trong pháp luật lục địa, các quan hệ tài sản gắn liền với những nguyên tắc của
Luật dân sự La Mã - Tập hợp những qui định pháp luật làm nền tảng cho Luật dân sự La
Mã của Hoàng đế Justinian (Justinian’s Corpus Juris Civilis). Nói đến sự ảnh hưởng của
Luật La Mã, Mác đã từng nhận xét rằng pháp luật các nước Châu Âu không thể đem lại

5


những hoàn thiện đáng kể cho Luật La Mã cổ đại mà chỉ sao nó lại một cách cơ bản.

Pháp luật Anh - Mỹ không ảnh hưởng sâu sắc và gắn bó mật thiết với những nguyên tắc
của luật dân sự La Mã như pháp luật lục địa.Tuy nhiên cả hai hệ thống pháp luật này đều
ít nhiều đều thừa hưởng sự giàu có và tính chuẩn mực của thuật ngữ pháp lý La Mã. Ví
dụ : stare decisis (Phán quyết của Tòa án trước đó phải được công nhận như tiền lệ);
pacta sunt servandas (Hợp đồng phải được tôn trọng).
Sự ảnh hưởng của các học thuyết pháp lý, với tư cách là một nguồn luật thì ở
Common Law có xu hướng áp dụng nhiều hơn so với các nước theo truyền thống Civil
law.
3.2.Về tính chất pháp điển hóa
Quan niệm tiếp cận pháp luật của hai hệ thống pháp luật này là khác nhau. Hệ
thống Civil law quan niệm luật pháp là phải từ các chế định cụ thể (All law resides in
institutions), còn hệ thống Common law lại quan niệm luật pháp được hình thành từ tập
quán (All law is custom).
Ưu điểm rõ nét của các Bộ luật trong Civil Law là tính khái quát hóa, tính ổn định
cao (certainty of law).Pháp luật Common Law dựa chủ yếu trên nguồn luật là tiền lệ pháp
(Stare decisis. Thẩm phán vừa là người xét xử vừa là người sáng tạo ra pháp luật một
cách gián tiếp. Ưu điểm rõ nét nhất của các tập quán là tính cụ thể, linh hoạt và phù hợp
với sự phát triển của các quan hệ xã hội.
Pháp luật lục địa chia thành luật công (public law) và luật tư (private law), còn
pháp luật Anh - Mỹ khó phân chia.Công pháp bao gồm các ngành luật, các chế định pháp
luật điều chỉnh các quan hệ về tổ chức và hoạt động của cơ quan nhà nước, những quan
hệ mà một bên tham gia là các cơ quan nhà nước.Còn tư pháp bao gồm các ngành luật,
các chế định pháp luật điều chỉnh các quan hệ liên quan đến các cá nhân, tổ chức khác.
3.3. Về thủ tục tố tụng
Hệ thống pháp luật lục địa phát triển hình thức tố tụng thẩm vấn, tố tụng viết
(inquisitorial system/ written argument), còn Hệ thống pháp luật Anh – Mỹ phát triển
hình thức tố tụng tranh tụng (Case system/ oral argument).Tuy nhiên cũng không hoàn
toàn đúng nếu khẳng định rằng hệ thống Civil Law không hề áp dụng việc suy đoán vô
tội (presumption of innocence).
Khi xét xử, các nước theo hệ thống Common Law rất coi trọng nguyên tắc Due

process. Đây là nguyên tắc được nhắc đến trong tu chính án thứ 5 và 14 của Hoa Kỳ. Nội
dung chính của nguyên tắc này nói đến ba yêu cầu chính:

6


yêu cầu bình đẳng của các đương sự trong việc đưa ra chứng cứ trước Toà (equal
footing); yêu cầu qui trình xét xử phải được tiến hành bởi một Thẩm phán độc lập có
chuyên môn, cùng một bồi thẩm đoàn vô tư, khách quan (fair trial and impartial jury);
yêu cầu luật pháp phải được qui định sao cho một người dân bình thường có thể hiểu
được hành vi phạm tội (Laws must be written so that a reasonable person can understand
what is criminal behavior). Hệ thống Civil Law dựa trên qui trình tố tụng thẩm vấn
(inquisitorial system) nên trong các vụ án hình sự, thẩm phán căn cứ chủ yếu vào Luật
thành văn, kết quả của cơ quan điều tra, và quá trình xét xử tại Toà để ra phán quyết.
Toà án ở các nước theo truyền thống Common Law được coi là cơ quan làm luật
lần thứ hai, hay cơ quan sáng tạo ra án lệ (The second Legislation). Ngược lại ở các nước
theo truyền thống Civil Law, chỉ có Nghị viện mới có quyền làm luật, còn Toà án chỉ là
cơ quan áp dụng pháp luật.
Ở các nước theo truyền thống Common Law đa phần các hiệp định quốc tế không
phải là một phần của luật quốc nội/ luật quốc gia (domestic law). Chúng chỉ có thể được
toà án áp dụng khi các hiệp định quốc tế đã được nội luật hoá bởi cơ quan lập pháp. Các
nước theo truyền thống Civil Law thì khác, ví dụ như ở Thụy Sĩ, các điều ước quốc tế
được áp dụng trực tiếp như là một phần của luật quốc nội, vì vậy các Toà án có thể trực
tiếp áp dụng các điều ước quốc tế khi xét xử.
3.4. Về vai trò của luật sư và thẩm phán, chứng cứ:
Pháp luật Anh - Mỹ do án lệ là nguồn cơ bản, đặc biệt với truyền thống coi trọng
chứng cứ nên luật sư, thẩm phán rất được coi trọng. Pháp luật lục địa do văn bản qui
phạm pháp luật là nguồn chủ yếu, đồng thời do thông lệ "án tại hồ sơ" - quá trình điều tra
phụ thuộc phần lớn vào kết quả của cơ quan điều tra do vậy luật sư ban đầu ít được coi
trọng như các nước theo hệ thống pháp luật Anh - Mỹ. Thẩm phán ở các nước Civil Law

chỉ tiến hành hoạt động xét xử mà không được tham gia hoạt động lập pháp, họ không
được tạo ra các chế định, các qui phạm pháp luật.
Thẩm phán của Civil law được đào tạo theo một qui trình riêng, họ thường trước
đó không phải là các luật sư. Nhưng ở Common Law thì khác, thẩm phán hầu hết đều
được lựa chọn từ những luật sư rất danh tiếng;
Nguyên nhân dẫn đến sự khác nhau của hai hệ thống pháp luật này có rất nhiều, có
cả nguyên nhân khách quan và chủ quan, nhưng cơ bản vẫn là do tiến trình phát triển của
cách mạng tư sản khác nhau quyết định.Cách mạng tư sản ở các nước đã diễn ra với tính
chất, mức độ triệt để là khác nhau, có nước cách mạng chống phong kiến diễn ra triệt để,
có nước không triệt để.

7


Câu 4: lịch sử pháp luật Anh chia làm 4 giai đoạn chính:
1. Giai đoạn trước năm 1066: Anglo – Saxon
- Từ thế kỉ I đến thế kỉ V, đế chế La Mã thống trị nước Anh song không để lại dấu tích gì
đáng kể, kể cả về mặt pháp luật.
- Thời kì này, nước Anh chia làm nhiều vương quốc nhỏ với các hệ thống pháp luật mang
tính địa phương, chủ yếu là ảnh hưởng từ các qui tắc tập quán và thực tiễn của các bộ lạc
người Giecmanh (Germanic tribes).
- Khi các bên có tranh chấp thường áp dụng tập quán địa phương để phân xử. Những
người già sẽ đứng ra giải thích chính xác các tập quán địa phương áp dụng cho các tranh
chấp đó.
2. Giai đoạn 1066 - 1485: Common law ra đời
- Năm 1066 người Norman đánh bại người Anglo - Sacxon, thống trị nước Anh. William
(người Pháp) lên ngôi vua, mở ra một thời kì mới trong lịch sử nước Anh và mở đầu cho
giai đoạn hình thành Common law.Ông vẫn duy trì tập quán pháp của Anh.Nhưng trên
thức tế lại cố làm cho mọi người quên đi ảnh hưởng của quá khứ và xây dựng một chế độ
phong kiến tập quyền nhằm nắm độc quyền trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội kể cả

lĩnh vực tư pháp.
- Thời Henry II là giai đoạn phát triển của một hệ thống Common law có tính chất quốc
gia (a national Common law). Ông gửi các thẩm phán hoàng gia tới nắm tòa án ở các nơi.
Trong nhiều thập kỉ, họ đã phải cạnh tranh với các tòa án ở địa phương: tòa án của tỉnh
(county), tòa án giáo hội, tòa án của lãnh chúa phong kiến... Đến cuối thế kỉ XIII, các Tòa
án Hoàng gia thắng thế trong việc xét xử vì chất lượng xét xử tốt và trình độ chuyên môn
cao. Dần dần, các tòa án địa phương lấy án lệ của Tòa án Hoàng gia làm khuôn mẫu.
Common law bắt đầu chiếm vị trí quan trọng và thu hút nhiều công việc pháp lí, mặc dù
trong một thời gian dài đã phải cạnh tranh với nhiều hệ thống pháp lí:
luật tập quán địa phương, luật thương gia hay các qui tắc tập quán phong kiến...
Và cũng không thể phủ nhận rằng Common law đã vay mượn nhiều vấn đề từ các hệ
thông pháp lí nói trên để đạt được sự tiến bộ to lớn (1).
Thời kì này cần phải nhắc đến sự ra đời và phát triển của hệ thống writ (gọi là trát hay
tạm dịch là lệnh gọi ra tòa). Một người muốn kiện lên tòa án Hoàng gia phải đến Ban thư
kí của nhà vua (chancery), đóng phí và được cấp writ. Writ nêu rõ cơ sở pháp lí mà bên
nguyên đưa ra cho vụ việc của mình.
Có thể nói hệ thống writ là trái tim của Common law, no writ no remedy (tạm dịch
là không có writ thì không có chế tài). W.S.Holdsworth, một nhà sử học nổi tiếng về
Common law đã tuyên bố về vai trò chính yếu của hệ thống writ: "Common law đã phát
triển xung quanh hệ thống writ của hoang gia. Chúng đã tạo thành cơ sở để xây đắp nên
tòa nhà của nó".

8


Hệ thống writ mang đặc trưng của pháp luật Common law, chứng tỏ vai trò quan trọng
của các thủ tục tố tụng. Đó cũng là lí do các luật gia Common law không tìm hiểu nội
dung thực định phức tạp trong luật tư của Luật La Mã (họ cho rằng luật La Mã chỉ giúp
cho việc tìm kiếm giải pháp đúng đắn cho tranh chấp nhưng chưa cho phép thắng kiện).
3. Giai đoạn 1485- 1832: phát triển Equity law

- Equity law (luật công bằng) được hình thành dựa trên cơ sở coi nhà vua là biểu tượng
của công lí.
- Trong trường hợp Common law không đáp ứng được cho bên bị thiệt hại tức là không
đảm bảo được tính công bằng thì một công chức của tòa án (chancellor) sẽ trình vụ việc
lên nhà vua. Thông qua các đơn từ gửi tới nhà vua và phán quyết của các chancellors, dẫn
đến việc hình thành một hệ thống pháp luật thứ hai gọi là luật công bằng (Equity law hay
Chancery justice). Học thuyết về Equity law mang nhiều yếu tố của luật La Mã vì các
chancellors thường là các mục sư bị ảnh hưởng của luật giáo hội (cannon law)- một loại
luật có cơ sở gần gũi với luật La Mã (2).
4. Giai đoạn 1832- nay: giai đoạn hiện đại
- Đây là giai đoạn cải cách và phát triển pháp luật Anh với sự xuất hiện của nhiều luật,
tòa án hành chính, văn bản hành chính. Đặc biệt là việc gia nhập EEC năm 1972 có tác
động đến sự phát triển của hệ thống pháp luật Anh.
- Ngày nay, các luật gia Anh ngày càng quan tâm và có nhiều học hỏi từ hệ thống Civil
law.
* Common law được mở rộng ra thế giới thông qua 2 con đường.
Thứ nhất là chinh phục thuộc địa (chủ yếu).
Thứ hai là các nước chủ động tiếp thu, chấp nhận một cách tự nguyện với việc thiết lập
và thúc đẩy quan hệ chính trị, thương mại với Anh.
Câu 5: Nguồn luật của luật Anh
1. Án lệ (case law)
- Án lệ là nguồn chính của các nước Common law, phân biệt với các nước Civil law coi
pháp luật thành văn (status law) làm nguồn chính. Hệ thống án lệ này sẽ được phát triển
qua các vụ việc được tòa án xét xử.
Việc sử dụng án lệ làm nguồn chính cho thấy đặc điểm tư duy pháp lí của
Common law: đó là chủ nghĩa kinh nghiệm (empiricism) hay lối suy luận qui nạp đi từ
trường hợp cá biệt đến cái tổng quát, nguyên tắc. Hệ quả tích cực của nó là làm thành một
hệ thống Common law mở, gần gũi với đời sống thực tế, tạo nên tính chủ động sáng tạo,
mềm dẻo và linh hoạt trong tư duy pháp luật. Đồng thời cũng hạn chế sự phát sinh của
luật (trong trường hợp nhiều vụ án tương tự nhau có thể cùng áp dụng một án lệ).


9


Tuy nhiên việc sử dụng án lệ là nguồn chính cũng có mặt tiêu cực. Nguyên nhân là
vì án lệ là một nguồn mà cần phải liên tục thay đổi. Điều này vi phạm nguyên tắc cơ bản
của pháp luật: đó là tính ổn định (dù chỉ ở mức tương đối). Có 2 lí do chính cần phải đổi
mới hệ thống án lệ. Thứ nhất là do bản thân án lệ ngay từ đầu đã bất hợp lí nên thay đổi
là cần thiết. Thứ hai là do cuộc sống thay đổi liên tục và ngày càng phức tạp. Án lệ có thể
đã tồn tại trong một khoảng thời gian nhưng những qui phạm tiềm ẩn trong án lệ không
còn phù hợp để điều chỉnh các quan hệ trong xã hội.
- Đặc điểm của án lệ:
+ Phải đáp ứng được điều kiện về nguyên tắc, đòi hỏi của thực tiễn đời sống và pháp luật.
Nó khiến cho pháp luật gần gũi hơn với đời sống thực tế.
+ Phải đảm bảo tính chắc chắn và ổn định của hệ thống pháp luật.
+ Nguyên tắc stare decisis (học thuyết án lệ): tranh chấp tương tự cần đạt kết quả pháp lí
tương tự. Thẩm phán phải tuân thủ các phán quyết đã được tuyên trước đó, đặc biệt đối
với những phán quyết của tòa án cấp cao hơn. Điều này góp phần tạo nên một hệ thống
pháp luật thống nhất, tránh được hiên tượng một vụ án mà tòa án các cấp khác nhau đưa
ra chế tài khác nhau.
+ Tồn tại từ lâu phù hợp với vụ án cần xét xử. Thẩm phán chính là người tìm ra và áp
dụng án lệ. Tuy nhiên trên thực tế công việc này hết sức khó khăn vì tìm ra một án lệ phù
hợp trong cả một hệ thống án lệ đồ sộ để áp dụng một cách thỏa đáng không phải là dễ.
+ Chỉ có những bản án có tính chất bắt buộc mới trở thành án lệ và có tính pháp lí. Còn
các bản án khác chỉ có tính gợi ý, tham khảo. Ví dụ như ở Anh, chỉ có Tòa án tối cao mới
được phép ban hành án lệ, các tòa án cấp dưới phải tuân theo. Các án lệ bắt buộc được
viết trong Law Reports, All England Law Reports, Weekly Law Reports...tức là nhìn ở
khía cạnh nào đó là đã được pháp điển hóa. Đây có thể coi là một minh chứng cho sự
xích lại gần nhau của 2 hệ thống Common law và Civil law.
2. Lẽ phải

- Lẽ phải cũng là một nguồn luật thể hiện nét đặc thù của Common law.
- Trong trường hợp một vụ án phát sinh không có tiền lệ pháp phù hợp, không có luật
thành văn hay tập quán pháp thì thẩm phán chính là ngưới tạo ra luật pháp bằng cách sử
dụng lẽ phải thông qua việc:
+ Viện dẫn các tập quán không có giá trị bắt buộc hoặc bản án không phải là án lệ hoặc
các obiter dicta (bình luận, nhận xét của thẩm phán).
+ Viện dẫn các án lệ nước ngoài (Mỹ, Canada...) thậm chí cả án lệ của các nước Civil
law.
3. Một số nguồn luật khác như: học thuyết pháp luật, tập quán pháp... đặc biệt là
các văn bản pháp luật ngày càng được sử dụng nhiều ở các nước Common law như là hệ
quả của việc học tập hệ thống luật lục địa.

10


* Có thể thấy vai trò của các thẩm phán và luật sư tại các nước Common law là rất
quan trọng:
Thẩm phán vừa là người sáng tạo ra luật pháp (người ta thường gọi Common law
là hệ thống pháp luật được tạo nên bởi các thẩm phán (judge - made law)), vừa là người
giải thích và áp dụng lật pháp, kiểm soát các thủ tục tố tụng rất được coi trọng ở các nước
Common law. Tuy nhiên trong giải thích các văn bản pháp luật, các thẩm phán coi đó là
chỉ thị của cấp trên phải tuân theo song lại hạn chế tối đa việc làm xáo trộn hệ thống án
lệ. Đó là do truyền thống là nhằm tới việc cung cấp giải pháp cho từng vụ việc cụ thể hơn
là tạo ra các công thức pháp lí nói chung nhằm điều chỉnh các quan hệ trong tương lai
như ở hệ thống Civil law.
Thẩm phán được lựa chọn từ một tổ chức gồm các luật sư thực hành
(barrister).Những luật sư thực hành được phân cấp và thẩm phán chỉ được lựa chọn từ
nhứng luật sư thực hành cấp cao hơn, giỏi và giàu kinh nghiệm (thường là có từ 10 năm
kinh nghiệm trở lên).
Luật sư tại các nước Common law đặc biệt rất được coi trọng. Do thủ tục tố tụng

mang tính tranh tụng: các bên tham gia váo thủ tục tố tụng được coi là có địa vị pháp lí
bình đẳng với nhau, thẩm phán chỉ có vai trò người trung gian phân xử, không tham gia
vào quá trình tranh tụng nhưng lại là người đưa ra phán xét cho vụ án. Họ chủ yếu Vì vậy
bên nguyên hay bên bị, bên nào muốn thắng kiện thì hoàn toàn dựa vào tài biện hộ của
luật sư bên đó.
Câu 6:Common law không phân chia thành luật công và luật tư vì các lí do sau đây:
- Sự phân biệt này ít có ý nghĩa trong thời kì phong kiến ở Anh, giai đoạn đầu của
sự phát triển Common law, vì các quyền công và tư được xác định thông qua quyền lợi về
tài sản, nhưng không có sự phân biệt giữa sở hữu tài sản và các sơ quan công theo kiểu
Civil law.
- Có một hệ thống tòa án trở thành nơi xem xét các hoati động lập pháp, hành
pháp, kể cả trong tranh chấp tư. Do vậy không có sự phân biệt hoàn toàn về quyền lực
theo kiểu Civil law.
- Các học giả Mỹ ban đầu đã có khuynh hướng lờ đi sự phân biệt đó và xem như
không cần thiết cho xu hướng tổng hợp các quyết định phán xử.
Câu 7:Cấu trúc hệ thốngCivil law
- Civil law đặc biệt nhấn mạnh phân chia các ngành luật, đặc biệt là phân chia
thành luật công và luật tư.
Luật công điều chỉnh quan hệ giữa cơ quan nhà nước và cá nhân hoặc giữa các cơ
quan nhà nước với nhau. Đặc điểm của luật công là:

11


+ QPPL mang tính tổng quát.
+ Đối tượng điều chỉnh: lợi ích công.
+ Phương pháp điều chỉnh: mệnh lệnh, thể hiện ý chí đơn phương của các cơ quan
có thẩm quyền.
+ Mang tính bất bình đẳng, cơ quan nhà nước có đặc quyền.
Luật tư điều chỉnh quan hệ giữa các cá nhân với nhau. Đặc điểm của luật tư là:

+ Đối tượng điều chỉnh: lợi ích, tự do cá nhân.
+ Phương pháp điều chỉnh: thỏa thuận ý chí.
+ Mang tính chất công bằng hơn, bảo vệ được lợi ích của công dân.
- Nguyên nhân Civil law phân chia luật công và luật tư là do các luật gia quan niêm
rằng:
+ Quan hệ giữa người bị trị và người bị trị là quan hệ đặc thù cần phải có QPPL riêng để
điều chỉnh.
+ Lợi ích công và tư là không thể so sánh.
Đây cũng chính là thành công của xu hướng pháp điển hóa.
Câu 8:Nguồn luậtCivil law
1. Luật thành văn (qui phạm pháp luật, hiến pháp, điều ước quốc tế, bộ luật, đạo luật...)
- Luật thành văn là nguồn chính của Civil law trong đó quan trọng nhất là các qui phạm
pháp luật.
Việc sử dụng luật thành văn làm nguồn chính cho thấy đặc điểm tư duy pháp lí của Civil
law: đó là chủ nghĩa duy lí (rationalism) hay tư duy theo lối diễn dịch, đi từ cái phổ quát
đến trường hợp cá biệt. Phương pháp tư duy này bắt nguồn từ viêc coi trọng pháp điển
hóa, khái quát các trường hợp của cuộc sống. Nó dẫn tới hệ quả quan trọng là làm thành
một hệ thống pháp luật đóng, kém linh động, giới hạn các thẩm phán trong việc áp dụng
các văn bản pháp luật có sẵn, từ đó dẫn đến sự ỷ lại, bị động và kém sáng tạo trong hoạt
động xét xử.
- Đặc điểm của qui phạm pháp luật :
+ Được pháp điển hóa trong các văn bản pháp luật và thường là do cơ quan lập pháp có
thẩm quyền ban hành. Các thẩm phán trong quá trình xét xử có nhiệm vụ áp dụng các qui
phạm pháp luật mà không được tự tạo ra qui phạm pháp luật tức là không được tham gia
vào hoạt động lập pháp.Phán quyết của tòa không tạo thành tiền lệ pháp.
+ Nguyên tắc sự thống trị của luật (règle de droit) : hầu hết các qui phạm pháp luật được
xây dựng sao cho mang tính khái quát nhất, toàn diện nhất, chính xác nhất để thẩm phán
có thể tìm thấy ngay trong qui phạm pháp luật giải pháp cho mọi tranh chấp nảy sinh có
liên quan, không cần phải giải thích.


12


Tuy nhiên các nhà lập pháp thì không thể khái quát toàn bộ cuộc sống.Vì thế mà khi đưa
ra giải pháp cho trường hợp cụ thể thì không thể áp dụng ngay một QPPL mà cần phải
suy xét nó trong cả một hệ thống.Điều này tạo nên rắc rối rất lớn, có thể xảy ra trường
hợp các QPPL mâu thuẫn nhau trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống XH.
2. Một số nguồn luật khác như : tập quán pháp, các học thuyết pháp luật... đặc biệt là án
lệ ngày càng được sử dụng nhiều hơn do tính mềm dẻo và thực tiễn của nó.
Câu 9: So sánh đào tạo luật ở anh và Mỹ
a . Điểm giống nhau:
Thứ nhất, về tuyển sinh đầu vào. Ở cả Anh và Mỹ đều tuyển sinh đầu vào rất khắt khe.
Các thí sinh muốn thi vào khoa luật ở một trường đại học nào đó của Anh thường phải là
những học sinh xuất sắc, có điểm thi đầu vào đạt mức “ A “. Vì vậy, trong tiềm thức của
người Anh, một khi đã trở thành sinh viên luật thì sinh viên đó hiển nhiên
phải tốt nghiệp đại học và sẽ có bằng cử nhân luật. Còn ở Mỹ, một số khoa luật chỉ
chọn được một sinh viên trong số năm hoặc mười người dự tuyển. Việc tuyển sinh vào
trường luật có tính chọn lọc cao.
vd: Đầu vào tương đối khó, trên cơ sở tuyển lựa những thí sinh có thành tích cao nhất
trong học tập, sau đó là một kỳ kiểm tra gắt gao, gọi tắt là LSAT. Chẳng hạn, hàng năm
có khoảng 5000 thí sinh thi tuyển vào trường Luật Yale, nhưng chỉ có khoảng 170 người
được nhận. .
Thứ hai, về chương trình đào tạo : Các môn học được đưa vào chương trình giảng dậy
cũng tương tự các môn học nhiều nơi trên thế giới như: Những môn học bắt buộc gồm:
luật đất đai, luật hình sự, luật hợp đồng, luật bồi thường trách nhiệm dân sự ngoài hợp
đồng, luật hiến pháp… Tiếp theo là những môn học chuyên ngành và thảo luận.
Thứ ba: thời gian đào tạo: 3 năm tại khoa luật
Thứ tư, về phương pháp giảng dậy, ở cả hai nước Anh và Mỹ việc học đều do sinh viên
chủ động, giảng viên chỉ là người hướng dẫn. Có sự tương tác giữa giáo viên với sinh
viên. Kết hợp giữa lí thuyết và thực hành.

b. sự khác nhau

13


STT Tiêu chí
1

ANH

MỸ

Đối tượng đào Các học sinh sau khi tốt nghiệp Sinh viên là những người đã tốt
tạo
phổ thông, vượt qua kì thi đầu nghiệp đại học.độ tuổi trung
vào
bình cho tốt nghiệp sinh khoa
luật là 29.
Nhiều sinh viên vào học khi
đã già,có kinh nghiệm làm việc
hoặc có 1 bằng đại học khác

2

Cấp độ đào Bậc đại học và bậc sau đại học
tạo

Bậc sau đại học

3


Hình thức đào Tách biệt giữa đào tạo cử nhân Không tác biệt mà gộp chung
tạo
luật và đào tạo nghề
đào tạo cử nhân và đào tạo
nghề

4

Địa điểm đào ở trường đại học : đào tạo cử
tạo
nhân luật và các cơ sở được cấp
phép bởi đoàn luật sư và bởi hội
luật gia

Các khoa luật ở các trường đại
học.Trên nước Mỹ hiện có
khoảng 185 trường Luật được
Hội luật sư quốc gia công nhận
với khoảng 2000 giảng viên
chính thức.

5

Mục tiêu đào 2 mục tiêu: (1) trang bị kiến
tạo
thức khoa học pháp lí , sau khi
kết thúc khoa học sẽ được cấp
bằng cử nhân luật: người học
chỉ có kiến thức khoa học hàn

lâm ,chưa thể làm được việc
ngay

Không nhằm truyền đạt kiến
thức thuộc lòng mà nhằm đào
tạo ra những luật sư có khả
năng làm việc ngay và thắng
kiện

(2) dạy nghề: cấp chứng chỉ
hành nghề luật.
Như vậy đào tạo ở các trường
đại học chủ yếu dạy kiến thức
cơ bản mà không chú trọng đào
tạo kĩ năng làm việc như 1 luật
sư thực thụ

14


6

Tài liệu học gồm những bản án thực tế và
tập
những giáo trình về các môn
khoa học đại cương,các giáo
trình về các môn lý luận, luật

Không có các giáo trình cơ bản
về luật chuyên nghành mà là sử

dụng sách tình huống chứa
đựng chứa đựng nhữn án lệ
được chọn lọc

7

Hệ thống môn Cử nhân luật:
học
Môn học bắt buộc: hệ thống
pháp luật anh,luật đất đai, luật
hình sự, luật hiến pháp, luật
hành chính, thương mại, luật
công lý và ủy thác.

Cua học đại cương: luật hợp
đồng,bồi thường trách nhiệm
dân sự ngoài hợp đồng,sở hữu,
tố tụng,hình sự, hiến pháp
Cua học chuyên nghành và
thảo luận

Môn học tự chọn: do chương
trình trong trường quy định

8

Phương pháp Thuyết trình, thảo luận, phù
giảng dạy
đạo:
-tham gia vào các buổi thảo

luận và diễn án để rèn luyện kĩ
năng lập luận rõ ràng,thuyết
phục cho sinh viên.
+hình thức tổ chức:
Chủ tọa: giáo sư luật hoặc
người đang hành nghề luật ở
địa phương
Nhóm: sinh viên tách thành 2
nhóm để cạnh tranh với nhau
thông qua đưa ra lập luận trong
tình huống giả định
trong các buổi phù đạo sinh
viên được phép đưa ra câu hỏi
và giải quyết những thắc mắc.
phương pháp truyền thống:
các cán bộ giảng dạy thuyết
giảng trên lớp
kết thúc môn: sinh viên phải
viết bài luận để đánh giá kết

Phương pháp giảng dạy phù
hợp với xã hội đa dạng, phức
tạp luôn thay đổi
Chú trọng phương pháp tình
huống:
Các nguyên tắc pháp lý chung
không trình bày qua việc giảng
dạy lý thuyết trừu tượng mà rút
ra từ việc nghiên cứu tình
huống.

-giáo viên không dạy về các tìh
huống mà yêu cầu sinh viên
thuật lại tình huống sau đó sẽ
chất vấn để rèn luyện kĩ năng
phản ứng.
-giáo viên hiếm khi đưa ra ý
kiến về tình huống và pháp
luật thành văn mà khuyến
khích sinh viên phát triển
những phân tích của mình về
tình huống và luật thành văn
có liên quan một cách sâu sắc.

15


qur học tập môn đó
cuối năm; phải thi hết môn
dưới hình thức thi viết, bài thi
có thể ra dưới dạng giải quyết
tình huống hoặc tranh luận về 1
nhận định nào đó.

không có 1 sự giải thích chính
xác nào mà chỉ cho sinh viên
biết pháp luật có tính mềm dẻo
và có thể tranh luận
-sử dụng chương trình thực
tập:
Thành lập các văn phòng thực

tập nghề luật tại các trường đại
học để sinh viên tập dược theo
đó sinh viên được đạt vào công
việc thực sự và học luật bằng
cách xử lí tình huống thực tế
dưới sự giám sát của giáo viên.
Vd:Mỗi năm có gần 35%
(khoảng 15 ngàn sinh viên các
trường Luật được ABA công
nhận) tham gia vào các khóa
thực hành ngay trong trường
với khoảng 15 ngàn sinh viên
tham gia khóa học thực hành
ngoài trường.

Câu 10: Hệ thống tòa án mỹ
Hiện nay, Mỹ có 52 hệ thống tòa án tồn tại song song gồm một hệ thống tòa án liên bang,
50 hệ thống tòa án bang ,hệ thống tòa án quận COLOMBIA
1

Hệ thống tòa án liên bang gồm có:



Tòa án Tối cao Liên bang (United States Supreme Court)

• Các Tòa án Phúc thẩm Liên bang (United States Court of Appeals)
• Các Tòa án quận Liên bang (United States District Court)
Và một số tòa án đặc biệt ở cấp liên bang: Ví dụ như Tòa án Thương mại Quốc tế Liên
bang (United States Court of International Trade) và Tòa án Thuế Liên bang (United

States Tax Court), tòa án khiếu nại liên bang,tòa án quân sự phúc thẩm, …
Các tòa án liên bang làm việc và phán quyết dựa trên Hiến pháp Hoa kỳ, các bộ luật liên
bang (ở mỗi tiểu bang có hiến pháp riêng và các bộ luật chỉ áp dụng trong phạm vi một

16


tiểu bang), các
a.tòa án quận:

án

lệ

liên

bang,



quyết

định

của

bồi

thẩm


đoàn.

-có thẩm quyền chung trong hệ thống tòa án liên bang.
-Có thẩm quyền xét xử các vụ việc liên quan tới luật liên bang: giải thích hiến pháp liên
bang hoặc liên quan tới luật liên bang hoặc các quy chế của liên bang.
-Đa số là giải quyết các vụ việc dân sự.
-không xem xét tới các vụ liên quan tới luật của bang trừ khi vụ việc đó có các bên đương
sự là công dân của nhiều hơn một bang, là người nước ngoài hoặc khi có giá trị tranh
chấp lên tới 75.000 USD.Nhằm bảo vệ người của bang khác hay nước ngoài khỏi sự thiên
vị của bang cho công dân của bang đó.
-trong quá khứ tòa án liên bang có quyền áp dụng án lệ của liên bang để giải quyết các vụ
tranh chấp nói trên nhưng từ năm 1938 tới nay tòa án liên bang phải áp dụng luật của
bang.Khi luật của bang tối nghĩa, tòa án liên bang dự đoán liệu tòa án bang sẽ giải quyết
như thế nào để tìm ra cách giải quyết vụ việc mình đang xét xử.
b.tòa kinh lí phúc thẩm liên bang:
-xuất xứ: trong quá khứ các thẩm phán đi kinh lí từ thành phố này sang thành phố khác để
xét xử các vụ án. Hiện nay các tòa này được đạt cố định và bố trí vòng quanh đất nước.
-ra đời năm 1891 để giúp các đương sự tối thiểu có 1 cơ hội để xét xử phúc thẩm đối với
bản án bất lợi cho mình do tòa án cấp dưới phán quyết và giảm bớt gánh nặng cho tòa án
tối cao.
Toàn bộ các bang Mỹ được phân nhóm thành 11 khu vực địa lý và như vậy người ta có
tên các tòa như sau: Tòa phúc thẩm cho khu vực địa lý thứ nhất, Tòa phúc thẩm cho khu
vực địa lý thứ hai,... cho đến thứ 11 (vụ kiện chất độc da cam của Việt Nam được xử tại
Tòa phúc thẩm khu vực địa lý thứ hai).
Khu vực địa lý nhỏ nhất (thứ 12) là District of Columbia (Washington DC); và nơi chịu
trách nhiệm xử cho khu vực địa lý cuối cùng (thứ 13) - gọi là Tòa phúc thẩm khu vực liên
bang (U.S. Court of Appeals for the Federal Circuit) - thật ra không được quy định bằng
yếu tố địa lý mà bởi tính chất vụ kiện. Tòa phúc thẩm thứ 13 thường xử các vụ liên quan
mậu dịch quốc tế, bản quyền, các vấn đề liên quan đến cựu chiến binh...và những kháng
cáo kháng nghị từ tòa khiếu nại và tòa thương mại quốc tế.


17


2.hệ thống tòa án bang:
Mỗi bang của Mỹ đều có hệ thống tòa án riêng với cơ cấu tổ chức có thể không giống
nhau.thông thường các bang tổ chức hệ thống tòa án tương tự mô hình tòa án liên bang.
a

Tòa án tối cao bang:

Có vai trò giống với Tòa án Tối cao Liên bang, Tòa án Tối cao Tiểu bang (State Supreme
Court) là cơ quan tư pháp cao nhất tại mỗi tiểu bang. Tòa này thường chỉ lựa chọn phúc
thẩm những án quan trọng đã qua sơ thẩm ở các tòa cấp dưới trong cùng tiểu bang. Trong
một số trường hợp đặc biệt, một án bắt buộc phải được phúc thẩm bởi tòa án tối cao, ví
dụ như án tử hình. Một số ngoại lệ khác cho phép tòa án tối cao được trực tiếp sơ thẩm.
Tòa án Tối cao Tiểu bang cũng có chức năng thẩm định pháp lý (judicial review) như Tòa
án Tối cao Liên bang, nhưng phạm vi quyền lực của nó chỉ giới hạn trong khuôn khổ tiểu
bang. Tại các tiểu bang theo hệ thống thông luật, án lệ được đặt ra bởi Tòa án Tối cao
Tiểu bang có giá trị áp dụng tới tất cả các tòa trong cùng một tiểu bang.
tòa án phúc thẩm của bang
Cũng giống với Tòa án Phúc thẩm Liên bang, Tòa án Phúc thẩm Tiểu bang không thay
đổi quyết định của các tòa sơ thẩm mà chỉ tìm kiếm những sai sót nếu có trong tiến trình
của án sơ thẩm. Nếu tòa phúc thẩm tìm thấy những lỗi nghiêm trọng gây ảnh hưởng trực
tiếp đến tính đúng đắn và thống nhất của tòa sơ thẩm thì tòa phúc thẩm có thể tuyên bố
hủy án sơ thẩm. Án sơ thẩm nếu bị hủy không có nghĩa là bị cáo vô tội trong án hình sự,
hay bị đơn không phải chịu trách nhiệm trong án dân sự, mà nghĩa là tòa sơ thẩm phải
tiến hành tái thẩm nếu tiếp tục muốn buộc tội bị cáo hình sự hay buộc chịu trách nhiệm
dân sự đối với bị đơn.
c Tòa sơ thẩm bang:

Các tòa án sơ thẩm tiểu bang (county court, circuit court, municiple court, district court)
là nơi tiến hành nhiều án xử nhất vì hầu hết những án hình sự và án dân sự đều qua sơ
thẩm tại các tòa này trước khi đi tiếp, nếu có thể, tới các tòa cấp cao hơn ở tiểu bang và
liên bang. Tòa thường được tổ chức theo địa dư hành chính cấp hạt (county/parish) hoặc
thành phố
Tại những bang có dân số lớn và số án xử nhiều, tòa địa phương có thể phân ra thành các
bộ phận nhỏ hơn để chuyên trách về những loại án khác nhau. Ví dụ như án đại hình (thời
gian tù trên một năm), án tiểu hình (thời gian tù dưới một năm), án vị thành niên, án hình
sự giao thông, án dân sự hôn nhân, án dân sự, vân vân. Tùy theo từng nơi, một thẩm phán
có thể chuyên trách một loại án, hoặc có thể dự thẩm nhiều loại án khác nhau.
b

18


Ngoài ra ở các bang còn có tòa án đặc biệt như: tòa đại diện giải quyết những vụ việc liên
quan tới di chúc,thừa kế. tòa khiếu nại, tòa gia đình….
Câu 11: So sánh : Hệ thống tòa án của anh và Mỹ
GIỐNG NHAU:
-

Đều có tòa án tối cao
Các phán quyết của tòa án cấp cơ sở có thể kháng cáo lên tòa án cấp cao hơn
Đều được chia thành cấp sơ thẩm, phúc thẩm.
KHÁC NHAU:
nước

tiêuchí
về mô hình


Mỹ
hệ thống tòa án kép gồm: hệ thống tòa
án bang và liên bang
Hiện nay, Mỹ có 52 hệ thống tòa án
tồn tại song song gồm một hệ thống
tòa án liên bang, 50 hệ thống tòa án
bang ,hệ thống tòa án quận
COLOMBIA

về cấp xét xử cao ở MỸ tòa án tối cao liên bang là cấp
nhất
xét xử cao nhất và là tòa án thực sự
rất có quyền lực ,còn ở ANH tòa án
tối cao không phải là tòa án cao nhất
trong hệ thống tòa án
tòa tối cao liên bang:
-Cơ cấu: Tòa án Tối cao Liên bang
(United States Supreme Court) là cơ
quan tư pháp cao nhất tại Hoa kỳ, bao
gồm một chánh án và 8 thẩm phán
-thẩm quyền:
+có quyền tùy ý trong việc thụ lý hồ
sơ khiếu kiện với một vài trường hợp
ngoại lệ. chỉ xét xử những việc mà
tòa án muốn xử.

Anh
Không có hệ thống tòa án
đơn nhất được tổ chức chặt
chẽ và các tòa án cũng

không được phát triển một
cách đồng bộ mà phát triển
cục bộ.
Phần lớn các vụ kiện dân sự
không được giải quyết ở các
tòa án dân sự mà giải quyết
ở một trong những tòa án
lựa chọn, đó là các cơ quan
tài phán và tổ chức trọng
tài.
Được thành lập và chính
thức hoạt động từ ngày
1/10/2009 với tư cách là cấp
xét xử phúc thẩm cuối cùng
ở vương quốc Anh.
-cơ cấu: có 12 thẩm phán
trong đó có 1 chánh án và 1
phó chánh án
-thẩm quyền: chỉ xét xử
những vụ việc có liên quan
tới lợi ích công cộng và là
cấp xét xử phúc thẩm cuối
cùng với những vụ việc
hình sự và dân sự của
England, xứ Wales và bắc

19


+Có toàn quyền quyết định tiếp nhận

đơn kháng cáo, kháng nghị nếu cảm
thấy đó là vụ án quan trọng hoặc vì
mâu thuẫn trong các tòa án kinh lí
phúc thẩm. khi thụ lí hoặc từ chối giải
quyết tòa không cần đưa ra lí do.
+Khi chấp nhận đơn kháng cáo tòa sẽ
phát lệnh yêu cầu tòa án cấp dưới đệ
trình bản sao có xác nhận của hồ sơ
vu việc.
về quyền bổ do tổng thống bổ nhiệm với sự chấp
nhiệm trong tòa thuận của thượng nghị viện
án tối cao

về quyền xem xét
tính hợp hiến của
văn bản pháp
luật của tòa tối
cao

Ireland.đối với Scotland tòa
chỉ xét xử phúc thẩm cuối
cùng đối với vụ việc dân sự
mà không xét hình sự.

đều do nữ hoàng bổ nhiệm.
nữ hoàng có thể ban lệnh
tăng thêm số lượng thẩm
phán nếu lệnh đó được cả 2
viện của nghị viện chấp
nhận.

tòa án tối cao có quyền xem xét tính tòa tối cao không có thẩm
hợp hiến của các văn bản pháp luật và quyền này vì ở ANH không
hành vi của chính phủ mà ở Anh có hiến pháp thành văn
không có.
Đây là quyền năng quan trọng của tòa
nhằm bảo vệ quyền con người ở Mỹ
vì nó đảm bảo ý chí của toàn bộ nhân
dân , như được quy định trong hiến
pháp được đặt lên trên ý chí của cơ
quan lập pháp và nhằm duy trì sức
sống của hiến pháp Mỹ.
Một giải thích hiến pháp của tòa tối
cao có thể được áp đặt lên một quyết
định của chính phủ và các cơ quan
của nó, hoặc một điều luật của một
bộ luật đã được thông qua bởi quốc
hội, hoặc một phán quyết của một tòa
án liên bang hay bất kỳ tòa án nào ở
cấp tiểu bang.
Một khi một điều luật của quốc hội,
một phán quyết của tòa, hay một
quyết định của chính phủ, bị Tòa án
Tối cao Liên bang tuyên bố vi hiến thì
mọi nỗ lực thi hành đều không có giá
trị. Điều này không có nghĩa là điều
luật bị tuyên bố vi hiến tự động bị
loại bỏ. Để loại bỏ hay sửa đổi một

20



điều luật quốc hội cần họp và thông
qua với đa số phiếu cần thiết, vì nó là
cơ quan duy nhất có quyết thiết
lập,sửa đổi,và loại bỏ luật
về tính độc lập hệ thống tòa án của Mỹ có sự phân
của tòa án
chia giữa hệ thống tòa án liên bang ,
và bang theo học thuyết tam quyền
phân lập mà ở Anh không có.
Hoạt động độc lập của các tòa án (tư
pháp) đối với chính phủ (hành pháp)
và quốc hội (lập pháp) thể hiện một
triết lý quan trọng của hệ thống chính
trị Hoa kỳ, đó là quyền lực phải được
phân tán giữa các cơ quan nhà nước
nhằm ngăn ngừa bị tập trung và lạm
dụng bởi một đảng phái chính trị, tổ
chức, hay cá nhân. Triết lý này được
thực thi qua cơ chế kiểm soát và cân
bằng (checks and balances) giữa ba
chính nhánh của quyền lực nhà nước.
sự phân chia về Trong hệ thống tòa án chia rõ ràng
thẩm quyền , thủ các cấp xét xử sơ thẩm, phúc thẩm
tục xét xử là
khác nhau

nghị viện là cơ quan lập
pháp và cũng là cơ quan cao
nhất trong hệ thống tòa án

Anh quốc

Trong hệ thống tòa án
không chia rõ ràng các cấp
xét xử sơ thẩm, phúc thẩm
như mỹ trong hệ thống tòa
án mà một cấp của tòa có
thể xét xử cả sơ thẩm và
phúc thẩm đối với vụ việc
dân sự và hình sự.mỗi tòa
thường xét xử các vụ việc
trong lĩnh vực mình chuyên
trách.

Câu 12: So sánh đào tạo nghề luật ở Anh và Mỹ
Giống nhau: đều được đào tạo ở những cơ sở được cấp phép của hội luật gia mỗi nước.
- các luật sư tương lai đều được đào tạo cả về lí thuyết lẫn thực tiễn và kĩ năng hành nghề.
- các trường đào tạo đều tiếp nhận người có bằng cử nhân luật.
Khác nhau: VỀ NGHỀ LUẬT SƯ
Tiêu chí
Yêu cầu

ANH
MỸ
Tiếp nhận cả người có bằng cử nhân Phải có bằng cử nhân luật. việc

21


luật và người không có bằng cử nhân

luật nhưng phải có bằng của 1 trường
đại học khác.
Đào tạo kĩ Việc dạy học viên làm thế nào để trở
năng
thành 1 luật sư thực thụ được đào tạo
ở các cơ sở chứ không phải ở trường

năng Được đào tạo sau khi có bằng cử nhân
hành nghề ở các cơ sở đào tạo
Cơ sở đào Được hội luật gia cấp phép
tạo
Phân loại Gồm luật sư tư vấn và luật sư tranh
luật sư
tụng

được nhận vào học ở trường luật
là điều kiện mấu chốt để được
chấp nhận làm luật sư ở Mỹ
Đào tạo ra những luật sư thực thụ
ngay trên ghế nhà trường thông qua
sự giảng dạy của các giáo sư luật
Đào tạo ngay trong quá trình học
tập ở trường
Hội luật gia hoa kì công nhận

Không có sự phân biệt,chỉ có 1
nghề luật sư.nhiều công ty luật chia
thành nhiều nhóm mỗi nhóm tập
trung vào từng lĩnh vực cụ thể:
nhóm luật sư tranh tụng, luật thuế,

luật công ty, luật chống độc
quyền….
Cáh thức Việc đào tạo luật sư tranh tụng và luật Các luật sư Mỹ, dù có khác biệt về
đào tạo
sư tư vấn là khác nhau về cơ sở đào chuyên môn, danh tính và thu nhập
tạo, thời gian , nội dung đào tạo
nhưng đều làm một nghề có tính
thống nhất và cùng có bằng cấp,
học vấn và được đào tạo cơ bản
chính thức như nhau.
Câu 13: Đào tạo nghề luật sư ở anh và mỹ
Ở Anh: nói đến đào tạo nghề luật ở anh là nói tới đào tạo luật sư tư vấn, luật sư tranh
tụng và thẩm phán
a. Đào tạo luật sư tư vấn:
- Cơ sở đào tạo: là các cơ sở được hội luật gia chấp nhận mở lớp dạy hành nghề luật. hội
luật gia có quyền giám sát và đưa ra ý kiến của mình để giúp nâng cao chất lượng giảng
dạy.
- Quy trình đào tạo:
Đối với người có bằng cử nhân luật
+ sau khi có bằng cử nhân , các cử nhân có thể tham gia khóa học thực hành luật kéo dài
1 năm ở cơ sở đào tạo được cấp phép.Là khóa học day về kĩ năng hành nghề luật sư, là
cầu nối giữa kiến thức lí thuyết và thực tiễn.

22


+ sau khi hoàn thành khóa học, học viên phải thực tập ở 1 công ty của 1 luật sư tư vấn
trong vòng 2 năm.trong thời gian này , các học viên phải tham dự khóa dạy nghề dưới
dạng lớp học kĩ năng nghề nghiệp để học 1 số môn cần thiết.
+ kết thúc khóa thực tập sẽ được tòa án tối cao England và xứ Walse thừa nhận tư cách là

1 luật sư tư vấn.
Đối với người có bằng cử nhân khác: do 1 trường đại học của anh cấp hoặc là cử nhân
luật từ 1 trường nào đó ở nước ngoài được anh thừa nhận.
+ điều kiện tham gia: phải có bằng diplom về luật( là bằng cao hơn cử nhân luật nhưng
thấp hơn thạc sĩ luật) thông qua việc tham dự khóa học kéo dài 1 năm để vượt qua kì thi
sát hạch phổ thông.
+cuối khóa,học viên phải thi hết môn đối với những môn học do hội luật gia quy định.
b. đào tạo luật sư tranh tụng:
- cơ sở đào tạo: những cơ sở muốn mở lớp dạy nghề luật sư tranh tụng phải gửi hồ sơ tới
Đoàn luật sư- là cơ quan có thẩm quyền cấp phép , theo quy định cảu đoàn luật sư. Hồ sơ
phải trải qua quá trình đánh giá khắt khe,.đoàn luật sư kiểm tra tài liệu viết( tài liệu cho
khóa học, quy chế kiểm tra…), phỏng vấn cán bộ, kiểm tra cơ sở vật chất.các cơ sở phải
chịu sự giám sát và kiểm tra định kì của hội đòng chuyên gia do đoàn luật sư tuyển chọn.
- quy trình đào tạo:đối với cử nhân luật
Gồm có 2 giai đoạn: (1) tham dự khóa đào tạo nghề 1 năm. (2) thực tập 1 năm dưới sự
giám sát của luật sư tranh tụng.
Đối với người có bằng cử nhân khác: phải vượt qua kì thi sát hạch nghề nghiệp để học
khóa học trên.
ở Mỹ:
Đào tạo luật sư tại các công ty luật: Các công ty luật lớn ở Mỹ thường tiến hành giáo
dục thường xuyên cho luật sư một cách chính thức. Chương trình đào tạo có thể khác
nhau nhưng việc đào tạo luật sư tại nơi làm việc sẽ tạo điều kiện cho nội dung giảng dạy
phù hợp với yêu cầu của chính công ty. Hình thức đào tạo tại nơi làm việc – đặc biệt cho
luật sư mới còn gồm các hội thảo về soạn thảo văn bản pháp lý, kỹ năng đàm phán hợp
đồng, kỹ năng kiện tụng…Các công ty luật có quy mô nhỏ không tổ chức các chương
trình đào tạo nội bộ chính thức cho luật sư mới mà thường cập nhật các kỹ năng hành
nghề luật sư ngay trong quá trình làm việc.

23



Đào tạo luật sư tại các tổ chức đào tạo: Có rất nhiều tổ chức đào tạo thường xuyên như
Trung tâm Giáo dục Pháp luật Thường xuyên của Hội Luật gia Hoa kỳ, Uỷ ban Giáo dục
Pháp luật Thường xuyên của Viện Luật Hoa Kỳ, Hội Luật gia Hoa Kỳ, các đoàn luật sư
của bang và địa phương, các trường luật…Thông qua Trung tâm Giáo dục Pháp luật
Thường xuyên, Hội Luật gia Hoa kỳ tiến hành đào tạo luật sư dưới một loạt hình thức
như các cuộc hội thảo từ 1-3 ngày nhằm cập nhật hàng năm về các lĩnh vực pháp luật
thực tế, các hội nghị qua truyền hình, qua mạng Internet…Diễn giả trong các hội thảo,
hội nghị này là những chuyên gia có uy tín trong lĩnh vực pháp luật cụ thể được trình bày.
Một ưu điểm dễ nhận thấy của hình thức đào tạo qua thảo luận trực tiếp này là khả năng
tương tác hay thiết lập mạng lưới quan hệ giữa các luật sư vốn hoạt động trong cùng lĩnh
vực hoặc trong các lĩnh vực có liên quan.

-

Câu 14: Đào tạo Nghề thẩm phán ở anh và mỹ
ở Anh:
Cơ sở đào tạo: ủy ban nghiên cứu thẩm phán - được hình thành từ năm 1979 với sứ
mệnh đào tạo thẩm phán và giám sát đào tạo các pháp quan, các lãnh đạo và cán bộ xét
xử cảu các cơ quan tài phán. Nhằm đảm bảo chất lượng đào tạo thẩm phán sao cho các
thẩm phán hành nghề 1 cách độc lập và hiệu quả, từ đó củng cố lòng tin vào tòa ân cho
nhân dân.ủy ban có các cơ quan chuyên trách nghiên cứu nhu cầu đào tạo, thiết kế các
khóa học, xây dựng và phát triển học liêu phù hợp với thực tiễn xét xử.
- Qúa trình đào tạo:
Đối với các thẩm phán mới: thông qua các khóa học chính khóa
Đối với các thẩm phán đang hành nghề: thông qua các khóa học bổ túc để phát triển kĩ
năng nghề nghiệp và kiến thức.
Các khóa học đều do thẩm phán đảm nhiệm.
ở Mỹ:
Thành thẩm pháp Tòa án Tối cao : để trở thành thẩm phán tối cao không nhất thiết phải

là luật gia, thậm chí cũng không cần phải có bằng đại học nữa. Tuy nhiên, các ứng cử
viên vào cương vị này phải trải qua một quá trình kiểm tra cực kỳ ngặt nghèo - tất cả
những phẩm chất chuyên môn và cá nhân đều được phân tích kỹ lưỡng và các cơ quan an
ninh ra sức "bới lông tìm vết" trong quá khứ của họ.
Hiến pháp Hoa Kỳ ghi rõ những yêu cầu về độ tuổi, nơi cư trú và quốc tịch của các ứng
cử viên Tổng thống và các nghị sĩ. Tuy nhiên, đối với các thẩm phán của Tòa án Tối cao
thì Hiến pháp lại không có những yêu cầu tương tự, ngoại trừ quy định: ứng cử viên nào
cũng phải được Tổng thống đề cử và được đa số trong Thượng viện phê chuẩn. Kinh
nghiệm xét xử, trình độ chuyên môn và thậm chí cả học vấn tư pháp về mặt hình thức

24


cũng không phải là yêu cầu bắt buộc đối với các ứng cử viên (tuy thế, các ứng cử viên
vào Tòa án Tối cao Hoa Kỳ luôn luôn là những luật gia).
Câu 15: Tại sao luật Mỹ cùng chung dòng họ với luật Anh có những điểm tương
đồng và khác biệt?
Anh và Mĩ là hai quốc gia hoàn toàn độc lập với nhau, có bộ máy nhà nước, chính trị,
văn hóa, kinh tế, xã hội, lịch sử hoàn toàn khác nhau. Bởi nên cho dù là có cùng một nền
tảng hay cùng thuộc dòng họ common law thì hệ thống pháp luật của hai quốc gia này
vẫn có những điểm khác biệt điển hình.
Một là. Trong hệ thống pháp luật Mĩ có sự phân chia giữa luật liên bang và luật của các
bang mà ở Anh không có sự phân chia này do cơ cấu chính trị đơn nhất của Anh.
Hai là,hệ thống tòa án Mỹ cũng được tổ chức khác với hệ thống tòa án của Anh, thể hiện
ở sự tồn tại của hệ thống tòa án kép, gồm hệ thống tòa án kép, gồm hệ thống tòa án liên
bang và hệ thống tòa án bang.
Ba là, luật hiến pháp và luật hành chính của Mỹ cũng khác với Anh.
Bốn là, các thuật ngữ pháp lý được sử dụng ở 2 quốc gia này cũng khác nhau, vd: thuật
ngữ “high court” ở Mỹ:tòa án tối cao trong khi đó ở Anh: tòa án sơ thẩm có thẩm quyền
xét xử những vụ việc dân sự có giá trị tranh chấp lớn và xét xử phúc thẩm đối với 1 sốvụ

việc hình sự từ tòa án hình sự cấp cơ sở.

Nguyên nhân: Nước Mỹ ra đời là sự lien hợp của 13 thuộc địa của Anh và Bắc Mỹ.
Người Anh đã mang hệ thống pháp luật của mình đến với các thuộc địa này. Mặc dù có
nguồn gốc từ hệ thống pháp luật Anh nhưng từ sau năm 1976, khi Mỹ tuyên bố độc lập,
pháp luật Anh và Mỹ trở thành hai hệ thống pháp luật độc lập và phát triển theo những
hướng khác nhau, kéo theo sự khác biệt nhất định trong hệ thống pháp luật 2 nước.
nguyên nhân dẫn đến sự khác biệt trên là do Anh là một quốc gia có dân cư gần như
thuần nhất, Mỹ là 1 nc đa sắc tộc cùng với lối sống và đặc trưng về nền kinh tế xã hội
cũng khác nhau, nên trong cách nghĩ và tư duy pháp lý có những điểm khác nhau là điều
tất yếu. Bên cạnh đó, nhà nước Mỹ đc tổ chức dưới dạng cộng hòa lien bang, trong đó
các bang có chủ quyền độc lập của riêng mình.
Câu 16 Phân tích 4 đặc điểm pháp luật Hồi Giáo
- Bắt nguồn từ thần thánh => mang tính tôn giáo
+ là thượng đế đặt ra
+thể hiện ý chí của thượng đế

25


×