Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Rủi ro trong kinh doanh chứng khoán: Phân loại, nguyên nhân và các quy định của pháp luật để hạn chế, phòng ngừa rủi ro

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (104.39 KB, 13 trang )

MỤC LỤC

ng khoán).

MỞ ĐẦU
Trong sự phát triển không ngừng nghỉ của nền kinh tế thị trường, không có hoạt
động đầu tư kinh doanh nào lại không có nguy cơ gặp rủi ro. Lợi nhuận càng cao,
rủi ro càng lớn, nhưng điều ngược lại thì chưa hẳn đã đúng: lợi nhuận có thể thấp,
song rủi ro chưa chắc đã nhỏ đi. Đầu tư chứng khoán cũng không nằm ngoài quy
luật này, thậm chí ở mức độ sâu và đa diện hơn. Để tìm hiểu rõ hơn về vấn đề này.
Em xin chọn đề tài số 8: “Rủi ro trong kinh doanh chứng khoán: Phân loại,
nguyên nhân và các quy định của pháp luật để hạn chế, phòng ngừa rủi ro”
làm nội dung bài tập học kỳ.
NỘI DUNG
I – Khái quát chung về kinh doanh chứng khoán
1. Định nghĩa kinh doanh chứng khoán.
Trong pháp luật thực định ở các nước, tùy thuộc vào quan điểm tiếp cận của các
nhà làm luật nên khái niệm kinh doanh chứng khoán được định nghĩa không hoàn
toàn giống nhau. Cùng với sự xuất hiện của nghề kinh doanh chứng khoán, thuật
ngữ “kinh doanh chứng khoán” thực chất mới được du nhập và sử dụng ở nước ta
trong thời gian gần đây do hệ quả của quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị
trường.
Theo pháp luật Việt Nam, khoản 19 Điều 6 Luật Chứng khoán 2006 (sửa đổi bổ
sung năm 2010) quy định“Kinh doanh chứng khoán là việc thực hiện nghiệp vụ
môi giới chứng khoán, tự doanh chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng khoán, tư
vấn đầu tư chứng khoán, lưu ký chứng khoán, quản lý quỹ đầu tư chứng khoán,
quản lý danh mục đầu tư chứng khoán.” Với định nghĩa này, khái niệm kinh doanh
chứng khoán ở Việt Nam được hiểu theo nghĩa khá rộng và cơ bản tương đồng với
khái niệm kinh doanh chứng khoán trong pháp luật các nước trên thế giới, đặc biệt
là các nước trong khu vực Đông Nam Á và Châu Á như Hàn Quốc, Nhật Bản,
Trung Quốc,...


1


Nói một cách khái quát thì kinh doanh chứng khoán là loại hình hoạt động
thương mại đặc biệt mà ở đó các công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ và các
chủ thể được phép kinh doanh chứng khoán tiến hành các nghiệp vụ về chứng
khoán cho chính mình hoặc cho khách hàng vì mục tiêu thu lợi nhuận tối đa.
2. Đặc điểm của hoạt động kinh doanh chứng khoán.
Mặc dù mỗi nước có một khái niệm khác nhau về hoạt động kinh doanh chứng
khoán, nhưng xét theo phương diện lý thuyết, hoạt động kinh doanh chứng khoán ở
bất cứ nơi nào đều bao gồm các đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất, kinh doanh chứng khoán là nghề thương mại đặc thù, có liên quan
trực tiếp đến quyền và lợi ích của các nhà đầu tư công chúng và các doanh nghiệp.
Thứ hai, đối tượng của hoạt động kinh doanh chứng khoán là các chứng khoán –
giá trị động sản và các dịch vụ về chứng khoán.
Thứ ba, hoạt động kinh doanh chứng khoán phải tuân thủ một số nguyên tắc đặc
thù của thị trường chứng khoán như: nguyên tắc công bằng, công khai và minh
bạch để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của nhà đầu tư. Việc thể chế hóa bằng pháp luật
những nguyên tắc này là những đảm bảo pháp lý cho sự vận hành an toàn, hiệu quả
của thị trường chứng khoán đồng thời bảo vệ một cách hữu hiệu các quyền và lợi
ích hợp pháp cho các nhà đầu tư tham gia thị trường.
II – Phân loại rủi ro trong kinh doanh chứng khoán và nguyên nhân phát sinh
các rủi ro trong hoạt động kinh doanh trên thị trường chứng khoán.
Không một lĩnh vực kinh doanh nào không có nguy cơ gặp rủi ro. Và hoạt động
kinh doanh chứng khoán không nằm ngoài quy luật này. Rủi ro trong kinh doanh
chứng khoán có thể hiểu là khả năng xảy ra những việc bất lợi cho xác chủ thể kinh
doanh chứng khoán khi thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh.
1. Phân loại rủi ro trong kinh doanh chứng khoán.
Thứ nhất, căn cứ vào mức độ tác động của rủi ro, có thể chia rủi ro thành 2 loại :
Rủi ro hệ thống và rủi ro không hệ thống.

Rủi ro hệ thống là những rủi ro liên quan đến cả hệ thống thị trường chứng
khoán, tác động đến tất cả các chủ thể tham gia vào thị trường. Sự bấp bênh của
môi trường kinh tế cũng như sự sụt giảm GDP, biến động lãi suất, pháp luật, tốc độ
lạm phát thay đổi là những yếu tố tạo ra rủi ro hệ thống, gây ảnh hưởng lớn đến
2


hiệu quả hoạt động kinh doanh của công ty, từ đó dẫn đến những biến động trong
giá chứng khoán công ty trên thị trường. Rủi ro hệ thống bao gồm một số rủi ro
chính sau:
- Rủi ro thể chế và pháp luật: là rủi ro do những thay đổi trong đời sống chính
trị, các chính sách pháp luật, đặc biệt là những cú sốc, gây ảnh hưởng đến hoạt
động bình thường của Công ty Chứng khoán. Đó có thể là sự thất bại trong việc ký
một hiệp định quan trọng, sự thay đổi nội các, sự xuất hiện hay bãi bỏ một chính
sách mới, sự thay đổi luật pháp.
- Rủi ro thị trường: là rủi ro phát sinh do sự biến động của thị trường như lãi
suất, tỷ giá, giá cả hàng hóa và dịch vụ, cạnh tranh và các điều kiện vĩ mô của nền
kinh tế làm ảnh hưởng bất lợi đến kết quả kinh doanh và tình hình tài chính của
công ty chứng khoán. (ví dụ: Rủi ro lãi suất, rủi ro sức mua, rủi ro tỉ giá).
- Rủi ro thông tin: là những rủi ro bắt nguồn từ việc thiếu thông tin, thông tin
không chính xác, kịp thời dẫn đến việc ra các quyết định đầu tư kinh doanh không
hiệu quả. Trên thực tế, rủi ro trên thị trường chứng khoán nói chung và hoạt động
kinh doanh chứng khoán nói riêng có nguồn gốc từ số lượng và chất lượng thông
tin từ thị trường, từ tổ chức phát hành, từ nhà đầu tư nhằm cung cấp các dịch vụ
kinh doanh chứng khoán tốt nhất cho khách hàng và cho chính bản thân công ty.
Khác với rủi ro hệ thống, rủi ro không hệ thống được xem là những rủi ro phát
sinh từ hoạt động nội tại của công ty và chỉ ảnh hưởng đến chính công ty hay một
ngành cụ thể. Khả năng quản lý, thị hiếu tiêu dùng, đình công và nhiều yếu tố khác
là nguyên nhân gây ra những bất ổn trong hoạt động kinh doanh của Công ty
Chứng khoán. Rủi ro không hệ thống bao gồm:

- Rủi ro kinh doanh: được hiểu là những rủi ro phát sinh khi quyết định và thực
hiện các chiến lược đầu tư, kinh doanh của doanh nghiệp (ví dụ: Rủi ro ngoại biên,
rủi ro nhà đầu tư, rủi ro phát triển kinh doanh).
- Rủi ro tài chính: là những rủi ro liên quan đến việc công ty tài trợ cho hoạt
động của mình. Rủi ro này nằm bên phần nguồn vốn của bảng cân đối tài sản và
liên quan đến việc sử dụng nợ của công ty. Các chỉ số tài chính thường được dùng
để xác định sự lành mạnh trong hoạt động của công ty, đặc biệt là các chỉ số nợ trên
tổng tài sản, tỷ lệ thu nhập trên tổng tài sản. (ví dụ: Rủi ro tín dụng, rủi ro thanh
khoản, rủi ro phá sản).
3


- Rủi ro hoạt động (hay còn gọi là rủi ro tác nghiệp, rủi ro vận hành): là loại rủi
ro có mặt trong hầu hết hoạt động của Công ty Chứng khoán xuất phát từ các nhân
tố như đội ngũ nhân viên, hệ thống công nghệ của công ty, các tác động khách quan
khác. Trong đó có một số trường hợp như nhân viên gian lận, môi giới giả mạo chữ
ký khách hàng hay của công ty để rút tiền, đặt nhầm lệnh, tự doanh dùng tiền của
công ty mua chứng khoán bên ngoài và bán lại cho công ty để ăn chênh lệch.
Thứ hai, căn cứ vào các nghiệp vụ của hoạt động kinh doanh chứng khoán, rủi
ro trong kinh doanh chứng khoán phân thành các loại: rủi ro môi giới chứng khoán,
rủi ro trong bảo lãnh phát hành chứng khoán, rủi ro trong hoạt động tự doanh chứng
khoán, rủi ro trong tư vấn đầu tư chứng khoán, rủi ro trong lưu ký chứng khoán và
rủi ro trong quản lý danh mục đầu tư chứng khoán.
2. Nguyên nhân rủi ro trong kinh doanh chứng khoán.
2.1. Nguyên nhân khách quan:
Thứ nhất, tác động từ môi trường chính trị, xã hội: Hoạt động kinh doanh của
Công ty Chứng khoán không thể tách rời môi trường chính trị, xã hội bởi đây vừa
là tiền đề cho sự phát triển, nhưng đôi khi lại là nhân tố tác động làm gia tăng nguy
cơ rủi ro trong kinh doanh. Các yếu tố của môi trường chính trị, xã hội có sự gắn bó
chặt chẽ và tác động trực tiếp đến hoạt động kinh doanh chứng khoán bao gồm: thể

chế chính trị, vấn đề an ninh, trật tự an toàn xã hội, quan điểm trong quan hệ ngoại
giao và hợp tác kinh tế của chính phủ với các quốc gia khác trong tiến trình toàn
cầu hóa, trong xu thế chính trị mới, ý thức của công chúng trong tiết kiệm và đầu
tư. Môi trường chính trị – xã hội bất ổn là nguyên nhân gây ra nhiều rủi ro không
lường trước và thường rất khó phòng tránh bởi nó thường là những rủi ro bất khả
kháng. Hậu quả của rủi ro chính trị thường nghiêm trọng bởi đây cũng là nguyên
nhân của nhiều rủi ro khác.
Thứ hai, tác động từ môi trường kinh tế: hoạt động kinh doanh của Công ty
Chứng khoán luôn diễn ra trong bối cảnh kinh tế cụ thể như mức độ tăng trưởng
hay suy thoái, mức độ ổn định của tỷ giá, lãi suất, lạm phát. Mỗi sự thay đổi của
các yếu tố trên đều làm tăng mức độ rủi ro trong kinh doanh và ảnh hưởng lớn đến
lợi nhuận của công ty.
Thứ ba, tác động từ môi trường pháp lý: các quy định pháp luật điều chỉnh hoạt
động thị trường chứng khoán có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của
các Công ty Chứng khoán. Sự thay đổi thường xuyên của các quy phạm, quy định
4


văn bản pháp lý hoặc có sự chồng chéo giữa các văn bản pháp luật nói chung và thị
trường chứng khoán nói riêng là nguyên nhân làm tăng tính bất ổn, rủi ro trong
kinh doanh, tác động tiêu cực đến hoạt động của công ty.
Thứ tư, tác động từ môi trường khoa học – kỹ thuật: phần lớn các sản phẩm,
dịch vụ được Công ty Chứng khoán cung cấp cho khách hàng dựa trên trình độ
khoa học, công nghệ, kỹ thuật cao. Sự phát triển của khoa học kỹ thuật một mặt
góp phần thúc đẩy sự phát triển của công ty nhưng mặt khác cũng tạo ra những loại
rủi ro mới trong kinh doanh. Công nghệ, kỹ thuật mới ra đời và nhanh chóng được
áp dụng sẽ là nguy cơ rủi ro trong đầu tư cho công ty đang áp dụng công nghệ, kỹ
thuật cũ, làm cho sản phẩm làm ra nhanh chóng bị loại bỏ.
2.2.


Nguyên nhân chủ quan:

Rủi ro trong hoạt động kinh doanh của Công ty Chứng khoán còn xuất phát từ
chính những nguyên nhân bên trong của công ty, bao gồm:
Thứ nhất, thái độ của Công ty Chứng khoán đối với rủi ro. Đây là một nhân tố
quan trọng làm tăng hoặc giảm rủi ro trong kinh doanh. Nếu Công ty Chứng khoán
chủ quan, không quan tâm, mất cảnh giác, rủi ro sẽ xảy ra thường xuyên hơn và hậu
quả cũng nặng nề hơn. Ngược lại, nếu Công ty Chứng khoán luôn quan tâm, cảnh
giác thì rủi ro sẽ ít xảy ra hơn.
Thứ hai, những sai lầm của cá nhân, của Công ty Chứng khoán về việc lựa chọn
chiến lược kinh doanh, từ đó gây ra những hậu quả nặng nề, kéo dài. Những sai lầm
trong việc lựa chọn chính sách, mô hình, cơ chế quản lý của Công ty Chứng khoán
có thể dẫn đến kinh doanh không hiệu quả. Những sai lầm trong lựa chọn phương
thức, phương án, sản phẩm, dịch vụ, thị trường, đối tác, kinh doanh cũng dẫn đến
thất bại trong kinh doanh.
Thứ ba, sự yếu kém về năng lực quản trị kinh doanh. Năng lực quản trị kinh
doanh luôn được coi là một yếu tố đặc biệt quan trọng tác động đến hiệu quả hoạt
động kinh doanh của chủ thể kinh doanh chứng khoán. Trong điều kiện hiện nay,
dưới sức ép và tác động từ nhiều phía của môi trường kinh doanh, những yêu cầu
sản phẩm dịch vụ cung cấp ngày càng đòi hỏi phải đáp ứng được các tiêu chuẩn hết
sức khắt khe. Do vậy, nếu tổ chức kinh doanh chứng khoán không có một bộ máy
quản lý kinh doanh đủ mạnh, sẽ không khai thác và sử dụng một cách tốt nhất các
nguồn lực trong kinh doanh, không tận dụng mọi tiềm năng và cơ hội kinh doanh
5


để ứng phó một cách linh hoạt với những biến động của môi trường, từ đó tác động
tiêu cực đến hiệu quả hoạt động kinh doanh.
Thứ tư, sự yếu kém về năng lực chuyên môn nghiệp vụ. Kinh doanh chứng
khoán là một lĩnh vực đặc thù có sự chi phối lớn của năng lực chủ thể kinh doanh.

Trong kinh doanh chứng khoán, quan hệ với khách hàng có tầm quan trọng số một.
Sản phẩm càng trìu tượng thì nhân tố năng lực của chủ thể kinh doanh càng quan
trọng. Để hoạt động kinh doanh chứng khoán đạt hiệu quả đòi hỏi bản thân chủ thể
tham gia kinh doanh phải là người có đầy đủ kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng phân
tích tốt, hiểu biết lĩnh vực kinh doanh chứng khoán và thị trường chứng khoán mà
mình hành nghề. Trình độ, năng lực chuyên môn của đội ngũ cán bộ, nhân viên
không đáp ứng yêu cầu kinh doanh sẽ là những nguyên nhân gây ra rủi ro và sự thất
bại của các Công ty Chứng khoán.
Thứ năm, thiếu tinh thần trách nhiệm, đạo đức kinh doanh. Tinh thần trách
nhiệm, đạo đức nghề nghiệp trong hoạt động kinh doanh chứng khoán là yếu tố
quan trọng quyết định đến sự tin tưởng của khách hàng đối với những người làm
nghề kinh doanh chứng khoán. Các tổ chức thực hiện nghiệp vụ kinh doanh chứng
khoán là các tổ chức cung ứng dịch vụ cho khách hàng. Để thu hút khách hàng thì
yếu tố hàng đầu là phải tạo được sự tin tưởng. Bởi yếu tố đầu tiên đo lường chất
lượng sản phẩm dịch vụ là uy tín của đơn vị cung ứng dịch vụ. Trên phương diện
này, tinh thần trách nhiệm, đạo đức nghề nghiệp còn quyết định đến sự tồn tại và
phát triển của ngành kinh doanh chứng khoán. Tinh thần trách nhiệm, đạo đức nghề
nghiệp của mọi thành viên trong tổ chức không theo chuẩn mực chung sẽ đe dọa
đến mọi hoạt động của Công ty Chứng khoán. Thiếu tinh thần trách nhiệm thường
không hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, gây trở ngại đến công việc chung, làm
mất uy tín của công ty. Không có đạo đức dẫn đến biển thủ, lừa đảo, chiếm dụng,
gây ra những xung đột lợi ích trong và ngoài công ty.
Thứ sáu, các mâu thuẫn trong nội bộ Công ty Chứng khoán. Trong thực tế, các
khối kinh doanh của Công ty Chứng khoán cùng phục vụ nhu cầu cho một khách
hàng. Một doanh nghiệp có thể thuê Công ty Chứng khoán vừa làm tư vấn bảo lãnh
phát hành chứng khoán, tư vấn mua bán sáp nhập doanh nghiệp, vừa làm môi giới
đầu tư, quản lý tài sản, và vừa nằm trong danh sách phân tích của các nhân viên
nghiên cứu. Điều này thường dẫn đến xung đột lợi ích giữa các khổi kinh doanh
trong công ty. Ngoài ra, các mẫu thuẫn trong nội bộ Công ty Chứng khoán còn xuất
phát từ động cơ làm việc của người lao động; cách tổ chức, quản lý và văn hóa

6


doanh nghiệp, chế độ lương thưởng không hợp lý, lỗi lầm của người lao động, mối
quan hệ, bầu không khí trong công ty,...
2.3.

Nguyên nhân từ phía khách hàng.

Đây là nguyên nhân rủi ro đến từ các đối tác của Công ty Chứng khoán. Họ có
thể là các nhà đầu tư, góp vốn liên doanh, liên kết, là bạn hàng của công ty. Đạo
đức, kỹ năng, kinh nghiệm, tài chính, pháp luật, quản trị doanh nghiệp của các đối
tác này sẽ ảnh hưởng quan trọng đến mối quan hệ giữa khách hàng và công ty. Việc
ký kết, thực hiện hợp đồng với khách hàng cũng bao hàm cả những rủi ro mà Công
ty Chứng khoán phải tính đến như: mâu thuẫn trong các điều khoản, chọn luật,
thanh toán và thuế, chuyển quyền sở hữu và rủi ro, các biện pháp khắc phục và xử
lý vi phạm, giới hạn trách nhiệm, chấm dứt hợp đồng trước thời hạn và giải quyết
tranh chấp hợp đồng…
Trong hoạt động kinh doanh, bên cạnh vai trò trung gian môi giới, tư vấn bảo
lãnh phát hành, Công ty Chứng khoán còn hoạt động với nhiều nét của một tổ chức
tín dụng, tức là có huy động vốn và cho vay. Chính từ mối quan hệ này đã phát sinh
các nhân tố có thể gây ra rủi ro, tổn thất cho công ty như: Khách hàng đầu tư thua
lỗ liên tục; Quản lý vốn không hợp lý dẫn đến thiếu khả năng thanh khoán; Không
thẩm định chất lượng tín dụng chặt chẽ ….
III – Các quy định của pháp luật để hạn chế, phòng ngừa rủi ro trong kinh
doanh chứng khoán.
1. Đề ra các điều kiện cho các chủ thể hoạt động kinh doanh chứng khoán.
1.1. Công ty chứng khoán:
Theo pháp luật Việt Nam hiện hành, tổ chức, cá nhân muốn kinh doanh chứng
khoán tại Việt Nam thì phải thành lập công ti chứng khoán dưới hình thức công ti

trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần và phải được UBCKNN cấp giấy phép
thành lập và hoạt động.
Điều 62 Luật chứng khoán quy định cụ thể điều kiện cấp giấy phép thành lập và
hoạt động cho công ty chứng khoán như sau:
Thứ nhất, có trụ sở; có trang bị, thiết bị phục vụ hoạt động kinh doanh chứng
khoán, đối với nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán và tư vấn đầu tư chứng
khoán thì không phải đáp ứng điều kiện về trang bị, thiết bị.
7


Thứ hai, có đủ vốn pháp định theo quy định của Chính phủ. (Điều 71 Nghị định
số 58/2012/NĐ-CP Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật
Chứng khoán và Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chứng khoán có quy
định mức vốn pháp định cụ thể như sau: Môi giới chứng khoán: 25 tỷ đồng
Việt Nam; Tự doanh chứng khoán: 100 tỷ đồng Việt Nam; Bảo lãnh phát hành
chứng khoán: 165 tỷ đồng Việt Nam; Tư vấn đầu tư chứng khoán: 10 tỷ đồng Việt
Nam.) Như vậy, mức vốn pháp định được xác định cho từng nghiệp vụ kinh
doanh. Trong trường hợp công ti xin cấp giấy phép cho nhiều loại nghiệp
vụ kinh doanh thì vốn pháp định là tổng số vốn pháp định theo từng loại
nghiệp vụ kinh doanh mà công ty được cấp phép.
Thứ ba, giám đốc hoặc tổng giám đốc và các nhân viên thực hiện nghiệp vụ kinh
doanh chứng khoán phải có chứng chỉ hành nghề chứng khoán và có tối thiểu ba
người hành nghề chứng khoán cho mỗi nghiệp vụ kinh doanh.
Ngoài ra, Luật chứng khoán còn quy định cổ đông sáng lập hoặc thành viên
sáng lạp là cá nhân phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, không thuộc trường
hợp đang phải chấp hành hình phạt tù hoặc đang bị tòa án cấm hành nghề kinh
doanh; trường hợp là pháp nhân phải đang hoạt động hợp pháp và có đủ năng lực
tài chính để tham gia góp vốn. Các cổ đông sáng lập hoặc thành viên sáng lập phải
sử dụng nguồn vốn của chính mình để góp vốn thành lập công ty chứng khoán.
1.2.


Quỹ đầu tư chứng khoán:

Thành lập quỹ đại chúng:
Theo quy định tại Điều 90 Luật chứng khoán , trước khi tiến hành đăng kí thành
lập quỹ đại chung, công ty quản lí quỹ phải đăng kí chào bán và hoàn tất việc chào
bán chứng chỉ quỹ ra công chúng, kể cả việc chuyển toàn bộ tiền huy động được từ
đợt phát hành chứng chỉ quỹ vào tài khoản phong tỏa mở tại ngân hàng giám sát.
Để được đăng kí thành lập quỹ, kết quả đợt chào bán chứng chỉ quỹ ra công
chúng phải thỏa mãn những điều kiện nhất định. Một là số lượng nhà đầu tư
(không kể nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp) tham gia góp vốn vào quỹ và
tổng giá trị chứng chỉ quỹ đã bán đều phải đạt mức tối thiểu theo quy định của pháp
luật. Hai là, tỉ lệ giữa giá trị chứng chỉ quỹ đã bán và mức vốn dự kiến huy động
cũng phải đạt đến mức tối thiểu theo quy định của pháp luật. Ba là tỉ lệ giữa giá trị

8


chứng chỉ quỹ đã bán và mức vốn dự kiến huy động cũng phải đạt mức tối thiểu
được quy định trong điều lệ quỹ và ghi nhận trong bản cáo bạch.
Thành lập quỹ thành viên:
Theo quy định tại Điều 95 Luật chứng khoán 2006, quỹ thành viên được phép
thành lập khi đáp ứng đủ bốn điều kiện sau:
- Mức vốn góp vào quỹ phải đạt mức tối thiểu luật định;
- Các thành viên góp vốn phải là pháp nhân và phải đạt số lượng tối đa luật
định;
- Việc quản lí quỹ phải được ủy thác cho một công ty quản lí quỹ;
- Tài sản của quỹ phải được lưu kí tại ngân hàng độc lập với công ty quản lí
quỹ.
2. Hoạt động thanh tra giám sát của UBCKNN.

Hiện nay, nhiệm vụ và quyền hạn của UBCKNN đã chính thức được ghi nhận
tại Điều 8 Luật chứng khoán năm 2006 và Quyết định số 48/2015/QĐ-TTg của Thủ
tướng Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của
Ủy ban Chứng khoán Nhà nước trực thuộc Bộ Tài chính.
Một trong những nhiệm vụ của UBCKNN là thanh tra, kiểm tra và giám sát các
đối tượng tham gia hoạt động trên thị trường chứng khoán và xử lí các vi phạm về
chứng khoán và thị trường chứng khoán theo quy định của pháp luật. Hoạt động
thanh tra chứng khoán được xem là một trong những nội dung quản lí nhà nước
quan trọng nhất về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Đối tượng thanh tra,
giám sát bao gồm: công ty chứng khoán, công ty quản lí quỹ đầu tư chứng
khoán,...Phạm vi thanh tra, giám sát bao gồm: hoạt động phát hành chứng khoán,
hoạt động niêm yết chứng khoán, hoạt động giao dịch chứng khoán, hoạt động kinh
doanh, cung cấp dịch vụ chứng khoán; hoạt động công bố thông tin. Đây là hoạt
động quan trọng nhằm kịp thời phát hiện những sai phạm trên thị trường chứng
khoán nói chung và hoạt động kinh doanh chứng khoán nói riêng, góp phần đảm
bảo sự ổn định của thị trường, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể hoạt
động kinh doanh chứng khoán.
3. Các quy định về xử lí vi phạm pháp luật trong lĩnh vực chứng khoán.
3.1. Xử lí hành chính:
Theo Khoản 1 Điều 3 Nghị định số 108/2013/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán quy định ba hình thức
9


xử phạt chính đối với tổ chức, cá nhân vi phạm phải chịu là phạt cảnh cáo, phạt tiền
và tước quyền sử dụng giấy chứng nhận đăng ký hoạt động văn phòng đại diện,
chứng chỉ hành nghề chứng khoán
- Cảnh cáo được áp dụng đối với hành vi vi phạm hành chính không nghiêm
trọng, lần đầu và có tình tiết giảm nhẹ.
- Phạt tiền theo từng mức phạt tối đa cụ thể với từng hành vi vi phạm của tổ

chức, cá nhân (quy định tại điểm b Khoản 1 Điều 3 Nghị định 108/2013/NĐ-CP).
Cơ sở để tính mức phạt là khoản thu phi pháp, khoản huy động bất hợp
pháp. Mức phạt cụ thể đối với mỗi hành vi thường được tính là mức trung bình của
khung hình phạt tiền tương ứng với hành vi đó, nếu có tình tiết giảm nhẹ thì mức
tiền phạt có thể thấp hơn nhưng không được giảm thấp hơn mức tối thiểu của
khung hình phạt, nếu có tình tiết tăng nặng thì mức phạt tiền có thể tăng
cao hơn nhưng không quá mức tối đa của khung hình phạt.
- Tước quyền sử dụng giấy chứng nhận đăng ký hoạt động văn phòng đại diện,
chứng chỉ hành nghề chứng khoán có thời hạn từ trên 03 tháng đến 24 tháng.
Ngoài hình phạt chính thì tùy tính chất, mức độ vi phạm các chủ thể có hành vi
vi phạm còn có thể bị áp dụng một hoặc nhiều hình thức xử phạt bổ sung kèm theo
hình phạt chính. Các hình phạt bổ sung thường hay được áp dụng là đình chỉ có
thời hạn các hoạt động kinh doanh chứng khoán; Tước quyền sử dụng giấy chứng
nhận đăng ký hoạt động văn phòng đại diện, chứng chỉ hành nghề chứng khoán với
thời hạn ngắn hơn so với hình phạt chính (từ 01 tháng đến 03 tháng); Tịch thu tang
vật vi phạm hành chính, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính.
3.2.

Xử lí hình sự:

Tuy Bộ luật hình sự Việt Nam chưa quy định các tội danh trong lĩnh vực chứng
khoán nhưng để đảm bảo nguyên tắc mọi hành vi vi phạm có đủ yếu tố cấu thành
tội phạm đều bị áp dụng các hình phạt hình sự được pháp luật quy định, việc xử lý
hình sự đối với chủ thể thực hiện hành vi vi phạm nghiêm trọng các quy định pháp
luật trong lĩnh vực chứng khoán được căn cứ trên cơ sở một số tội danh có các yếu
tố cấu thành mang tính tương đồng.
3.3.

Xử lý dân sự.


10


Hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán có nhiều vấn đề liên quan đến pháp luật
dân sự, nó được áp dụng thường xuyên là các chế định về hợp đồng dân sự như
việc kí kết các hợp đồng bảo lãnh phát hành, tư vấn phát hành… Để đảm bảo thực
hiện nghĩa vụ hợp đồng, pháp luật dân sự đã quy định rất nhiều biện pháp như cần
cố, đặt cọc, kí quỹ…. Hiện nay có một số biện pháp đã được áp dụng trong lĩnh vực
chứng khoán như cần cố chứng khoán đê cho vay tiền của các ngân hàng thương
mại, kí quỹ trong giao dịch chứng khoán.
Các hình thức xử lí trên phần nào đã có tác dụng răn đe, giáo dục ý thức chấp hành
pháp luật trong hoạt động kinh doanh chứng khoán.
IV – Một số kiến nghị nhằm hạn chế rủi ro trong kinh doanh chứng khoán.
Cùng với sự tăng trưởng mạnh mẽ của nền kinh tế, thị trường chứng khoán
(TTCK) Việt Nam 2016 đã có những diễn biến khả quan.
Theo dự báo của Công ty chứng khoán BSC, kinh tế Việt Nam tiếp tục bước vào
chu kỳ tăng trưởng tốt, trong năm 2016 GDP đạt mức 6,7% - 6,9% và có dấu hiệu
tăng trong năm 2017. Ngoại trừ 2 yếu tố có thể biến động tiêu cực là tỷ giá và lãi
suất có thể tăng, các chỉ báo khác như chỉ số giá tiêu dùng, vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài, tăng trưởng tín dụng... đều duy trì ổn định. Hoạt động sản xuất kinh
doanh được dự báo sẽ mở rộng, kết quả kinh doanh cải thiện, sẽ giúp thị trường ổn
định, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực từ thị trường thế giới. Đặc biệt hơn, giai đoạn
2016 – 2017 cánh cửa hội nhập quốc tế ngày càng rộng mở với nhiều Hiệp đinh
thương mại mà Việt Nam đã và đang ký kết sẽ là nhân tố thu hút dòng vốn ngoại
tăng trưởng mạnh mẽ trên TTCK. (Theo số liệu được tổng hợp và phân tích bởi
“Tapchitaichinh.vn”)
Để tiếp tục phát huy vai trò kênh dẫn vốn của TTCK trong thời gian tới, đồng
thời hạn chế những rủi ro bộc phát trong kinh doanh chứng khoán. Các cơ quan có
thẩm quyền cần xem xét những kiến nghị sau:
Thứ nhất, về xử lí vi phạm hành chính. Pháp luật chứng khoán đã quy định việc

xử phạt hành chính đối với hành vi vi phạm cụ thể trong lĩnh vực chứng khoán và
thị trường chứng khoán. Cùng với việc đề xuất nâng mức tiền phạt tối đa, yêu cầu
đặt ra cũng cần phải nâng mức tiền phạt đối với mỗi hành vi vi phạm để gia tăng
tính răn đe và kịp thời ngăn chặn các hành vi vi phạm mang tính chất phức tạp. Tuy
nhiên, việc tăng mức xử phạt cũng cần tính đến khả năng chi trả và đảm bảo hoạt
11


động kinh doanh cho các doanh nghiệp và nhà đầu tư, do đó đòi hỏi các nhà quản lí
và các nhà soạn thảo luật cần cân nhắc, tính toán chính xác.
Thứ hai, nâng cao hiệu quả hoạt động của Ủy ban Chứng khoán nhà nước. Thực
tế hiện nay, thẩm quyền của cơ quan quản lí nhà nước về chứng khoán và thị trường
chứng khoán ở Việt Nam là khá hạn chế. Để đảm bảo khả năng điều tra, xử lí các
hành vi giao dịch nội gián và thao túng trên thị trường, cần mở rộng thẩm quyền
cho UBCKNN, theo đó UB phải có quyền chất vấn những người mà xét thấy có
thông tin liên quan về các trường hợp bị nghi ngờ có hành vi lạm dụng thị trường.
Hơn nữa, UBCKNN phải có quyền tìm kiếm bằng chứng và nắm giữ tài liệu cần
thiết cho việc điều tra về các trường hợp lạm dụng thị trường. Pháp luật cũng cần
phải mở rộng thời hạn thanh tra, kiểm tra để cơ quan này có thể thực thi được
nhiệm vụ.
Thứ ba, hoàn thiện hệ thống công nghệ thông tin, kĩ thuật nhằm giám sát và xử
lí thông tin, cho phép theo dõi toàn bộ diễn biến các giao dịch trên thị trường, phát
hiện và xử lí chính xác kịp thời các hành vi vi phạm. Đồng thời đẩy mạnh công tác
tuyên truyền, phổ biến và giáo dục ý thức pháp luật cho các chủ thể hoạt động kinh
doanh chứng khoán.
KẾT LUẬN
Bất ổn và rủi ro là những sự việc có thể xảy trong tương lai, hai thuộc tính cố
hữu luôn gắn liền với thị trường chứng khoán và nó sẽ tồn tại mãi với thị trường
cùng tất cả các nhà đầu tư. Có thể nói, thị trường chứng khoán không phải là thủ
phạm gây ra bất ổn và rủi ro, nhưng lại là đối tượng chính phải gánh chịu những

hậu quả của bất ổn và rủi ro, hay đúng hơn là tất cả các nhà đầu tư trên thị trường.
Nước ta là một nền kinh tế đang phát triển, nhu cầu về vốn để phát triển kinh tế là
rất lớn. Chính vì lí do đó, việc hạn chế các rủi ro trên thị trường, thúc đẩy hoạt động
kinh doanh chứng khoán phát triển, đẩy mạnh tính thanh khoản là vô cùng cần thiết
để các nhà đầu tư yên tâm khi đầu tư vào thị trường chứng khoán, qua đó tăng hiệu
quả huy động vốn. Đảm bảo sự phát triển của nền kinh tế.
Trên đây là toàn bộ nội dung bài tập học kỳ của em, do lượng kiến thức còn hạn
hẹp nên trong quá trình thực hiện bài tập không thể tránh khỏi những sai sót. Rất
mong nhận được những ý kiến đóng góp từ thầy cô để bài làm được hoàn thiện
hơn. Em xin chân thành cảm ơn!
12


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại Học Luật Hà Nội, Giáo trình luật chứng khoán, Nxb CAND, Hà
Nội;
2. Pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị
trường chứng khoán ở nước ta hiện nay - Thực trạng và giải pháp : Khoá
luận tốt nghiệp / Nguyễn Hồng Đương; Người hướng dẫn: TS. Nguyễn Kiều
Giang . HN, 2009;
3. Luật chứng khoán năm 2006 (sửa đổi bổ sung năm 2010);
4. “Rủi ro trên thị trường chứng khoán Việt Nam – góc nhìn từ nhà đầu tư cá
nhân” – Th.S trịnh Thị Phan Lan, Tạp chí khoa học ĐHQGHN, khoa Tài
chính – ngân hàng;
5. Nghị định số 58/2012/NĐ-CP Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một
số điều của Luật Chứng khoán và Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật Chứng khoán;
6. Nghị định số 108/2013/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
chứng khoán và thị trường chứng khoán;
7. Quyết định số 48/2015/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ quy định chức

năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ủy ban Chứng khoán Nhà
nước trực thuộc Bộ Tài chính;
8. />9. />10. />
13



×