ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------
PHẠM THỊ THÙY DUNG
XỬ LÝ THÔNG TIN VỀ TRẺ VỊ THÀNH NIÊN
PHẠM PHÁP TRÊN BÁO ĐIỆN TỬ
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Báo chí học
Hà Nội - 2016
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------
PHẠM THỊ THÙY DUNG
XỬ LÝ THÔNG TIN VỀ TRẺ VỊ THÀNH NIÊN
PHẠM PHÁP TRÊN BÁO ĐIỆN TỬ
Chuyên ngành: Báo chí học
Mã số: 60 32 01 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Thoa
Hà Nội - 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi; được thực hiện
dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Nguyễn Thị Thoa.
Các số liệu nêu trong luận văn là trung thực; những kết luận khoa học của
luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tôi xin chịu trách nhiệm về công trình nghiên cứu của mình.
Tác giả luận văn
Phạm Thị Thuỳ Dung
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, tôi xin trân trọng cảm ơn đến quý thầy, cô giảng viên Khoa Báo
Chí & Truyền thông, Đại học Khoa học Xã hội & Nhân Văn đã tận tình giảng dạy
và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình theo học chương trình Cao học Báo chí tại Khoa.
Đặc biệt xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Nguyễn Thị Thoa đã tận tâm
hướng dẫn tôi trong suốt quá trình thực hiện và hoàn thành luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn các anh chị phóng viên, biên tập viên ba cơ quan
báo điện tử Dân trí, Vietnamnet, VnExpress đã hỗ trợ thông tin và chia sẻ kinh
nghiệm trong quá trình tác nghiệp, khai thác, thu thập và xử lý thông tin về trẻ vị
thành niên phạm pháp để viết bài đăng tải phục vụ công chúng, giúp tôi có được
những kết quả khảo sát thực tế trong luận văn này.
Trong quá trình thực hiện luận văn, tác giả đã cố gắng để hoàn thành luận
văn thật tốt. Tuy nhiên, do thời gian và trình độ còn hạn chế nên luận văn không thể
tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả mong muốn tiếp tục nhận được sự góp ý, chỉ
dẫn chân thành của quý thầy, cô giảng viên và các bạn đồng nghiệp nhằm bổ sung,
hoàn thiện luận văn.
Xin trân trọng cảm ơn!
Học viên
Phạm Thị Thuỳ Dung
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài .......................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài .............................................................. 3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .......................................................................... 6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................... 6
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.............................................................. 7
6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của đề tài ....................................................... 9
7. Cấu trúc của luận văn .............................................................................................. 9
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN BÁO ĐIỆN TỬ XỬ LÝTHÔNG TINVỀ TRẺ VỊ
THÀNH NIÊN PHẠM PHÁP ................................................................................ 11
1.1. Báo điện tử ........................................................................................................ 11
1.1.1. Một số khái niệm ............................................................................................. 11
1.1.2. Đặc trưng cơ bản của báo điện tử .................................................................. 12
1.1.3 Thông tin trên báo điện tử ................................................................................ 14
1.1.4 Xử lý thông tin trên báo điện tử ....................................................................... 17
1.2 Thông tin về trẻ vị thành niên phạm pháp ..................................................... 21
1.2.1 Trẻ vị thành niên .............................................................................................. 21
1.2.2 Trẻ vị thành niên phạm pháp ........................................................................... 22
1.2.3 Thực trạngphạm pháp của trẻ vị thành niên ở nước ta hiện nay ..................... 24
1.3 Cơ sở pháp lý và đạo đức khi thông tin về trẻ vị thành niên phạm pháp .......... 27
1.3.1 Những quy định về luật .................................................................................... 27
1.3.2 Yếu tố lợi nhuận kinh tế và đạo đức nhà báo ................................................... 30
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG VIỆC XỬ LÝ THÔNG TIN VỀ TRẺ VỊ THÀNH
NIÊN PHẠM PHÁP TRÊN BÁO ĐIỆN TỬ(Khảo sát 3 tờ báo: Dantri.com.vn,
Vnexpress.net, tuoitre.vn) ........................................................................................ 34
2.1. Vài nét về các tờ báo điện tử thuộc diện khảo sát ......................................... 34
2.1.1. Báo Dantri.com.vn .......................................................................................... 34
2.1.2. Báo VnExpress.net .......................................................................................... 35
2.1.3. Báo Tuoitre.vn ................................................................................................. 36
2.2. Tần suất xuất hiện và mức độ quan tâm của độc giả về những sự kiện chọn
khảo sát..................................................................................................................... 38
2.3. Thực trạng về cách thức xử lý thông tin ........................................................ 43
2.3.1 Thu thập và lựa chọn thông tin cốt lõi ............................................................. 43
2.3.2 Kiểm chứng, “chế biến, cải tạo” thông tin ...................................................... 46
2.3.3 Xử lý thông tin .................................................................................................. 50
2.4. Thực trạng nội dung thông tin ........................................................................ 55
2.4.1. Về nguyên nhân gây án ................................................................................... 55
2.4.2 Về cách thức gây án ......................................................................................... 58
2.4.3. Về Bản án ........................................................................................................ 60
2.4.4. Các thông tin liên quan tới phạm nhân sau khi bị tuyên án ........................... 62
2.4.5. Các thông tin về nạn nhân với 24 tin, bài (chiếm 9,2%) ................................ 63
2.4.6 Ảnh hưởng của vụ việc đối với xã hội .............................................................. 64
2.5. Thực trạng hình thức thể hiện ........................................................................ 66
2.5.1. Các thể loại báo chí ........................................................................................ 66
2.5.2. Bố cục, trình bày ............................................................................................. 68
2.6. Đánh giá chung ................................................................................................. 70
2.6.1. Thành công ...................................................................................................... 70
2.6.2. Những hạn chế ................................................................................................ 72
2.6.3. Nguyên nhân hạn chế ...................................................................................... 76
Chƣơng 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG THÔNG TIN VỀ TRẺ
VỊ THÀNH NIÊN PHẠM PHÁP TRÊN BÁO ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM ......... 80
3.1 Giải pháp nâng cao chất lƣợng thông tin về trẻ vị thành niên phạm pháp
trên báo điện tử ở Việt Nam ................................................................................... 80
3.1.1 Hoàn thiện luật pháp, chính sách quản lý ....................................................... 80
3.1.2. Đẩy mạnh hoạt động định hướng đưa tin của các toà soạn ........................... 82
3.1.3 Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng nghiệp vụ của nhà báo ...................... 86
3.1.4 Nâng cao đạo đức nghề nghiệp người làm báo ............................................... 88
3.1.5 Giải pháp đối với Tổng biên tập, Ban biên tập ................................................ 90
3.2 Đề xuất – Kiến nghị ........................................................................................... 96
3.2.1 Đối với đội ngũ lãnh đạo các toà soạn báo điện tử ......................................... 96
3.2.2. Đối với nhà báo phụ trách chuyên mục .......................................................... 97
3.2.3 Đối với phóng viên ........................................................................................... 97
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 101
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 104
PHỤ LỤC
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1: Biểu đồ thể hiện số lượng tin, bài về 5 vụ án tác giả lựa chọn khảo sát
trên ba tờ báo mạng điện tử Dantri.com, Vnexpress.net và Tuoitre.vn ....................38
Biểu đồ2.2: Biểu đồ thể hiện tỷ lệ xuất hiện thông tin liên quan đến các vụ án được
khảo sát ......................................................................................................................39
Biểu đồ2.3: Biểu đồ thể hiện thông tin liên quan đến vụ án Nguyễn Công Bảo ......41
Biểu đồ2.4: Biểu đồ thể hiện thông tin liên quan đến vụ án Nguyễn Khả Đạt .........43
Biểu đồ2.5. Biểu đồ thể hiện thông tin liên quan đến các vụ án tiến hành khảo sát.44
Biểu đồ2.6: Biểu đồ thể hiện số lượng tin, bài liên quan đến vụ án do Lê Văn Luyện
thực hiện tại Bắc Giang .............................................................................................46
Biểu đồ2.7. Biểu đồ thể hiện số lượng tin, bài thông tin về cách thức gây án của các
vụ án được khảo sát ...................................................................................................58
Biểu đồ2.8. Biểu đồ thể hiện thông tin các bản án của 5 vụ án tiến hành khảo sát ..60
Biểu đồ 2.10: Tỷ lệ số lượng thể loại tin so với các thể loại báo chí khác trên 3 trang
báo điện tử được khảo sát..........................................................................................66
Biểu đồ 2.11: Mức độ hài long của độc giả đối với các nội dung liên quan đến pháp
luật trên 3 tờ báo điện tử được khảo sát ....................................................................73
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt
Chữ đầy đủ
BLDS
Bộ luật Dân sự
BLHS
Bộ luật Hình sự
Bộ TT&TT
Bộ Thông tin và Truyền thông
CNTT
Công nghệ thông tin
ĐHKHXH&NV
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
NXB
Nhà xuất bản
PGS, TS
Phó Giáo sư, Tiến sĩ
PR (Public relations)
Quan hệ công chúng
TS
Tiến sĩ
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thời gian gần đây, các loại tội phạm xã hội, nhất là tội trộm cắp tài sản, cướp
giật, chống người thi hành công vụ, giết người… diễn biến hết sức phức tạp. Đối
tượng phạm tội đang có xu hướng ngày càng trẻ hóa, trong đó có nhiều trường hợp
chỉ mới ở tuổi vị thành niên. Hành vi phạm tội cũng như tính chất mức độ phạm tội
ngày càng nghiêm trọng. Lý giải vấn đề này ở góc độ xã hội, PGS.TS Tâm lý học
Huỳnh Văn Sơn, Phó Chủ tịch Hội Tâm lý học xã hội Việt Nam cho biết: Những
biểu hiện phạm tội này đã đến lúc cần phải được nhìn nhận nghiêm túc từ nhiều góc
cạnh và không thể thiếu sự quan tâm đích thực trên bình diện nghiên cứu và truyền
thông hệ thống. Đặc biệt, thái độ rất lạnh lùng, sự nhận thức đúng về hành vi phạm
tội nhưng đối tượng vẫn phạm tội, phạm tội rất dã man, phạm tội với chính người
thân của mình là vấn đề trăn trở… Bằng cảm quan cũng có thể thấy tội phạm ngày
càng trẻ hóa, thủ đoạn phạm tội ngày càng ghê rợn hơn, tinh vi hơn, ác độc hơn,
phạm vi phạm tội rộng hơn.
Theo con số thống kê của Bộ Công an, bình quân mỗi năm cả nước có hơn
10.000 vụ án, với hơn 15.000 đối tượng là trẻ vị thành niên phạm tội. Nếu trước đây,
trẻ vị thành niên thường có các hành vi như: trộm cắp, gây rối trật tự công cộng, cố
ý gây thương tích… thì một vài năm trở lại đây, tình hình đã diễn biến theo chiều
hướng nguy hiểm hơn: giết người, cướp của, hiếp dâm, mua bán ma tuý… thậm chí,
học sinh còn tụ tập thành nhiều băng nhóm, dùng hung khí để giải quyết mâu thuẫn.
Tại cuộc hội thảo khoa học trẻ vị thành niên vi phạm pháp luật “Thực trạng và
giải pháp” tổ chức tại Trường giáo dưỡng số 4 vào tháng 5/2014, nhiều đại biểu cho
rằng, việc trang bị kỹ năng sống là rất cần thiết để giúp các em điều chỉnh suy nghĩ,
hành vi của mình. Trước đây, việc giáo dục trẻ em trong gia đình và nhà trường đôi
lúc bị coi nhẹ, dẫn đến hành vi ứng xử của một bộ phận trẻ em trong cộng đồng bị
xuống cấp về đạo đức.
Tuy nhiên, cũng có những ý kiến cho rằng, cần xem xét ở mức độ nào đó về
quy định xử lý, chế tài xử lý với vị thành niên làm trái pháp luật, để làm sao đủ sức
răn đe, phòng ngừa chung, tránh tình trạng “nhờn” luật trong một bộ phận giới trẻ.
1
Đi tìm nguyên nhân sâu xa của trẻ vị thành niên phạm tội có thể thấy một thực tế
hiện nay cũng rất đáng quan tâm và được xem là một trong những nguyên nhân dẫn
đến những vụ án đau lòng, đó chính là việc quản lý văn hóa phẩm, phim, ảnh và
Internet.
Hiện nay trên các phương tiện truyền thông đại chúng, dù là loại hình báo in,
báo phát thanh, báo hình, báo điện tử đều có những tin, ảnh, bài viết liên quan tới
trẻ em, dù là trực tiếp hay gián tiếp. Vì thế, có thể thấy trong cuộc sống, trong xã
hội, hình ảnh trẻ em luôn luôn hiện hữu khắp nơi và tác động của xã hội tới trẻ em
như thế nào thì hình ảnh trẻ em trong báo chí cũng tương tự như vậy, khi là chủ thể,
khi là khách thể, khi chủ động, khi bị động, khi trực tiếp, khi gián tiếp. Chính từ đó,
thông tin về trẻ em luôn là một lĩnh vực cần được cẩn trọng trong cả cách khai thác
đề tài, cách viết, cách đưa tin lên mặt báo. Trẻ em rất trong sáng, dễ đọc, dễ tin và
những ấn tượng ban đầu dễ bị hằn sâu trong tâm hồn và có thể định hướng cách
nghĩ, cách sống sau này của trẻ. Tuy nhiên, vì lý do nào đó, có những người vẫn cố
tình khai thác những gì có lợi nhất trong thông tin liên quan đến trẻ em, đến hình
ảnh trẻ em, đến các vấn đề trẻ em một cách đầy dụng ý. Không ít những trường hợp
vì hám lợi trước mắt, để câu khách hoặc vì sơ suất, thiếu cẩn trọng mà tờ báo – nhà
báo đã vi phạm những nguyên tắc trong việc thông tin, gây ra những ảnh hưởng tiêu
cực tới danh dự, nhân phẩm và tâm lý của các em.
Kỹ năng đưa tin về trẻ em là một thách thức không nhỏ đối với giới báo chí
truyền thông, bởi người lớn đã có đầy đủ khả năng nhận thức và hiểu biết nên phải
chịu trách nhiệm trước những phát ngôn và hành động của mình nhưng trẻ vị thành
niên dễ bị tổn thương về tinh thần do nhận thức còn quá non nớt, chưa thể kiểm soát
được hành vi của mình và chưa đủ bản lĩnh, sự vững vàng về tâm lý để vượt qua
những áp lực của xã hội. Vì vậy, báo chí không những cần đưa tin về trẻ em một
cách công bằng, chính xác mà cũng cần có những thông tin mang tính chất định
hướng, hoặc thể hiện tính răn đe, giáo dục, bảo vệ để trẻ vị thành niên làm lại cuộc
đời, vượt qua áp lực xã hội để trở thành người tốt.
Xuất phát từ việc nhận thức được những hạn chế của báo chí khi thông tin về
trẻ em và tầm quan trọng của nhiệm vụ bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em, tác giả
2
mạnh dạn chọn: “Xử lý thông tin về trẻ vị thành niên phạm pháp trên báo điện tử”
làmđề tài cho luận văn thạc sĩ báo chí truyền thông của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Hiện nay, các vấn đề: mối quan hệ giữa báo chí và trẻ em, trẻ em với báo chí
truyền thông… ngày càng nhận được sự quan tâm của xã hội ở nhiều khía cạnh
khác nhau, trong đó vấn đề giáo dục nhân cách, lối sống, hành vi cũng như ý thức
pháp luật cho trẻ vị thành niên được đặc biệt quan tâm. Xung quanh vấn đề này, báo
chí nước ngoài cũng như ở nước ta cũng đã có một số bài viết, công trình nghiên
cứu ở nhiều góc độ khác nhau. Liên quan tới vấn đề này, tác giả xin đề cập một số
công trình nghiên cứu sau:
Trên thế giới đã có một số công trình nghiên cứu về đề tài trẻ em với báo chí
truyền thông.Trong cuốn sách “Truyền thông, đạo đức nghề nghiệp với trẻ em”
(NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003) tác giả Helena Thorfinn (Thuỵ Điển) đã
đặt ra vấn đề đạo đức nghề nghiệp và mối quan hệ giữa trẻ em với truyền
thông.Theo tác giả, ở Tây bán cầu, thời gian trung bình một trẻ em dành cho các
phương tiện truyền thông còn nhiều hơn thời gian ở bên cha mẹ chúng.Truyền
thông vừa là người bạn thân thiết nhất nhưng đồng thời cũng là kẻ thù lạnh lùng
nhất của các em.
Ở Việt Nam, đã có một số công trình nghiên cứu về đề tài trẻ em, như:
Trong cuốn “Sổ tay phóng viên báo chí với trẻ em” do PGS,TS Nguyễn Văn
Dững chủ biên, NXB Lao động xuất bản lần đầu năm 2001 và tái bản năm 2006 và
cuốn giáo trình nghiệp vụ “Phóng viên báo chí với trẻ em” cũng do PGS,TS
Nguyễn Văn Dững chủ biên, NXB Lao động năm 2004 có thể được coi là một trong
những công trình đầu tiên nghiên cứu mối quan hệ giữa báo chí và trẻ em. Cả hai
cuốn sách đều cung cấp những thông tin, kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm tổng
quát về báo chí trẻ em, đề cập tới những vấn đề kinh nghiệm hoạt động thực tiễn
của một số nhà báo về báo chí với trẻ em ở Việt Nam.
Cuốn sách “Nhà báo với trẻ em – Kiến thức và kỹ năng” (NXB Thông tấn,
Hà Nội, (2014) của TS. Nguyễn Ngọc Oanh, giảng viên Học viện Báo chí và Tuyên
truyền đã tập trung nghiên cứu kỹ năng làm báo cho trẻ em, trên cơ sở nghiên cứu,
3
khảo sát thực trạng kỹ năng tác nghiệp của nhà báo về đề tài trẻ em. Đây là công
trình đầu tiên nghiên cứu một cách cơ bản, hệ thống và chuyên sâu, thiết lập hệ
thống khái niệm, khung lý thuyết về kỹ năng làm báo cho trẻ em, cũng như các yếu
tố tác động đến quá trình hình thành kỹ năng làm báo cho trẻ em; đưa ra cơ sở khoa
học và thực tiễn của kỹ năng tiếp cận, giải quyết đề tài trẻ em dựa trên quyền (chứ
không chỉ dựa trên nhu cầu). Công trình này xem xét trẻ em không chỉ là đối tượng
phản ánh, đối tượng hưởng thụ các sản phẩm, mà còn là đối tượng tham gia sáng tạo
sản phẩm báo chí; xác định trẻ em là nhóm công chúng đặc thù, đồng thời là chủ thể
sáng tạo các sản phẩm báo chí. Dù có những đóng góp nhất định, song những công
trình nghiên cứu trên mới chỉ đi sâu vào phân tích kỹ năng làm báo về đề tài trẻ em,
mà chưa đề cập đến thông tin về trẻ vị thành niên phạm pháp trên báo chí cũng như
hiệu quả giáo dục pháp luật của thông tin đó tới toàn xã hội hiện nay.
Trong “Kỷ yếu hội thảo khoa học đưa tin về trẻ em và đạo đức nghề nghiệp
của nhà báo”, Trung tâm Bồi dưỡng nghiệp vụ báo chí – Hội Nhà báo Việt Nam và
Tạp chí Nghề báo – Hội Nhà báo thành phố Hồ Chí Minh phối hợp tổ chức vào
tháng 8/2013 tại Thành phố Hồ Chí Minh, các bài viết, các tham luận của các nhà
báo, các nhà quản lý báo chí đã tập trung trao đổi, thảo luận những nội dung chính:
Nguyên tắc cơ bản khi đưa tin về trẻ em (ví dụ: phỏng vấn trẻ em, sử dụng hình ảnh
của trẻ em trên báo chí); Những vấn đề đặt ra trong thực tiễn khi đưa tin về trẻ em
của các cơ quan báo chí ở nước ta hiện nay; Vấn đề đạo đức nghề nghiệp của nhà
báo khi đưa tin về trẻ em liên quan đến các vấn đề như trẻ em bị xâm hại, bị lạm
dụng, vấn đề HIV và các tệ nạn xã hội liên quan đến trẻ em, bạo lực học đường và
những vấn đề liên quan đến giáo dục ở trường học, vấn đề đời tư và hoàn cảnh gia
đình của trẻ em, các ngôn từ khiêu dâm, tình dục hoá trẻ em trên báo chí, vấn đề
thẩm định nguồn tin khi viết về trẻ em và vấn đề cải chính thông tin sai sự thật, xúc
phạm trẻ em…
Đã có một số khoá luận, luận văn thạc sĩ chuyên ngành báo chí truyền thông
nghiên cứu về đề tài trẻ em, như:
- Luận văn Thạc sỹ: “Tạp chí Thanh niên với việc giáo dục thế hệ trẻ nước ta
hiện nay” của tác giả Trần Hương Giang, năm 2004. Tác giả nêu lên được vai trò
4
của Tạp chí Thanh niên với việc giáo dục thế hệ trẻ, nhưng đề tài này còn chung
chung chứ chưa đi sâu phân tích một nội dung cụ thể nào.
- Đề tài khoa học: “Một số vấn đề giáo dục đạo đức lối sống trong thanh
thiếu niên hiện nay” của PTS Chu Xuân Việt – Uỷ ban Thanh niên Quốc gia –
Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, năm 1998. Đề tài đã nêu lên một số biểu
hiện lệch chuẩn trong đạo đức, lối sống của thanh niên, đồng thời đưa ra tính cấp
thiết của vấn đề giáo dục đạo đức, lối sống và những giải pháp để tăng cường hiệu
quả giáo dục.
- Luận văn Thạc sĩ: “Khả năng tác động của các phương tiện thông tin đại
chúng đối với việc hình thành lối sống của thanh niên sinh viên hiện nay” của tác
giả Hoàng Thị Xuân Quý, năm 1999 tại Phân viện Báo chí và Tuyên truyền. Đề tài
đã đề cập đến những vấn đề làm sáng tỏ mối quan hệ giữa các phương tiện thông tin
đại chúng và việc hình thành lối sống của thanh niên, sinh viên cũng như khả năng
tác động của các phương tiện thông tin đại chúng trong việc hình thành lối sống tích
cực của thanh niên, sinh viên.
- Luận văn Thạc sĩ: “Vấn đề tuyên truyền giáo dục lối sống cho thanh niên
sinh viên trên các Báo Thanh niên” của tác giả Trần Thị Hiền năm 1999 tại Phân
viện Báo chí và Tuyên truyền. Nội dung luận văn đã đề cập đến vai trò của báo chí
Trung ương Đoàn với việc tuyên truyền – phản ánh những mặt tích cực và tiêu cực
trong lối sống của thanh niên, sinh viên hiện nay, từ đó đặt ra những đòi hỏi cần
nâng cao chất lượng tuyên truyền giáo dục cho đối tượng này.
- Luận văn Thạc sĩ: “Giáo dục thiếu niên nhi đồng trên sóng của Đài truyền
hình Việt Nam” của tác giả Trần Thị Thu Hương, năm 2005, Học viện Báo chí và
Tuyên truyền. Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng các chương trình giáo dục trên
VTV2 dành cho thiếu niên nhi đồng, tác giả đã tìm ra những giải pháp để nâng cao
hơn nữa chất lượng của chương trình.
- Luận văn Thạc sĩ: “Giáo dục nhân cách cho trẻ vị thành niên trên báo chí
hiện nay” của tác giả Trần Thị Dung năm 2007 tại Học viện Báo chí và Tuyên
truyền. Đề tài đã đề cập tới tất cả những mặt tích cực và hạn chế từ nội dung, hình
thức đến phương pháp giáo dục nhân cách cho trẻ vị thành niên.Luận văn đề cập
5
một cách cơ bản về vai trò của Báo Thiếu niên Tiền phong và Hoa học trò trong
công tác giáo dục nhân cách cho thiếu niên. Đề tài chỉ ra rằng, báo chí không chỉ
tuyên truyền mà còn đóng vai trò giáo dục và định hướng nhân cách cho Thiếu niên
Nhi đồng, chỉ cho các em con đường đi, định hướng cho các em sống theo những
giá trị cuộc sống tốt đẹp hơn, phù hợp với xu thế thời đại.
Nhìn chung, những công trình nghiên cứu trên đã tiếp cận ở những góc độ
khác nhau đối với đề tài trẻ em. Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu sâu
vấn đề xử lý thông tin về trẻ em phạm pháp trên báo chí nói chung, trên báo điện tử
nói riêng. Chính vì vậy, đề tài nghiên cứu của luận văn hoàn toàn mới, không trùng
lặp với các công trình đã có từ trước.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là nghiên cứu, đánh giá thực trạng (thành công và hạn
chế)vấn đề xử lý thông tin về trẻ vị thành niên phạm pháptrên báo điện tử hiện nay,
từ đó đề xuất những giải pháp nhằm thay đổi vànâng cao hơn nữa chất lượng xử lý
thông tin về trẻ vị thành niên phạm pháp trên báo điện tử trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn thực hiện những nhiệm vụ sau đây:
- Khái quát hệ thống những lý luận chungliên quan đến báo điện tử, chức
năng thông tin trên báo điện tử và cách xử lý thông tin về trẻ vị thành niên phạm
pháp trên báo điện tử hiện nay;
- Phân tích thực trạng đồng thời chỉ ra nguyên nhân của thành công và hạn chế
trong việc xử lý thông tin về trẻ vị thành niên phạm pháp trên báo điện tử hiện nay qua
khảo sát chuyên mục pháp luật của 3 tờ báo Dân trí, VnExpress và Tuổi trẻ Online;
- Đề xuất một số giải pháp nhằm thay đổi và nâng cao hơn nữa chất lượng xử
lý thông tin về trẻ vị thành niên phạm pháp trên báo điện tử.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn này là: Tác giả tập trung vào kỹ năng xử
lý thông tin về trẻ vị thành niên phạm pháp của các nhà báo. Theo đó, tác giả luận
6
văn tiến hành khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng của việc xử lý thông tin về trẻ
vị thành niên phạm pháp của các nhà báo. Từ đó đưa ra những giải pháp và kiến
nghị nhằm nâng cao hiệu quả xử lý thông tin về trẻ vị thành niên phạm pháp trên
báo điện tử.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn giới hạn ở việc nghiên cứu cách thức xử lý thông tin về trẻ vị thành niên
phạm pháp trên chuyên mục pháp luật của 3 tờ báo Dân Trí, VnExpress và Tuổi trẻ
Online.
Tuy nhiên, vì số lượng báo điện tử thông tin các vụ việc liên quan đến pháp luật
tương đối nhiều, đặc biệt là những thông tin về trẻ vị thành niên phạm pháp, do đó
tác giả luận văn chỉ tiến hành khảo sát thực trạng xử lý thông tin về trẻ vị thành niên
phạm pháp giới hạn trong 5 vụ việc khá điển hình, được dư luận đặc biệt quan tâm:
+ Vụ án Lê Văn Luyện thảm sát tiệm vàng Ngọc Bích (Bắc Giang) năm
2011;
+ Vụ án My “sói” cầm đầu đường dây chuyên hiếp dâm các bé gái (Hà
Nội)(năm 2011);
+ Vụ án Nguyễn Công Bảo (15 tuổi) giết nghệ sĩ cải lương Đỗ Linh (năm
2015);
+ Vụ Lê Tuấn Anh (SN 1995, trú tại xã Quảng Châu, huyện Quảng Xương,
Thanh Hoá) 18 năm tù giam về tội “hiếp dâm” và “giết người”(năm 2012);
+ Vụ án nghịch tử Nguyễn Khả Đạt giết chết mẹ và giấu xác vào lu ở Kiên
Giang(năm 2015).
- Thời gian nghiên cứu: Từ năm 2011 – 2015.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Khi thực hiện luận văn, tác giả đã dựa trên cơ sở lý luận báo chí truyền thông
nói chung, về báo điện tử nói riêng; dựa trên đường lối, chính sách của Đảng, nhà
nước về báo chí; về chính sách đối với trẻ em, về pháp luật đối với trẻ em; dựa trên
cơ sở lý luận của các khoa học liên ngành.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
7
Để thực hiện mục đích và nhiệm vụ, tác giả sử dụng những phương pháp
nghiên cứu chính sau đây:
- Phương pháp phân tích – tổng hợp văn bản, tài liệu: Đây là phương pháp
được tác giả sử dụng để làm rõ hơn đề tài nghiên cứu của mình từ việc tổng hợp tài
liệu, văn bản và phân tích văn bản để đánh giá thực trạng cũng như chỉ ra nguyên
nhân vì sao báo điện tử hiện nay khai thác, phản ánh nhiều về thông tin trẻ vị thành
niên phạm pháp trên báo;
- Phương pháp thống kê: Thống kê tần suất xuất hiện các bài viế có nội dung
thông tin về trẻ vị thành niên phạm pháp ở chuyên mục Pháp luật được đăng tải trên
3 tờ báo điện tử: Dân Trí, VnExpress và Tuổi trẻ Online, cụ thể là thống kê số bài
viết về 5 vụ án điển hình (vụ án Lê Văn Luyện, vụ án Nguyễn Khả Đạt, vụ án My
“sói”, vụ án Nguyễn Công Bảo và vụ án Lê Tuấn Anh) để từ đó rút ra những ưu
điểm và mặt hạn chế trong quá trình xử lý thông tin về trẻ vị thành niên phạm pháp;
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Phương pháp này được sử dụng để
nghiên cứu nội dung thông tin trong từng tác phẩm báo chí, để nhận diện thực trạng
các báo điện tử xử lý thông tin về trẻ em phạm pháp ra sao? Từ đó đánh giá được
những thành công và hạn chế của các báo điện tử trong công việc này. Phương pháp
này giúp cho người nghiên cứu nắm được các phương pháp của các nghiên cứu đã
thực hiện trước đây, có thêm kiến thức sâu về lĩnh vực đang nghiên cứu và làm rõ
hơn đề tài nghiên cứu của mình. Phương pháp bao gồm việc thống kê, hệ thống,
phân tích, so sánh các tài liệu liên quan đến xử lý thông tin về trẻ vị thành niên
phạm pháp trên báo điện tử.
- Phương pháp phỏng vấn sâu:Tác giả tiến hành phỏng vấn qua email đối với
5 người. Đối tượng phỏng vấn là lãnh đạo cơ quan báo chí cụ thể là TS Trần Bá
Dung, Trưởng Ban Nghiệp vụ Hội Nhà báo Việt Nam; 1 người là Tổ trưởng Tổ
phóng sự điều tra cùng 3 phóng viên đang đảm nhận vai trò phụ trách sản xuất tin,
bài ở mảng pháp luật, nhằm lấy ý kiến của họ đánh giá báo điện tử xử lý thông tin
về trẻ vị thành niên phạm pháp ra sao? Có vướng mắc gì, khó khăn gì trong quá
trình xử lý thông tin?...
8
- Phương pháp điều tra xã hội học:tác giả sử dụng Bảng hỏi ý kiến đối với
công chúng để thấy được hiệu quả của thông tin về trẻ vị thành niên phạm pháp trên
báo điện tử hiện nay. Tổng số phiếu phát ra là 300 phiếu, thu về 297 phiếu hợp lệ.
Để xử lý kết quả thu được, tác giả sử dụng phần mềm SPSS (Statistical Package for
the Social Sciences). SPSS được sử dụng rộng rãi trong công tác thống kê xã hội.
Đây là phần mềm chuyên dụng và phổ biến để phân tích các kết quả điều tra trong
mọi lĩnh vực, từ xã hội, giáo dục, kinh tế,…
6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của đề tài
6.1. Về mặt lý luận:
Luận văn sẽ góp phần hệ thống hoá lý luận về báo điện tử, cụ thể là nội dung
thông tin về trẻ vị thành niên phạm pháp trên báo điện tử - một trong những vấn đề
nóng trên báo điện tử hiện nay; đồng thời nêu ra những yêu cầu cần thiết đối với
những người làm báo điện tử để tối ưu hoá việc cung cấp thông tin có chất lượng,
đạt hiệu quả giáo dục cho công chúng báo điện tử trong thời gian tới.
6.2. Về mặt thực tiễn:
Đề xuất một số giải pháp nhằm thay đổi những mặt tồn tại, hạn chế cũng như
tác hại của việc báo điện tử thông tin về trẻ vị thành niên phạm pháp trên báo điện
tử hiện nay nhằm nâng cao chất lượng thông tin, đáp ứng nhu cầu tiếp nhận thông
tin của độc giả cũng như nâng cao hiệu quả giáo dục của các tin, bài viết về trẻ vị
thành niên phạm pháp.
Kết quả đạt được của luận văn sẽ giúp ích cho việc phát triển nghề của
những người làm báo điện tử chuyên nghiệp, có đạo đức, nhân văn và là nguồn tài
liệu quan trọng cho các sinh viên chuyên ngành báo điện tử cũng như những người
quan tâm tới lĩnh vực này.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Mục lục, Danh mục tài liệu tham khảo, Phụ
lục, Nội dung chính của luận văn bao gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận báo điện tử xử lý thông tin về trẻ vị thành niên
phạm pháp
9
Chương 2: Thực trạng việc xử lý thông tin về trẻ vị thành niên phạm pháp
trên báo điện tử
Chương 3: Giải phápnâng cao chất lượngthông tin về trẻ vị thành niên phạm
pháp trên báo điện tử ở Việt Nam.
10
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN BÁO ĐIỆN TỬ XỬ LÝTHÔNG TIN
VỀ TRẺ VỊ THÀNH NIÊN PHẠM PHÁP
1.1. Báo điện tử
1.1.1. Một số khái niệm
Thế kỷ 19 là thế kỷ thống trị của báo in. Sang thế kỷ 20, phát thanh, truyền
hình lại chiếm lĩnh ngôi vị thống trị cùng với đài radio và tivi. Từ cuối thế kỷ 20,
đầu thế kỷ 21, mạng Internet ra đời và phát triển đã có tác động mạnh mẽ tới mọi
mặt của đời sống con người và báo chí cũng không nằm ngoại lệ. Hệ quả tất yếu là
một sản phẩm kết hợp giữa báo chí – Internet: báo điện tử ra đời, đã và đang làm
thay đổi không nhỏ bộ mặt của báo chí thế giới, trong đó có Việt Nam.
Dù ra đời sau nhưng báo điện tử ngày càng chứng minh sức lan toả toàn thế
giới của mình nhờ tích hợp được những ưu thế của các loại hình báo chí,có thể đảm
đương nhiệm vụ của cả phát thanh, truyền hình, báo in một cách đầy đủ và dễ dàng.
Hiện nay, việc sử dụng thuật ngữ định danh loại hình báo chí mà thông tin
được truyền tải và tiếp nhận qua mạng Internet vẫn chưa thống nhất, đang tồn tại
nhiều tên gọi khác nhau như: báo mạng điện tử (Học viện Báo chí và Tuyên truyền),
báo điện tử (Đại học KHXH&NV TP. Hà Nội), báo trực tuyến (Đại học
KHXH&NV TP. Hồ Chí Minh); báo mạng hay báo Internet(xã hội quen dùng).
Theo cách hiểu của tác giả luận văn, báo điện tử với tư cách là một loại hình
báo chí tồn tại dưới dạng một trang web và phát hành dựa trên nền tảng Internet, có
ưu thế trong chuyển tải thông tin một cách nhanh chóng, tức thời, đa phương tiện và
mang tính tương tác cao. Báo điện tử được xuất bản bởi toà soạn điện tử, còn người
đọc báo dựa trên máy tính, điện thoại di động, máy tính bảng… có kết nối Internet.
Báo điện tử cho phép mọi người trên khắp thế giới tiếp cận tin tức nhanh chóng vì
nó không phụ thuộc vào không gian, thời gian. Sự phát triển của báo điện tử đã làm
thay đổi thói quen đọc tin và ít nhiều có ảnh hưởng đến việc phát triển của báo giấy
truyền thống.
Trong luận văn này, tác giả sẽ sử dụng thuật ngữ “Báo Điện tử” được quy
định trong Khoản 6, Điều 3, Chương 1 của Luật Báo chí (năm 2016): “Báo điện tử
11
là loại hình báo chí sử dụng chữ viết, hình ảnh, âm thanh, được truyền dẫn trên môi
trường mạng, gồm báo điện tử và tạp chí điện tử” [34, tr.9].
1.1.2. Đặc trưng cơ bản của báo điện tử
1.1.2.1 Khả năng đa phương tiện
Khả năng đa phương tiện trên báo điện tử là sự kết hợp nhiều loại phương
tiện (ngôn ngữ văn tự và phi văn tự) đề thực hiện và tạo nên một sản phẩm báo chí.
Một sản phẩm báo chí được coi là sản phẩm đa phương tiện khi nó tích hợp nhiều
trong số các phương tiện truyền tải thông tin sau: văn bản (text), hình ảnh tĩnh (still
image), hình ảnh động (animation), đồ hoạ (graphic), âm thanh (audio), video, và
các chương trình tương tác (interactive programs).
Trên một sản phẩm báo điện tử, tuỳ thuộc vào nội dung và yêu cầu của từng
toà soạn mà việc sử dụng các yếu tố đa phương tiện cũng khác nhau. Trong nhiều
trường hợp, một thông tin có thể được truyền tải bằng nhiều phương tiện để người
đọc có thể tiếp cận và lựa chọn, nhưng nhiều trường hợp khác nhà báo sẽ quyết định
hình thức truyền tải nào là phù hợp với nội dung thông điệp. Nhờ vậy, các sản phẩm
của báo điện tử ngày càng hấp dẫn, thu hút nhiều hơn sự quan tâm của công chúng
[17, tr.122-123].
1.1.2.2 Tính tức thời và phi định kỳ
Là loại hình báo chí đại diện cho thời đại của thông tin, báo điện tử có khả
năng cập nhật cao, có thể thấy là cao nhất trong tất cả các loại hình báo chí truyền
thống khác. Ví dụ: để đọc những thông tin tiếp theo của báo in, bạn đọc phải chờ tới
số sau, có thể là ngày hôm sau (nhật báo), cũng có thể là tuần sau (tuần báo), vì báo
in còn phụ thuộc vào tính định kỳ, thời gian in ấn và phát hành. Còn để tiếp nhận tin
tức trên phát thanh, truyền hình thì khán, thính giả không phải chờ lâu như thế
nhưng lại phụ thuộc vào khung giờ, thời lượng phát sóng, thời gian tuyến tính và kỹ
thuật. Trong khi đó, trên báo điện tử, bạn đọc gần như không phải chờ đợi. Bất kể
thông tin diễn ra ở đâu, thời gian nào, chỉ cần một máy tính xách tay hoặc điện thoại
smartphone có kết nối Internet, các phần mềm phụ trợ (phần mềm tải âm thanh,
hình ảnh…) thì sự kiện xảy ra phóng viên có thể cập nhật tin bài ngay tức khắc. Khi
vừa đăng bài xong, có thông tin mới lại có thể dễ dàng cập nhật thêm mà không gặp
bất cứ khó khăn gì.
12
Báo điện tử vượt qua các rào cản mà các loại hình báo chí khác gặp phải, nội
dung thông tin không bị giới hạn bởi khuôn khổ của trang báo, thời lượng phát sóng
hay thời gian tuyến tính, quy trình sản xuất thông tin lại đơn giản, dễ dàng nên có
thể cập nhật, bổ sung bất cứ lúc nào với số lượng là bao nhiêu. Thông tin trên báo
điện tử có thể sống động, nóng hổi đến từng giờ, từng phút, thậm chí là từng giây
[17, tr.145-147].
1.1.2.3 Tính tương tác
Trước khi báo điện tử ra đời, tính tương tác trong hoạt động báo chí đơn giản
là sự tác động qua lại giữa cơ quan báo chí, nhà báo với người tiếp nhận thông tin.
Tuy nhiên, sự xuất hiện của báo điện tử đã làm cho tương tác trong hoạt động báo
chí được mở rộng, có nhiều hình thức hơn và giảm đi những hạn chế của các hình
thức tương tác cũ.
Đối với báo điện tử, nhờ sự hỗ trợ của công nghệ cao, bạn đọc có thể gửi thư
điện tử (e-mail) phản hồi ngay tới từng bài báo, từng tác giả và toà soạn bằng những
thao tác hết sức đơn giản, thuận tiện. Cũng nhờ vào khả năng tương tác, báo điện tử
có thể thiết lập được các diễn đàn hay thực hiện các cuộc bỏ phiếu (vote) giúp cho
công tác điều tra xã hội học trở nên vô cùng đơn giản, thuận tiện và nhanh chóng.
Báo điện tử còn cho phép những đoạn video cũng có tính tương tác hai chiều,
kèm dữ liệu, có thể tra cứu. Bên cạnh đó, với mong muốn là chiếc cầu nối thân thiện,
các toà soạn báo điện tử còn thiết lập các cuộc giao lưu trực tuyến, bàn tròn trực
tuyến, phỏng vấn trực tuyến… tạo cơ hội cho bạn đọc giao lưu, trao đổi về các vấn
đề trong cuộc sống… Ngoài ra, các tờ báo điện tử hiện nay còn trang bị những ứng
dụng tự động quảng bá nội dung, chia sẻ những thông tin mà tờ báo mình đăng tải
đến cho công chúng [17, tr.152-158].
1.1.2.4 Khả năng lưu trữ và tìm kiếm thông tin
Báo điện tử không bị giới hạn bởi số trang, khuôn khổ hay thời lượng
chương trình như các loại hình báo chí khác. Thông tin lại được lưu trữ cao nên bạn
luôn có thể xem đi xem lại nhiều lần bài viết hay một hình ảnh nào đó của một bài
báo được đăng tải trên báo điện tử vài năm trước. Chỉ cần sử dụng những công cụ
tìm kiếm thông tin như Google, gõ từ khoá là bạn có thể tìm thấy bất cứ thông tin
nào mà bạn cần mà không bị hạn chế về thời gian.
13
1.1.3 Thông tin trên báo điện tử
1.1.3.1 Thông tin
Khái niệm “Thông tin” được bắt nguồn từ chữ Latin: infometio, gốc của
tiếng Anh: information.
Còn theo Philipppe Breton và Serge Proulx trong cuốn sách “Bùng nổ truyền
thông và sự ra đời một ý thức hệ mới”, khái niệm “thông tin” có hai hướng nghĩa:
Thứ nhất là, nói về một hành động cụ thể để tạo ra một hình thái (frome); thứ hai là,
nói về sự truyền đạt một ý tưởng, một khái niệm hay biểu tượng. Hai hướng nghĩa
này cùng tồn tại, một nhằm vào sự tạo lập cụ thể, một nhằm vào sự tạo lập kiến thức
và truyền đạt.Nó thể hiện sự gắn kết của hai lĩnh vưc kỹ thuật và kiến thức.
Theo Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, Trung tâm Từ điển học, năm 2000
thì thông tin với nghĩa là động từ là truyền tin cho nhau để biết; và với nghĩa danh
từ là điều được truyền đi cho biết, tin truyền đi (ví dụ bài báo có lượng thông tin
cao).
Theo các tác giả cuốn “Cơ sở lý luận báo chí”, do Học viện Chính trị Quốc
gia Hồ Chí Minh, Phân viện Báo chí và Tuyên truyền, NXB Văn hoá – Thông tin
xuất bản năm 1999, từ “Thông tin” được sử dụng với những ý nghĩa khác nhau
trong các tình huống cụ thể:
Thông tin là một loại hình hoạt động để chuyển đi các nội dung thông báo.
Hoạt động thông tin không chỉ có trong xã hội loài người. Ngay trong thiên nhiên
cũng có những hoạt động thông tin phức tạp, đa dạng của các loại động vật khác
nhau; Thông tin được dùng để chỉ chất lượng nội dung của thông báo nói
chung.Trong trường hợp này, người ta xem xét chất lượng nội dung thông báo bằng
“lượng thông tin” được chuyển đến đối tượng tiếp nhận.
Như vậy, thông tin được hiểu theo hai nghĩa: Thứ nhất, đó chính là nội dung
thông tin; Thứ hai, đó là phương tiện thông báo, báo tin.
Ngoài ra, thông tin được dùng ở đây không loại trừ các thông tin được truyền
bằng ngôn ngữ tự nhiên. Thông tin ở đây có thể được ghi và truyền ngôn ngữ cơ thể,
các cử chỉ, điệu bộ… Hơn nữa, con người còn được cung cấp thông tin dưới dạng
mã di truyền. Những hiện tượng này của thông tin thấm vào thế giới vật chất và tinh
14
thần của con người, cùng với sự đa dạng phong phú của nó đã khiến khó có thể đưa
ra một định nghĩa thống nhất về thông tin.
1.1.3.2 Thông tin báo chí
Thông tin là chức năng khởi nguồn, chức năng cơ bản nhất của báo chí. Báo
chí ra đời và phát triển trước hết là nhằm thoả mãn nhu cầu ngày càng cao về thông
tin của con người và xã hội. Thực hiện chức năng thông tin, báo chí cung cấp cho
công chúng về tất cả các vấn đề, sự kiện của đời sống xã hội, đáp ứng nhu cầu khám
phá, tìm hiểu thế giới tự nhiên, xã hội.
Trong một thế giới hiện thực chứa đầy thông tin, báo chí có cách riêng của
mình để phản ánh hiện thực với mục đích tác động tới nhiều tầng lớp xã hội có mối
quan tâm, sở thích và nhu cầu khác nhau. Chính điều đó đã khiến cho báo chí trở
thành một hoạt động thông tin đại chúng rộng rãi và năng động nhất mà không một
hình thái ý thức xã hội nào có được.
Như vậy, thông tin báo chí cũng được hiểu theo hai nghĩa:
Thứ nhất, đó là tri thức, tư tưởng do nhà báo tái tạo và sáng tạo từ hiện thực
cuộc sống.Tất cả những vấn đề, sự kiện, hiện tượng trong tự nhiên và xã hội được
báo chí phản ánh nhằm phục vụ nhu cầu tìm hiểu, khám phá của con người.
Thứ hai, đó là phương tiện, công cụ chuyển tải tác phẩm báo chí tới công
chúng. Trong hoạt động báo chí, thông tin là công cụ chủ yếu để nhà báo thực hiện
mục đích của mình. Thông tin trở thành “cầu nối” giữa báo chí và công chúng. Căn
cứ việc phân loại theo phương thức thể hiện, người ta chia thông tin báo chí thành
các loại hình: Thông tin bằng chữ viết (báo in); thông tin bằng tiếng nói (phát
thanh); thông tin bằng hình ảnh (truyền hình); thông tin trên mạng Internet (đa
phương tiện).
Trong thực tiễn báo chí, thuật ngữ “thông tin” có nhiều dạng khác nhau: có
khi chỉ là cái tin vắn, tin ngắn, bài bình luận, phóng sự, phỏng vấn; có khi là một
chương trình phát thanh, truyền hình. Ngay cả các tiêu đề, vị trí của tác phẩm trên
các cột báo, giọng đọc của phát thanh viên, các cỡ chữ hay cách xếp chữ trên các tờ
báo… đều chứa đựng thông tin.
Thuật ngữ “Thông tin” trong hoạt động báo chí còn có cách hiểu rộng hơn,
chúng còn được hiểu như một danh từ tập hợp. Chúng ta có thể gọi toàn bộ tác
phẩm, hay hệ thống những tin tức… là thông tin.
15
Một thông tin có giá trị phải là thông tin đầy đủ, có hệ thống qua việc lựa
chọn đúng, có khoa học, có phương pháp nhằm phục vụ mục tiêu nhất định. Tức là
giá trị tri thức của thông tin được chọn phản ánh trên báo chí, các phương tiện thông
tin đại chúng phải gắn với giá trị xã hội đương thời. Điều này cho chúng ta thấy,
nếu bản chất vai trò của thông tin báo chí biểu hiện chính ở chức năng điều chỉnh xã
hội của nó thì sự phản ánh hiện thực xã hội của báo chí đều nhằm mục đích nhất
định và báo chí phản ánh hiện thực xã hội không phải là đưa ra các sự kiện “một
cách vô tư” như một thứ hàng hoá mà phải là những sự kiện được đánh giá, kết luận,
được thừa nhận trên cơ sở hệ tư tưởng xã hội nhất định.
Như vậy, thông tin báo chí là một dạng thông tin xã hội đặc thù, mang tính
thời sự, phổ cập và rất quan trọng về phương diện chính trị - xã hội. Là sự phản ánh
hiện thực, thông tin có nội dung khách quan đồng thời lại mang tính chủ quan. Do
vậy, việc sử dụng thông tin vào hoạt động truyền thông đại chúng cũng như việc
tiếp nhận thông tin ở mỗi người đều không thể diễn ra một cách thụ động mà phải
có sự kiểm định, xử lý lại thông tin.
1.1.3.3 Thông tin trên báo điện tử
Từ khi ra đời, báo điện tử nhanh chóng trở thành phương tiện truyền thông
hiện đại bởi những ưu thế so với báo chí truyền thống. Loại hình báo điện tử ngày
càng phát triển vượt bậc, có vị thế quan trọng, có ảnh hưởng đến nhiều tầng lớp xã
hội, bởi vì, báo điện tử là loại hình báo chí có khả năng cập nhật liên tục và đòi hỏi
lượng thông tin hằng ngày cung cấp tới bạn đọc vô cùng lớn nên dù có một đội ngũ
phóng viên hùng hậu, một tờ báo điện tử cũng không thể bao trọn vẹn các vấn đề,
sự kiện diễn ra hằng ngày trong đời sống chính trị, kinh tế, xã hội. Với bạn bè quốc
tế, Việt kiều đang sống ở nước ngoài, báo điện tử là một kênh thông tin quan trọng
hàng đầu trong việc tuyên truyền chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và
pháp luật của Nhà nước, giúp các đối tượng trên hiểu rõ về công cuộc đổi mới và
tình hình Việt Nam. Chính vì vậy, các tờ báo điện tử phải sử dụng, tham khảo thông
tin của nhau trên cơ sở tôn trọng và lưu giữ bản quyền, nguồn gốc của thông tin đó.
Trung bình mỗi ngày, một tờ báo điện tử xuất bản trên dưới 50 tin, bài về đủ
mọi lĩnh vực mà công chúng quan tâm. Với một lượng thông tin đồ sộ như vậy, công
16