Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Vi Phạm Hành Chính và Trách Nhiệm Hành Chính trong pháp luật Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (290.04 KB, 15 trang )

Phạm Thị Yến Nhi

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
PHÂN HIỆU TẠI KON TUM
----------

BÀI TIỂU LUẬN
Đề tài: Vi Phạm Hành Chính và Trách Nhiệm Hành Chính
trong pháp luật Việt Nam hiện nay

Môn: Luật Hành Chính
Giáo viên hướng dẫn : Nguyễn Thị Hồng Nhung
Sinh viên: Phạm Thị Yến Nhi
Lớp : K915LK2
1


Phạm Thị Yến Nhi

2


Phạm Thị Yến Nhi

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.............................................................................................................................4
I. VI PHẠM HÀNH CHÍNH...............................................................................................4
1. Khái niệm.....................................................................................................................4
2. Đặc điểm......................................................................................................................4
3. Các yếu tố cấu thành vi phạm hành chính...................................................................5
4. Phân biệt vi phạm hành chính và tội phạm..................................................................6


II. TRÁCH NHIỆM HÀNH CHÍNH...................................................................................7
1. Khái niệm và đặc điểm của trách nhiệm hành chính...................................................7
2. Xử phạt vi phạm hành chính........................................................................................8
c. Nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính :...................................................................9
III. THỰC TRẠNG VÀ KIẾN NGHỊ TRONG XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH........12
1. Thực trạng..................................................................................................................12
2. Kiến nghị....................................................................................................................14
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................................15

3


Phạm Thị Yến Nhi

MỞ ĐẦU
Vi phạm hành chính là loại vi phạm pháp luật xảy ra khá phổ biến và
thường xuyên trong đời sống xã hội, là một vấn đề hết sức phức tạp và nhạy
cảm. Tuy mức độ nguy hiểm cho xã hội thấp hơn tội phạm nhưng vi phạm
hành chính gây thiệt hại và đe dọa đến lợi ích của Nhà nước, tập thể, lợi ích
của cá nhân cũng như lợi ích chung của cộng đồng, là nguyên nhân dẫn đến
tình trạng phạm tội nảy sinh trên các lĩnh vực đời sống xã hội nếu như không
được ngăn chặn và xử lý kịp thời. Nhận thức được tầm quan trọng, ý nghĩa
lý luận và thực tiễn của vấn đề này, Nhà nước ta đã đưa ra nhiều bộ luật liên
quan đến xử lý vi phạm hành chính để xử lý những hành vi vi phạm như :
Luật xử lý vi phạm hành chính (2012), Nghị Định 81/2013 quy định chi tiết
về một số điều và biện pháp thi hành xử lý luật hành chính…. Để xác định
rõ tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của loại vi phạm này, đặc biệt
là xác định ranh giới giữa vi phạm hành chính và tội phạm chúng ta cùng đi
tìm hiểu rõ hơn về vi phạm hành chính và trách nhiệm hành chính trong
pháp luật vi phạm hành chính trong pháp luật Việt Nam hiện nay.

I. VI PHẠM HÀNH CHÍNH
1. Khái niệm
Theo quy định tại khoản 1 điều 2 luật xử lý vi phạm hành chính thì vi
phạm hành chính được hiểu là hành vi do cá nhân, tổ chức thực hiện với
lỗi cố ý hoặc vô ý, vi phạm các quy đinh của pháp luật về quản lý nhà nước
mà không phải là tội phạm và theo quy đinh của pháp luật phải bị xử phạt
hành chính.
2. Đặc điểm
- Là loại vi phạm pháp luật hành chính chủ yếu xảy ra trong các lĩnh
vực của quản lý nhà nước
- Có tính chất nguy hiểm cho xã hội thấp hơn so với tội phạm hình sự
- Chủ thể của vi phạm hành chính là cá nhân, tổ chức có năng lực trách
nhiệm hành chính.
4


Phạm Thị Yến Nhi

3. Các yếu tố cấu thành vi phạm hành chính
Như bất kỳ loại vi phạm pháp luật nào, vi phạm hành chính được cấu
thành bởi bốn yếu tố bao gồm mặt khách quan, mặt chủ quan, chủ thể và
khách thể.
a. Mặt khách quan
- Là những hành vi vi phạm pháp luật hành chính được thể hiện dưới
dạng hành động hoặc không hành động.
- Không được áp dụng “nguyên tắc suy đoán vi phạm” hoặc “áp dụng
pháp luật tương tự” trong việc xác định vi phạm hành chính.
- Đa phần mặt khách quan của vi phạm pháp luật hành chính không bắt
buộc phải có dấu hiệu hậu quả có hại của hành vi và mối quan hệ nhân quả
giữa hành vi- hậu quả. Nghĩa là chỉ cần tính đến dấu hiệu " hình thức" ( hành

động hoặc không hành động" làm căn cứ để áp dụng sử phạt hành chính.
-Đối với một số loại vi phạm hành chính cụ thể, dấu hiệu trong mặt
khách quan có tính chất phức tạp, không đơn thuần chỉ có một dấu hiệu nội
dung trái pháp luật trong hành vi mà còn có thể có sự kết hợp với những
yếu tố khác. Thông thường những yếu tố này có thể là: Thời gian thực hiện
hành vi vi phạm, địa điểm thực hiện hành vi vi phạm, công cụ phương tiện
vi phạm, Hậu quả và mối quan hệ nhân quả.
- Đối với nhiều vi phạm hành chính khác thì hậu quả có hại là dấu hiệu
bắt buộc chẳng hạn như: hành vi phá hoại các công trình lịch sử, văn hóa...
đây là căn cứ giúp cho việc lựa chọn biện pháp tác động thích hợp, đặc biệt
trong trường hợp phải bồi thường thiệt hại gây ra.
b. Mặt chủ quan
- Mặt chủ quan thể hiện ở tính chất có lỗi: đó là thái độ chủ quan của
con người đối với hành vi vi phạm pháp luật và hậu quả do hành vi đó gây
ra.
- Lỗi có 2 dạng:
+ Lỗi cố ý: người vi phạm nhận thức rõ được tính chất nguy hiểm,
mong muốn hay để mặc cho hậu quả xảy ra.
+ Lỗi vô ý: người vi phạm không biết hoặc không nhận thức được hậu
quả mà đáng lẽ ra phải biết hoặc nhận thức được. Hoặc nhận thức được
nhưng cho rằng có thể ngăn ngừa được hậu quả xảy ra nên vẫn vi phạm.
c. Chủ thể
- Chủ thể là cá nhân, tổ chức có năng lực trách nhiệm hành chính.
5


Phạm Thị Yến Nhi

+ Cá nhân chịu trách nhiệm hành chính phải là người có năng lực hành
vi pháp lý hành chính

+ Những người hành động trong tình thế khẩn cấp, phòng vệ chính
đáng và sự kiện bất ngờ hoặc mất khả năng điều khiển hành vi của mình sẽ
không phải chịu trách nhiệm hành chính.
d. Khách thể
- Khách thể ở đây là những quan hệ xã hội được PLHC bảo vệ và bị
xâm phạm.
- Khách thể là yếu tố quan trọng trong việc quyết định tính chất, mức
độ nguy hiểm của hành vi trái PL.
- Một số khách thể như: trật tự nhà nước và xã hội, sở hữu xã hội chủ
nghĩa, quyền tự do và lợi ích hợp pháp của công dân, trật tự quản lí hành
chính nhà nước...
4. Phân biệt vi phạm hành chính và tội phạm
-Vi phạm hành chính là hành vi nguy hiểm cho xã hội nhưng chưa đến
mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự.
- Trong nhiều trường hợp trên thực tế, ranh giới giữa vi phạm hành
chính và tội phạm hình sự rất khó xác định. Vì vậy, nếu không giải quyết
đúng đắn vấn đề này rất dễ xảy ra tình trạng "để lọt tội phạm" hoặc " xử lý
oan người vi phạm chưa đến mức phạm tội". Mức độ nguy hiểm cho xã hội
của hành vi vi phạm được đánh giá ở nhiều yếu tố khác nhau và những yếu
tố này thường được ghi nhận trong các văn bản pháp luật của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền. Căn cứ vào các quy định hiện hành, việc đánh giá mức
độ nguy hiểm của tội phạm và vi phạm hành chính thường dựa vào những
căn cứ dưới dây:
+ Mức độ gây thiệt hại cho xã hội : có thể biểu hiện dưới nhiều hình
thức khác nhau như mức độ gây thương tật, giá trị tài sản bị xâm hại, giá trị
hàng hóa phạm pháp ..
+ Mức độ tái phạm hoặc vi phạm nhiều lần : Dấu hiệu này cũng có thể
giúp chúng ta xác định được ranh giới giữa tội phạm và vi phạm hành chính.
Trong Bộ Luật hình sự, nhiều loại tội phạm được nhà làm luật mô tả là “đã
bị xử phạt hành chính”. Trong những trường hợp này, nếu chỉ đánh giá về

mặt hành vi thì khó xác định được đó là tội phạm hay vi phạm hành chính
mà phải căn cứ vào dấu hiệu tái phạm hoặc vi phạm nhiều lần.
+Công cụ, phương tiện, thủ đoạn thực hiện hành vi vi phạm
6


Phạm Thị Yến Nhi

Ngoài mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, vi phạm hành chính
và tội phạm còn phân biệt với nhau ở một số dấu hiệu pháp lý khác:
- Tội phạm là loại vi phạm được quy định trong Bộ Luật hình sự và
chỉ có Quốc hội mới có quyền đặt ra các quy định về tội phạm và hình phạt.
- Vi phạm hành chính được quy định trong nhiều văn bản pháp luật
khác nhau của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền như luật, pháp lệnh
hoặc nghị định.
- Hai loại vi phạm này cũng khác nhau ở yếu tố chủ thể. Trong khi chủ
thể của vi phạm hành chính có thể là cá nhân hoặc tổ chức, chủ thể của tội
phạm theo quy định của pháp luật hình sự nước ta chỉ có thể là cá nhân.
II. TRÁCH NHIỆM HÀNH CHÍNH
1. Khái niệm và đặc điểm của trách nhiệm hành chính
a. Khái niệm:
- Trách nhiệm hành chính là hậu quả pháp lý bất lợi mà nhà nước buộc
các tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính phải gánh chịu. Trách nhiệm hành
chính còn là trách nhiệm pháp lý đặt ra đối với tổ chức, cá nhân vi phạm
hành chính. Để truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với tổ chức, cá nhân nào đó
thì cần phải xác định được cơ sở thực tiễn và cơ sở pháp lý để làm căn cứ
cho việc truy cứu. Về cơ sở thực tiễn thì trách nhiệm pháp lý chỉ đặt ra đối
với những chủ thể thực hiện hành vi vi phạm pháp luật. Về cơ sở pháp lý, đó
là những quy định của pháp luật hiện hành có liên quan đến vi phạm pháp
luật đó về vấn đề quyền, thủ tục, trình tự để giải quyết các vụ việc đó.

- Khái quát chung thì trách nhiệm hành chính chính là hậu quả pháp lý
bất lợi mà Nhà nước buộc các tổ chức cá nhân vi phạm hành chính phải gánh
chịu.
b. Đặc điểm:
- Trách nhiệm hành chính là hình thức trách nhiệm pháp lý đặt ra đối
với tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính:
+ trách nhiệm pháp lý chỉ đặt ra đối với những chủ thể thực hiện hành
vi vi phạm pháp luật, để tiền hành truy cứu trách nhiệm hành chính đối với
một cá nhân tổ chức cần xác định cá nhân tổ chức có vi phạm hành chính
hay không, trách nhiệm hành chính không đặt ra đối với các tổ chức cá nhân
không vi phạm hành chính.

7


Phạm Thị Yến Nhi

+ Chủ thể bị truy cứu trách nhiệm hành chính buộc phải thực hiện các
biện pháp chế tài hành chính do người có thẩm quyền truy cứu trách nhiệm
hành chính quyết định.
+ qua đó ta cũng thấy rằng vi phạm hành chính đặt ra trách nhiệm hành
chính cho cá nhân và tổ chức còn trách nhiệm hành sự chỉ đặt ra đổi với cá
nhân phạm tội mà thôi.
- Trách nhiệm hành chính và trách nhiệm pháp lý của tổ chức, cá nhân
vi phạm hành chính nhà nước:
+ Tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính đã xâm hại đến trật tự quản lý
hành chính do Nhà nước thiết lập nên cá nhân, tổ chức phải gánh chịu những
hậu quả pháp lý bất lợi. Việc thực hiện các biện pháp chế tài của tổ chức, cá
nhân vi phạm hành chính là trách nhiệm của họ trước Nhà nước chứ không
phải một cá nhân hay một tổ chức nào trong xã hội.

- Việc truy cứu trách nhiệm hành chính được thực hiện trên cơ sở các
quy định của pháp luật hành chính.
+ Khi tiến hành việc truy cứu trách nhiệm hành chính các chủ thể có
thẩm quyền bắt buộc phải tuân thủ nghiêm ngặt các thủ tục do pháp luật đặt
ra, chẳng hạn : người có thẩm quyền truy cứu trách nhiệm hành chính phải
thực hiện các công việc theo đúng trình tự về thời gian, không gian của sự
việc.. Như vậy mới đảm bảo việc có đầy đủ căn cứ để tiến hành truy cứu
trách nhiệm hành chính với chủ thể vi phạm một cách nhanh chóng, kịp thời
trong thời hạn pháp luật quy định nhưng cẫn đạt hiệu quả cao.
2. Xử phạt vi phạm hành chính
a. Khái niệm:
- Theo quy định tại khoản 2 điều 2 luật xử lý vi phạm hành chính thì xử
lý vi phạm hành chính là việc người có thẩm quyền xử phạt áp dụng hình
thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với cá nhân, tổ chức thực
hiện hành vi vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về xử phạt vi
phạm hành chính.
b. Đặc điểm
- Xử lý vi phạm hành chính được áp dụng đối với cá nhân tổ chức vi
phạm hành chính theo quy định của luật.
- Xử lý vi phạm hành được tiến hành bởi các chủ thể có thẩm quyền
theo quy định của pháp luật.
8


Phạm Thị Yến Nhi

- Xử lý vi phạm hành chính được tiến hành theo những nguyên tắc,
trình tự thủ tục được quy định trong các văn bản pháp luật về xử lý vi phạm
hành chính về xử lý vi phạm hành chính do các cơ quan có thẩm quyền ban
hành.

- Kết quả của hoạt động xử phạt vi phạm hành chính thể hiện ở quyết
định xử phạt vi phạm hành chính ghi nhân các hình thức, biện pháp xử phạt
đối với tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính.
c. Nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính :
- Việc xử phạt vi phạm hành chính phải do người có thẩm quyền tiến
hành theo đúng quy định của pháp luật.
- Cá nhân, tổ chức chỉ bị xử phạt khi có hành vi vi phạm hành chính do
pháp luật quy định.
- Mọi vi phạm hành chính phải được phát hiên kịp thời và bị đình chỉ
ngay khi phát hiện. Việc tiến hành xử lý phải được tiến hành nhanh chóng,
triệt để, mọi hậu quả do hành vi vi phạm gây ra phải được khắc phục theo
đúng luật.
- Việc xử phạt phải căn cứ vào mức độ tính chất vi phạm , nhân thân
người vi phạm những hình thức giảm nhẹ hoặc tăng nặng để đưa ra biện
pháp xử lý thích hợp.
- Không xử phạt hành chính trong các trường hợp cấp thiết, phòng vệ
chính đáng hoặc các chủ thể mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự .
d. Các hình thức xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp cưỡng
chế hành chính khác áp dụng trong quá trình xử phạt vi phạm hành
chính
- Theo Điều 21 Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 , các hình thức xử
phạt vi phạm hành chính bao gồm:
+ Cảnh cáo
+ Phạt tiền;
+ Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn
hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn;
+ Tịch thu tang vật vi phạm hành chính, phương tiện được sử dụng để
vi phạm hành chính (sau đây gọi chung là tang vật, phương tiện vi phạm
hành chính);
+ Trục xuất.

e. Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính
9


Phạm Thị Yến Nhi

- Trong thực tế có nhiều trường hợp một hành vi vi phạm hành chính
nhưng có nhiều chức danh cùng có thẩm quyền xử phạt hoặc một người thực
hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính thuộc các lĩnh vực khác nhau…dẫn
đến tình trạng khó xác định được cơ quan nào có thẩm quyền xử phạt. Do
vậy, pháp luật đã có những quy định điều chỉnh vấn đề này.
- Điều 52 Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 quy định:
“1. Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của những người được
quy định tại các điều từ 38 đến 51 của Luật này là thẩm quyền áp dụng đối
với một hành vi vi phạm hành chính của cá nhân; trong trường hợp phạt tiền,
thẩm quyền xử phạt tổ chức gấp 02 lần thẩm quyền xử phạt cá nhân và được
xác định theo tỉ lệ phần trăm quy định tại Luật này đối với chức danh đó.
Trong trường hợp phạt tiền đối với vi phạm hành chính trong khu vực
nội thành thuộc các lĩnh vực quy định tại đoạn 2 khoản 1 Điều 23 của Luật
này, thì các chức danh có thẩm quyền phạt tiền đối với các hành vi vi phạm
hành chính do Chính phủ quy định cũng có thẩm quyền xử phạt tương ứng
với mức tiền phạt cao hơn đối với các hành vi vi phạm hành chính do Hội
đồng nhân dân thành phố trực thuộc trung ương quy định áp dụng trong nội
thành.
2. Thẩm quyền phạt tiền quy định tại khoản 1 Điều này được xác định
căn cứ vào mức tối đa của khung tiền phạt quy định đối với từng hành vi vi
phạm cụ thể.
3. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cấp có thẩm quyền xử phạt vi phạm
hành chính trong các lĩnh vực quản lý nhà nước ở địa phương.
Người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính quy định tại các điều

từ 39 đến 51 của Luật này có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính thuộc
lĩnh vực, ngành mình quản lý.
Trong trường hợp vi phạm hành chính thuộc thẩm quyền xử phạt của
nhiều người, thì việc xử phạt vi phạm hành chính do người thụ lý đầu tiên
thực hiện.
4. Trường hợp xử phạt một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành
chính thì thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính được xác định theo
nguyên tắc sau đây:
a) Nếu hình thức, mức xử phạt, trị giá tang vật, phương tiện vi phạm
hành chính bị tịch thu, biện pháp khắc phục hậu quả được quy định đối với
từng hành vi đều thuộc thẩm quyền của người xử phạt vi phạm hành chính
thì thẩm quyền xử phạt vẫn thuộc người đó;
10


Phạm Thị Yến Nhi

b) Nếu hình thức, mức xử phạt, trị giá tang vật, phương tiện vi phạm
hành chính bị tịch thu, biện pháp khắc phục hậu quả được quy định đối với
một trong các hành vi vượt quá thẩm quyền của người xử phạt vi phạm hành
chính thì người đó phải chuyển vụ vi phạm đến cấp có thẩm quyền xử phạt;
c) Nếu hành vi thuộc thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của
nhiều người thuộc các ngành khác nhau, thì thẩm quyền xử phạt thuộc Chủ
tịch Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền xử phạt nơi xảy ra vi phạm”.
Điều 5 Nghị định 81/2013/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện
pháp thi hành luật xử lý vi phạm hành chính quy định:
“1. Thẩm quyền phạt tiền của mỗi chức danh phải được quy định cụ thể
trong nghị định xử phạt vi phạm hành chính. Đối với nghị định có nhiều lĩnh
vực quản lý nhà nước, thì thẩm quyền này phải quy định cụ thể đối với từng
lĩnh vực.

Trường hợp thẩm quyền phạt tiền của các chức danh quy định tại Điều
38, Điều 39, Điều 40, Điều 41 và Điều 46 Luật xử lý vi phạm hành chính
được tính theo tỷ lệ phần trăm mức phạt tiền tối đa của lĩnh vực tương ứng
quy định tại Khoản 1 Điều 24 Luật xử lý vi phạm hành chính, thì thẩm
quyền phạt tiền phải được tính thành mức tiền cụ thể để quy định trong nghị
định.
2. Đối với các lĩnh vực quản lý nhà nước quy định tại khoản 3 Điều 24
Luật xử lý vi phạm hành chính có hành vi vi phạm hành chính mà mức phạt
được xác định theo số lần, giá trị tang vật vi phạm, hàng hóa vi phạm, thì
thẩm quyền xử phạt của các chức danh quy định tại Điều 38, Điều 39, Điều
40, Điều 41 và Điều 46 Luật xử lý vi phạm hành chính được xác định theo tỷ
lệ phần trăm mức phạt tiền tối đa trong lĩnh vực đó và phải được tính thành
mức tiền cụ thể để quy định trong nghị định.
3. Trường hợp nghị định xử phạt vi phạm hành chính có quy định nhiều
chức danh tham gia xử phạt thuộc nhiều lĩnh vực quản lý nhà nước khác
nhau, thì phải quy định rõ thẩm quyền xử phạt của các chức danh đó đối với
từng điều khoản cụ thể.
Trong trường hợp nghị định quy định hành vi vi phạm hành chính đặc
thù theo quy định tại Khoản 5 Điều 2 của Nghị định này, thì chức danh có
thẩm quyền xử phạt trong lĩnh vực quản lý nhà nước chuyên ngành cũng
được xử phạt đối với hành vi có tính chất đặc thù quy định trong nghị định
xử phạt vi phạm hành chính thuộc lĩnh vực khác.
4. Văn bản giao quyền quy định tại Điều 54, Khoản 2 Điều 87 và
Khoản 2 Điều 123 Luật xử lý vi phạm hành chính phải xác định rõ phạm vi,
11


Phạm Thị Yến Nhi

nội dung, thời hạn giao quyền; văn bản giao quyền phải đánh số, ghi rõ ngày,

tháng, năm, ký và đóng dấu; trường hợp cơ quan, đơn vị của người giao
quyền không được sử dụng dấu riêng, thì đóng dấu treo của cơ quan cấp
trên.
Phần căn cứ pháp lý ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính của cấp
phó được giao quyền phải thể hiện rõ số, ngày, tháng, năm, trích yếu của văn
bản giao quyền.
5. Người được giao nhiệm vụ đứng đầu cơ quan, đơn vị có thẩm quyền
xử phạt, thì có thẩm quyền xử phạt và được giao quyền xử phạt như cấp
trưởng”.
f. Khiếu nại, tố cáo, khởi kiện về xử phạt vi phạm hành chính và những
điều có liên quan
- Cá nhân, tổ chức bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc người đại diện
hợp pháp của họ có quyền khiếu nại về quyết định xử phạt vi phạm hành
chính, quyết định áp dụng các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm việc xử lý vi
phạm hành chính.
- Người bị giáo dục tại xã, phường, thị trấn, đưa vào trường giáo
dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục, đưa vào cơ sở chữa bệnh, quản chế hành
chính hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền khiếu nại về việc áp
dụng biện pháp đó.
- Mọi công dân có quyền tố cáo về hành vi trái pháp luật trong xử lý vi
phạm hành chính. Việc khiếu nại tố cáo được thực hiện theo quy định của
pháp luật về khiếu nại, tố cáo.
III. THỰC TRẠNG VÀ KIẾN NGHỊ TRONG XỬ LÝ VI PHẠM
HÀNH CHÍNH
1. Thực trạng
Vi phạm hành chính sẽ không bị xử phạt nếu quá thời hạn 3 tháng, 1
năm, 2 năm đối với vi phạm tương ứng, kể từ ngày vi phạm được thực hiện.
Như vậy, quá thời hạn trên, các chế tài khôi phục sẽ không được áp dụng nếu
vi phạm không bị phạt. Đây là điểm đáng lưu ý, vì tùy từng trường hợp mà
áp dụng thời gian xử phạt.

Với chế tài phạt, nếu quá thời hạn nhất định ( được pháp luật quy định)
mà vẫn tiến hành xử phạt thì việc xử phạt ấy không còn ý nghĩa phòng ngừa
vi phạm nữa. Dù thời hạn có quá thì vẫn phải ra quyết định xử phạt để nâng
12


Phạm Thị Yến Nhi

cao tính nghiêm khắc đối với hành vi vi phạm hành chính. Nếu chỉ buộc
khôi phục hậu quả thì là quá nhẹ.
Cho nên pháp luật cần quy định các chế tài khôi phục hành chính có thể
được áp dụng độc lập trong các trường hợp quá hạn xử phạt, mà việc không
áp dụng chúng sẽ làm cho quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ vẫn đang ở
trạng thái bị vi phạm. Đó cũng là điểm khác của chế tài khôi phục so với chế
tài phạt.
Còn những lĩnh vực quản lí nhà nước chưa có quy định cụ thể về xử
phạt. Quy định xử phạt đối với tổ chức, cá nhân, người nước ngoài chưa cụ
thể. Thẩm quyền xử phạt, tạm giữ, khám phương tiện của một số cơ quan
quy định chưa phù hợp
Hiện nay vẫn còn tồn tại xu hướng muốn phạt nặng người vi phạm,
ngay cả khi vi phạm chỉ đáng phạt cảnh cáo. Hình thức phạt cảnh cáo vẫn
được áp dụng khá phổ biến đối với các vi phạm trong lĩnh vực trật tự công
cộng, trật tự an toàn giao thông. Ngày nay, ý thức pháp luật của người dân
được nâng cao, vai trò của hình thức xử phạt cảnh cáo càng lớn và mang tính
phổ biến và đạt được mục đích áp dụng của hình thức xử phạt chính là mục
đích phòng ngừa vi phạm pháp luật. Pháp luật hiện hành quy định việc xử
phạt vi phạm hành chính chỉ áp dụng đối với người từ đủ 14 tuổi trở lên.
Song thực tế, số lượng vi phạm hành chính do người chưa thành niên thực
hiện rất phổ biến là ở độ tuổi từ 11 tuổi đến 12 tuổi trở lên. Đồng thời làm
hạn chế phần nào trách nhiệm giám sát người chưa thành niên của cha mẹ,

người giám hộ.
Thực tế quy định áp dụng tiền phạt thu được phải nộp vào ngân sách
nhà nước bộc lộ nhiều điểm bất hợp lí, gây khó khăn phiền hà cho người bị
xử phạt. Sự bất hợp lý còn thực hiện ở khâu tổ chức việc thu tiền phạt. Đồng
thời, không hạn chế được tiêu cực nảy sinh. Nhiều trường hợp người bị xử
phạt tiền phạt và người có thẩm quyền xử phạt thỏa thuận với nhau. Người
vi phạm đưa tiền cho người xử phạt mà không cần biên lai để khỏi phải đi
nộp tiền phạt. Hiện tượng tiêu cực này vừa làm thất thu ngân sách nhà nước
vừa làm tha hóa biến chất cán bộ nhà nước. Pháp luật không được thi hành
nghiêm chỉnh, người phải đưa tiền cho người xử phạt hầu như không bao giờ
khiếu nại, tố cáo. Do đó, đã hạn chế quyền dân chủ của công dân. Việc
người vi phạm phải nộp tiền tại kho bạc chỉ ra nhiều bất cập. Vi phạm hành
chính xảy ra thường xuyên, không kể ban ngày hay ban đêm còn kho bạc
nhà nước chỉ làm việc theo thời gian nhất định và không phải địa bàn nào
cũng có kho bạc nhà nước.

13


Phạm Thị Yến Nhi

2. Kiến nghị

Hoàn thiện các quy định về XPVPHC, trong đó có các quy định về
thẩm quyền XPVPHC là nhu cầu cấp thiết hiện nay vì vi phạm hành chính
xảy ra rất phổ biến, gây nhiều tác hại về kinh tế – xã hội. Việc xử lý đúng
đắn các vi phạm hành chính phụ thuộc vào nhiều yếu tố, một trong các yếu
tố đó là những quy định đúng đắn về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành
chính. Cùng với việc hoàn thiện các quy định pháp luật là trách nhiệm tuyên
truyền, phổ biến các văn bản về xử phạt vi phạm hành chính, nhằm tác động

đến nhiều chủ thể gồm người có thẩm quyền xử phạt cũng như các tổ chức,
cá nhân. Những quy định về thẩm quyền XPVPHC càng có điều kiện thực
hiện tốt trên thực tế khi có một đội ngũ những người có thẩm quyền xử phạt
vi phạm hành chính có phẩm chất, trình độ, năng lực và ý thức, trách nhiệm
cao trong quá trình thực thi chức trách được giao.

14


Phạm Thị Yến Nhi

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. giáo trình luật hành chính việt nam 2008
2. luật xử lý vi phạm hành chính 2012
3. Nghị Định 81/2013 quy định chi tiết về một số điều và biện pháp thi
hành xử lý luật hành chính

15



×