Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

TIỂU LUẬN CHUYÊN NGÀNH THỰC HIỆN CÔNG BẰNG xã hội TRONG nền KINH tế THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG xã hội CHỦ NGHĨA ở nước TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (138.57 KB, 24 trang )

2

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
I. Thực hiện công bằng xã hội - Quy luật tất yếu của cách mạng xã hội
chủ nghĩa
I.1. Công bằng xã hội, lịch sử đấu tranh cho công bằng xã hội
II.2. Thực hiện công bằng xã hội ở nước ta hiện nay là vấn đề tất yếu, cấp bách
trước tác động của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
II. Nội dung biểu hiện và những giải pháp cơ bản nhằm thực hiện công
bằng xã hội ở nước ta hiện nay
II.1. Nội dung biểu hiện công bằng xã hội ở nước ta
II.2. Một số giải pháp cơ bản thực hiện công bằng xã hội ở nước ta hiện nay
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

MỞ ĐẦU
Công bằng xã hội là một động lực phát triển kinh tế - xã hội, bởi nó là
yếu tố có tác động trực tiếp đến lợi ích của chủ thể hoạt động và do vậy, nó

3
4
4
10
15
15
18
24
25



3
kích thích tính năng động, sáng tạo của mọi thành viên xã hội, huy động các
nguồn nhân lực, vật lự, tài lực trong và ngoài nước vào việc phát triển kinh tế.
Có công bằng xã hội, người lao động mới phát huy hết nhiệt tình và khả năng
lao động, không ngừng góp phần vào phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Nhận thức và thực hiện công bằng xã hội như thế nào cho phù hợp với tiến
trình cách mạng xã hội chủ nghĩa nói chung và điều kiện, hoàn cảnh cụ thể
của mỗi nước đang đặt ra nhiều vấn đề cần phải nghiên cứu, làm sáng tỏ cả về
phương diện lý luận cũng như thực tiễn.
Trải qua 30 năm đổi mới, quan niệm về công bằng xã hội và thực hiện
công bằng xã hội cũng ngày càng được quan tâm và là yếu tố để xác định tính
định hướng xã hội chủ nghĩa của đất nước ta. Hiện nay, sự nghiệp đổi mới của
đất nước đang bước vào chặng đường mới, thực hiện nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa. Đảng đã chỉ rõ, phải thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển. Như thế tăng
trưởng kinh tế và thực hiện công bằng xã hội là mục tiêu vươn tới của xã hội
ta. Bước vào giai đoạn mới của công cuộc đổi mới nước ta đang đứng trước
một loạt vấn đề cần giải quyết. Điều đó đòi hỏi chúng ta phải có sự đổi mới tư
duy, nâng cao nhận thức và đề ra các giải pháp để ngày càng thực hiện tốt mối
quan hệ tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội nhằm hiện thực hoá mục
tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, xã hội công bằng, văn minh. Vì vây, việ
nghiên cứu, làm rõ vấn đề “Thực hiện công bằng xã hội trong nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nưóc ta hiện nay” là vấn đề cấp
thiết trong giai đoạn hiện nay.

NỘI DUNG
I. Thực hiện công bằng xã hội - Quy luật tất yếu của cách mạng xã
hội chủ nghĩa.



4
I.1. Công bằng xã hội, lịch sử đấu tranh cho công bằng xã hội
Công bằng xã hội, mặc dù còn nhiều quan niệm khác nhau do hoàn
cảnh lịch sử, hoặc do quan điểm, nhận thức khác nhau. Công bằng xã hội theo
kiểu mơ ước về một sự tốt đẹp của thời đại hoàng kim xa xưa hay theo kiểu
bình quan chủ nghĩa của các nhà không tưởng trước Mác; song theo quan
điểm của những người Mác xít thì công bằng xã hội là sự bình đẳng về quyền
lợi và nghĩa vụ của mọi thành viên trong xã hội. Nói tới công bằng xã hội là
phải nói tới công bằng đối với mọi người lao động cả về quyền lợi lẫn nghĩa
vụ theo pháp luật, mà trước hết là quyền được sống trong hòa bình, tự do và
độc lập; là quyền bình đẳng giữa mọi thành viên trong xã hội; là quyền làm
chủ bản thân, làm chủ đất nước; quyền được làm việc và phẩm giá con người
được tôn trọng; quyền được hưởng thụ kết quả lao động do mình làm ra. Khi
bàn về xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa Chủ tịch Hồ Chí Minh
khẳng định: nhân dân lao động là người làm chủ tập thể của tất cả những của
cải vật chất và văn hóa đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ.
Loài người ngay từ buổi bình minh, bản chất của họ đã thể hiện sự công
bằng xã hội, tuy còn ở trình độ thấp và phạm vi hẹp. Khi xã hội loài người có
sự phân chia thành giai cấp thì giai cấp thống trị, bóc lột, đặc biệt là giai cấp
tư sản đã bóp méo và trà đạp một cách tàn nhẫn lên sự công bằng xã hội, do
đó trong lịch sử đã diễn ra những cuộc đấu tranh cho công bằng xã hội với
những tính chất, quy mô và hình thức đa dạng khác nhau. Lịch sử của thời kỳ
nô lệ và phong kiến là lịch sử đấu tranh giai cấp giữa nô lệ với chủ nô và nông
dân với địa chủ, phong kiến, thông qua những cuộc đấu tranh tư tưởng về
công bằng xã hội đã xuất hiện và phần nào đã phản ánh được những vấn đề về
quyền lợi và nghĩa vụ của người nông dân đối với xã hội và trong mối quan
hệ con người với con người. Đầu thế kỷ thứ XVI, Muyn-xơ người Đức là một
nhà thần học theo tôn giáo nhưng ông đã đứng trên lập trường người nông dân
để chống lại áp bức, bất công, ông đã kịch liệt mỉa mai, phê phán xã hội

đương thời ở nước Đức và tuyên bố: phải xây dựng một trật tự xã hội, trong


5
đó mọi cái đều là của chung và mỗi người đều phải lao động, phải thủ tiêu hết
mọi đặc quyền, đặc lợi, phân phối theo nhu cầu, mọi người bình đẳng hoàn
toàn, cái thiên quốc của ông mơ tưởng đó là một chế độ xã hội trong đó không
còn có sự khác biệt giai cấp, không còn có sự tư hữu về tài sản, không có sự
đối lập giữa các thành viên trong xã hội.
Tô mát Mo-rơ (1478-1535) người Anh, với tác phẩm “Utopi” đánh dấu
sự ra đời của chủ nghĩa xã hội không tưởng, ông đã phê phán kịch liệt xã hội
đường thời ở châu Âu mà trực tiếp là ở nước Anh bằng hình tượng “cừu ăn
thịt người” và chỉ rõ nguyên nhân của sự thối tha của chế độ xã hội đương
thời là chế độ tư hữu, theo ông: “với chế độ tư hữu thì không thể nói đến công
bằng và cũng không thể nói đến hạnh phúc của con người được” do đó, ông
khẳng định muốn xóa bỏ áp bức, bất công thì phải thủ tiêu chế độ tư hữu và
đưa ra một dự án tổng thể về xã hội tương lai. Về kinh tế đó là nền kinh tế
thống nhất dựa trên chế độ công hữu, thành phố là trung tâm điều tiết sản
xuất, thực hiện phân phối theo nhu cầu. Về chính trị: thừa nhận có nhà nước
và nó được tổ chức ra do nhu cầu của xã hội bằng biện pháp bỏ phiếu kín để
nhân dân lựa chọn người lãnh đạo, quản lý xã hội và có thể bãi miễn họ nếu
họ không làm tròn trách nhiệm nhân dân giao cho. Với ông tất cả các giá trị
thì con người là giá trị cao nhất, là cái quý nhất của mọi giá trị. Ông bênh vực
người bị áp bức, bóc lột và phê phán những kẻ tàn ác, xấu xa. Ngoài ra, ông
còn đề cập đến các vấn đề như tất cả mọi người đều phải lao động, quan hệ
giữa lao động trí óc và lao động chân tay, giáo dục hôn nhân gia đình, chiến
tranh, hòa bình, tôn giáo…Tất cả những tư tưởng của ông tuy chưa có cơ sở
hiện thực nhưng nó đã đánh dấu một ý tưởng đặc sắc có giá trị tư tưởng cao
về một xã hội tương lai, trong đó có những dự báo về cuộc đấu tranh giai cấp
để thực hiện công bằng xã hội mà sau này các nhà không tưởng và các nhà

kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lê nin kế thừa, phát triển.
Bước sang đầu thế kỷ XIX, sự xuất hiện của chủ nghĩa xã hội không
tưởng phê phán với các đại biểu: Xanh xi Mông, Phu-ri-ê, Ô-oen; các ông


6
không những đã phê phán kịch liệt chế độ tư hữu, phê phán cái gọi là “tự do,
bình đẳng, bác ái”, của giai cấp tư sản mà còn phác họa và dự kiến thiên tài về
một xã hội mới, xã hội công bằng, bình đẳng với đông đảo giai cấp những
người nghèo khổ. Theo các ông, bình đẳng về quyền lợi không chỉ là bình
đẳng pháp lý như quan niệm của giai cấp tư sản mà phải là bình đẳng về
quyền lợi và nghĩa vụ của mọi thành viên trong xã hội. Xanh xi Mông cho
rằng: mọi người đều có quyền lao động, ai có năng lực thì giao nhiệm vụ quan
trọng, trong xã hội mới mọi người đề được sống trong trạng thái hòa bình,
bình đẳng và công bằng; ông phê phán xã hội đương thời là xã hội lộn ngược
vì những người không có năng lực điều khiển những người có năng lực và
người vô đạo đức có nhiệm vụ dạy đức hạnh cho công dân. Phu-ri-ê cho rằng
dưới chủ nghĩa tư bản, sự nghèo khổ lại sinh ra từ chính bản thân sự thừa thãi,
trong chế độ văn minh thì đâu đâu dân chúng cũng nhan nhản những kẻ bất
hạnh, những người nghèo khổ mất hết quyền kể cả quyền lao động, trước
pháp luật thì mọi người được bình đẳng trên danh nghĩa, nhưng trên thực tế
thì lại chịu sự bất bình đẳng do đó, ông tìm mọi cách để chứng minh sự bất
công, thối nát của xã hội văn minh và khẳng định cần phải lật đổ nó để xây
dựng một xã hội công bằng, bình đẳng và tốt đẹp hơn trong đó mọi người đều
có quyền lao động, có quyền có tư liệu để sinh sống. Trong xã hội có sự kết
hợp hài hòa giữa lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể, ông nhấn mạnh giai đoạn
đầu của xã hội này là giai đoạn bảo đảm mỗi người đều được lao động để sinh
sống không bị nghèo túng.
Bản chất bóc lột của giai cấp tư sản trong chủ nghĩa tư bản ngày càng
làm tăng thêm sự nghèo nàn, sự bất công. Sự phân chia đẳng cấp rõ rệt và làm

tha hóa bản chất con người. Theo Ô-eon, dưới chủ nghĩa tư bản đang tràn trề
sự giàu có nhưng ở đâu đâu cũng có nghèo khổ, ông coi việc thủ tiêu sự khác
nhau về đẳng cấp, về giai cấp là cần thiết cho công bằng xã hội và bình đẳng.
Ông đã đề xướng một xã hội tương lai với hình thức công xã dựa trên chế độ
công hữu, dựa trên sự cộng đồng về sở hữu, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa


7
vụ, xã hội đó phải thủ tiêu đẳng cấp, giai cấp và là cơ sở của bình đẳng xã hội;
dân cư trên trái đất sẽ trở thành một quá trình lớn, cùng một chữ viết và bình
đẳng như nhau…
Tuy nhiên những tư tưởng về công bằng xã hội trong lịch sử, đặc biệt là
các nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng cũng chỉ là mơ ước, hoài bão, đôi khi
còn phê phán khẩu hiệu tự do, bình đẳng, bác ái của giai cấp tư sản, song đó
cũng chỉ là những mơ ước không thể trở thành hiện thực vì điều kiện kinh tếxã hội và quan hệ giai cấp chưa chín muồi. Ăng ghen đã từng chỉ rõ “muốn
làm cho chủ nghĩa xã hội trở thành một khoa học thì trước hết phải đặt nó vào
một cơ sở hiện thực”1.
Đến những năm 40 của thế kỷ XIX trên cơ sở kế thừa và phát triển
những tư tưởng của các nhà không tưởng trước đó Mác-Ăng ghen đã cho ra
đời một học thuyết cách mạng và khoa học đó là CNXH khoa học thì những
tư tưởng về công bằng xã hội mới có đầy đủ cơ sở lý luận và thực tiễn, khác
hẳn với các nhà không tưởng họ không tìm thấy lực lượng để xây dựng và
thực hiện một xã hội công bằng mà họ chỉ dựa vào một bộ óc thiên tài nào đó,
dựa vào tổ chức thực nghiệm hay kêu gọi lòng từ thiện, sự giúp đỡ của giai
cấp tư sản. Trái lại Mác - Ăng ghen đã tìm thấy một lực lượng xã hội có sứ
mệnh lịch sử xóa bỏ chế độ tư hữu: “những người cộng sản có thể tóm tắt lý
luận của mình thành một luận điểm duy nhất này là: xóa bỏ chế độ tư hữu” 1.
Xây dựng một xã hội mới dựa trên chế độ công hữu về công bằng xã hội, đó
là giai cấp vô sản. Ngay từ đầu, khi quan niệm CNXH là một xã hội mới tốt
đẹp, Mác - Ăng ghen đã xuất phát từ mơ ước bao đời về công bằng xã hội, về

việc xóa bỏ chế độ người bóc lột người đã từng tồn tại trong nhiêu thế kỷ, mơ
ước về việc tổ chức một xã hội kiểu mới, trong đó mọi người đều bình đẳng,
đều có quyền tham gia lao động, sản xuất, đều có hạnh phúc.
Mác - Ăng ghen đã nhận thấy niềm hy vọng mà quần chúng nhân dân
lao động đặt vào tự do, bình đẳng, bác ái do cuộc cách mạng tư sản đem lại đã
1
1

M-A toàn tập, tập 20, NXBCTQG.H.1994, trang 34
M-A toàn tập, tập 4, NXBCTQG.H.1995, trang 616


8
không được thực hiện mà bị thay thế bằng một hệ thống bóc lột mới- tư bản
chủ nghĩa. Vì thế khi đưa ra quan niệm của mình về một xã hội mới đem lại
cho quần chúng nhân dân lao động những giá trị về công bằng và bình đẳng,
Mác đã coi việc tạo ra sự công bằng, bình đẳng giữa người với người là nền
tảng, là cơ sở của chế độ xã hội mới và coi đó là một trong những nguyên tắc
cơ bản nhất của chủ nghĩa cộng sản, và trong xã hội đó “sự khác nhau trong
hoạt động không gây ra một sự bất bình đẳng nào cả, không gây ra một đặc
quyền nào cả về phương diện chiếm hữu và tiêu dùng” 1. Đứng vững trên lập
trường giai cấp công nhân, Mác Ăng ghen đã vận dụng triệt để phép biện
chứng duy vật vào nghiên cứu hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa và
khẳng định các giai đoạn phát triển của nó, bao gồm giai đoạn thấp và giai
đoạn cao, ở giai đoạn thấp (CNXH ) thì công bằng xã hội xét về mặt kinh tế
phải tuân theo nguyên tắc phân phối theo lao động. Trong tác phẩm phê phán
cương lĩnh Gô-ta C. Mác chỉ rõ rằng: “trong xã hội chủ nghĩa sau khi đã khấu
trừ đi khoản cần thiết để duy trì sản xuất, tái sản xuất cũng như để duy trì đời
sống của cộng đồng, toàn bộ số sản phẩm của xã hội còn lại sẽ được phân
phối theo nguyên tắc: mỗi người sản xuất sẽ được nhận trở lại từ xã hội một

số lượng vật phẩm tiêu dùng trị giá ngang với số lượng lao động mà anh ta đã
cung cấp cho xã hội sau khi đã khấu trừ số lao động của anh ta cho các quỹ xã
hội…”2. Ăng ghen đã khẳng định ở thời kỳ đầu của chủ nghĩa cộng sản chưa
thể có sự bình đẳng và công bằng tuyệt đối, do đó khái niệm bình đẳng và
công bằng không thể biểu thị sự công bằng và chân lý vĩnh cửu. Như vậy,
theo Mác - Ăngghen ở giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản (giai đoạn chủ
nghĩa xã hội) công bằng xã hội phải được thực hiện trên thực tế nhưng đó
không phải là bình đẳng hoàn toàn bởi vì theo Mác: “cái xã hội mà chúng ta
nói ở đây không phải là một xã hội cộng sản chủ nghĩa đã phát triển trên
những cơ sở của chính nó, mà trái lại là một xã hội cộng sản chủ nghĩa vừa
1
2

C. Mác - Ăngghen, Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, H. 1995, tr. 789-790
C. Mác - Ăngghen, Toàn tập, tập 19, Nxb Chính trị quốc gia, H. 1995, tr. 30, 34


9
thoát thai thai từ xã hội tư bản chủ nghĩa. Do đó là một xã hội, về mọi phương
diện - kinh tế, đạo đức, tinh thần, còn mang những dấu vết của xã hội cũ mà
nó đã lọt lòng ra”1.
Kế thừa những quan điểm của Mác - Ăngghen, ngay từ năm 1902,
Lênin đã khẳng định rằng: cuộc cách mạng của giai cấp vô sản sẽ hoàn toàn
xóa bỏ sự phân chia xã hội thành giai cấp và do đó sẽ xóa bỏ mọi sự bất bình
đẳng và công bằng xã hội và bất bình đẳng chính trị do sự phân chia giai cấp
gây ra, tức là cơ sở của mọi sự bất bình đẳng, công bằng là do sự phân chia xã
hội thành giai cấp gây ra. Để xoá bỏ sự bất bình đẳng về công bằng xã hội và
chính trị cần phải xoá bỏ sự phân chia xã hội thành giai cấp và chỉ có CNXH
mới giải quyết được vấn đề đó. Lênin còn chỉ rõ: trong CNXH, tự do, bình
đẳng, công bằng không phải là sự lừa bịp, những người lao động sẽ không bị

phân tán bởi nền sản xuất nhỏ, của cải lao động chung tích luỹ được sẽ phục
vụ quần chúng nhân dân chứ không áp bức họ. Sự thống trị đối với ngưòi lao
động sẽ bị chấm dứt cùng với mọi sự áp bức của bất kỳ một dân tộc nào, tôn
giáo nào. Tuy nhiên theo Lênin, dưới CNXH, bình đẳng và công bằng không
có nghĩa là ngang bằng nhau về mọi phương diện, nói một cách khác, dưới
CNXH, không thể thực hiện được công bằng, bình đẳng về mọi mặt. Trái lại
nói tới công bằng và bình đẳng trong CNXH , thì phải hiểu rằng, đó là sự
công bằng, bình đẳng xã hội, công bằng và bình đẳng về địa vị xã hội của con
người. Như vậy ngoài công bằng và bình đẳng xã hội, trong CNXH vẫn còn
những cái chưa công bằng và bình đẳng khác đó là điều tất yếu và không thể
tránh khỏi. Khi giải thích tư tưởng của Mác về hai giai đoạn phát triển của
hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa, Lênin cho rằng: “Trong khi bác
bỏ câu nói mơ hồ về tiểu tư sản của Lát-xan về “bình đẳng” và “công bằng”
nói chung, Mác vạch ra tiến trình phát triển của xã hội cộng sản, xã hội này
thoạt đầu bắt buộc phải phá huỷ chỉ riêng cái “điều bất công” này: việc cá
nhân chiếm hữu tư liệu sản xuất làm của riêng, nhưng không đủ sức phá huỷ
1

C. Mác - Ăngghen, Toàn tập, tập 19, Nxb Chính trị Quốc gia, H. 1995, tr. 33


10
những điều bất công khác nữa, tức là việc phân phối vật phẩm tiêu dùng “theo
lao động” (chứ không theo nhu cầu)1. Lênin cho rằng sự phân chia xã hội
thành giai cấp là nguyên nhân gây ra sự bất bình đẳng và công bằng trong xã
hội và khi còn sự khác biệt giai cấp giữa công nhân và nông dân còn tồn tại
thì chúng ta không thể nói đến sự bình đẳng và không đề phòng để khỏi làm
lợi cho giai cấp tư sản”2.
Tóm lại, theo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, để có được công bằng
xã hội và sự bình đẳng xã hội phải thông qua cuộc đấu tranh giai cấp của

giai cấp vô sản dưới sự lãnh đạo của Đảng Mác xít. Tuy nhiên, công bằng và
bình đẳng hoàn toàn, trên mọi phương diện, mọi mặt của đời sống xã hội, phải
phụ thuộc vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể của từng giai đoạn cách mạng. Chỉ
khi nào xây dựng xong CNXH và chủ nghĩa cộng sản được thực hiện thì khi
đó công bằng và bình đẳng xã hội mới được thực hiện đầy đủ nhất. Trong
CNXH không thể thực hiện được công bằng, bình đẳng xã hội hoàn toàn, bởi
vì dưới CNXH vẫn còn thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động, vẫn
còn sự khác biệt giữa các giai cấp, giữa nông thôn và thành thị, những khác
biệt đó cho thấy trong CNXH vẫn còn tồn tại những bất bình đẳng và công
bằng xã hội. Mặc dù vậy, CNXH vẫn là xã hội bình đẳng và công bằng hơn
hẳn so với chủ nghĩa tư bản. Điều đó được thể hiện trước hết ở sự bình đẳng
và công bằng xã hội ở dịa vị xã hội của con người. Quá trình phát triển của
CNXH cũng chính là quá trình khắc phục và xóa bỏ dần sự bất bình đẳng và
thực hiện công bằng xã hội.
I.2. Thực hiện công bằng xã hội ở nước ta hiện nay là vấn đề tất
yếu, cấp bách trước tác động của nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa.
Vận dụng trung thành và sáng tạo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về
công bằng xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh
1
2

V. I. Lênin, Toàn tập, tập 33, Nxb Tiến bộ M. 1978, tr. 115
V. I. Lênin, Toàn tập, tập 38, Nxb Tiến bộ M. 1978, tr. 424


11
đạo đất nước giành độc lập dân tộc, đưa cả nước đi lên CNXH. Quá trình
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo cách mạng Việt Nam cũng là quá trình
lãnh đạo đất nước đấu tranh cho công bằng xã hội của con người và dân tộc

Việt Nam, từng bước khắc phục, xoá bỏ dần sự bất bình đẳng và công bằng xã
hội về mục tiêu xuyên suốt của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc và
CNXH. Hiện nay chúng ta đang thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, trong bối cảnh quốc tế có nhiều thời cơ lớn nhưng thách
thức cũng không nhỏ. Đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp cho công bằng,
tự do, bình đẳng trên thế giới tiếp tục diễn ra gay gắt; xu thế hoà bình hợp tác
và phát triển là nhu cầu bức xúc của các quốc gia dân tộc. Cuộc đấu tranh vì
hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ, dân sinh, tiến bộ và công bằng xã hội đang
là đòi hỏi cấp thiết của từng đất nước và có những phát triển mới, trong đó
cuộc đấu tranh cho công bằng xã hội đang là đòi hỏi cáp thiết của từng đất
nước và có những phát triển mới, trong đó cuộc đấu tranh cho công bằng xã
hội là một vấn đề được quan tâm đặc biệt, trong từng quốc gia, dân tộc và cả
thế giới. Tình hình trên thế giới đang tác động mạnh mẽ đến nước ta trong đó
cơ hội và thánh thức là sự đan xen lẫn nhau tác động rất lớn đến thực hiện
công bằng xã hội.
Sau 30 năm đổi mới, đất nước ta đã giành được những thành tựu hết
sức to lớn về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Trong đó công bằng xã hội ở
nước ta cũng giành được nhiều thành tựu trên các lĩnh vực của đời sống xã
hội. Tuy nhiên trong thực hiện công bằng xã hội, vẫn còn những mặt yếu kém
và bất cập cả về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Những thách thức đặt ra
đối với nước ta là: tụt hậu xa hơn về kinh tế; chệch hướng xã hội chủ nghĩa;
nạn tham nhũng, tệ quan liêu và diễn biến hoà bình do các thế lực thù địch
gây ra mà Đảng ta đã từng chỉ rõ vẫn còn diễn biến hết sức phức tạp. Đặc biệt
là sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên đang gây bức xúc cho nhân dân và cản trở tới


12
việc thực hiện công bằng xã hội theo quan điểm, đường lối của Đảng và pháp
luật của Nhà nước.

Nước ta là một nước nông nghiệp, nghèo nàn, lạc hậu, đi lên CNXH từ
nền sản xuất nhỏ là chủ yếu, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, lại
phải gánh chịu hậu quả nặng nề của chiến tranh. Hiện nay đất nước đã có hoà
bình, thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa bên cạnh những mặt tích cực làm cho
tính năng động, chủ động sáng tạo, thì những mặt tiêu cực cũng đã và đang
phá vỡ những chuẩn mực đạo đức, giá trị truyền thống trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của nhân dân ta.
Công bằng xã hội trên lĩnh vực kinh tế của nước ta đã có những
chuyển biến mạnh mẽ, tạo nên môi trường bình đẳng, công bằng cho các
thành phần kinh tế, các doanh nghiệp và cá nhân chủ động, sáng tạo trong sản
xuất kinh doanh, sở hữu tư liệu sản xuất và phân phối sản phẩm đã làm cho
thế và lực nước ta ngày càng lớn mạnh hơn nhiều.
Trên lĩnh vực chính trị, sự công bằng giữa các tổ chức và cá nhân trong
tham gia vào các hoạt động chính trị ngày càng được thể hiện đầy đủ hơn, đặc
biệt sự ổn định về mặt chính trị của đất nước đã tạo ra điều kiện thuận lợi cho
việc mở rộng và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa; quyền và nghĩa vụ của
công dân ngày càng được thể hiện trên thực tế và được pháp luật bảo vệ.
Trên lĩnh vực văn hóa, xã hội, nhiều giá trị, chuẩn mực truyền thống dân
tộc được phát huy phù hợp với điều kiện của đất nước; đời sống vật chất, tinh thần
của nhân dân được cải thiện rõ rệt, trình độ dân trí nguồn nhân lực và tính năng
động trong xã hội được nâng lên; tỉ lệ đói nghèo từng bước được giảm xuống.
Trong xã hội, cơ hội có việc làm, được chăm sóc sức khoẻ, học tập, nâng cao trình
độ, hưởng thụ cá giá trị văn hóa tinh thần của nhân dân được Đảng, Nhà nước ta
quan tâm giải quyết hợp lý; sự phát triển về kinh tế xã hội giữa các vùng, miền;
giữa nông thôn và thành thị, miền núi và miền xuôi đã tạo ra sự đồng thuận cho
nhân dân, để từng bước khắc phục sự bất công, bất bình đẳng trong xã hội. Đánh


13

giá thành tựu sao 20 năm đổi mới đất nước, Đảng ta khẳng định: “Việc gắn phát
triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội có chuyển biến tốt, nhất là trong công
cuộc xoá đói giảm nghèo; đời sống các tầng lớp nhân dân được cải thiện”2. Trong
đó thành tựu về việc giải quyết bình đẳng và công bằng xã hội là một tiến bộ rất
lớn làm cho lòng tin của nhân dân đối với chế độ, với Đảng, Tổ quốc và công
cuộc đổi mới ngày càng tăng lên.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được trên, với quan điểm nhìn
thẳng vào sự thật, tôn trọng quy luật khách quan, đánh giá đúng thực trạng của đất
nước, chúng ta cần khẳng định rằng, sự phát triển của đất nước ta trong những
năm qua vẫn còn tồn tại nhiều yếu kém, bất cập, trong đó việc thực hiện bình đẳng
và công bằng xã hội còn những hạn chế nhất định đó là: trên lĩnh vực kinh tế, nền
kinh tế nước ta phát triển chưa vững chắc, hiệu quả và sức cạnh tranh thấp, đã làm
cho việc thực hiện bình dẳng, công bằng xã hội trong phát triển kinh tế có mặt
chưa đạt được yêu cầu đề ra như công bằng, bình đẳng trong sở hữu, quả lý và
phân phối sản phẩm, trong xã hội vẫn có hiện tượng những người làm ít, lại
hưởng nhiều, cống hiến và hưởng thụ là chưa có sự tương xứng nhất định. Hiện
tượng phân hoá giàu nghèo ngày càng tăng, nhất là phân hoá giàu nghèo giữa
vùng nông thôn và thành thị, miền núi và miền xuôi và phân hoá giàu nghèo trong
nội bộ từng giai cấp, tầng lớp, thành phần, nhóm xã hội. Đại hội X, Đảng ta đã chỉ
rõ: “Kết quả xoá đói giảm nghèo chưa thật vững chắc, nguy cơ tái nghèo còn lớn.
Khoảng cách chênh lệch về thu nhập, mức sống giữa các tầng lớp nhân dân, giữa
các vùng có xu hướng doãng ra. Nhu cầu về việc làm ở thành thị và nông thôn
chưa được đáp ứng tốt”3.
Trên lĩnh vực chính trị, tình trạng mất dân chủ còn xảy ra ở một số nơi, nhân
dân khiếu kiện không được giải quyết hoặc giải quyết chưa kịp thời và chưa thoả
đáng, chưa đúng pháp luật. Việc ban hành pháp luật và các văn bản dưới luật về
thực hiện công bằng xã hội chậm được đổi mới. Đặc biệt tình trạng tham nhũng,
2 3

, Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H. 2006, tr. 14, 63


3


14
suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán
bộ, đảng viên là rất nghiêm trọng, trực tiếp ảnh hưởng tới việc thực hiện công bằng
xã hội, gây bất bình trước nhân dân. Đó chính là nguy cơ đe doạ tới sự sống còn của
chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta với tư cách là một chế độ xã hội công bằng và
bình đẳng hơn chế độ tư bản chủ nghĩa.
Công bằng trên lĩnh vực văn hóa, xã hội hiện nay, nhiều vấn đề bức xúc
và gay gắt chậm được giải quyết như vấn đề việc làm, thất nghiệp, thu nhập
đang là vấn đề nổi cộm, bức xúc của xã hội. Giáo dục và đào tạo chất lượng
còn thấp, tiêu cực trong giáo dục đào tạo vẫn còn xảy ra; mặt bằng dân trí
không đồng đều, hiện tượng tái mù chữ xuất hiện ở các vùng dân tộc, vùng
sâu, vùng xa, môi trường bị tàn phá. Công tác quản lý hoạt động văn hoá, báo
trí, xuất bản nhiều mặt bị buông lỏng, tạo điều kiện cho sự xâm nhập của văn
hóa tư sản, lối sống phương Tây, lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền có
cơ hội tấn công làm mất đi những giá trị văn hóa, đạo đức truyền thống của
dân tộc và tinh hoa văn hóa tiến bộ của nhân loại ở nước ta. Việc chăm sóc
sức khoẻ và khám chữa bệnh cho nhân dân còn nhiều bất cập; mức sống của
nhân dân giữa các vùng còn chênh lệch cao. Chính sách tiền lương và phân
phối bảo hiểm trong xã hội còn nhiều bất hợp lý; tệ nạn xã hội có chiều hướng
gia tăng, trật tự an toàn xã hội, an toàn giao thông đang là vấn đề bức xúc, gây
ảnh hưởng trực tiếp và giảm hiệu quả thực hiện công bằng xã hội ở nước ta.
Từ thực trạng tình hình đất nước qua 20 năm đổi mới, trong đó có cả
những thành tựu và yếu kém trong việc thực hiện công bằng xã hội của chặng
đường đầu tiên trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta cho thấy: thực hiện
công bằng xã hội là một nội dung quan trọng của định hướng xã hội chủ
nghĩa và là một giá trị xã hội cần thiết phải được xác lập và hiện thực hoá

từng bước trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta. Nó không chỉ là nội
dung quan trọng của chính sách xã hội, của định hướng xã hội chủ nghĩa mà
nó còn là vấn đề tất yếu khách quan trong tiến trình cách mạng xã hội chủ


15
nghĩa; là một vấn đề cấp bách của nước ta hiện nay nhằm thực hiện mục tiêu:
dân giàu, nước mạnh, xã hội, công bằng, dân chủ, văn minh.
Tuy nhiên, dưới CNXH, nhất là trong thời kỳ quá độ lên CNXH, chưa
thể có công bằng và bình đẳng hoàn toàn, nó chỉ có được đầy đủ trên mọi
phương diện khi CNXH đã được xây dựng xong và chủ nghĩa cộng sản được
xác lập, khi mà mọi thành viên trong xã hội làm theo năng lực, hưởng theo
nhu cầu. Do đó trong thời kỳ này, chúng ta phải xác lập và thực hiện hoá công
bằng xã hội trong mức độ và điều kiện kinh tế - xã hội cho phép. Chủ nghiã
bình quân trong phân phối, sự cào bằng năng lực và hưởng thụ cá nhân,
không đánh giá thoả đáng sự khác nhau trong cống hiến của những người,
những nhóm xã hội, thì không tạo được điều kiện cho họ hưởng thụ tương
xứng là một nhận thức sai lầm về công bằng và bình đẳng xã hội theo quan
điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng ta. Điều đó sẽ
triệt tiêu động lực, tính chủ động, tích cực, sáng tạo của con người trong mọi
hoạt động xã hội, làm nảy sinh thói lười biếng, thụ động ỷ nại trong mọi hoạt
động của con người, từ đó làm biến dạng việc thực hiện công bằng xã hội ở
nước ta. Thực hiện công bằng xã hội là một thuộc tính bản chất của CNXH, là
một động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển của đất nước, từng con người
và cả cộng đồng dân tộc Việt Nam. Công bằng xã hội thể hiện tính ưu việt của
chế độ xã hội chủ nghĩa và là vấn đề chiến lược, sách lược để phát huy nhân
tố con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
II. Nội dung biểu hiện và những giải pháp cơ bản nhằm thực hiện
công bằng xã hội ở nước ta hiện nay.
II.1. Nội dung biểu hiện công bằng xã hội ở nước ta

Nội dung công bằng xã hội rất rộng lớn, bao chùm tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội, nội dung của nó được biểu hiện như sau:
Công bằng xã hội trên lĩnh vực phân phối giữ vị trí đặc biệt quan
trọng, bởi vì, đó là khâu cuối cùng trong hệ thống quan hệ sản xuất, quy định
trực tiếp tiêu dùng cá nhân. Trong thời kỳ quá độ lên CNXH, công bằng xã


16
hội không chỉ được thể hiện ở kết quả của sản xuất theo nguyên tắc “làm việc
ngang nhau thì hưởng thụ ngang nhau” hay “làm theo năng lực, hưởng theo
lao động”, mà còn thực hiện cả trong phân phối tư liệu sản xuất. Đó là nhân tố
quan trọng để giải phóng lực lượng sản xuất, tiềm năng lao động và các nguồn
lực. Thực hiện công bằng xã hội trong lĩnh vực phân phối tư liệu sản xuất trực
tiếp góp phần quyền làm chủ, quyền dân chủ về kinh tế của nhân dân. Đó
cũng là một nội dung quan trọng của việc xây dựng quan hệ sản xuất mới, làm
cho người lao động đều được hưởng những thành quả của sản xuất do kết hợp
giữa tư liệu sản xuất và sức lao động đem lại. Hiện nay, Nhà nước ta đang
thực hiện nhiều hình thức phân phối, trong đó lấy phân phối theo kết quả lao
động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, ngoài ra còn phân phối theo vốn, tài sản,
hiệu quả sản xuất của doanh nghiệp phải tuân thủ pháp luật, hoàn thành nghĩa
vụ thuế đối với Nhà nước, tôn trọng lợi ích của người lao động, thực hiện quy
tắc an toàn lao động và bảo vệ môi trường sinh thái.
Công bằng xã hội không chỉ thể hiện ở mặt hưởng thụ quyền lợi mà
còn thể hiện nghĩa vụ, cơ hội của người lao động; thực chất là công bằng xã
hội được biểu hiện ở sự thống nhất, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ,
quyền hạn và trách nhiệm, cơ hội được cống hiến và hưởng thụ của công dân.
ở các văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, VIII, IX và X được thể
hiện theo từng cấp hoàn thiện. Nếu như ở Văn kiện đại hội VII cho rằng, công
bằng về cơ hội là “tạo cơ hội cho mọi người được cống hiến và được hưởng
thành quả của sự phát triển” thì đến Đại hội VIII là “tạo điều kiện cho mọi

người đều có cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình”. Như vậy rõ
ràng, công bằng về cơ hội không phải là tạo cơ hội ngang nhau cho mọi người
mà là tạo cơ hội phù hợp cho mỗi người, hay nói đúng hơn cho mỗi chủ thể
đều được cống hiến và do đó đều được hưởng thụ thành quả do sự cống hiến
trên mà có và tương xứng với sự cống hiến ấy. Cống hiến và được hưởng thụ
tương xứng với sự cống hiến ấy chính là cốt lõi của công bằng xã hội. Thực
sự đây là điểm nhấn quan trọng của nội dung công bằng xã hội. Nếu với các


17
cá nhân, các đơn vị tham gia vào quá trình sản xuất xã hội có những điều kiện
và năng lực như nhau, thì dẽ dàng thực hiện công bằng về cơ hội, vì trong
trường hợp này sự chênh lệch giữa công bằng và bình đẳng là không đáng kể,
nên lúc này công bằng sẽ là được coi là tạo cơ hội như nhau. Còn với những
đơn vị có những lực và khả năng khác nhau thì công bằng về cơ hội sẽ phát
huy hiệuquả khi nó tạo ra cơ hội phù hợp với mỗi cá nhân, mỗi chủ thể.
Dưới CNXH, quyền lợi và nghĩa vụ, quyền hạn và trách nhiệm, cống
hiến và hưởng thụ gắn bó chặt chẽ với nhau, đây là vấn đề có tính nguyên tắc
trong xã hội. CNXH mà chúng ta đang xây dựng là do nhân dân thực hiện.
Nhà nước chỉ tạo điều kiện và môi trường để nhân dân băng lao động của
mình không ngừng nâng cao dời sống của mình và tham gia vào sự phát triển
của xã hội. Gắn nghĩa vụ và quyền lợi, cống hiến và hưởng thụ là bảo đảm
công bằng trong đời sống xã hội, chống ỷ nại, trông chờ, thụ động. Bởi vì,
trong xã hội - xã hội chủ nghĩa lợi ích cá nhân - tập thể - xã hội cơ bản thống
nhất với nhau, có cái vừa là quyền lợi, vừa là nghĩa vụ và ngược lại. Cho nên
khi được hưởng các quyền lợi do tập thể, xã hội mang lại thì công dân phải tự
giác làm tròn nghĩa vụ của mình đối với tập thể, xã hội. Nhưng mỗi thành
viên trong xã hội phải dựa trên cơ sở điều kiện kinh tế - xã hội đất nước để
xác định quyền lợi và nghĩa vụ, nhất là quyền lợi, tránh những đòi hỏi vượt
quá điều kiện kinh tế xã hội. Điều đó có nghĩa là quyền ở đây phải phù hợp

với trạng thái của nền kinh tế - xã hội. Mác đã từng nói: Quyền không bao giờ
có thể ở mức cao hơn trạng thái kinh tế của xã hội và cao hơn trình độ văn
minh của xã hội tương ứng với trạng thái kinh tế đó. Sự thống nhất về quyền
lợi và nghĩa vụ, quyền hạn và trách nhiệm, cống hiến và hưởng thụ trong thời
kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta được thể hiện tập trung và nổi bật ở việc thực
hiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, đó là quyền làm chủ xã hội trên thực tế
của nhân dân lao động dới sự lãnh đạo của Đảng và thông qua vai trò quản lý
của Nhà nước xã hội chủ nghĩa cụ thể là: quyền và nghĩa vụ của các thành
viên xã hội trong phát triển lực lượng sản xuất, trong việc hoàn thiện quan hệ


18
sản xuất, trong phân phối sản phẩm, trong bầu cử, ứng cử, lựa chọn, bãi miễn,
kiểm tra, giám sát hoạt động của Đảng và Nhà nước; quyền và nghĩa vụ tham
gia thảo luận, góp ý kiến vào đường lối, quan điểm của Đảng, quyền tham gia
và thực hiện pháp luật…quyền và nghĩa vụ được thông tin, tự do ngôn luận,
báo chí, phê bình, chất vấn các cơ quan Đảng, Nhà nước nhằm bảo vệ Đảng,
bảo vệ sự thống trị của giai cấp công nhân; quyền và nghiã vụ được học tập,
khám chữa bệnh, hưởng thụ các giá trị văn hoá tinh thần, các phúc lợi công
cộng, quyền cư trú, quyền bình đẳng giai cấp, dân tộc, tôn giáo, bình đẳng
nam nữ, quyền trẻ em…
Trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta hiện nay công bằng xã hội
còn thể hiện trong đánh giá những cống hiến của nhân dân đối với sự nghiệp
cách mạng. Những ưu tiên, ưu đãi của xã hội đối với các gia đình liệt sỹ, các
anh hùng, bà mẹ Việt Nam anh hùng, người có công với cách mạng, người
già, người tàn tật, trẻ em không nơi nương tựa, người nhiễm chất độc màu da
cam, đồng bào dân tộc thiểu số, người nghèo, vùng căn cứ cách mạng. Việc
biểu dương, khen thưởng về vật chất và tinh thần, trao tặng các danh hiệu cao
quý, tôn vinh những người có thành tích suất sắc, có cống hiến lớn cho xã hội,
đồng thời công bằng xã hội còn được thể hiện ở sự xử phạt nghiêm minh

những kẻ vi phạm pháp luật, tham nhũng, quan liêu gây thiệt hại về kinh tế,
chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Như vậy, nội dung của công bằng xã hội được thể hiện trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội chứ không phải chỉ trên một lĩnh vực nào đó.
Thực hiện công bằng xã hội ở nước ta hiện nay là một bộ phận quan trọng của
cuộc đâú tranh giai cấp để giải quyết vấn đề “ai thắng ai” giữa CNXH và chủ
nghĩa tư bản.
II.2. Một số giải pháp cơ bản thực hiện công bằng xã hội ở nước ta
hiện nay.
Công bằng xã hội là thuộc tính bản chất của CNXH, được thể hiện trên
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Không những thế công bằng xã hội còn là


19
một trong những yếu tố cơ bản hợp thành chính sách xã hội của Đảng, Nhà
nước xã hội chủ nghĩa, thể hiện tính ưu việt của CNXH. Công bằng xã hội
được thực hiện trên thực tế sẽ là động lực to lớn cho mọi thành viên xã hội
phát huy khả năng, tính tích cực chủ động, sáng tạo của mình trong sự nghiệp
cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Tuy nhiên, trong CNXH, nhất là trong
thời kỳ quá độ lên CNXH chưa thể có công bằng, bình đẳng hoàn toàn. Vì
vậy, thực hiện công bằng xã hội như thế nào cho phù hợp với từng giai đoạn
phát triển của cách mạng nước ta là một vấn đề đòi hỏi Đảng, nhà nước và các
tổ chức, các ngành, các cấp, từng con người cụ thể phải tuân thủ theo những
phương hướng, giải pháp mà Đảng, Nhà nước ta đề ra. Hiện nay, tình hình
quốc tế hết sức phức tạp, nền kinh tế thị trường trong nước đang tiếp tục vận
động và nảy sinh những vấn đề mới, những thách thức đặt ra đối với thực hiện
công bằng và tiến bộ xã hội. Do vậy, thực hiện công bằng xã hội cần thực hiện
tốt một số giải pháp cơ bản sau:
Thứ nhất, tiếp tục thực hiện công bằng trong phân phối, tạo động lực
mạnh mẽ để phát triển sản xuất, tăng trưởng kinh tế, thực hiện bình đẳng trong

các quan hệ xã hội và khuyến khích nhân dân làm giàu hợp pháp.
Đây là giải pháp cơ bản, hàng đầu. Bởi vì, phân phối là khâu cuối cùng
của hệ thống quan hệ sản xuất, nó quy định trực tiếp đến lợi ích của người lao
động và hiệu quả sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế. Nếu phân
phối tư liệu sản xuất, tư liệu tiêu dùng, phân phối sản phẩm đúng đắn phù hợp
và công bằng sẽ tạo nên động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất phát triển, tăng
trưởng kinh tế và tạo ra những tiền đề kinh tế cơ bản cho việc thực hiện bình
đẳng trong các quan hệ xã hội, kích thích tính năng động sáng tạo của nhân
dân trong sản xuất.
Thời kỳ đổi mới, thực hiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa đã khắc phục nhiều hạn chế từ hình thức phân phối bình quân chủ nghĩa
trước đây. Nếu trong nền kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp người lao động
thờ ơ, không quan tâp đế hiệu quả của sản xuất, thì trong cơ chế thị trường lại


20
ngược lại, kết quả lao động và hiệu quả kinh tế của sản phẩm sẽ tác động một
cách trực tiếp tới lợi ích của người lao động. Quan hệ này buộc người lao
động phải làm việc một cách trách nhiệm hơn, hiệu quả hơn. Kinh tế thị
trường tạo môi trường khách quan thực hiện phân phối theo kết quả lao động
và hiệu quả kinh tế một cách công bằng. Quyết định hiệu quả kinh tế của các
quá trình sản xuất và kinh doanh không chỉ có nguồn lực con người, mà còn
chịu sự quy định của hàng loạt các vấn đề khác như vốn đầu tư, công cụ và tư
liệu sản xuất…phân phối nếu không coi trọng đến mức đóng góp này sẽ hạn
chế việc huy động nguồn vốn và các hình thức đầu tư khác từ dân chúng và
như thế là đánh mất cơ hội để phát triển sản xuất, tăng trưởng kinh tế. Vì vậy
trong phân phối không chỉ chú ý đến đóng góp của lao động sống mà còn phải
chú ý tới mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất kinh doanh,
đó cũng là hình thức thực hiện công bằng xã hội từ góc nhìn đóng góp và
hưởng thụ.

Thứ hai, thực hiện và mở rộng các chính sách phúc lợi xã hội thành hệ
thống chính sách an sinh xã hội nhiều tầng, nhiều nấc.
Cùng với các hình thức phân phối trên, kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa cần phải chú ý đến việc phân phối thông qua phúc lợi xã hội
như: thực hiện chính sách người có công với nước, với dân; chính sách bảo
trợ những người già cả, cô đơn không nơi nương tựa; chính sách đối với trẻ
em lang thang có hoàn cảnh khó khăn; chính sách bảo trợ phát triển xã hội ở
các vùng sâu, vùng xa. Chính sách cứu tế xã hội để cưu mang những người bị
thiệt hại nặng nề do địch hoạ thiên tai hoặc rủi ro trong cuộc sống. chính sách
tương trợ xã hội nhằm phát huy truyền thống tương thân, tương ái, “lá lành
đùm lá rách” trong cộng đồng để giúp nhau vượt qua khó khăn, xoá đói
gia,mr nghèo, cải thiện đời sống…Trong những năm đổi mới vừa qua, việc
thực chế độ phân phối theo hiệu quả lao động, các nguồn lực đóng góp, các
chính sách xã hội đã thực sự kích thích người lao động.


21
Thứ ba, giải quyết việc làm, cải thiện điều kiện, môi trường, làm việc, cải
cách cơ bản chế độ tiền lương của cán bộ, công chức theo hướng tiền tệ hoá.
Thực chất của giải pháp này là giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa
quyền lợi và nghĩa vụ cho người lao động. Vì vậy, đòi hỏi Nhà nước và các
cấp, các ngành bằng nhiều biện pháp tạo ra nhiều việc làm cho người lao
động thông qua việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng, miền, mở mang các
ngành nghề, cơ sở sản xuất, đào tạo lao động có tay nghề cao, hợp tác lao
động phát triển các làng nghề, đẩy mạnh phong trào thanh niên lập nghiệp,
làm giàu chính đáng. Bên cạnh đó Nhà nước phải khảo sát, đánh giá đúng tỷ
lệ, mức độ, giá trị sản phẩm của người lao động trong các ngành nghề, khu
vực khác nhau theo một giá trị chung làm cơ sở để tính ngày công mà người
lao động được hưởng. Xây dựng một hệ thống chính sách tiền lương phù hợp,
phản ánh đúng giá trị sức lao động của các thành viên xã hội, trước hết là cho

những người hưởng lương, điều chỉnh tiền lương tuơng xứng với nhịp độ tăng
thu nhập trong xã hội, khuyến khích người có tài, làm việc giỏi, khắc phục sự
bất hợp lý về trợ cấp của người nghỉ hưu, thương bệnh binh và những người
có hoàn cảnh khó khăn, nạn nhân chiến tranh, tôn trọng thu nhập hợp pháp
của người lao động và sản xuất kinh doanh.
Thứ tư, Thực hiện có hiệu quả chương trình xóa đói, giảm nghèo,
chính sách trợ giá nông sản, bảo hiểm xã hội đối với ngưòi lao động, chính
sách ưu đãi xã hội, các hoạt động đền ơn, đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn.
Đây là giải pháp thiết thực góp phần quan trọng vào thực hiện công
bằng xã hội trong điều kiện nước ta còn nghèo nàn, sự chênh lệch giữa các
vùng, miền còn bất cập, hậu quả nặng nề do chiến tranh để lại. Xây dựng
chương trình xoá đói giảm nghèo sát với điều kiện cụ thể của từng địa
phương, dành nguồn ưu tiên hỗ trợ các vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó
khăn có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số. Giảm dần chênh lệch về phát triển
kinh tế và đời sống của nhân dân giữa các vùng, miền và các tầng lớp dân cư.
Phấn đấu đến 2010 giảm ẵ tỷ lệ nghèo theo chuẩn quốc tế so với năm 2000.


22
quyết tâm phấn đấu đến năm 2010 giảm 3/5 tỷ lệ hộ nghèo so với năm 2000
theo chuẩn của chương trình mục tiêu quốc gia về cơ bản không còn hộ
nghèo, thường xuyên củng cố thành quả xóa đói giảm nghèo.
Thứ năm, phát triển sự nghiệp chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ nhân dân,
đấu tranh phòng chống tệ nạn xã hội.
Phát triển hệ thống y tế công bằng và hiệu quả, bảo đảm mọi người dân
được chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ. Củng cố và hoàn thiện mạng lưới y tế cơ
sở, hệ thống các chính sách bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân.
Đổi mới cơ chế quản lý khám chữa bệnh, tiếp tục tăng đầu tư, nâng cao mức
và chất lượng chăm sóc sức khoẻ cơ bản cho toàn dân, quan tâm nhiều hơn
nữa các đối tượng chính sách, đồng bào dân tộc thiểu số và vùng sâu, vùng xa

và hộ nghèo. Chú trọng phát triển các dịch vụ y tế công nghệ cao, khuyến
khích phát triển đa dạng các dịch vụ y tế ngoài công lập. Nâng cao sức khoẻ,
tầm vóc và con người Việt Nam. Đi liền với những vấn đề trên là kiên quyết
đấu tranh có hiệu quả trong công tác phòng chống các tệ nạn, tiêu cực xã hội
làm lành mạnh hoá các quan hệ xã hội, tạo ra môi trường bình đẳng giữa các
giai tầng trong xã hội.
Thứ sáu, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, giữ vững kỷ luật kỷ
cương, tăng cường pháp chế.
Đẩy mạnh cải cách hành chính, xây dựng một nền hành chính Nhà nước dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại hoá. Thông qua việc
kiện toàn hợp lý tổ chức bộ máy Nhà nước, nâng cao phẩm chất năng lực của
đội ngũ cán bộ công chức, ngăn chặn và đẩy lùi nạn tham nhũng, quan liêu,
đặc quyền, đặc lợi, vi phạm tới quyền dân chủ của nhân dân.
Các giải pháp trên đây là một thể thống nhất có mối quan hệ biện chứng,
tác động chi phối lẫn nhau, nhằm mục tiêu thực hiện có hiệu quả công bằng xã hội
phù hợp với nền kinh tế thị trưòng định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện
nay. Vì vậy để thực hiện tốt công bằng xã hội đòi hỏi chúng ta phải thực hiện đầy


23
đủ hệ thống các giải pháp trên, có như vậy chúng ta mới có điều kiện cơ sở, nền
tảng để thực hiện công bằng xã hội theo mục tiêu của CNXH.
Quân đội ta là một thành phần của xã hội, là lực lượng chính trị tin cậy của
Đảng, Nhà nước và nhân dân. Quân đội ta là quân đội mang bản chất của giai cấp công
nhân, tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc. Để góp phần thực hiện công bằng xã hội
trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay, quân đội ta cần phải không ngừng nâng
cao nhận thức về mục tiêu cách mạng, bản chất ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa mà
nước ta đang tiến hành. Trong mọi điều kiện hoàn cảnh, cùng với việc xây dựng quân
đội vững mạnh toàn diện, lấy xây dựng vững mạnh về chính trị làm cơ sở, Quân đội
phải thường xuyên quán triệt quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước ta về thực
hiện công bằng xã hội, từ đó nâng cao ý thức giác ngộ giai cấp, lập trường cách mạng.

Trên từng địa bàn đóng quân, Quân đội phải tham gia cùng với hệ thống chính trị cơ sở
thực hiện và giải quyết những vấn đề về công bằng xã hội như: xoá đói giảm nghèo;
xây dựng môi trường văn hoá, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc; tham gia phát triển
kinh tế vùng sâu, vùng xa, đồng bào dân tộc nơi khó khăn, biên giới, hải đảo…là lực
lượng quan trong trong tham gia cứu nạn, cứu hộ, giúp đỡ bà con đồng bào bị thiên tai
nhanh chóng ổn định cuộc sống. Đối với mỗi cán bộ chiến sỹ trong quân đội, các cấp
lãnh đạo và từng tổ chức chỉ huy phải thực hiện tốt các chính sách, chế độ cho quân
nhân, những người nghỉ hưu, những cán bộ, chiến sỹ làm nhiệm vụ ở vùng sâu, vùng
xa, biên giới, hải đảo; chính sách hậu phương gia đình để họ yên tâm phấn đấu hoàn
thành tốt mọi nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao phó, xứng đáng là quân đội cách
mạng, quân đội của dân, do dân, vì dân góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ
chiến lược cách mạng và công cuộc đổi mới đất nước trong giai đoạn mới.

KẾT LUẬN
Thực hiện công bằng xã hội và đấu tranh để thực hiện công bằng xã hội
là một quy luật tất yếu của sự phát triển xã hội loài người, phù hợp với bản
chất của chủ nghĩa xã hội và là động lực to lớn của cách mạng xã hội chủ


24
nghĩa nói chung và của cách mạng Việt Nam nói riêng. Thực hiện công bằng
xã hội phải được thể hiện ở sự công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ,
quyện hạn và trách nhiệm, cống hiến và hưởng thụ của nhân dân lao động trên
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Vấn đề căn bản, xuyên suốt để thực hiện
công bằng xã hội ở nước ta hiện nay là phải thực hiện nhất quán và lâu dài
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; kiên định mục tiêu độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; trong đó phù hợp với điều kiện kinh
tế-xã hội của nước ta trong chặng đường đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội phải thực hiện nghiêm nguyên tắc trong phân phối; làm theo năng lực;
hưởng theo lao động. Tuy nhiên, phấn đấu thực hiện công bằng xã hội phải từ

thấp đến cao, từ chưa toàn diện đầy đủ đến toàn diện đầy đủ và phải gắn liền
với mỗi bước phát triển, mỗi thắng lợi của sự nghiệp đổi mới đất nước, gắn
với cuộc đấu tranh giai cấp để giải quyết vấn đề “ai thắng ai” giữa chủ nghĩa
xã hội và chủ nghĩa tư bản, gắn liền với cuộc đấu tranh loại bỏ những nhân tố
gây cản trở việc thực hiện công bằng xã hội ở nước ta.
Do đó, để thực hiện được công bằng xã hội, chúng ta phải tuân thủ đúng
nguyên tắc và thực hiện có hiệu quả các giải pháp đã nêu ở trên. Chúng ta tin tưởng
rằng dưới sự lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của Nhà nước ta, quyền làm chủ của
nhân dân lao động kết hợp với tiềm năng, sức mạnh của dân tộc Việt Nam, sức mạnh
của thời đại, chúng ta nhất định sẽ giành thắng lợi trong đấu tranh cho thực hiện công
bằng xã hội trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta. Thế kỷ XX là thế kỷ đấu tranh oanh liệt và chiến thắng vẻ vang của dân tộc
ta. Thế kỷ XXI sẽ là thế kỷ nhân dân ta tiếp tục giành thêm nhiều thắng lợi to lớn
trong sự nghiệp xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, đưa nước ta
sánh vai cùng các nước phát triển trên thế giới./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. C. Mác - Ăngghen, Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, H. 1995.
2. C. Mác - Ăngghen, Toàn tập, tập 19, Nxb Chính trị quốc gia, H. 1995.
3. C. Mác - Ăngghen, Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị quốc gia, H. 1995


25
4. V. I. Lênin, Toàn tập, tập 33, Nxb Tiến bộ M. 1978, tr. 115
5. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, XII Nxb CTQG, H. 2011, 2016



×