Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

TIỂU LUẬN KINH tế NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN lực PHỤC vụ sự NGHIỆP CÔNG NGHIỆP hóa, HIỆN đại hóa gắn với PHÁT TRIỂN KINH tế TRI THỨC ở nước TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (111.08 KB, 21 trang )

MỞ ĐẦU

Để xây dựng thành công mô hình nền nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, chúng ta cần phải tiến hành sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, nhằm bảo đảm cho nền kinh tế tồn tại
và phát triển trên chính cơ sở của nó. Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đòi hỏi chúng ta
cần phát huy và tận dụng rất nhiều nguồn lực như: nguồn lực tự nhiên, nguồn
nhân lực, vốn đầu tư, khoa học kỹ thuật – công nghệ tiên tiến hiện đại… để phát
triển bền vững nền kinh tế nước nhà. Trong các nguồn lực đó thì nguồn nhân lực
đóng vai trò quyết định đến sự thành công của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa. Mặt khác, chưa lúc nào vấn đề phát triển con người - nguồn nhân lực trở
thành vấn đề thời sự nóng bỏng ở nước ta như giai đoạn hiện nay. Đất nước đang
bước vào một thời kỳ phát triển mới, những cơ hội và thách thức chưa từng có.
Nhưng thực trạng nguồn nhân lực hiện nay khó cho phép tận dụng tốt nhất
những cơ hội đang đến, thậm chí, có nguy cơ khó vượt qua những thách thức,
kéo dài sự tụt hậu... Những vấn đề trên đã thôi thúc tác giả lựa chọn vấn đề
“Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ở nước ta hiện nay” làm nội
dung tiểu luận của môn học kinh tế phát triển. Trong phạm vi, yêu cầu của môn
học, tác giả trình bày vấn đề trên thành những nội dung cơ bản sau:
1. Nguồn nhân lực, chất lượng và vai trò của chất lượng nguồn
nhân lực đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát
triển kinh tế tri thức.
2


2. Khái quát thực trạng chất lượng nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay.
3. Một số biện pháp chủ yếu để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri
thức ở nước ta hiện nay.



NỘI DUNG

1. Nguồn nhân lực, chất lượng và vai trò của chất lượng nguồn nhân
lực đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh
tế tri thức.
Khái niệm nguồn nhân lực.
Hiện nay có rất nhiều quan điểm khác nhau về nguồn nhân lực, tùy vào
cách tiếp cận và mục đích nghiên cứu mà các tác giả đưa ra các quan niệm của
mình về nguồn nhân lực, tác giả liệt kê các quan niệm tiêu biểu về nguồn nhân
lực như sau:
Theo định nghĩa của Liên hiệp quốc, nguồn nhân lực là trình độ lành
nghề, là kiến thức và năng lực của toàn bộ cuộc sống con người hiện có thực tế
hoặc tiềm năng để phát triển kinh tế - xã hội trong một cộng đồng.
Ngân hàng thế giới cho rằng: nguồn nhân lực là toàn bộ vốn con người
bao gồm thể lực, trí lực, kỹ năng nghề nghiệp… của mỗi cá nhân. Như vậy, ở
đây nguồn lực con người được coi như một nguồn vốn bên cạnh các loại vốn vật
chất khác: vốn tiền tệ, công nghệ, tài nguyên thiên nhiên…

3


Theo tổ chức lao động quốc tế, nguồn nhân lực của một quốc gia là toàn
bộ những người trong độ tuổi có khả năng tham gia lao động .
Nguồn nhân lực được hiểu theo hai nghĩa: Theo nghĩa rộng, nguồn nhân lực là
nguồn cung cấp sức lao động cho sản xuất xã hội, cung cấp nguồn lực con người
cho sự phát triển. Do đó, nguồn nhân lực bao gồm toàn bộ dân cư có thể phát
triển bình thường. Theo nghĩa hẹp, nguồn nhân lực là khả năng lao động của xã
hội, là nguồn lực cho sự phát triển kinh tế xã hội, bao gồm các nhóm dân cư
trong độ tuổi lao động, có khả năng tham gia vào lao động, sản xuất xã hội, tức

là toàn bộ các cá nhân cụ thể tham gia vào quá trình lao động, là tổng thể các yếu
tố về thể lực, trí lực của họ được huy động vào quá trình lao động.
Các nhà kinh tế học Việt Nam đã xác định nguồn nhân lực hay nguồn lực
con người bao gồm lực lượng lao động và lao động dự trữ. Trong đó lực lượng
lao động được xác định là người lao động đang làm việc và người trong độ tuổi
lao động có nhu cầu nhưng không có việc làm (người thất nghiệp). Lao động dự
trữ bao gồm học sinh trong độ tuổi lao động, người trong độ tuổi lao động nhưng
không có nhu cầu lao động. Hoặc là tổng thể các tiềm năng lao động của một
nước hay một địa phương sẵn sàng tham gia một công việc lao động nào đó.
Kinh tế phát triển cho rằng: nguồn nhân lực là một bộ phận dân số trong
độ tuổi quy định có khả năng tham gia lao động. nguồn nhân lực được biểu hiện
trên hai mặt: về số lượng đó là tổng số những người trong độ tuổi lao động làm
việc theo quy định của Nhà nước và thời gian lao động có thể huy động được từ
họ; về chất lượng, đó là sức khoẻ và trình độ chuyên môn, kiến thức và trình độ
lành nghề của người lao động. Nguồn lao động là tổng số những người trong độ

4


tuổi lao động quy định đang tham gia lao động hoặc đang tích cực tìm kiếm việc
làm. Nguồn lao động cũng được hiểu trên hai mặt: số lượng và chất lượng. Như
vậy theo khái niệm này, có một số được tính là nguồn nhân lực nhưng lại không
phải là nguồn lao động, đó là: Những người không có việc làm nhưng không tích
cực tìm kiếm việc làm, tức là những người không có nhu cầu tìm việc làm,
những người trong độ tuổi lao động quy định nhưng đang đi học…
Quan niệm của tác giả về nguồn nhân lực, từ những quan niệm trên và
tiếp cận dưới góc độ của Kinh tế phát triển, tác giả hiểu nguồn nhân lực là tổng
hoà thể lực và trí lực tồn tại trong toàn bộ lực lượng lao động xã hội của một
quốc gia, trong đó kết tinh truyền thống và kinh nghiệm lao động sáng tạo của
một dân tộc trong lịch sử được vận dụng để sản xuất ra của cải vật chất và tinh

thần phục vụ cho nhu cầu hiện tại và tương lai của đất nước.
Như vậy, nguồn nhân lực theo nghĩa hẹp và để có thể lượng hoá được
trong công tác kế hoạch hoá ở nước ta được quy định là một bộ phận của dân số,
bao gồm những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động theo quy định
của Bộ luật lao động Việt Nam (nam đủ 15 đến hết 60 tuổi, nữ đủ 15 đến hết 55
tuổi). Khi nói đến nguồn nhân lực, người ta bàn đến trình độ, cơ cấu, sự đáp ứng
với yêu cầu của thị trường lao động. Chất lượng nguồn nhân lực phản ánh trong
trình độ kiến thức, kỹ năng và thái độ của người lao động. Sự phân loại nguồn
nhân lực theo ngành nghề, lĩnh vực hoạt động (công nghiệp, nông nghiệp, dịch
vụ) đang rất phổ biến ở nước ta hiện nay, nhưng khi chuyển sang nền kinh tế tri
thức phân loại lao động theo tiếp cận công việc nghề nghiệp của người lao động
sẽ phù hợp hơn. Lực lượng lao động được chia ra lao động thông tin và lao đọng

5


phi thông tin. Lao động thông tin lại được chia ra 2 loại: lao động tri thức và lao
động dữ liệu. Lao động dữ liệu (thư ký, kỹ thuật viên...) làm việc chủ yếu với
thông tin đã được mã hoá, trong khi đó lao động tri thức phải đương đầu với việc
sản sinh ra ý tưởng hay chuẩn bị cho việc mã hoá thông tin. Lao động quản lý
nằm giữa hai loại hình này. Lao động phi thông tin được chia 'ra lao động sản
xuất hàng hoá và lao động cung cấp dịch vụ. Lao động phi thông tin dễ dàng
được mã hoá và thay thế bằng kỹ thuật, công nghệ. Như vậy, có thể phân loại lực
lượng lao động ra 5 loại: lao động tri thức, lao động quản lý, lao động dữ liệu,
lao động cung cấp dịch vụ và lao động sản xuất hàng hoá. Mỗi loại lao động này
có những đóng góp khác nhau vào việc tạo ra sản phẩm. Nồng độ tri thức, trí tuệ
cao hay thấp trong sản phẩm lao động phụ thuộc chủ yếu vào đóng góp của lực
lượng lao động trí thức, quản lý và phần nào của lao động dữ liệu ở nước ta, tỷ lệ
lao động phi thông tin còn rất cao trong cơ cấu lực lượng lao động, do đó hàng
hoá có tỷ lệ trí tuệ thấp. Muốn tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế,

cần tăng nhanh tỷ lệ trí tuệ trong hàng hoá trong thời gian tới.
Chất lượng nguồn nhân lực.
Khi nghiên cứu về nguồn nhân lực, thực chất là chúng ta đề cập đến
mặt số lượng và chất lượng của nguồn nhân lực. Số lượng nguồn nhân lực của
bất kỳ quốc gia nào cũng đều được hình thành dựa trên quy mô dân số, mà
trước hết là từ lực lượng lao động của quốc gia đó, cụ thể là số lượng người
đang trong độ tuổi lao động và có khả năng tham gia lao động sản xuất. Còn
chất lượng nguồn nhân lực là một sự tổng hợp, kết tinh của rất nhiều yếu tố và

6


giá trị cùng tham gia tạo nên. Chất lượng nguồn nhân lực gồm ba yếu tố cơ
bản: thể lực, trí lực và tâm lực.
Thể lực là tình trạng sức khoẻ của con người, biểu hiện ở sự phát triển
bình thường, có khả năng lao động. Đây là cơ sở quan trọng cho hoạt động thực
tiễn của con người, có thể đáp ứng được những đòi hỏi về hao phí sức lao động
trong quá trình sản xuất với những công việc cụ thể khác nhau và đảm bảo cho
con người có khả năng học tập và lao động lâu dài.
Trí lực là năng lực trí tuệ, khả năng nhận thức và tư duy mang tính sáng
tạo thích ứng với xã hội của con người. Nói đến trí lực là nói đến yếu tố tinh
thần, trình độ văn hoá và học vấn của con người, biểu hiện ở khả năng vận dụng
những điều kiện vật chất, tinh thần vào hoạt động thực tiễn nhằm đạt hiệu quả
cao, đồng thời là khả năng định hướng giá trị hoạt động của bản thân để đạt được
mục tiêu. Trí lực là yếu tố chiếm vị trí trung tâm chỉ đạo hành vi của con người
trong mọi hoạt động, kể cả trong việc lựa chọn các giải pháp phù hợp nhằm phát
huy tác dụng của các yếu tố khác trong cấu trúc chất lượng nguồn nhân lực. Trí
lực là yếu tố quyết định phần lớn khả năng sáng tạo của con người, là yếu tố
ngày càng đóng vai trò quan trọng và quyết định trong chất lượng nguồn nhân
lực nói riêng và sự phát triển của nguồn lực con người nói chung.

Tâm lực là những giá trị chuẩn mực đạo đức, phẩm chất tốt đẹp và sự
hoàn thiện nhân cách của con người, được biểu hiện trong thực tiễn lao động sản
xuất và sáng tạo cá nhân. Những giá trị đó gắn liền với năng lực tư duy và hành
động cụ thể của con người, tạo nên chất lượng của nguồn nhân lực. Tâm lực tạo
ra động cơ bên trong của chủ thể, thúc đẩy và điều chỉnh hoạt động của con

7


người. Nói cách khác, tâm lực góp phần vào việc phát huy vai trò của các yếu tố
thể lực và trí lực của con người với tư cách nguồn nhân lực của xã hội.
Vai trò của chất lượng nguồn nhân lựcđối với sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức.
Không phải đến bây giờ chúng ta với thấy được vai trò của nguồn nhân
lực trong phát triển nền kinh tế xã hội, mà các nhà tiền bối cách mạng đã xác
định rất rõ trong tư tưởng lý luận của mình. V.I.Lênin đã khẳng định: “Lực
lượng sản xuất hàng đầu của nhân loại là công nhân, là người lao động”.
[V.I.Lênin: Sđd, 1977, t.38, tr.430]. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định vai trò của
nguồn nhân lực được biểu hiện qua câu nói nổi tiếng: “Vì lợi ích mười năm thì
phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”. [Hồ Chí Minh: Sđd,
1996, t.12, tr.212]. Trong suốt quá trình lãnh đạo đất nước tiến hành công cuộc
đổi mới Đảng luôn khẳng định: Con người là vốn quý nhất, chăm lo hạnh phúc
con người là mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ ta, coi việc nâng cao dân
trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố
quyết định thắng lợi công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa…Nguồn lao động
dồi dào, con người Việt Nam có truyền thông yêu nước, cần cù, sáng tạo, có nền
tảng văn hoá, giáo dục, có khả năng nắm bắt nhanh khoa học và công nghệ là
nguồn lực quan trọng nhất - nguồn năng lực nội sinh. Đại hội lần thứ X của
Đảng đã xác định một trong những nhiệm vụ chủ yếu của chiến lược phát triển
kinh tế – xã hội từ nay đến năm 2010 là “Phát triển mạnh khoa học và công

nghệ, giáo dục và đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu
cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và phát triển kinh tế tri thức”

8


Ngày nay trước yêu cầu phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế, thì nguồn
nhân lực luôn giữ vai trò quyết định, đồng thời là vấn đề quan tâm của mọi quốc
gia trên thế giới. Phát triển nguồn nhân lực phục vụ cho phát triển nền kinh tế xã
hội nói chung và quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói riêng là vấn đề có
tính qui luật chung, nhưng việc nhìn nhận vai trò của nguồn nhân lực trong quá
trình đó lại có sự khác biệt tương đối và mang tính lịch sử. Trong giai đoạn hiện
nay thì vai trò của nguồn nhân lực (đặc biệt là nguồn nhân lực có chất lượng cao)
đối với yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển
kinh tế tri thức ở nước ta được thể hiện trên các nội dung sau:
Thứ nhất, chất lượng nguồn nhân lực là nhân tố quyết định đến sức sống
và khả năng phát triển của nền kinh tế. Các nguồn lực khác, xét về mặt số lượng
và trữ lượng, có thể là rất phong phú, dồi dào, nhưng nếu khai thác và sử dụng
không hợp lý thì đến một lúc nào đó, chúng sẽ trở nên cạn kiệt. Khi ấy, nền kinh
tế vốn cơ bản dựa vào nguồn lực này sẽ gặp khó khăn, nếu không nói là bị đe
doạ. Trái lại, nguồn lực con người với tiềm năng trí tuệ, chất xám thì luôn sinh
sôi và phát triển không ngừng. Xét trên bình diện xã hội, có thể khẳng định
nguồn lực con người là vô tận và do vậy, là nguồn lực cơ bản của sự phát triển
bền vững. Đây là một ưu điểm nổi trội của nguồn nhân lực so với các nguồn lực
khác trong hệ thống nguồn lực phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
và phát triển kinh tế tri thức.
Thứ hai, chất lượng nguồn nhân lực quyết định tốc độ tăng trưởng, khắc
phục tình trạng tụt khậu xa hơn về kinh tế và là điều kiện hội nhập kinh tế quốc
tế. Quá trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực và quốc tế. Nếu trước đây, một
trong những nguyên nhân chủ yếu ngăn cản tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh

9


tế của đất nước là do tình trạng nghèo nàn về cơ sở vật chất, sự thiếu hụt về
nguồn vốn… thì ngày nay, trở ngại chủ yếu nhất được xác định chính là sự hạn
chế về trí tuệ và năng lực sáng tạo của con người. Để ứng dụng và làm chủ các
công nghệ tiên tiến hiện trong phát triển kinh tế, đòi hỏi nguồn nhân lực cần phải
có trình độ tương ứng với sự phát triển của cách mạng khoa học công nghệ
đương đại. Với nước ta, con đường để trở thành một nước công nghiệp phát triển
theo hướng hiện đại là đi tắt đón đầu, tiến thẳng vào công nghệ hiện đại để rút
ngắn về thời gian và sự chênh lệch trình độ đối với các nước trong khu vực và
trên thế giới. Điều này chỉ thực hiện được khi chúng ta có một nguồn nhân lực có
chất lượng cao, có chiều sâu và tính chiến lược trong phát triển nguồn nhân lực
nước nhà.
Thứ ba, chất lượng nguồn nhân lực là một trong những yếu tố quyết định
sự thành công của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển
kinh tế tri thức. Đây chính là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt
động sản xuất, kinh doanh, xã hội, từ sử dụng lao động thủ công là phổ biến sang
sử dụng một cách phổ biến sức lao động được đào tạo cùng với công nghệ tiên
tiến, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại nhằm tạo ra năng suất lao
động xã hội cao. Đối với nước ta đó là một quá trình tất yếu để phát triển kinh tế
thị trường định hướng XHCN.

Khi đất nước ta đang bước vào giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn
với phát triển kinh tế tri thức và tiếp cận kinh tế tri thức trong điều kiện phát
triển kinh tế - xã hội còn thấp, do đó yêu cầu nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực, nhất là trí lực có ý nghĩa quyết định tới sự thành công của sự nghiệp công
10



nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức đất nước và phát triển
bền vững. Đảng ta đã xác định phải lấy việc phát huy chất lượng nguồn nhân lực
làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững. Mặt khác, nguồn nhân
lực là yếu tố cơ bản quyết định đến quá trình ứng dụng các thành tựu khoa học
và công nghệ hiện đại vào cuộc sống. Cách mạng khoa học và công nghệ hiện
đại đã tạo sự phát triển mạnh mẽ và nhanh chóng trong tất cả các lĩnh vực của
đời sống xã hội; cùng với đó là quá trình toàn cầu hoá đã tạo điều kiện thuận lợi
và cơ hội cho các nước đang phát triển có thể khắc phục sự yếu kém về trình độ
khoa học – kỹ thuật của mình thông qua con đường hợp tác, có thể giải quyết các
vấn đề khó khăn như thiếu hụt nguồn vốn dựa trên quan hệ đầu tư, vay vốn và
bằng nhiều hình thức khác. Nhưng, có một vấn đề đặc biệt quan trọng mà để đảm
bảo sự phát triển bền vững, các nước phải nhanh chóng giải quyết một cách có
hiệu quả, đó là xây dựng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực có chất lượng
cao. Có thể nói, việc xây dựng và bồi dưỡng nguồn nhân lực nhằm phát huy tiềm
năng trí tuệ và sức sáng tạo của con người, trước hết và chủ yếu là nỗ lực tự thân
thông qua nhiều biện của nhà nước để đưa khoa học công nghệu vào cuộc sống
một cách nhanh nhất.
Thứ tư, chất lượng nguồn nhân lực giữ vai trò phối hợp, liên kết và khai
thác tối ưu các nguồn lực khác để tạo nên khả năng phát triển của nền kinh tế
nước nhà. Nguồn nhân lực là nguồn lực chính quyết định quá trình tăng trưởng
và phát triển kinh tế- xã hội. Nguồn nhân lực, nguồn lao động là nhân tố quyết
định việc khai thác, sử dụng, bảo vệ và tái tạo các nguồn lực khác. Giữa nguồn
lực con người, vốn, tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất kỹ thuật, khoa học
công nghệ… có mối quan hệ nhân quả với nhau, nhưng trong đó nguồn nhân lực
11


được xem là năng lực nội sinh chi phối quá trình phát triển kinh tế - xã hội của
mỗi quốc gia. So với các nguồn lực khác, nguồn nhân lực với yếu tố hàng đầu là
trí tuệ, chất xám có ưu thế nổi bật ở chỗ nó không bị cạn kiệt nếu biết bồi dưỡng,

khai thác và sử dụng hợp lý, còn các nguồn lực khác dù nhiều đến đâu cũng chỉ
là yếu tố có hạn và chỉ phát huy được tác dụng khi kết hợp với nguồn nhân lực
một cách có hiệu quả. Vì vậy, con người với tư cách là nguồn nhân lực, là chủ
thể sáng tạo, là yếu tố bản thân của quá trình sản xuất, là trung tâm của nội lực,
là nguồn lực chính quyết định quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Thông qua các chính sách, nguồn nhân lực có thể liên kết các nhân tố
khác tạo nên độ co dãn lớn về nhiều mặt của kết quả sản xuất xã hội, đồng thời
các nguồn lực chỉ có thể tồn tại và phát huy được khả năng và trở thành hiện
thực đều phải thông quan hoạt động cụ thể của nguồn nhân lực (người lao động).
Thực tiễn hơn 20 năm đổi mới đã minh chứng vai trò to lớn của nguồn nhân lực
đối với phát huy nội lực và tranh thủ tối đa các nguồn lực bền ngoài để phát triển
kinh tế đất nước thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát
triển kinh tế tri thức.
Như vậy, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và vai trò của nó đối với
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức là vấn
đề chiến lược trong quá trình thực hiện đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế ở
nước ta. Việc huy động nguồn nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức phục thuộc vào thực trạng chất lượng
nguồn nhân lực, vậy thực trạng quá trình phát triển nguồn nhân lực ở nước ta
như thế nào? chúng chuyển sang nội dung tiếp theo của chủ đề tiểu luận.

12


2. Khái quát hực trạng chất lượng nguồn nhân lực ở nước ta
hiện nay.
Nguồn nhân lực của nước ta trong thời gian qua đã tăng một cách đáng
kể về mặt lượng do sự gia tăng dân số ở mức cao và liên tục trong nhiều năm.
Quy mô dân số đông và lực lượng lao động dồi dào vốn được coi là một thế
mạnh của nước ta, là yếu tố cơ bản để mở rộng và phát triển sản xuất. Tất nhiên,

để khai thác được lợi thế này, đòi hỏi phải có rất nhiều điều kiện tương ứng.
Người Việt Nam được đánh giá là có nhiều tư chất thông minh và sáng tạo, nhạy
bén trong tiếp thu và tiếp cận tri thức. Đây là điểm nổi trội của nguồn nhân lực
nước ta. Theo Báo cáo phát triển con người của Liên Hiệp Quốc, chỉ số phát
triển con người (HDI) của Việt Nam có sự tăng nhanh và liên tục.
Tuy vậy, xét về mặt chất lượng, nguồn nhân lực nước ta còn khá nhiều
hạn chế. Điều này biểu hiện ở chỗ, thể lực, mức dinh dưỡng cho người Việt Nam
còn ở mức thấp, đặc biệt là trẻ em – nguồn cung cấp nhân lực chính cho xã hội.
Sự hạn chế về thể lực ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng tiếp thu tri thức và trí
thông minh của trẻ. Xu hướng này có chiều hướng ngày càng tăng lên. Trong
những năm qua, Đảng và Nhà nước đã có sự quan tâm, đầu tư thích đáng để cải
thiện và nâng cao thể chất của người Việt Nam nói chung, của trẻ em nói riêng.
Tuy nhiên, vấn đề này không thể khắc phục ngay được trong “một sớm một
chiều”, mà cần phải có thời gian. Bên cạnh đó, thu nhập bình quân đầu người của
Việt Nam còn ở mức thấp so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới và
điều này ảnh hưởng đáng kể đến khả năng tái sản xuất của người lao động.
Tất nhiên, thể lực không phải là yếu tố chính quyết định chất lượng
nguồn nhân lực; song, cũng không thể phủ nhận một thực tế là, nếu con người
13


không được nâng cao thể lực thì cũng khó có thể phát triển được trí tuệ, khả năng
sáng tạo trong học tập và lao động. Mặt trí lực của người lao động được biểu
hiện ở nhiều phương diện khác nhau. Tiêu chí đầu tiên để đánh giá trí lực là trình
độ học vấn, kiến thức khoa học, khả năng vận dụng kiến thức khoa học kỹ thuật
và những kinh nghiệm trong sản xuất mà họ tích luỹ, học tập được. Trí lực của
nguồn nhân lực nước ta còn nhiều điểm hạn chế. Biểu hiện ở những khía cạnh,
như phần lớn lực lượng lao động là lao động phổ thông, số lao động được đào
tạo chuyên môn còn thấp, thợ lành nghề ít… Do vậy, năng lực thực hành và làm
việc độc lập của người lao động chưa cao. Trong những năm qua, Đảng và Nhà

nước ta đã có những chủ trương đúng đắn nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và
đào tạo, như tích cực xoá bỏ tình trạng mù chữ và tái mù chữ, phổ cập giáo dục
tiểu học, trung học, đổi mới nội dung và phương pháp giáo dục… Tuy nhiên,
chất lượng giáo dục và đào tạo hiện vẫn còn nhiều hạn chế, chưa tập trung đào
tạo chuyên sâu và năng lực thực hành.
Về cơ cấu chất lượng nguồn nhân lực của nước ta hiện nay là: Sau nhiều
thập kỷ công nghiệp hóa, vẫn còn khoảng 70% lao động cả nước trong lĩnh vực
nông nghiệp; tỷ lệ học sinh trên triệu dân, tỷ lệ số trường các loại trên triệu dân,
tỷ lệ số trường đại học trên triệu dân; tỷ lệ tốt nghiệp đại học trên triệu dân, tỷ lệ
có học vị tiến sỹ trên triệu dân của nước ta đều cao hơn tất cả các nước có mức
thu nhập bình quân theo đầu người tương đương như Thái Lan, nhưng chất
lượng đang có nhiều vấn đề. Theo điều tra của Bộ giáo dục và đào tạo năm 2006
cho thấy cả nước có tới 63% số sinh viên ra trường không có việc làm, 37% số
còn lại có việc làm thì hầu hết phải đào tạo lại và có nhiều người không làm

14


đúng nghề mình đã học, trong khi đó nhiều doanh nghiệp, kể cả những doanh
nghiệp có FDI và nhiều dự án kinh tế quan trọng khác rất thiếu lực nguồn lực
chuyên nghiệp. Khoảng 2/3 số người có học vị tiến sỹ trong cả nước không làm
khoa học mà đang làm công tác quản lý; số bài báo khoa học được công bố hàng
năm chỉ bằng khoảng ¼ của Thái Lan và bằng 0,00043% của thế giới, mặc dù số
tiến sỹ của ta hàng năm nhận bằng thường nhiều hơn của Thái Lan, có năm cao
gần gấp đôi…
Nguồn nhân lực nước ta đứng trước tình hình: trẻ (tính theo tuổi đời
trung bình – một ưu thế lớn), đông (một ưu thế lớn khác, nước có dân số đứng
thứ 13 trên thế giới), nhưng tỷ lệ tính trên triệu dân của số người có nghề và có
trình độ chuyên môn rất thấp so với tất các nước trong nhóm ASEAN 6 và Trung
Quốc; số cán bộ kỹ trị và có trình độ quản lý cao rất ít so với dân số cũng như so

với quy mô nền kinh tế. Theo điều tra của Diễn đàn kinh tế thế giới năm 2005:
Nguồn nhân lực Việt Nam về chất lượng được xếp hạng 53 trên 59 quốc gia
được khảo sát, song mất cân đối nghiêm trọng:
Ở nước ta cứ 1 cán bộ tốt nghiệp đại học có 1,16 cán bộ tốt nghiệp trung
cấp và 0,92 công nhân kỹ thuật, trong khi đó tỷ lệ này của thế giới là 4 và 10.
Hoặc cứ 1 vạn dân có 181 sinh viên đại học, trong khi đó của thế giới là 100, của
Trung Quốc là 140 mặc dù mức thu nhập quốc dân tính theo đầu người của TQ
khoảng gấp đôi của nước ta… Thực trạng này đã gây ra hiện tượng “thừa thầy
thiếu thợ”, làm mất cân đối trong phát triển chất lượng nguồn nhân lực ở nước ta
hiện nay.

15


Như vậy, chất lượng nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay về cơ bản đẫ đáp
ứng được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển
kinh tế tri thức và quá trình phát triển hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên,
chúng ta cần thẳng thắn nhìn nhận và chấp nhận một thực tế là chất lượng con
người Việt Nam thấp về nhiều mặt so với các nước trong khu vực và trên thế
giới, nhiều bất cập trong quá trình nuôi dưỡng và phát huy nguồn nguồn nhân
lực … Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức
đặt ra những đòi hỏi ngày càng cao về chất lượng nguồn nhân lực. Điều đó buộc
chúng ta phải áp dụng những biện pháp tích cực, đồng bộ nhằm nhanh chóng xây
dựng và bồi dưỡng nguồn nhân lực có chất lượng cao.
Để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn
với phát triển kinh tế tri thức, đòi hỏi chúng ta cần phải nâng cao hơn nữa chất
lượng nguồn nhân lực, đồng thời giải quyết khắc phục triệt để những bất cập hạn
chế của nó. Dưới góc độ tiếp cận và khả năng nhận thức, tác giả đề xuất một số
nội dung biện pháp chủ yếu sau nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng nguồn nhân
lực đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển

kinh tế tri thức ở nước ta hiện nay.
3. Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển
kinh tế tri thức.
Khi mở hội nhập kinh tế quốc tế, một trong những lợi thế của nước ta là
nguồn nhân công đông đảo, giá rẻ. Dưới tác động của phát triển khoa học công

16


nghệ và yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển
kinh tế tri thức thì lợi thế đó không còn nữa và chúng ta đang đứng trước nguy
cơ tụt hậu về chất lượng nguồn nhân lực, thừa lao động phổ thông nhưng lại
thiếu lao động có tay nghề và trình độ cao. Hiện nay ở nước ta đang có khoảng
60.000 lao động nước ngoài làm việc trong các lĩnh vực công nghệ cao, trong khi
đó thì chúng ta là một quốc gia đứng đầu khu vực về xuất khẩu lao động. Vấn đề
này một lần nữa nói lên sự mất cân đối trong cơ cấu, chất lượng nguồn nhân lực
ở nước ta hiện nay. Mặt khác, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với
phát triển kinh tế tri thức đặt ra những đòi hỏi ngày càng cao về chất lượng
nguồn nhân lực. Điều đó buộc chúng ta phải áp dụng những biện pháp tích cực,
đồng bộ nhằm nhanh chóng xây dựng và bồi dưỡng nguồn nhân lực có chất
lượng cao. Để thực hiện được nhiệm vụ “… nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và phát triển kinh
tế tri thức” mà Đại hội Đảng lần thứ X đề ra, cần phải sử dụng một hệ thống giải
pháp đồng bộ, trong đó tập trung vào những vấn đề cơ bản sau:
Thứ nhất, nâng cao chất lượng và hiệu quả của giáo dục và đào tạo.
Giáo dục và đào tạo được coi là khâu then chốt, quyết định chất lượng nguồn
nhân lực. Đảng ta xác định “Giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công
nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực thúc đẩy công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước”.

Xuất phát từ vị trí, vai trò của giáo dục và đào tạo đối với tiến trình bồi
dưỡng nguồn nhân lực, cần thiết phải nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo ở
tất cả các bậc học. Trong đó, bước quan trọng đầu tiên là phải có sự đổi mới cả
17


về mục tiêu, chương trình và phương pháp dạy học từ bậc phổ thông đến đại học
nhằm đảm bảo cung cấp cho người học những kiến thức cơ bản làm nền tảng cho
hoạt động thực tiễn sau này của họ. Phương pháp dạy học phải xuất phát từ mục
tiêu đào tạo, gắn với nội dung và phù hợp với điều kiện của học sinh; rèn luyện
và tạo điều kiện cho học sinh biểu đạt vấn đề theo quan điểm và cách nhìn của
mình, tạo thói quen suy nghĩ độc lập cho người học. Có chính sách đầu tư hợp lý
và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực cho giáo dục và đào tạo, đặc biệt là về đội
ngũ giáo viên; đồng thời, hoàn thiện mạng lưới giáo dục trên toàn quốc, chú
trọng đầu tư phát triển vùng sâu, vùng xa, đặc biệt là vùng đồng bào dân tộc
thiểu số. Xây dựng đội ngũ giáo viên đủ điều kiện đáp ứng được yêu cầu giảng
dạy, phân công lại lực lượng giáo viên theo các vùng miền cho phù hợp, có chính
sách ưu đãi đối với giáo viên hiện đang công tác ở những vùng khó khăn.
Chuẩn hoá đội ngũ giảng viên, đảm bảo sự kết hợp giữa kiến thức
chuyên môn với phương pháp sư phạm hiện đại, có tư cách đạo đức tốt, phương
pháp tư duy khoa học… Các cơ quan quản lý giáo dục, trước hết là Bộ Giáo dục
và Đào tạo, cần xây dựng lộ trình triển khai chuẩn hoá giảng viên cả về số lượng
và chất lượng. Đặc biệt, cần tăng cường giao lưu và hợp tác trong lĩnh vực giáo
dục và đào tạo với các nước có nền giáo dục phát triển. Đồng thời, Nhà nước cần
có sự đầu tư thoả đáng nhằm hoàn thiện cơ sở vật chất phục vụ công tác giảng
dạy, học tập và nghiên cứu ở các trường cao đẳng và đại học, như hệ thống
phòng thí nghiệm, thư viện, giảng đường.
Bên cạnh đó, cần chuẩn hoá chương trình và giáo trình đào tạo đảm bảo
phù hợp với yêu cầu của thực tiễn xã hội, xác định ngành nghề mũi nhọn nhằm
18



đào tạo đội ngũ chuyên gia có trình độ cao. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa
học của giảng viên và sinh viên. Đây là một yêu cầu bắt buộc đối với chương
trình đại học và cao đẳng. Các đề tài nghiên cứu phải có tính thực tiễn cao. Khắc
phục tình trạng phiến diện, chỉ giỏi về lý thuyết nhưng lại kém về thực hành –
một thực tế khá phổ biến mà sinh viên nước ta đang mắc phải. Đổi mới công tác
quản lý giáo dục một cách cơ bản và toàn diện cả về tư duy lẫn phương thức
quản lý theo hướng nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo.
Tập trung vào quản lý nội dung và chất lượng giáo dục và đào tạo, tăng cường
công tác kiểm tra, thanh tra đối với các cơ sở giáo dục và đào tạo. Nhà nước cần
giao quyền tự chủ hơn nữa cho các trường đại học và cao đẳng để các trường có
điều kiện chủ động trong việc hợp tác quốc tế và nghiên cứu khoa học.
Thứ hai, cải thiện và nâng cao thể lực cho con người nói chung và lực
lượng lao động nói riêng.
Bên cạnh việc nâng cao trình độ văn hoá và chuyên môn thì nâng cao thể
lực cho người lao động là vấn đề có ý nghĩa quan trọng, tạo nền tảng cho việc
phát triển trí lực, tâm lực của nguồn nhân lực. Đây là vấn đề có ý nghĩa chiến
lược và lâu dài. Vì vậy, cần phải đảm bảo mức dinh dưỡng cần thiết cho con
người ở mọi lứa tuổi, khuyến khích đẩy mạnh phong trào rèn luyện thể dục thể
thao trong nhân dân… Chú trọng phát triển công nghiệp dược đủ khả năng đáp
ứng được nhu cầu của nhân dân. Đẩy mạnh nghiên cứu dự báo về y tế, các
chương trình khám chữa bệnh miễn phí cho trẻ em, phòng chống dịch bệnh, đặc
biệt là các bệnh có khả năng lây lan nhanh. Thực hiện có hiệu quả công tác chăm

19


sóc và bảo vệ sức khoẻ cho nhân dân, nâng cao tuổi thọ… góp phần phát triển
nguồn nhân lực có chiều sâu.

Thứ ba, khai thác và sử dụng hợp lý nguồn nhân lực.
Nhà nước cần nghiên cứu và đánh giá đầy đủ, chính xác về thực trạng cơ
cấu nhân lực ở từng giai đoạn, làm rõ các nguồn nhân lực thừa và nhân lực thiếu,
xác định nguyên nhân của tình trạng trên; từ đó, áp dụng các chính sách và công
cụ đòn bẩy phù hợp nhằm khai thác, sử dụng hợp lý và hiệu quả nguồn nhân lực.
Đẩy mạnh việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phân luồng trong đào tạo, hướng
nghiệp cho học sinh, qua đó tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng
tích cực, phù hợp với nhu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước. Bên cạnh đó, cần có các chính sách ưu đãi, hỗ trợ nhằm thu hút nguồn
nhân lực từ nơi thừa sang nơi thiếu; từ thành phố, đồng bằng lên vùng sâu, vùng
xa. Trước mắt, cần có kế hoạch sử dụng triệt để và hiệu quả lực lượng lao động
đã qua đào tạo, tránh tình trạng lãng phí như hiện nay (không bố trí được công ăn
việc làm, sử dụng trái ngành nghề đào tạo,…).
Thứ tư, tăng cường công tác dự báo nguồn nhân lực.
Cần nghiên cứu đánh giá thực trạng cơ cấu nhân lực hiện có cũng như dự
báo về nhu cầu nhân lực ở các ngành, lĩnh vực khác nhau nhằm chủ động tránh
tình trạng thừa và thiếu nhân lực. Tăng cường công tác dự báo phát triển nguồn
nhân lực trên phạm vi vùng, ngành và quốc gia đảm bảo sự phù hợp với chiến
lược phát triển kinh tế – xã hội trong từng giai đoạn nhất định. Nhiệm vụ này

20


cần được tiến hành thường xuyên để có sự điều chỉnh cho phù hợp với những
thay đổi của thực tiễn cuộc sống.
Thứ năm, xây dựng chính sách tiền lương hợp lý.
Chính sách tiền lương hợp lý là một trong những động lực quan trọng
kích thích người lao động nâng cao trình độ của mình để đáp ứng được nhu cầu
của công việc, đảm bảo tăng thu nhập và ổn định đời sống. Lợi ích là khâu nhạy
cảm nhất vì mọi hoạt động của con người đều nhằm đạt mục tiêu là lợi ích. Nó là

yếu tố quan trọng đối với việc thúc đẩy tính tích cực, sáng tạo của con người. Có
nhiều loại lợi ích khác nhau, trong đó lợi ích kinh tế là lợi ích cơ bản, hàng đầu.
Vì vậy, chính sách tiền lương, tiền công phải đảm bảo nguyên tắc công bằng xã
hội, tránh tình trạng giải quyết lợi ích theo kiểu bình quân chủ nghĩa.
Tóm lại, để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức như Đại hội
X Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra, chúng ta cần phải thực hiện đầy đủ và đồng
bộ các giải pháp. Giữa các giải pháp có mối quan hệ chặt chẽ và hỗ trợ lẫn nhau
tạo thành một chỉnh thể thống nhất, coi nhẹ hoặc bỏ qua một giải pháp nào đó sẽ
làm ảnh hưởng đến hiệu quả của các giải pháp khác.
KẾT LUẬN
Trong thời đại ngày nay, con người được coi là một '' tài nguyên đặc biệt '', một
nguồn lực của sự phát triển kinh tế. Bởi vậy việc phát triển con người, phát triển
Nguồn nhân lực trở thành vấn đề chiếm vị trí trung tâm trong hệ thống phát triển
các nguồn lực. Chăm lo đầy đủ đến con người là yếu tố bảo đảm chắc chắn nhất
21


cho sự phồn vinh, thịnh vượng của mọi quốc gia. Đầu tư cho con người là đầu
tư có tính chiến lược , là cơ sở chắc chắn nhất cho sự phát triển bền vững.
Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước của nhân dân ta dưới
sự lãnh đạo của Đảng trong những năm qua đã thu được nhiều thành tựu to lớn,
từng bước đưa đất nước thoát khỏi tình trạng khủng hoảng, đạt tốc độ tăng
trưởng kinh tế cao và ổn định, đời sống của nhân dân cũng từng bước được cải
thiện, bộ mặt của xã hội đã có những thay đổi đáng kể. Một trong những tiền đề
để tạo ra sự thành công đó là Đảng ta đã đánh giá đúng vị trí và vai trò của việc
phát triển nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, từng bước xây dựng và phát triển kinh tế tri thức đáp ứng nhu cầu hội
nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Ngày nay, sự ứng dụng ngày càng rộng rãi
những thành tựu của khoa học và công nghệ hiện đại vào quá trình sản xuất đã

làm năng suất lao động tăng nhanh. Tuy nhiên, khoa học và công nghệ dù có sức
mạnh thế nào cũng không thể thay thế hoàn toàn vai trò của con người. Nguồn
nhân lực vẫn đóng một vai trò quan trọng, quyết định quá trình sản xuất, tăng
trưởng và phát triển kinh tế – xã hội. Thế giới đang có xu hướng chuyển từ nền
kinh tế dựa vào sự giàu có của các nguồn tài nguyên sang kinh tế tri thức. Trong
bối cảnh như vậy, nguồn lực con người càng trở thành động lực chủ yếu của sự
phát triển nhanh và bền vững.

22



×