Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

SKKN sử dụng thiết bị môn Vật lí hay, đầy đủ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (118.68 KB, 19 trang )

MỤC LỤC
Nội dung

Trang

Phần một : Thông tin tác giả kinh nghiệm

2

Phần hai: Nội dung kinh nghiệm.
Chương I. Những vấn đề chung

2

1. Đặc điểm tình hình cơ quan, đơn vị

3

2. Lý do chọn kinh nghiệm

4

3. Mục đích của kinh nghiệm

4

4. Phương pháp nghiên cứu viết kinh nghiệm

5

5. Cơ sở khoa học và cơ sở pháp lý



5

Chương II. Nội dung
1. Thực trạng của kinh nghiệm

6

2. Nội dung kinh nghiệm

6

2.1. Giải quyết vấn đề

6-16

2.2. Khả năng áp dụng của kinh nghiệm

16

2.3. Phạm vi, đối tượng áp dụng của kinh nghiệm

16

2.4. Hiệu quả, lợi ích thu được do áp dụng kinh nghiệm

16-17

Chương III. Kết luận và kiến nghị


18-19

Tài liệu tham khảo

19

PHẦN MỘT: THÔNG TIN TÁC GIẢ VIẾT KINH NGHIỆM
1


- Họ và tên tác giả viết kinh nghiệm: Nguyễn Chí Tươi
- Ngày, tháng, năm sinh: 25/01/1978
- Chức vụ, đơn vị công tác: Giáo viên - trường THCS Yên Phú – huyện Văn Yên –
tỉnh Yên Bái.
- Trình độ chuyên môn: Đại học
- Đề nghị xét công nhận kinh nghiệm: Cấp cơ sở
- Lĩnh vực áp dụng: Giáo dục đào tạo
- Tên kinh nghiệm: Kinh nghiệm sử dụng thiết bị trong dạy học môn Vật lí

PHẦN HAI: NỘI DUNG KINH NGHIỆM
2


Chương I. Những vấn đề chung
1. Khái quát đặc điểm tình hình cơ quan, đơn vị
Trường THCS Yên Phú nằm trên địa bàn thôn 4 – xã Yên Phú – huyện Văn
Yên – tỉnh Yên Bái.
Trường được thành lập từ năm 2004, đến nay( năm 2016) nhà trường đã có
bề dày truyền thống dạy và học. Năm học 2016 - 2017, trường trung học cơ sở Yên
Phú có 8 lớp với tổng số 292 học sinh và 16 cán bộ giáo viên, nhân viên.

Các đồng chí cán bộ giáo viên, nhân viên trong trường luôn đoàn kết, giúp
đỡ lẫn nhau và không ngừng phấn đấu trong chuyên môn nghiệp vụ, góp phần đưa
thành tích của Nhà trường ngày càng đi lên.
1.1. Thuận lợi:
- Được sự quan tâm của các cấp lãnh đạo ngành và địa phương, đây là yếu
tố cơ bản giúp nhà trường thực hiện yêu cầu về phổ cập giáo dục THCS nhằm
nâng cao trình độ dân trí ở địa phương và công tác xã hội hóa giáo dục.
- Chính quyền địa phương, cha mẹ học sinh nhận thức được tầm quan trọng
trong việc đào tạo thế hệ trẻ và đồng thuận, quan tâm đến công tác giáo dục.
- Công tác xã hội hóa giáo dục ngày càng tạo thêm nhiều nguồn lực mới
giúp nhà trường củng cố cơ sở vật chất và nâng cao chất lượng giáo dục.
- Cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên nhà trường có tinh thần trách nhiệm
với công việc.
- Cơ sở vật chất nhà trường cơ bản đáp ứng nhu cầu dạy và học. Đã nối
mạng Internet phục vụ công tác quản lí, giảng dạy và các công việc khác.
1.2. Khó khăn:
- Nhận thức của một bộ phận nhỏ cha mẹ học sinh về việc học tập của học
sinh còn hạn chế; đa phần các bậc phụ huynh học sinh là nông dân, khoán trắng
việc học của con cho nhà trường, ít quan tâm.
- Cơ sở vật chất nhà trường đã được bổ xung nhiều trong những năm gần
đây, tuy nhiên còn thiếu phòng chức năng, phòng truyền thống, phòng thư viện...
- Mặt bằng dân trí trong địa bàn trường quản lý còn thấp, 1 số học sinh
còn lười học, từ đó cũng ảnh hưởng phần nào đến việc học của học sinh và chất
lượng giảng dạy của nhà trường.
2. Lý do chọn kinh nghiệm
3


Như chúng ta đã biết, mục tiêu của giáo dục trong đó hoạt động cơ bản là
dạy học là hình thành và phát triển nhân cách cho học sinh. Dạy học không chỉ đơn

thuần cung cấp cho học sinh những tri thức và kinh nghiệm mà loài người đã tích
luỹ được mà phải góp phần tích cực vào việc hình thành và phát triển nhân cách
cho học sinh theo mục tiêu đào tạo. Học sinh cùng được tham gia tích cực chủ động
vào các hoạt động học tập thì các phẩm chất và năng lực cá nhân cá nhân sớm được
hình thành và phát triển hoàn thiện. Năng động sáng tạo là những phẩm chất cần
thiết trong cuộc sống hiện đại nó phải được hình thành ngay khi còn ngồi trên ghế
nhà trường .
Chính vì lẽ đó trong các môn học nói chung và môn vật lí nói riệng, việc đổi mới
phương pháp dạy học theo hướng tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh đã
được các giáo viên áp dụng từ nhiều năm nay, trong đó phương pháp tự nghiên cứu
giúp học sinh tự học, tự sáng tạo được đánh giá là phương pháp có giá trị trí đức
dục lớn nhất.
Bản thân tôi là giáo viên trực tiếp giảng dạy môn Vật lí tôi thấy môn Vật lí là
môn học rất khó với học sinh, để các em học sinh có thể hiểu bài một cách đơn giản
hơn, dễ hiểu hơn. do đó tôi lựa chọn phương pháp dạy tốt nhất cho học sinh rèn
luyện kĩ năng cần thiết theo mục tiêu môn học đã quy định .Với lí do nêu trên tôi
chọn đề tài sáng kiến kinh nghiệm: “ Sử dụng thiết bị dạy học trong môn Vật lí ”.
Nhằm giúp học sinh nắm vững kiến thức và rèn luyện kỉ năng thực hành để chuẩn
bị tốt cho các lớp học sau
3. Mục đích của kinh nghiệm
Góp phần hình thành nhân cách toàn diện cho học sinh, góp phần giáo dục
hướng nghiệp, tạo tiền đề cho việc lựa chọn tương lai. Giúp học sinh có một kiến
thức và kĩ năng cơ bản vận dụng vào đời sống hàng ngày làm quen và thực hành
với nhiều hoạt động nhất là thuộc lĩnh vực điện dân dụng, phục vụ cho nhu cầu sinh
hoạt của gia đình. .
4. Phương pháp nghiên cứu viết kinh nghiệm
- Điều tra thực trạng, thực tế giảng dạy- Nghiên cứu tài liệu
4



- Ứng dụng thực nghiệm để hoàn tất sáng kiến kinh nghiệm: “ Sử dụng thiết
bị dạy học trong môn Vật lí ”
5. Các cơ sở khoa học và cơ sở pháp lý liên quan đến kinh nghiệm
a. Cơ sở khoa học
- Trong luật giáo dục đã ghi rõ giáo dục phổ thông là phải phát huy tính tích cực,
tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh phù hợp với từng lớp học, môn học, tác
động đến tình cảm đem lại niềm vui, hứng thú trong khi học
- Phương pháp tích cực là phương pháp giáo dục - Dạy học theo hướng phát huy
tính tích cực, chủ động sáng tạo của người học thông qua quan sát đồ dùng dạy học
trực quan như : tranh ảnh, mô hình; vật mẫu, bảng phụ.....
Đối tượng nghiên cứu của môn Vật lí, rất đa dạng và nhiều thuộc lĩnh vực khác
nhau .Trong khi đó điều kiện dạy học bộ môn này còn hạn chế về thời gian, không
gian cơ sở vật chất của trường còn thiếu để dạy tốt đòi hỏi người giáo viên cần
khai thác đồ dùng dạy học ở thiết bị trường, sưu tầm tự làm tranh, ảnh , mẫu vật mô
hình xung quanh để đưa vào bài dạy
b. Cơ sở pháp lí:
Định hướng đổi mới phương pháp dạy và học đã được xác định rõ trong nghị
quyết trung ương 4 khóa VII (1-9 ) Nghị quyết trung ương khóa VIII (12- 1996),
được thể chế hóa trong luật giáo dục (2005), được cụ thể hóa trong các chỉ thị của
bộ giáo dục và đào tạo , đặt biệt là chỉ thị số 14 / 1999 (4/ 1999) Luật giáo dục, điều
28.2 đã ghi
“Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động,
sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng
phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm; rèn luyện khả năng vận dụng
kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập
cho học sinh”.

Chương II. Nội dung
5



1. Thực trạng của kinh nghiệm
Hiện nay, song song với việc đổi mới phương pháp dạy học, bộ giáo dục và
đào tạo đã đưa về các trường những thiết bị phục vụ cho việc giảng dạy, nhưng
thực tế còn có nhiều giáo viên ngại sử dụng, ngại triển khai cho học sinh làm thí
nghiệm theo nhóm. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do
thiết bị thí nghiệm chất lượng kém, có những thiết bị mới chỉ sử dụng một vài lần
đã hỏng. Ví dụ như bộ mô đun lắp ráp mạch điện ở vật lí 7; máy phát điện xoay
chiều ở vật lí 9; Bộ thí nghiệm về cân bằng lực - quán tính ( máy A tút ) ở lớp
8 ...Một số trang thiết bị còn thiếu chính xác như nhiệt kế, lực kế, đồng hồ vạn
năng…dẫn đến kết quả thí nghiệm giữa lí thuyết với thực tế khác xa nhau, thiếu
tính thuyết phục đối với học sinh.Trang thiết bị phục vụ cho thí nghiệm còn thiếu
thốn. Còn có sự không đồng bộ giữa việc hướng dẫn thí nghiệm ở sách giáo khoa
với đồ dùng thí nghiệm thực tế ( ví dụ thí nghiệm bài lực điện từ lý 9). Cơ sở vật
chất của các trường chưa đủ đáp ứng nhu cầu dạy học như hiện nay, Hầu hết các
trường ở ngoại thành chưa có phòng học bộ môn, do đó tổ chức cho học sinh làm
thí nghiệm theo nhóm gặp nhiều khó khăn. Bài dạy thì dài ( nhất là phần điện học
vật lý 9 ) do đó làm thí nghiệm theo nhóm khó đảm bảo thời gian trong một tiết
học. Mặt khác học sinh còn chưa quen với việc sử dụng các thiết bị ( nhất là học
sinh có lực học trung bình, yêú) các em thường nghịch đồ dùng thiết bị và biến nó
thành đồ chơi của riêng mình. Hiện nay trường chưa có phòng học bộ môn để tổ
chức các giờ học vật lí, nên việc di chuyển thiết bị thí nghiệm từ phòng học của lớp
này sang phòng học của lớp khác sẽ làm cho giáo viên và học sinh vừa vất vả lại
mất nhiều thời gian, công sức vào việc lắp ráp thí nghiệm, giữ gìn, bảo quản dụng
cụ thí nghiệm …
2. Nội dung của kinh nghiệm
2.1. Giải quyết vấn đề
2.1.1. Nguyên nhân thực trạng

6



Việc trang bị các thiết bị dành cho thực hành còn thiếu nhiều, chưa có phòng
bộ môn đúng quy chuẩn dẫn đến chất lượng dạy học chưa cao, làm cho tiết học
chưa thực sự sinh động, và chưa đạt hiệu quả cao.
2.1.2. Các giải pháp chủ yếu
Qua những năm giảng dạy trước tình hình thực tế trên tôi rất băn khoăn suy
nghĩ mày mò tìm ra nguyên nhân và cách khắc phục. tôi phát hiện ở những bài học
có nhiều tranh ảnh, có sự hổ trợ của các thiết bị dạy học các em hứng thú học hơn.
Tuy nhiên số lượng tranh ảnh phục vụ cho việc dạy - học chưa nhiều, muốn
cho tiết học sinh động đòi hỏi người giáo viên phải biết phối hợp khai thác các
tranh ảnh trong SGK trảnh ảnh sưu tầm từ thực tế cuộc sống có chọn lọc và khai
thác triệt để các thông tin, phương tiện.
Để tổ chức triển khai sử dụng đồ dùng tốt trong bài giảng chúng ta cùng tìm
hiểu đồ dùng dạy học là gì? Vì sao phải đưa dồ dùng vào bài dạy và kết quả như thế
nào?
a) Đồ dùng dạy học là gì ?
Đồ dùng dạy học bao gồm các thiết bị dạy học mà nhờ đó giáo viên minh
hoạ truyền thụ kiến thức cho học sinh, là một trong những điều kiện quan trọng góp
phần nâng cao chất lượng dạy - học, là nội dung nguồn thông tin giúp giáo viên tổ
chức điều khiển hoạt động nhận thức của học sinh. Đồ dùng dạy học bao gồm :
- Tài liệu học tập : các tài liệu học tập tài liệu chuẩn kiến thức, kĩ năng, sách giáo
khoa, sách giáo viên, vở bài tập..
- Các phương tiện thí nghiệm : dụng cụ, hoá chất.
- Các phương tiện và tài liệu trực quan: mô hình, tranh ảnh, bản đồ, mẩu vật, phim,
đèn chiếu, bảng phụ ,băng đĩa ghi âm, băng đĩa ghi hình, đĩa mềm vi tính.
- Các phương tiện kỹ thuật dạy học:
- Phương tiện nghe nhìn: máy chiếu phim, máy chiếu đa năng, máy đèn chiếu,
máy vi tính
- Các phương tiện trực quan khác : bảng phụ cho giáo viên và học sinh.

Trong đó thiết bị dạy học còn thiếu nhiều
b) Vì sao cần thiết sử dụng các đồ dùng dạy học trong dạy - học môn Vật lí
Môn Vật lí là một môn học ứng dụng, gắn liền với kĩ thuật, vì vậy cần có các đồ
dùng dạy học để HS nghiên cứu lí thuyết, làm thí nghiệm và thực hành.
7


Trong phương pháp dạy học theo chương trình mới thì đồ dùng dạy học có vai
trò quan trọng như tôi phân tích ở trên. Nhưng vấn đề tôi muốn trao đổi là sử dụng
các thiết bị dạy học như thế nào cho có hiệu quả trong dạy và học đồng thời phù
hợp với điều kiện thực tế. Nếu chúng ta biết sử dụng các loại đồ dùng dạy học một
cách hợp lí sẽ tạo được ấn tượng đẹp, giúp các em cảm thụ nội dung bài học tốt
hơn.
c) Sử dụng thiết bị như thế nào cho có hiệu quả?
1. Giáo viên cần nắm được mục đích việc sử dụng thiết bị dạy học là gì?
Sử dụng thiết bị dạy học cho thí nghiệm vật lý có hiệu quả chính là việc làm
sống lại trước mắt học sinh các hiện tượng vật lý cần nghiên cứu một cách sinh
động. Từ đó học sinh có hứng thú say mê nghiên cứu khoa học, thích khám phá tìm
tòi để dẫn đến hình thành khái niệm và giúp học sinh lĩnh hội kiến thức mới sâu sắc
hơn, bền vững hơn.
2. Yêu cầu về sự chuẩn bị của giáo viên.
- Xác định chuẩn kiến thức, kỹ năng, thái độ cần đạt trong bài, từ đó giáo viên xây
dựng mục tiêu cụ thể cần đạt trong tiết dạy là gì?.
- Đọc nội dung bài dạy trong chương trình sách giáo khoa, xác định kiến thức, kĩ
năng cần đạt của từng phần để nắm được mục tiêu của thí nghiệm phần đó là gì,
giáo viên biểu diễn thí nghiệm hay học sinh tự tiến hành thí nghiệm, từ đó kết hợp
với đồng chí phụ trách thiết bị chuẩn bị đầy đủ thiết bị phù hợp cho tiết học.
- Giáo viên phải làm trước các thí nghiệm đó (đây là bước bắt buộc) để xem mức
độ thành công của từng thí nghiệm từ đó điều chỉnh kịp thời (nếu cần) đảm bảo thí
nghiệm phải chắc chắn thành công, có như vậy mới đem lại cho học sinh niềm tin

vào khoa học.
3. Giáo viên cần nắm thiết bị dạy học Vật lý THCS chủ yếu dùng
cho hai loại bài đó là: Thiết bị dùng cho bài dạy các thí nghiệm biểu diễn của
giáo viên và thí nghiệm thực hành của học sinh hoặc cả hai.
a) Đối với thí nghiệm biểu diễn:
Trước hết giáo viên phải nắm bắt được cấu trúc của thí nghiệm biểu diễn
gồm:
- TN đặt vấn đề
- TN chứng minh
- TN kiểm chứng (củng cố)
8


Nên trước khi vào bài dạy: Giáo viên cần dùng các thiết bị thí nghiệm đã chuẩn bị
và dựa vào mục tiêu của bài dạy mà đưa ra thí nghiệm đặt vấn đề để gây hứng thú
học tập cho học sinh cả lớp. Sau đây là một ví dụ:
Với bài "Sự khúc xạ ánh sáng" ở lớp 9 giáo viên có thể làm thí nghiệm đặt
vấn đề như sau: Một chiếc ðũa đặt trong bình không có nước:
- Đặt mắt nhìn dọc theo chiếc đũa từ đầu trên xem có nhìn thấy đầu dưới của đũa
không ?
(Học sinh: Phát hiện được, ta không nhìn thấy đầu dưới của chiếc đũa).
- Giữ nguyên vị trí đặt mắt, đổ nước vào bình, liệu có nhìn thấy đầu dưới của đũa
hay không?
(Học sinh: Phát hiện được, bây giờ ta nhìn thấy đầu dưới của chiếc đũa).
Giáo viên: Vậy để giải thích được hiện tượng trên ta cùng nghiên cứu bài học hôm
nay...
Nhìn chung với tất cả các thí nghiệm: Đặt vấn đề, thí nghiệm kiểm chứng, thí
nghiệm chứng minh. để tiến hành thí nghiệm đạt được hiệu quả cao giáo viên phải
tiến hành theo những bước sau.
Bước 1: Giáo viên chia nhóm, giao nhiệm vụ cho các thành viên trong

nhóm.
Chú ý: Mỗi nhóm nên có đủ cả ba đối tượng học sinh và số thành viên trong các
nhóm không được quá nhiều nhằm tạo điều kiện cho các em có thời gian tranh luận
với nhau về kết quả thí nghiệm.
Bước 2: Xác định mục tiêu của thí nghiệm
- Với các thí nghiệm đơn giản giáo viên có thể cho học sinh đọc sách giáo khoa sau
đó các em thảo luận và nêu ra mục tiêu của thí nghiệm đó song giáo viên nhấn
mạnh lại.
- Nếu các thí nghiệm khó và phức tạp thì giáo viên nên chia thành nhiều bước nhỏ
và nêu mục tiêu của từng bước trong thí nghiệm.
Lưu ý: Giáo viên cần phải xác định đúng và đủ mục tiêu của thí nghiệm vì nó có
liên quan trực tiếp đến nội dung của bài học.
Bước 3: Giới thiệu dụng cụ và cách tiến hành thí nghiệm:
+ Phần giới thiệu dụng cụ thí nghiệm:
Yêu cầu giáo viên cần giới thiệu đầy đủ thông tin về các dụng cụ có trong thí
nghiệm. Cụ thể là: Tên gọi, đặc điểm mềm, dẻo, đàn hồi, chịu nhiệt, chịu lực...
9


nhằm giúp các em hiểu được tác dụng của mỗi đồ dùng và sử dụng các thiết bị trên
được hiệu quả và an toàn.
Ví dụ như: Với các cốc đốt thì trước hết phải hướng dẫn các em là trứớc khi đốt cần
phải hơ lửa xung quanh để tránh vỡ, hoặc nhẹ tay với các đồ dùng bằng sứ, thủy
tinh hoặc cần thực hiện các biện pháp an toàn khi học phần điện học và điện từ học
ở lớp 9.
+ Đối với phần cách tiến hành thí nghiệm: Giáo viên phải nêu rõ từng bước
của thí nghiệm để học sinh tiện quan sát và thực hành, nhưng đôi khi với một số thí
nghiệm đơn giản thì có thể cho học sinh đọc cách tiến hành thí nghiệm trong sách
giáo khoa sau đó thảo luận nêu lên cách tiến hành thí nghiệm. Cuối cùng giáo viên
nhấn mạnh cách tiến hành thí nghiệm trước khi cho học sinh thực hành.

Bước 4: Cách bố trí thí nghiệm:
- Nếu các thiết bị của phũng thí nghiệm của trường mà phù hợp với thiết bị nêu ra
trong sách giáo khoa thì giáo viên có thể tiến hành theo phương án của sách giáo
khoa.
- Nếu các thiết bị trong phòng thí nghiệm không có hoặc còn thiếu so với các đồ
dùng bố trí ở sách giáo khoa thì giáo viên tìm cách thay thế các đồ dùng khác như
chúng ta có thể lợi dụng các thiết bị của môn công nghệ (ở phần điện) để phục vụ
môn Vật lý. Ví dụ: Máy biến thế xoay chiều, các loại bóng đèn...có như thế mới
thực hiện tốt mục tiêu bài học.
Bước 5: Tiến hành thí nghiệm.
- Trước khi bắt tay vào làm thí nghiệm giáo viên yêu cầu các nhóm ghi lại các hiện
tượng, số liệu, kết quả mà các em quan sát được qua thí nghiệm đó nhằm giúp cho
quá trình thảo luận nhóm và từ đó xử lí kết quả thí nghiệm được tốt hơn.
- Giáo viên thao tác khi tiến hành thí nghiệm phải thật rõ ràng, không lúng túng để
hoc sinh tiện theo dõi.
- Để đạt được hiệu quả cao, trong khi tiến hành thí nghiệm giáo viên có thể đặt các
câu hỏi khắc sâu về các tình huống trong thí nghiệm nhằm tạo cho học sinh những
tình huống có vấn đề để các em cùng suy nghĩ tháo gỡ từ đó các em hiểu sâu hơn
về thí nghiệm đang làm.
Ví dụ: ở bài "Tính chất ảnh tạo bởi gương phẳng" ở lớp 7 giáo viên sau khi làm
xong thí nghiệm thì có thể đặt câu hỏi như sau: Tại sao phải chọn hai quả pin hoặc
10


hai viên phấn giống nhau? Liệu có thể chọn hai viên phấn hoặc hai quả pin khác
nhau được không?
- Tùy theo từng bài mà giáo viên có thể nêu thêm thí nghiệm thay thế hoặc cho học
sinh tự nghĩ ra thí nghiệm thay thế khác để cho bài học phong phú đa dạng nhằm
phát triển được vốn hiểu biết của học sinh. Nhưng các thí nghiệm thay thế đó đòi
hỏi phải đảm bảo đúng và chính xác mục tiêu của thí nghiệm.

Ví dụ: với bài "Sự khúc xạ ánh sáng" ở lớp 9.
Có thể làm thí nghiệm dùng tia sáng chiếu từ nước sang không khí để thay thế
cho thí nghiệm cắm các đinh ghim ở sách giáo khoa....Càng tạo ra được nhiều các
thí nghiệm thay thế tốt thì càng làm cho giờ học sôi động và phát triển được óc
tưởng tượng và tư duy cho học sinh.
- Với các thí nghiệm thay thế giáo viên có thể hỏi học sinh tại sao thí nghiệm này
có thể thay thế được? Nhằm khắc sâu hơn cho các em về tính chặt chẽ, đúng đắn
của thí nghiệm thay thế đó.
- Nếu cần thì trên các dụng cụ phải có các vật chỉ thị để làm nổi bật lên các bộ
phận đặc biệt cần quan sát hoặc dùng các vật, chất khác hỗ trợ cho vấn đề cần
nghiên cứu.
Ví dụ: Ở thí nghiệm quan sát các tia sáng truyền qua thấu kính hội tụ và thấu
kính phân kì để quan sát rõ hơn các tia sáng thì giáo viên có thể cho thêm ít khói
hương vào sẽ có kết quả tốt hơn...
+ Chỉ bày ra trước mắt học sinh những dụng cụ cần thiết để minh họa hoặc
làm thí nghiệm, không được bày la liệt trước mắt học sinh những dụng cụ đã dùng
xong hoặc chưa dùng tới nhằm tránh trường hợp học sinh không tập chung vào thí
nghiệm của giáo viên.
+ Các thiết bị dùng để tiến hành trong bài yêu cầu cần phải được kiểm tra và
làm trước để đảm bảo giờ thực hành thành công và gây được niềm tin vào khoa học
ở học sinh.
+ Khi các thí nghiệm xảy ra nhanh giáo viên cần lặp lại thí nghiệm để học
sinh có thể theo dõi được.
Ví dụ như: Thí nghiệm phần nhiệt học ở lớp 6 với bài sự nở vì nhiệt của chất
lỏng hoặc chất khí giáo viên cần đổ nước nóng khoảng 50 oc và đổ từ từ thì học sinh
có thể quan sát tốt hiện tượng nở vì nhiệt của chất lỏng...có như vậy mới tạo điều
kiện cho học sinh quan sát tốt hiện tượng cần nghiên cứu nhằm giúp các em rút ra
các nhận xét và kết luận đúng.
11



Bước 6: Xử lí các hiện tượng và kết quả thí nghiệm.
Sau khi tiến hành thí nghiệm xong giáo viên treo bảng phụ để cho các nhóm lần
lượt báo cáo hiện tượng hoặc kết quả thí nghiệm mà học sinh thu thập được qua thí
nghiệm của giáo viên. Sau đó dựa vào bảng kết quả của giáo viên, giáo viên hướng
dẫn học sinh phân tích kết quả thí nghiệm và rút ra kết luận.
Chú ý: Trong phần này nếu kết quả thí nghiệm có sự sai số nhỏ thì giáo viên phải
giải thích thật rõ cho các em để gây được niềm tin của học sinh vào thí nghiệm .
Có thể đưa ra một số gợi ý về việc giải thích kết quả thí nghiệm có sự sai số
trong thí nghiệm biểu diễn của giáo viên cho học sinh như sau:
-Thứ nhất giáo viên phải nắm chắc bản chất của hiện tượng trong thí nghiệm để dựa
vào đó mà giải thích vấn đề .
Ví dụ như: Phần nhiệt học ở lớp 6 và lớp 8 có yêu cầu trong các thí nghiệm
nước phải sôi ở 100 oc nhưng thực tế không thể làm nước sôi ở 100 oc được nên một
số thí nghiệm phần nhiệt có sai số về kết quả một phần là do nguyên nhân này.
Hoặc do trong quá trình làm thí nghiệm ta đã bỏ qua nhiệt lượng truyền qua các
môi trường bên ngoài.
- Thứ hai có thể giải thích kết quả thí nghiệm có sai số là do cách đặt mắt quan sát
đọc kết quả và các thiết bị đo chỉ mang tính chất tương đối đó cũng là nguyên nhân
thường hay gặp ở các thí nghiệm.
Ví dụ: ở chương quang học lớp 9 phần đo độ lớn các góc tới, góc khúc xạ hoặc
phần nhiệt học lớp 6, lớp 8 chúng ta rất hay gặp hiện tượng sai số như nguyên nhân
đã nêu.
- Thứ ba: Có thể là do các thiết bị thí nghiệm lâu không dùng đến dẫn đến các tính
chất lý, hóa của nó bị ảnh hưởng.
Ví dụ như: các điện trở nếu lâu không sử dụng đến thì giá trị của nó không còn
đúng giá trị đã ghi trên nhãn mác nữa. Hoặc các vôn kế, ampe kế ở vật lý 7, 9 nếu
lâu không dùng đến kết quả đo cũng không còn chính xác do ảnh hưởng của môi
trường bên ngoài dẫn đến điện trở của chúng bị thay đổi.
Bước 7: Kết luận.

Giáo viên gọi 2 đến 3 học sinh đọc lại nội dung kết luận vừa tìm ra ở trên.
Giáo viên nhấn mạnh lại kết luận đó và có thể cho học sinh liên hệ thực tế các vấn
đề có liên quan đến thí nghiệm vừa là để khắc sâu kết luận mới tìm được, vừa là
làm cho bài dạy thêm sinh động.
b) Đối với loại bài trong đó có thí nghiệm thực hành của học sinh:
12


Để dạy tốt được loại bài này thì trước hết giáo viên phải hiểu được thế nào là
thí nghiệm thực hành của học sinh, cách tổ chức như thế nào và tác dụng của nó ra
sao?
- Thí nghiệm thực hành: Là thí nghiệm do học sinh tiến hành dưới sự chỉ dẫn của
giáo viên để từ đó các em tự khám phá kiến thức của bài và nắm bắt kiến thức bài
đó.
- Thí nghiệm thực hành có tác dụng: Giúp học sinh nắm vững hơn nội dung bài
học vì học sinh được tự tay gây ra hiện tượng vật lý, đo lường các đại lượng, tìm ra
quy luật, hiện tượng hoặc kiểm tra lại định luật, hiện tượng, do đó học sinh sẽ chú ý
hơn, tin tưởng hơn và hiểu vấn đề một cách cụ thể và sâu sắc hơn.
- Thí nghiệm thực hành rèn luyện cho học sinh kỹ năng, kỹ xảo sử dụng những
dụng cụ đo lường cơ bản như thước, cân, lực kế, ampe kế, vôn kế... do đó có tác
dụng rất lớn trong việc giáo dục kỹ thuật tổng hợp đối với học sinh.
- Thí nghiệm thực hành tạo điều kiện cho học sinh tự lực quan sát, phân tích, phán
đoán để đi đến kết luận, do đó có tác dụng lớn trong việc phát triển năng lực tư duy
của học sinh và giúp các em làm quen với phương pháp nghiên cứu khoa học vật
lý.
- Thí nghiệm thực hành còn kích thích ở học sinh óc tò mò khoa học, lòng ham
muốn học vật lý, lòng ham muốn vận dụng kiến thức vật lý vào đời sống và rèn
luyện cho học sinh ý thức tổ chức, ý thức làm việc có kế hoạch, ý thức bảo vệ của
công.
Vì thí nghiệm thực hành có tác dụng rất lớn như đã phân tích ở trên nên với

giáo viên dạy vật lý để tổ chức thành công được loại bài này thông qua các thiết bị
dạy học thì cần phải thực hiện các công việc sau:
- Việc chuẩn bị cho bài dạy: Trước hết giáo viên phải đọc trước nội dung bài dạy
xác định được đúng và đủ mục tiêu của bài học. Từ đó kết hợp với đồng chí phụ
trách thiết bị lập ra kế hoạch về số lượng các thiết bị để dùng cho bài học được tốt
và cũng như các thí nghiệm biểu diễn của giáo viên thì với thí nghiệm thực hành,
giáo viên cũng phải tiến hành trước tất cả các thí nghiệm để kiểm tra khả năng
thành công của các thí nghiệm đó nhằm gây được niềm tin vào thí nghiệm cho các
em.
- Đặc biệt với loại bài này giáo viên cần yêu cầu các nhóm chuẩn bị giấy để cho
các em thảo luận nhận xét và báo cáo kết quả của nhóm mình.

13


- Với những thí nghiệm nào phức tạp, khó thì giáo viên kết hợp với đồng chí phụ
trách thiết bị sẽ bố trí trước cho các nhóm, còn những thí nghiệm nào đơn giản thì
có thể cho học sinh tự bố trí thí nghiệm và giáo viên đi kiểm tra uốn nắn kịp thời
nếu cần.
- Những thí nghiệm khó và có thể gây nguy hiểm mà giáo viên cần bố trí trước cho
các em đó là các thí nghiệm có liên quan đến các chất gây bỏng (ví dụ nước nóng
phần nhiệt học) hoặc các thí nghiệm có sử dụng tia laze (như phần quang học lớp 9)
cũng như các thí nghiệm có sử dụng đến dòng điện xoay chiều 220v...có như vậy
thì mới đảm bảo giờ học đạt hiệu quả cao và an toàn. Trong phần này cũng đặc biệt
chú ý giáo viên cũng cần có một bộ thí nghiệm của riêng mình để có thể làm mẫu
các thí nghiệm khi học sinh bắt gặp khó khăn.
Sau khi làm xong công tác chuẩn bị thì giáo viên tiến hành các bước dạy như
sau:
Bước 1: Giáo viên chia nhóm, giao nhiệm vụ cho từng thành viên trong nhóm,
chú ý số em trong một nhóm không quá đông để đảm bảo đủ thời gian cho tất cả

các thành viên đều được tiến hành thí nghiệm.
- Các nhóm nờn có cả ba đối tượng học sinh để các em giúp đỡ lẫn nhau trong quá
trình tiến hành thí nghiệm, thảo luận đưa ra nhận xét.
Bước 2: Cho học sinh cả lớp tự đọc hướng dẫn thí nghiệm trong sách giáo
khoa nhằm giúp các em nắm bắt được phần nào mục đích của thí nghiệm, cách tiến
hành thí nghiệm. Trong phần này giáo viên yêu cầu các nhóm thảo luận, viết ra
giấy để các em nêu dự đoán về mục đích của thí nghiệm hoặc dự đoán các hiện
tượng có thể xảy ra khi tiến hành thí nghiệm theo hướng dẫn của sách giáo khoa.
Nhằm tạo cho các em có cảm giác, hứng thú muốn tiến hành các thí nghiệm đó
ngay để kiểm tra nhận xét lý thú trên.
Bước 3: Giáo viên nêu mục đích của thí nghiệm cho học sinh nắm chắc để
tiến hành thí nghiệm theo đúng yêu cầu của bài học. Với các thí nghiệm dễ có thể
cho học sinh thảo luận nêu ra mục đích thí nghiệm sau đó giáo viên chốt lại.
Bước 4: Giới thiệu dụng cụ và cách bố trí thí nghiệm.
- Với dụng cụ thí nghiệm thì giáo viên cũng cần nêu rõ như phần dụng cụ ở thí
nghiệm biểu diễn của giáo viên như đã phân tích.
- Cách bố trí thí nghiệm có thể tiến hành như phần chuẩn bị nêu trên.
Bước 5: Tiến hành thí nghiệm.
- Nếu thí nghiệm nào khó thì giáo viên có thể làm thao tác trước cho các nhóm theo
dõi.
14


- Cho các nhóm làm thí nghiệm theo kế hoạch đã vạch, các nhóm ghi nhanh những
số liệu, hiện tượng quan sát vào một bảng thống kê (mẫu báo cáo thí nghiệm).
- Khi tiến hành thí nghiệm giáo viên cần theo dõi uốn nắn sai sót (nếu có) cho các
em và đảm bảo cho mọi học sinh trong các nhóm đều được làm thí nghiệm, được
quan sát, nhận xét và thảo luận. Nếu các nhóm khi làm thí nghiệm có gặp khó khăn
nào đó thì giáo viên yêu cầu toàn bộ lớp tạm ngừng và hướng dẫn bổ sung thêm,
giáo viên có thể trực tiếp làm lại thí nghiệm đó cho học sinh theo dõi hoặc kiểm tra

lại cách lắp thí nghiệm, cách đọc, đo kết quả thí nghiệm của từng nhóm từ đó đảm
bảo cho thí nghiệm được thành công.
Bước 6: Xử lý kết qủa thí nghiệm thảo luận đưa ra kết luận của từng phần
hoặc cả bài.
- Sau khi làm thí nghiệm xong từng phần giáo viên hướng dẫn học sinh nhận xét để
đi đến kết luận của phần đó hoặc cả bài.
Ví dụ: Về một đồ dùng "Con ve tre" mà giáo viên làm được để phục vụ cho bài độ
cao của âm ở (môn vật lý 7) như sau:
Đồ dùng: Một thanh tre khô mỏng, cứng được khắc ở hai đầu, một sợi dây
mỏng dẹt (dây của băng đài) buộc vào hai đầu của thanh tre đã được uốn cong ở
trên.
- Buộc sợi dây cước nhỏ vào giữa thanh tre.
Cách sử dụng: Dùng tay quay dây thì thanh tre chuyển động và tự phát ra
âm.Tùy theo mức độ quay nhanh hay chậm mà âm phát ra cao hay thấp.
* Lưu ý: Trong phần này để xử lý sai số trong các thí nghiệm giáo viên cần
lưu ý học sinh sai là do ở những nguyên nhân sau:
- Cách đặt mắt đọc kết quả chưa đúng, hoặc cách đặt các thiết bị đo chưa đúng.
Ví dụ: Cách đặt mắt và bình chia độ ở vật lý lớp 6 hoặc ở bài “hiện tượng khúc
xạ ánh sáng" các học sinh thường đặt mắt nhìn ở các góc độ khác nhau nên có thể
dẫn đến các kết quả không theo mong đợi.
- Do cách bố trí thí nghiệm chưa đúng, cẩu thả cũng là nguyên nhân dẫn đến kết
quả có sai số lớn hoặc không thành công.
- Do chưa chú ý nghe hướng dẫn tiến hành thí nghiệm của giáo viên hoặc ở sách
giáo khoa cũng như chưa nắm bắt được mục tiêu của thí nghiệm hoặc chưa hiẻu rõ
tính chất lý, hóa của các thiết bị.

15


-Với các nguyên nhân dẫn đến kết quả thí nghiệm có sai số như đã nêu thì giáo viên

phải bám sát vào đó để giúp đỡ các em sửa chữa có như vậy mới giúp học sinh tin
tưởng vào khoa học và có ý thức, kinh nghiệm hơn khi xử lý các kết quả thí
nghiệm.
* Yêu cầu đối với người phụ trách thiết bị dạy học:
- Sắp xếp các dụng cụ thí nghiệm một cách hợp lý, khoa học, tiện sử dụng.
- Cần kết hợp chặt chẽ với giáo viên vật lý để lập kế hoạch sử dụng thiết bị dạy học
và cùng làm trước các thí nghiệm theo từng bài của chương trình.
- Cùng giáo viên dạy vận chuyển đồ dùng lên lớp khi chưa có phòng học bộ môn.
Có thể trực tiếp hướng dẫn học sinh cùng với giáo viên dạy để quản lý học sinh một
cách chặt chẽ hơn.
- Đồng chí phụ trách phải thường xuyên kiểm tra lại các thiết bị sau mỗi giờ dạy để
có thể đưa ra phương án kịp thời mua bổ sung cho các năm học tiếp theo.
d) Tính mới của kinh nghiệm
- Kinh nghiệm mô tả kĩ các công việc cần làm khi chuẩn bị, sử dụng thiết bị dạy
học khi giảng dạy môn vật lí.
2.2 Khả năng áp dụng của kinh nghiệm:
Kinh nghiệm có thể áp dụng cho những GV dạy môn Vật lí có sử dụng thiết
bị dạy học, áp dụng cho người phụ trách thiết bị tại trường học.
2.3. Phạm vi, đối tượng áp dụng của kinh nghiệm
Đối tượng nghiên cứu: Các tiết dạy và học có sử dụng thiết bị dạy học trong
môn Vật lí ”trong phạm vi trường THCS.
2.4. Hiệu quả, lợi ích thu được do áp dụng kinh nghiệm
a, Hiệu quả do áp dụng kinh nghiệm
- Giáo viên có thêm kinh nghiệm trong việc sử dụng thiết bị dạy học
- Người phụ trách thiết bị làm việc khoa học hơn, chuẩn bị thiết bị dạy học
cho tiết dạy nhanh hơn, chu đáo hơn.
b, Lợi ích thu được khi áp dụng kinh nghiệm
Qua những gì tôi áp dụng trong giảng dạy cũng đem lại cho tôi nhiều lợi ích
trong day- học:
+ Các em yêu thích môn học nhiều hơn, kết quả về mặt nhận thức cao hơn

- Khi chưa áp dụng kinh nghiệm :
16


Xếp loại
Tỉ lệ %

Giỏi
7%

Khá
13%

Trung bình
64%

Yếu
16%

Kém
0

Khá
27%

Trung bình
56%

Yếu
0


Kém
0

- Sau khi áp dụng kinh nghiệm:
Xếp loại
Tỉ lệ %

Giỏi
17%

+ Các em được quan sát, sử dụng thiết bị thực tế nên tham gia phát biểu hăng hái
hơn, làm cho lớp học sôi nổi làm cho giờ học đạt hiệu quả hơn.
+ Các em có thể ứng dụng kiến thức học được trong môn học vào việc giữ vệ sinh
trường lớp, bản thân.
Đề tài sáng kiến kinh nghiệm này tôi đã áp dụng trong nhiều năm qua chất lượng
học sinh được cải thiện rõ rệt.

17


Chương III. Kết luận và kiến nghị
1. Kết luận:
Sau nhiều năm giảng dạy theo phương pháp sử dụng các thiết bị dạy học trong
các giờ lên lớp như đã nêu ở trên, tôi thấy đa số các em học sinh đã biết quan sát,
sử dụng thiết bị, phán đoán các hiện tượng, và từ đó hoàn thành tốt mục tiêu của bài
học; đồng thời các em rất hứng thú khám phá khoa học bộ môn, yêu thích bộ môn
và muốn chiếm lĩnh các kiến thức đó bằng chính năng lực của mình, để từ đó sử
dụng hiệu quả các kiến thức đó vào thực tế cuộc sống của các em.
Một tác dụng lớn hơn cả là các em đã biết, hiểu được và học được phương

pháp học tập của bộ môn Vật lí đó là “phương pháp thực nghiệm” mà các em có thể
vận dụng phương pháp này trong nhiều lĩnh vực trong cuộc sống các em sau này,
và tôi cũng thấy muốn nâng cao chất lượng và hiệu quả việc dạy học môn Vật lí,
mỗi giáo viên bộ môn cần trau dồi cho mình năng lực dạy học. Một đồ dùng thiết bị
dạy học tốt sẽ hổ trợ cho Gv rất nhiều trong giảng dạy đồng thời góp phần giáo dục
tính năng động, sáng tạo làm việc có kế hoạch.
2. Kiến nghị
Để đáp ứng được mục tiêu của đổi mới phương pháp dạy học đặc biệt là với
môn vật lý tôi có một số kiến nghị sau:
- Để tạo điều kiện cho các thí nghiệm vật lý đạt hiệu quả cao cần có phòng học bộ
môn thích hợp theo tiêu chuẩn quy định.
- Nên tổ chức lớp tập huấn về sử dụng thiết bị vật lý cho giáo viên dạy vật lý vào
đầu năm học nhiều hơn nữa.
- Cần có sự đầu tư, bổ sung thường xuyên các thiết bị dạy học để ngày càng đầy đủ
và hiện đại hơn.

18


Tài liệu tham khảo
Khi nghiên cứu, viết nên kinh nghiệm trên tôi đã tham khảo một số tài liệu sau:
- Sách giáo viên Vật lí cấp trung học cơ sở
- Hướng dẫn sử dụng đồ dùng dạy học môn Vật lí của Phạm Văn Thắng
- Thiết bị dạy học môn vật lí cấp trung học cơ sỏ của Nguyễn Phương Nam
Trên đây là những kinh nghiệm của tôi về việc sử dụng thiết bị trong dạy học
môn Vật lí. Tôi đã áp dụng và bước đầu đã đạt được hiệu quả khá khả quan. Tuy
nhiên do thời gian nghiên cứu và trình độ nhận biết còn hạn chế nên không thể
tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy tôi rất mong nhận được sự góp ý, bổ xung của
các đồng nghiệp, hội đồng khoa học cấp trường để kinh nghiệm của tôi được hoàn
thiện hơn áp dụng đạt hiệu quả hơn trong công tác giảng dạy.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

Xác nhận của Nhà trường

Yên Phú, ngày 13 tháng 10 năm 2016
Người viết

Nguyễn Chí Tươi

19



×