Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

TIỂU LUẬN KINH tế CHÍNH TRỊ lý LUẬN và THỰC TIỄN lạm PHÁT, các GIẢI PHÁP để KIỀM CHẾ lạm PHÁT HIỆN NAY ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (116.13 KB, 22 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Lạm phát là một vấn đề kinh tế nóng bỏng và nhạy cảm của kinh tế thị
trường, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống kinh tế, chính trị của mỗi quốc gia và
đời sống xã hội của dân cư. Nó là kết quả tổng hòa các chính sách kinh tế vĩ mô,
các hoạt động kinh tế vĩ mô trong mối quan hệ chặt chẽ và ảnh hưởng tương tác
với bối cảnh chung của nền kinh tế khu vực và thế giới. Lạm phát có tác động
trực tiếp và gián tiếp đến toàn bộ các lĩnh vực hoạt động kinh tế của Chính phủ,
các doanh nghiệp và cá nhân, các quan hệ kinh tế trong nước, kinh tế đối ngoại
của quốc gia, tác động đến tình hình trong khu vực và trên thế giới với những
mức độ khác nhau tùy theo vị thế kinh tế mà nước đó đảm nhận trong khu vực và
trên thế giới.
Ở Việt Nam từ những năm 1999, 2000 đã có những dấu hiệu rất rõ dàng
của lạm phát, đặc biệt là những năm từ 2004 đến nay vấn đề lạm phát luôn là vấn
đề nóng bỏng đòi hỏi chính phủ phái giải quyết. Tuy nhiên, lạm phát của Việt
Nam vẫn ở mức cao có tác động rất lớn đến đời sống của nhân dân, tới các hoạt
động của các doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế. Vấn đề kinh tế lớn nhất của
nước ta hiện nay là làm thế nào kiềm chế lạm phát.
Việc nghiên cứu lạm phát để tìm ra nguyên nhân, biện pháp khắc phục là
điều cần thiết phải quan tâm của mỗi quốc gia. Cùng với tình hình chung của thế
giới ở Việt Nam hiện nay cũng rất cần có các biện pháp để kiềm chế lạm phát
hiệu quả để ổn định chính sách kinh tế vĩ mô. Vậy lạm phát hiện nay ở nước ta
do nguyên nhân gì? cần những biện pháp khắc phục như thế nào? Với lý do trên,
tôi chọn chủ đề: “Lý luận và thực tiễn lạm phát, các giải pháp để kìêm chế lạm
phát hiện nay ở Việt Nam.”

1


NỘI DUNG
I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ LẠM PHÁT
1.1. Khái niệm, nguồn gốc của lạm phát


1.1.1. Khái niệm
Đã có rất nhiều quan điểm khác nhau về lạm phát và mỗi quan điểm đều
có cơ sở cho luận điểm và những lý luận của mình.
Theo L.V.chandeler, D.C cliner với trường phái lạm phát giá cả thì khẳng
định: lạm phát là sự tăng giá hàng bất kể dài hạn hay ngắn hạn , chu kỳ hay đột
xuất.
G.G. Mtrukhin lại cho rằng: Trong đời sống, tổng mức giá cả tăng trước
hết thông qua việc tăng giá không đồng đều ở từng nhóm hàng hoá và rút cuộc
dẫn tới việc tăng giá cả nói chung. Với ý nghĩa như vậy có thể xem sự mất giá
của đồng tiền là lạm phát. Ông cũng chỉ rõ: lạm phát, đó là hình thức tràn trề tư
bản một cách tiềm tàng ( tự phát hoặc có dụng ý) là sự phân phối lại sản phẩm xã
hội và thu nhập quốc dân thông qua giá cả giữa các khu vực của quá trình tái sản
xuất xã hội, các ngành kinh tế và các giai cấp, các nhóm dân cư xã hội.
Ở mức bao quát hơn P.A.Samuelson và W.D.Nordhaus trong cuốn “Kinh
tế học” đã được dịch ra tiếng Việt, xuất bản năm 1989 cho rằng lạm phát xẩy ra
khi mức chung của giá cả chi phí tăng lên.
Với luận thuyết “Lạm phát lưu thông tiền tệ “ J.Bondin và M. Friendman
lại cho rằng lạm phát là đưa nhiều tiền thừa vào lưu thông làm cho giá cả tăng
lên. M.Friedman nói “ lạm phát ở mọi lúc moị nơi đều là hiện tượng của lưu
thông tiền tệ. Lạm phát xuất hiện và chỉ có thể xuất hiện khi nào số lượng tiền
trong lưu thông tăng lên nhanh hơn so với sản xuất”
Như vậy, tất cả những luận thuyết, những quan điểm về lạm phát đã nêu
trên đều đưa ra những biểu hiện ở một mặt nào đó của lạm phát, và theo quan
điểm của cá nhân về vấn đề này sau khi nghiên cứu một số luận thuyết ở trên thì
2


nhận thấy ở một khía cạnh nào đó của lạm phát thì: khi mà lượng tiền đi vào lưu
thông vượt mức cho phép thì nó dẫn đến lạm phát, đồng tiền bị mất giá so với tất
cả các loại hàng hoá khác.

Trong kinh tế học, lạm phát là sự tăng lên theo thời gian của mức
giá chung của nền kinh tế, trong một nền kinh tế, lạm phát là sự mất giá trị thị
trường hay giảm sức mua của đồng tiền. Khi so sánh với các nền kinh tế khác thì
lạm phát là sự phá giá tiền tệ của một loại tiền tệ so với các loại tiền tệ khác.
Thông thường theo nghĩa đầu tiên thì người ta hiểu là lạm phát của đơn vị tiền tệ
trong phạm vi nền kinh tế của một quốc gia, còn theo nghĩa thứ hai thì người ta
hiểu là lạm phát của một loại tiền tệ trong phạm vi thị trường toàn cầu. Phạm vi
ảnh hưởng của hai thành phần này vẫn là một chủ đề gây tranh cãi giữa các nhà
kinh tế học vĩ mô. Ngược lại với lạm phát là giảm phát. Giảm phát là tình trạng
mức giá chung của nền kinh tế giảm xuống.
Lạm phát được đo lường bằng cách theo dõi sự thay đổi trong giá cả của
một lượng lớn các hàng hóa và dịch vụ trong một nền kinh tế. Giá cả của các loại
hàng hóa và dịch vụ được tổ hợp với nhau để đưa ra một "mức giá cả trung
bình", gọi là mức giá trung bình của một tập hợp các sản phẩm. Chỉ số giá cả là
tỷ lệ mức giá trung bình ở thời điểm hiện tại đối với mức giá trung bình của
nhóm hàng tương ứng ở thời điểm gốc. Tỷ lệ lạm phát thể hiện qua chỉ số giá
cả là tỷ lệ phần trăm mức tăng của mức giá trung bình hiện tại so với mức giá
trung bình ở thời điểm gốc. Để dễ hình dung có thể coi mức giá cả như là phép
đo kích thước của một quả cầu, lạm phát sẽ là độ tăng kích thước của nó.
Không tồn tại một phép đo chính xác duy nhất chỉ số lạm phát, vì giá trị
của chỉ số này phụ thuộc vào tỷ trọng mà người ta gán cho mỗi hàng hóa trong
chỉ số, cũng như phụ thuộc vào phạm vi khu vực kinh tế mà nó được thực hiện.
Các phép đo phổ biến của chỉ số lạm phát bao gồm:
3


Chỉ số giá sinh hoạt (CLI) là sự tăng trên lý thuyết giá cả sinh hoạt của
một cá nhân so với thu nhập, trong đó các chỉ số giá tiêu dùng (CPI) được giả
định một cách xấp xỉ. Các nhà kinh tế học tranh luận với nhau là có hay không
việc một CPI có thể cao hơn hay thấp hơn so với CLI dự tính. Điều này được

xem như là "sự thiên lệch" trong phạm vi CPI. CLI có thể được điều chỉnh bởi
"sự ngang giá sức mua" để phản ánh những khác biệt trong giá cả của đất đai hay
các hàng hóa khác trong khu vực (chúng dao động một cách rất lớn từ giá cả thế
giới nói chung).
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) đo giá cả các hàng hóa hay được mua bởi
"người tiêu dùng thông thường" một cách có lựa chọn. Trong nhiều quốc gia
công nghiệp, những sự thay đổi theo phần trăm hàng năm trong các chỉ số này là
con số lạm phát thông thường hay được nhắc tới. Các phép đo này thường được
sử dụng trong việc chuyển trả lương, do những người lao động mong muốn có
khoản chi trả (danh định) tăng ít nhất là bằng hoặc cao hơn tỷ lệ tăng của CPI.
Đôi khi, các hợp đồng lao động có tính đến các điều chỉnh giá cả sinh hoạt, nó
ngụ ý là khoản chi trả danh định sẽ tự động tăng lên theo sự tăng của CPI, thông
thường với một tỷ lệ chậm hơn so với lạm phát thực tế (và cũng chỉ sau khi lạm
phát đã xảy ra).
Chỉ số giá sản xuất (PPI) đo mức giá mà các nhà sản xuất nhận được
không tính đến giá bổ sung qua đại lý hoặc thuế doanh thu. Nó khác với CPI là
sự trợ cấp giá, lợi nhuận và thuế có thể sinh ra một điều là giá trị nhận được bởi
các nhà sản xuất là không bằng với những gì người tiêu dùng đã thanh toán. Ở
đây cũng có một sự chậm trễ điển hình giữa sự tăng trong PPI và bất kỳ sự tăng
phát sinh nào bởi nó trong CPI. Rất nhiều người tin rằng điều này cho phép một
dự đoán gần đúng và có khuynh hướng của lạm phát CPI "ngày mai" dựa trên
lạm phát PPI ngày "hôm nay", mặc dù thành phần của các chỉ số là khác nhau;
một trong những sự khác biệt quan trọng phải tính đến là các dịch vụ.
4


Chỉ số giá bán buôn đo sự thay đổi trong giá cả các hàng hóa bán buôn (thông
thường là trước khi bán có thuế) một cách có lựa chọn. Chỉ số này rất giống với
PPI.
Chỉ số giá hàng hóa đo sự thay đổi trong giá cả của các hàng hóa một cách

có lựa chọn. Trong trường hợp bản vị vàng thì hàng hóa duy nhất được sử dụng
là vàng. Khi nước Mỹ sử dụng bản vị lưỡng kim thì chỉ số này bao gồm cả vàng
và bạc.
Chỉ số giảm phát GDP dựa trên việc tính toán của tổng sản phẩm quốc
nội: Nó là tỷ lệ của tổng giá trị GDP giá thực tế (GDP danh định) với tổng giá trị
GDP của năm gốc, từ đó có thể xác định GDP của năm báo cáo theo giá so sánh
hay GDP thực tế. Nó là phép đo mức giá cả được sử dụng rộng rãi nhất. Các
phép khử lạm phát cũng tính toán các thành phần của GDP như chi phí tiêu dùng
cá nhân. Tại Mỹ, Cục Dự trữ Liên bang đã chuyển sang sử dụng khử lạm phát
tiêu dùng cá nhân và các phép khử lạm phát khác để tính toán các chính sách
kiềm chế lạm phát của mình.
Chỉ số giá chi phí tiêu dùng cá nhân (PCEPI). Trong "Báo cáo chính sách
tiền tệ cho Quốc hội" sáu tháng một lần ("Báo cáo Humphrey-Hawkins") ngày
17 tháng 2 năm 2000, Federal Open Market Committee (FOMC) nói rằng ủy ban
này đã thay đổi thước đo cơ bản về lạm phát của mình từ CPI sang "chỉ số giá cả
dạng chuỗi của các chi phí tiêu dùng cá nhân".
1.1.2. Nguồn gốc của lạm phát
a. Lạm phát do cầu kéo
Lạm phát xuất hiện khi mà nhiều người có trong tay một khoản tiền lớn và
họ sẵn sàng chi trả cho một hàng hoá hay dịch vụ với mức giá cao hơn bình
thường. Khi nhu cầu về một mặt hàng tăng lên sẽ kéo theo sự tăng lên về giá cả
của mặt hàng đó. Giá cả của các mặt hàng khác cũng theo đó leo thang, dẫn đến
sự tăng giá của hầu hết các loại hàng hoá trên thị trường. Lạm phát do sự tăng
5


lên về cầu được gọi là “lạm phát do cầu kéo”, nghĩa là cầu về một hàng hoá hay
dịch vụ ngày càng kéo giá cả của hàng hoá hay dịch vụ đó lên mức cao hơn. Các
nhà khoa học mô tả tình trạng lạm phát này là”quá nhiều tiền đuổi theo quá ít
hàng hoá”.

b. Lạm phát do chi phí đẩy
Chi phí của các doanh nghiệp bao gồm tiền lương, giá cả nguyên liệu đầu
vào, máy móc, chi phí bảo hiểm cho công nhân, thuế... Khi giá cả của một hoặc
vài yếu tố này tăng lên thì tổng chi phí sản xuất của các xí nghiệp chắc chắn
cũng tăng lên. Các xí nghiệp vì muốn bảo toàn mức lợi nhuận của mình sẽ tăng
giá thành sản phẩm. Mức giá chung của toàn thể nền kinh tế cũng tăng.
c. Lạm phát do câù thay đổi
Giả dụ lượng cầu về một mặt hàng giảm đi, trong khi lượng cầu về một
mặt hàng khác lại tăng lên. Nếu thị trường có người cung cấp độc quyền và giá
cả có tính chất cứng nhắc phía dưới (chỉ có thể tăng mà không thể giảm), thì mặt
hàng mà lượng cầu giảm vẫn không giảm giá. Trong khi đó mặt hàng có lượng
cầu tăng thì lại tăng giá. Kết quả là mức giá chung tăng lên, dẫn đến lạm phát.
d. Lạm phát do cơ cấu
Ngành kinh doanh có hiệu quả tăng tiền công danh nghĩa cho người lao
động. Ngành kinh doanh không hiệu quả, vì thế, không thể không tăng tiền công
cho người lao động trong ngành mình. Nhưng để đảm bảo mức lợi nhuận, ngành
kinh doanh kém hiệu quả sẽ tăng giá thành sản phẩm. Lạm phát nảy sinh từ đó.
e. Lạm phát do xuất khẩu
Xuất khẩu tăng dẫn tới tổng cầu tăng cao hơn tổng cung, hoặc sản phẩm
được huy động cho xuất khẩu khiến lượng cung sản phẩm cho thị trường trong
nước giảm khiến tổng cung thấp hơn tổng cầu. Lạm phát nảy sinh do tổng cung
và tổng cầu mất cân bằng.
f. Lạm phát do nhập khẩu
6


Khi giá hàng hoá nhập khẩu tăng thì giá bán sản phẩm đó trong nước cũng
tăng. Lạm phát hình thành khi mức giá chung bị giá nhập khẩu đội lên.
g. Lạm phát tiền tệ
Cung tiền tăng chẳng hạn do ngân hàng trung ương mua ngoại tệ vào để

giữ cho đồng tiền ngoại tệ khỏi mất giá so với trong nước; hay chẳng hạn do
ngân hàng trung ương mua công trái theo yêu cầu của nhà nước khiến cho lượng
tiền trong lưu thông tăng lên là nguyên nhân gây ra lạm phát.
Lạm phát loại này nguyên nhân là do lượng tiền trong nền kinh tế quá
nhiều, vượt quá mức hấp thụ của nó, nghĩa là vượt quá khả năng cung ứng giá trị
của nền kinh tếế́. Có thể do ngân hàng trung ương lưu thông lượng tiền quá lớn
trong nền kinh tế bằng các nghiệp vụ thị trường mở hay chính sách tiền tệ lới
lỏng. Khi lượng tiền lưu thông quá lớn, ví dụ trong tay bạn có nhiều hơn 100
triệu..., thì sự tiêu dùng theo đó mà tăng rất lớn theo xã hội. ÁP lực cung hạn chế
dẫn tới tăng giá trên thị trường, và do đó sức ép lạm phát tăng lên.
h. Lạm phát đẻ ra lạm phát
Đó là tâm lý dự trữ, giá tăng lên người dân tự phán đoán, tự suy nghĩ là
đồng tiền không ổn định thì giá cả sẽ tăng cao tạo nên tâm lý dự trữ đẩy mạnh
tiêu dùng hiện tại tổng cầu trở nên cao hơn tổng cung hàng hóa sẽ càng trở nên
khan hiếm kích thích giá lên gây ra lạm phát.
1.2. Tác động của lạm phát và những biện pháp kiểm soát lạm phát
1.2.1. Tác động của lạm phát
a. Tác động tích cực
Nhà kinh tế đoạt giải Nobel James Tobin nhận định rằng lạm phát (tỷ lệ
tăng giá mang giá trị dương) vừa phải sẽ có lợi cho nền kinh tế. Ông dùng từ
"dầu bôi trơn" để miêu tả tác động tích cực của lạm phát. Mức lạm phát vừa phải
làm cho chi phí thực tế mà nhà sản xuất phải chịu để mua đầu vào lao động giảm
7


đi. Điều này khuyến khích nhà sản xuất đầu tư mở rộng sản xuất. Việc làm được
tạo thêm. Tỷ lệ thất nghiệp sẽ giảm.
b. Tác động tiêu cực
Trong trường hợp lạm phát có thể được dự kiến trước thì các thực thể
tham gia vào nền kinh tế có thể chủ động ứng phó với nó, tuy vậy nó vẫn gây ra

những tổn thất cho xã hội:
Lạm phát giống như một thứ thuế đánh vào người giữ tiền và lãi suất danh
nghĩa bằng lãi suất thực tế cộng với tỷ lệ lạm phát nên lạm phát làm cho người ta
giữ ít tiền hay làm giảm cầu về tiền. Khi đó họ cần phải thường xuyên đến ngân
hàng để rút tiền hơn. Các nhà kinh tế đã dùng thuật ngữ "chi phí mòn giày" để
chỉ những tổn thất phát sinh do sự bất tiện cũng như thời gian tiêu tốn mà người
ta phải hứng chịu nhiều hơn so với không có lạm phát.
Lạm phát thường sẽ dẫn đến giá cả tăng lên, các doanh nghiệp sẽ mất
thêm chi phí để in ấn, phát hành bảng giá sản phẩm.
Làm thay đổi giá tương đối một cách không mong muốn: trong trường
hợp do lạm phát doanh nghiệp này tăng giá (và đương nhiên phát sinh chi phí
thực đơn) còn doanh nghiệp khác lại không tăng giá do không muốn phát sinh
chi phí thực đơn thì giá cả của doanh nghiệp giữ nguyên giá sẽ trở nên rẻ tương
đối so với doanh nghiệp tăng giá. Do nền kinh tế thị trường phân bổ nguồn lực
dựa trên giá tương đối nên lạm phát đã dẫn đến tình trạng kém hiệu quả xét trên
góc độ vi mô.
Lạm phát có thể làm thay đổi nghĩa vụ nộp thuế của các cá nhân trái với ý
muốn của người làm luật do một số luật thuế không tính đến ảnh hưởng của lạm
phát. Ví dụ: trong trường hợp thu nhập thực tế của cá nhân không thay đổi nhưng
thu nhập danh nghĩa tăng do lạm phát thì cá nhân phải nộp thuế thu nhập trên cả
phần chênh lệch giữa thu nhập danh nghĩa và thu nhập thực tế.
8


Lạm phát gây ra sự nhầm lẫn, bất tiện: đồng tiền được sử dụng để làm
thước đo trong tính toán các giao dịch kinh tế, khi có lạm phát cái thước này co
giãn và vì vậy các cá nhân khó khăn hơn trong việc ra các quyết định của mình.
Đối với lạm phát không thể dự đoán được, đây là loại lạm phát gây ra
nhiều tổn thất nhất vì nó phân phối lại của cải giữa các cá nhân một cách độc
đoán. Các hợp đồng, cam kết tín dụng thường được lập trên lãi suất danh nghĩa

khi lạm phát cao hơn dự kiến người đi vay được hưởng lợi còn người cho vay bị
thiệt hại, khi lạm phát thấp hơn dự kiến người cho vay sẽ được lợi còn người đi
vay chịu thiệt hại. Lạm phát không dự kiến thường ở mức cao hoặc siêu lạm phát
nên tác động của nó rất lớn.
Các nhà kinh tế có quan điểm rất khác nhau về quy mô của các tác động
tiêu cực của lạm phát, thậm chí nhiều nhà kinh tế cho rằng tổn thất do lạm phát
gây ra là không đáng kể và điều này được coi là đúng khi tỷ lệ lạm phát ổn định
và ở mức vừa phải. Khi lạm phát biến động mạnh, tác động xã hội của nó thông
qua việc phân phối lại của cải giữa các cá nhân một cách độc đoán rõ ràng là rất
lớn và do vậy chính phủ của tất cả các nước đều tìm cách chống lại loại lạm phát
này.
1.2.2. Những biện pháp chủ yếu kiểm soát lạm phát
Chính sách tiền tệ, để kiềm chế lạm phát thì các ngân hàng sử dụng các
công cụ như lãi suất, việc tăng lãi suất bằng cách giảm cung tiền thông qua các
chính sách tiền tệ để kiềm chế lạm phát. Hay bằng việc ổn định tỷ giá hối đoái
cũng sẽ góp phần kiềm chế lạm phát hiệu quả hơn.
Chính sách thúc đẩy sản xuất, do lượng hàng hoá thiếu nên giá cả tăng cao
vì vậy để kiềm chế lạm phát chính là quá trình thúc đẩy sản xuất phát triển. Bằng
các công cụ như: giảm thuế cho các doanh nghiệp sản xuất, thuế nhập khẩu hàng
hoá mà trong nước hông thể sản xuất hoặc sản xuất nhưng vẫn còn thiếu so với
9


nhu cầu trong nước. Ưu đãi về lãi suất cho vay sản xuất, ưu đãi nguyên nhiên vật
liệu.....
II. LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Lạm phát ở Việt nam và nguyên nhân lạm phát hiện nay ở Việt Nam.
2.1.1. Lạm phát ở Việt Nam hiện nay
Lạm phát là một trong bốn yếu tố quan trọng nhất của mọi quốc gia (tăng
trưởng cao, lạm phát thấp, thất nghiệp ít, cán cân thanh toán có số dư). Tình hình

lạm phát hiện nay ở Việt Nam lên tới mức báo động là 2 con số, vượt qua
ngưỡng lạm phát cho phép tối đa là 9% của mỗi quốc gia. Điều này sẽ dẫn đến
nhiều tiêu cực trong đời sống kinh tế của chính phủ: làm suy yếu nền kinh tế
quốc gia. Bên cạnh đó là sự tác động mạnh tới đời sống của người dân, nhất là
dân nghèo khi giá cả ngày càng leo thang.
Nhìn chung, lạm phát ở nước ta từ năm 2004 đến nay luôn ở mức khá cao.
Ngay từ những tháng đầu năm 2004, khi xu hướng lạm phát mạnh bắt đầu có dấu
hiệu tăng mạnh, đã có rất nhiều khẳng định lạm phát cả năm tuy vượt qua con số
5% mà Quốc hội đề ra nhưng sẽ không bao giờ vượt quá con số 7,5%. Thế rồi
mỗi tháng trôi qua, liên tục các dự báo đều thất bại, và cuối năm 2004 thì lạm
phát gần bằng hai con số.
Từ năm 2007 đến nay, lạm phát luôn cao hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm giai đoạn 2004-2010 khoảng
7,1%, trong khi đó lạm phát bình quân hàng năm khoảng gần 11%. Năm 2007
Chính phủ đã phải chỉ đạo Ngân hàng nhà nước bơm 7 tỷ USD để kích thích sản
xuất trong nứơc nhằm kiềm chế lạm phát.
Mức lạm phát nói trên ở nước ta cũng cao hơn nhiều so với lạm phát của
các nước trong khu vực. Ví dụ, lạm phát bình quân hàng năm ở Trung Quốc giai
đoạn 2004-2010 khoảng 3%, ở Indonesia khoảng 8,4%, Thái Lan khoảng 3,1%,
10


Malaysia khoảng 2,7% và Philipine khoảng 5,8%,v.v… Ba tháng đầu năm nay,
lạm phát ở nước ta vẫn ở mức cao và diễn biến phức tạp được dự đoán khoảng
trên 20%.
Lạm phát cao và bất ổn kinh tế vĩ mô là bất lợi lớn đối với khuyến khích
và thu hút đầu tư; làm cho môi trường kinh doanh ở nước ta kém cạnh tranh hơn
so với các nước khác. Lạm phát cao, biến động liên tục đã làm gia tăng chi phí
sản xuất, giảm lợi nhuận; làm cho các kế hoạch đầu tư trung và dài hạn trở nên
rủi ro hơn và không dự tính được một cách chắc chắn. Hệ quả là, các doanh

nghiệp nói chung không những phải cắt giảm đầu tư phát triển, mà có thể phải
cắt giảm cả quy mô sản xuất hiện hành để đối phó với lạm phát cao.
Thực tế cho thấy, lượng vốn FDI đăng ký ba tháng đầu năm nay chỉ bằng
52% của cùng kỳ năm ngoái. Lần đầu tiên trong hơn 10 năm qua, số doanh
nghiệp đăng ký mới và số vốn đăng ký đã giảm xuống, chỉ bằng khoảng 75% của
cùng kỳ năm ngoái. Điều tra của Hiệp hội doanh nghiệp châu Âu cũng cho thấy
chỉ số lạc quan kinh doanh của các doanh nghiệp thành viên ở Việt Nam trong
quý I/2012 đã giảm đáng kể. Lạm phát cao (nhưng tiền lương và thu nhập bằng
tiền khác của người lao động không tăng lên tương ứng) đã làm cho thu nhập
thực tế của họ giảm xuống. Ví dụ, trong hai năm qua, lạm phát đã làm cho thu
nhập thực tế của người lao động mất hơn 20%; từ đó, đời sống của đa số dân cư
đã trở nên khó khăn hơn nhiều so với trước đây. Lạm phát cao làm giảm giá trị
thực của đồng tiền nội tệ, làm xói mòn giá trị số tiền tiết kiệm của dân chúng;
làm giảm lòng tin và mức độ ưa chuộng của người dân trong việc nắm giữ và sử
dụng đồng nội tệ. Điều đó vừa gây áp lực thêm đối với lạm phát, bất ổn kinh tế
vĩ mô trước mắt, vừa làm xói mòn nền tảng phát triển lâu dài trong trung và dài
hạn.
Thực trạng lạm phát ở nước ta như trình bày trên đây có nhiều nguyên
nhân. Giá cả trên thị trường thế giới tăng cao và các điều kiện quốc tế bất lợi
11


khác rõ ràng có tác động đến giá cả và lạm phát ở nước ta. Tuy vậy, lạm phát cao
kéo dài và sự chênh lệch rất lớn giữa lạm phát ở nước ta và các nước trong khu
vực, kể cả các nước có nền kinh tế mở hơn, chứng tỏ các nguyên nhân chủ quan,
bên trong vẫn là chủ yếu.
2.1.2. Nguyên nhân của lạm phát ở Việt Nam thời gian qua
Nhóm các nguyên nhân chính từ bối cảnh kinh tế toàn cầu:
Thứ nhất: Giá dầu và giá nguyên nhiên vật liệu đầu vào của sản xuất liên
tục gia tăng: Trong 4 năm từ 2003-2006 kinh tế toàn cầu liên tục tăng trưởng cao,

đặc biệt là nhóm các nước “mới nổi” ở khu vực Châu á, nhất là Trung Quốc đã
đẩy nhu cầu năng lượng toàn cầu tăng cao đột biến, cùng với những bất ổn và
xung đột chính trị quân sự tại khu vực Trung Đông là các nguyên nhân trực tiếp
đẩy giá dầu lên cao chưa từng có trong lịch sử 110 USD/thùng trong tháng
3/2008, đồng thời giá các nguyên vật liệu đầu vào khác như sắt thép, phân bón,
xi măng cũng liên tục gia tăng. Như vậy, giá dầu đã tăng 72%, sắt thép tăng
114%, phân bón tăng 59,6%, khí hoá lỏng tăng 95% kể từ đầu năm 2007 đến
tháng 3/2008 và đây cũng là mức tăng cao nhất từ trước tới nay.
Thứ hai: Giá lương thực, thực phẩm liên tục gia tăng: xuất phát từ quá
trình biến đổi khí hậu toàn cầu, thiên tai dịch bệnh diễn ra liên tiếp, cùng với
những năm tăng trưởng kinh tế mạnh trên thế giới – là những năm quá trình công
nghiệp hoá được đẩy mạnh khiến diện tích đất sử dụng cho trồng trọt, chăn nuôi
bị thu hẹp. Tất cả những điều trên làm sản lượng lương thực – thực phẩm ngày
càng giảm mạnh. Ngoài ra, giá năng lượng tăng cao đã khiến nhiều nước sử dụng
một sản lượng lớn ngũ cốc chuyển sang sản xuất nhiên liệu sinh học càng làm
cho nguồn cung lương thực đã giảm càng giảm sút.
Thứ ba: Một khối lượng tiền lớn được đưa ra nền kinh tế toàn cầu: Trước
việc giá dầu và giá lương thực – thực phẩm liên tục leo thang đã tạo nên cú sốc
cung rất lớn đẩy lạm phát toàn cầu tăng cao, tình hình này đã buộc các NHTW
12


phải tăng các mức lãi suất chủ chốt để kiềm chế lạm phát, cụ thể: Nhật Bản tăng
1 lần từ 0,25%- 0,5%/năm; khu vực đồng Euro tăng 2 lần từ 3,5%-3,75%4,0%/năm; Anh tăng 3 lần từ 5%-5,5%/năm (trong đó có 1 lần giảm); Thuỵ Điển
tăng 4 lần từ 3,0%-4,0%/năm; Trung Quốc tăng 6 lần từ 6,12-7,47%/năm.
Việc các nước thực hiện thắt chặt tiền tệ thông qua tăng lãi suất chủ đạo
cùng với việc giá dầu, giá lương thực – thực phẩm tiếp tục tăng cao chính là
nguyên nhân cơ bản đã đẩy nền kinh tế toàn cầu rơi vào suy thoái vào những
tháng đầu năm 2008, mà biểu hiện là cuộc khủng hoảng cho vay dưới tiêu chuẩn
của Mỹ bắt đầu từ tháng 7/2007. Và hiện nay là các cuộc khủng hoảng nợ công

của các nước Châu Âu hiến nhiều người lo ngại. Trước bối cảnh lạm phát gia
tăng và kinh tế toàn cầu rơi vào suy thoái, các NHTW không còn cách nào khác
là phải bơm một lượng tiền khổng lồ để cứu vãn nền kinh tế, trong đó riêng Mỹ
từ tháng 8/2007 đến nay đã phải đưa ra nền kinh tế trên 2.300 tỷ USD, trong đó
có 800 tỷ USD tiền mặt để cứu vãn hệ thống ngân hàng, NHTW Châu Âu đã
tung ra các gói cứu trợ hàng trăm tỷ Ơrô, Nhật Bản, Anh cũng phải đưa một
lượng tiền lớn để cứu vãn nền kinh tế cũng như hệ thống ngân hàng; cùng với
việc một số NHTW phải thực hiện cắt giảm lãi suất từ tháng 8/2007 trở lại đây
như Mỹ, Anh, Canada. Việc cứu vãn nền kinh tế thế giới rơi vào suy thoái bằng
biện pháp đưa hàng nghìn tỷ USD ra nền kinh tế lại càng đẩy lạm phát toàn cầu
tiếp tục tăng cao.
Năm 2011, thiên tai ở Nhật Bản làm cho nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới dơi
vào khủng hoảng trầm trọng, sản xuất bị đình đốn. Nhiều công ty mẹ lớn nhất thế
giới đã đống cửa làm cho sản xuất các công ty con bị đình đốn dẫn tới thiếu
lượng hàng hoá cho nhu cầu sản xuất và tiêu dùng. Đây cũng là 1 nguyên nhân
tác động tới lạm phát ở Việt Nam.
Tuy nhiên câu hỏi đặt ra là cùng một bối cảnh thế giới như nhau, tại sao
các nước khác như Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia lại có mức lạm phát thấp
13


hơn so với lạm phát của Việt Nam? Vậy, mức lạm phát của Việt Nam tăng cao
trong thời gian vừa qua ngoài những yếu tố thế giới thì còn những nguyên nhân
nào khác? Nguyên nhân bên trong của nền kinh tế Việt Nam là gì?
Nhóm các nguyên nhân chính từ nội tại nền kinh tế Việt Nam:
Thứ nhất: Chi phí sản xuất tăng cao: Trước bối cảnh lạm phát toàn cầu gia
tăng đã tác động làm giá hầu hết các nhóm hàng nhập khẩu của Việt Nam gia
tăng mạnh mẽ như xăng dầu, sắt thép, phân bón, thuốc trừ sâu – là những nguyên
nhiên vật liệu đầu vào chính của sản xuất. Mặc dù Chính phủ đã cố gắng kiểm
soát giá xăng dầu, nhưng từ đầu năm 2007 đến hết Quý I/2012 giá xăng dầu đã

phải điều chỉnh tăng 8 lần, tính chung giá xăng dầu đã tăng tới 38%, giá thép
tăng 91%, giá điện tăng 7,6%; giá than tăng 30%; giá xi măng tăng 15%; giá
phân bón tăng 58%. Điều này đã tác động làm chi phí sản xuất tăng cao.
Thứ hai: Giá lương thực, thực phẩm tăng cao: biến đổi khí hậu toàn cầu
trên thế giới không những tác động đến nhiều quốc gia mà Việt Nam cũng bị ảnh
hưởng nặng nề. Chỉ trong tháng 10/2007, miền Trung phải hứng chịu 5 cơn bão
liên tiếp, trong khi đó dịch bệnh trong chăn nuôi, trồng trọt như cúm gia cầm, lợn
tai xanh, lở mồm long móng ở lợn, vàng lùn ở lúa cùng với rét đậm, rét hại khiến
cho nguồn cung lương thực – thực phẩm bị sụt giảm.
Mặc dù Chính phủ đã ban hành Công văn 639/BTM-XNK ngày 16/8/2007
và Công văn số 266/TTg-KTTH ngày 21/2/2008 để khống chế lượng gạo xuất
khẩu tối đa nhằm kiểm soát lạm phát và đảm bảo an ninh lương thực trong nước,
nhưng việc giá lương thực, thực phẩm thế giới tăng cao đã khiến giá gạo xuất
khẩu và giá một số mặt hàng thực phẩm xuất khẩu khác như thuỷ hải sản gia
tăng cộng với chi phí sản xuất tăng cao đã đẩy giá lương thực, thực phẩm trong
nước tăng cao ở mức 18,92% năm 2007 và 14,45% trong QI/2008, cao gấp 5 lần
so với mức tăng 4,18% của quý I/2007, trong khi nhóm này có quyền số 42,85%,
lớn nhất trong rổ hàng hoá CPI, có thể nói đây là nguyên nhân chủ yếu tác động
14


làm CPI tăng mạnh. Bên cạnh đó là giá Gas, giá các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu
khác...cũng tăng rất cao.
Thứ ba: Chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ liên tục mở rộng từ
2001-2006 nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế: Trong vòng 5 năm kinh tế Việt
Nam liên tục tăng trưởng ở mức rất cao trên 8%, và mục tiêu của giai đoạn này
đối với Chính phủ Việt Nam là ưu tiên tăng trưởng kinh tế. Với mục tiêu này đã
khuyến khích cho “chính sách tài chính, tiền tệ nới lỏng đã thực hiện trong nhiều
năm liền nhưng quản lý chưa chặt chẽ” nhằm mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế, và đây cũng là nhân tố góp phần khiến lạm phát bình quân từ 2005 đến 2007

tăng trên 8,01% và từ năm 2008 đến nay lạm phát luôn ở trên 2 con số. Tín dụng
ngân hàng cho nền kinh tế tăng mạnh trong một thời gian dài nhằm phục vụ mục
tiêu tăng trưởng kinh tế là một nguyên nhân quan trong làm gia tăng tổng
phương tiện thanh toán trong nền kinh tế. Các ngân hàng cũ mở rộng tín dụng
bằng việc nới lỏng điều kiện cho vay, cạnh tranh nhau bằng giảm lãi suất cho
vay, tăng lãi suất huy động để tìm kiếm nguồn vốn cho vay, chuyển đổi mô hình,
liên doanh liên kết với các doanh nghiệp, tập đoàn để tăng vốn điều lệ, mở rộng
mạng lưới nhanh chóng vượt quá khả năng quản trị, cho thành lập thêm các ngân
hàng mới và tất cả các ngân hàng chủ yếu đua nhau tìm kiếm lợi nhuận từ nghiệp
vụ cho vay nên càng làm cho tín dụng của hệ thống ngân hàng tăng cao trong
suốt năm 2007 và hiện nay, các vụ điều tra các ngân hàng cho thấy tuy chỉ đạo
của Ngân hàng nhà nước là giảm lãi suất huy động nhưng vẫn có các ngân hàng
thương mại vượt trần lãi suât. Tiêu biểu như ngân hàng Sacombank do làm ăn
thua lỗ nên hàng trăm cổ dông đã thoái vốn khỏi ngân hàng này, chắc chắn ngân
hàng này sẽ đổ vỡ trong thời gian tới.Đó là nguyên nhân rất quan trong gây sức
ép rất lớn làm gia tăng lạm phát trong thời gian qua.
Thứ tư: Luồng vốn nước ngoài vào Việt Nam gia tăng mạnh: bắt đầu từ
cuối năm 2006 khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức
15


thương mại thế giới (WTO) (thực tế trên văn bản là 11/1/2007 nhưng chúng ta đã
bắt đầu thực hiện cam kết từ cuối năm 2006), cùng với những cải cách về cơ chế
chính sách và môi trường đầu tư đã tạo điều kiện cho các luồng vốn nước ngoài
đổ vào Việt Nam tăng mạnh. Năm 2007 luồng vốn FDI tăng 20,3 tỷ USD vốn
đăng ký, cao hơn nhiều so với mức 10,2 tỷ USD của năm 2006, đặc biệt là luồng
vốn đầu tư gián tiếp gia tăng mạnh mẽ khoảng trên 6 tỷ, gấp 5 lần con số của
năm 2006 mà chủ yếu đổ vào thị trường chứng khoán, trái phiếu đặc biệt là đổ
vào IPO các doanh nghiệp nhà nước lớn. Đứng trước bối cảnh này, Ngân hàng
nhà nước đã phải cung ứng một lượng lớn tiền VND để mua ngoại tệ vào nhằm

mục tiêu ổn định và phá giá nhẹ tỷ giá để hỗ trợ xuất khẩu, thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế và điều này làm cho tổng phương tiện thanh toán tăng cao, tác động làm
lạm phát gia tăng.
2.2. Biện pháp để khắc phục lạm phát hiện nay ở Việt Nam
Để iềm chế lạm phát đòi hỏi nhiểu chính sách trong ngắn và dài hạn, trong
đó các giải phát dài hạn có ý nghĩa quan trọng đòi hỏi phải thực hiện triệt để.
Những biện pháp tình thế
Những biện pháp này được áp dụng với mục tiêu giảm tức thời “cơn sốt
lạm phát “ trên cơ sở đó sẽ áp dụng các biện pháp ổn định tiền tệ lâu dài . Các
biện pháp này thường được áp dụng khi nền kinh tế lâm vào tình trạng siêu lạm
phát .
Thứ nhất: các biện pháp tình thế thường được chính phủ các nước áp dụng,
trước hết là giảm lượng tiền giấy trong nền kinh tế như ngừng phát hành tiền vào
lưu thông. Biện pháp này còn gọi là chính sách đóng băng tiền tệ. Tỷ lệ lạm phát
tăng cao ngay lập tức ngân hàng trung ương phải dừng các biện pháp có thể đưa
đến tăng cung ứng tiền tệ như ngừng thực hiện các nghiệp vụ triết khấu và tái
triết khấu đối với các tổ chức tín dụng, dừng việc mua vào các chứng khoán ngắn
hạn trên thị trường tiền tệ, không phát hành tiền bù đắp bội chi ngân sách. Nhà
16


nước áp dụng các biện pháp làm giảm lượng tiền cung ứng trong nền kinh tế
như: ngân hàng trung ương bán ra các chứng khoán ngắn hạn trên thị trường tiền
tệ, bán ngoại tệ và vay , phát hành các công cụ nợ của chính phủ để vay tiền
trong nền kinh tế bù đắp cho bội chi ngân sách nhà nước, tăng lãi suất tiền gửi
đặc biệt là tăng lãi suất tiền gửi tiét kiệm dân cư. Các biện pháp này rất có hiệu
lực vì trong một thời gian ngắn nó có thể giảm bớt được một khối lượng khá lớn
tiền nhàn rỗi trong dân cư do đó giảm được sức ép lên giá cả hàng hoá và dịch vụ
trên thị trường . Ở Việt Nam các biện pháp này cũng đã được áp dụng thành công
vào cuối những năm 80, đầu những năm 90 .

Thứ hai: thi hành chính sách tài chính thắt chặt như tạm hoãn những khoản
chi chưa cần thiết trong nền kinh tế, cân đối lại ngân sách và cắt giảm chi tiêu
đến mức có thể được. Phải dừng ngay những dự án chưa cần thiết mà cần lượng
vốn đầu tư lớn.
Thứ ba: tăng quỹ hàng hoá tiêu dùng để cân đối với số lượng tiền có trong lưu
thông bằng cách khuyến khich tự do mậu dịch, giảm nhẹ thuế quan và các biện
pháp cần thiết khác để thu hút hàng hoá từ ngoài vào đặc biệt là hàng hoá phục
vụ sản xuất như điện, xăng dầu, nguyên nhiên vật liệu.
Thứ tư: cải cách tiền tệ , đây là biện pháp cuối cùng khi các biện pháp trên
chưa đem lại hiệu quả mong muốn và lạm phát đã ở mức rất cao không thể kiểm
soát. Tuy nhiên sử dụng biện pháp này sẽ tác động lớn tới mọi mặt đời sống kinh
tế xã hội. Nên thận trọng khi sử dụng giải pháp này.
Những biện pháp chiến lược
Đây là những biện pháp có tác động lâu dài đến sự phát triển của nền kinh
tế quốc dân . Tổng hợp các biện pháp này sẽ tạo ra sức mạnh kinh tế lâu dài cho
đất nước
Thứ nhất: thúc đẩy sự phát triển sản xuất hàng hoá và mở rộng lưu thông
hàng hoá. Đây là biện pháp chiến lược hàng đầu để hạn chế lạm phát, duy trì sự
17


ổn định tiền tệ trong nền kinh tế quốc dân. Sản xuất trong nước càng phát triển
thì càng tạo tiền đề vững chắc cho sự ổn định tiền tệ. Chú trọng thu hút ngoại tệ
qua việc xuất khẩu hàng hoá , phát triển ngành du lịch …
Thứ hai: kiện toàn bộ máy hành chính, cắt giảm biên chế quản lý hành chính
nhằm giảm những chi tiêu lớn của chính phủ. Thực hiện tốt biện pháp này sẽ góp
phần to lớn vào việc giảm chi tiêu thường xuyên của ngân sách do đó giảm bội
chi ngân sách nhà nước .
Thứ ba: tăng cường công tác quản lý điều hành ngân sách nhà nước trên cơ sở
tăng các khoản thu cho ngân sách một các hợp lý, chống thất thu, đặc biệt là thất

thu về thuế , nâng cao hiệu quả của các khoản chi ngân sách nhà nước.
Thứ năm: có chính sách lâu dài ổn định các mặt hàng chiến lược, thay thế
nhập khẩu các mặt hàng như điện, xăng, gas, các mặt hàng chiến lược tác động
tới sản xuất.
Tuy nhiên với mức độ lạm phát cao như hiện nay ở Việt Nam cần sử dụng
đồng bộ nhiều giải pháp sau:
Trước hết phải khống chế tỷ lệ bội chi ngân sách ở dưới mức 5% GDP.
Bởi và bội chi ngân sách là một nhân tố quan trọng gâỵ ra sự mất cân đối giữa
cung và cầu.
Phải nâng cao sản lượng hàng hoá trên cơ sở đẩy mạnh phát triển sản xuất
công, nông nghiệp, cụ thể là tạo ra nhiều lương thực, thực phẩm, một số hàng
hoá là tư liệu sản xuất và các loại hàng hoá là nhiên liệu, năng lượng. Mặt khác
cần tiếp tục đổi mới cơ cấu kinh tế và cải tiến công nghệ, cải tiến kỹ thuật đảm
bảo từng bước giảm chi phí sản xuất.
Về lĩnh vực ngân hàng với trách nhiệm là một ngành đóng vai trò quan
trọng nhất trong việc kiềm chế lạm phát, cần tiến hành các bước sau :
Nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng trên cơ sở tích cực huy động vốn và
cho vay hiệu quả các dự án
18


Kiểm soát chặt chẽ cung ứng tiền tệ của ngân hàng nhà nước cho mục tiêu
ngoại tệ, ổn định thị trường ngoại tệ và tỷ giá đồng Việt Nam.
Nâng cao hiệu quả sử dụng công cụ dự trữ bắt buộc.
Tăng cường hiệu lực của công tác thanh tra đối với ngân hàng thương mại.
Xử lý tôt mối quan hệ với ngân sách nhà nước, phát triển thị trường vốn,
đồng thời xúc tiến nhanh việc thiết lập thị trường chứng khoán ở Việt Nam và sự
hoà nhập của thị trường này vào cộng đồng kinh tế quốc tế, nhất là từ khi Việt
Nam trở thành thành viên thứ 7 của khối ASEAN để thu hút nhanh chóng hơn
nữa nguồn vốn nước ngoài góp phần phát triển kinh tế đất nước.

Ngoài ra cần tổ chức quản lý nợ nước ngoài có kế hoạch và sử dụng có hiệu
quả các nguồn vốn vào Việt Nam dưới nhiều hình thức khác nhau như vay vốn
của IMF, WB, ADB,..
Tóm lạ, trong tình hình hiện nay cần có sự phối hợp đồng bộ giữa các
ngành, các cấp trong việc thực hiện có hiệu quả về chính sách kinh tế vi mô và vĩ
mô của nhà nước (giải quyết tốt vấn đề thâm hụt ngân sách, chấn chỉnh hoạt
động xuất nhập khẩu, điều hành tốt giá cả và lưu thông hàng hoá,..) để đảm bảo
vừa tăng trưởng kinh tế vừa kiềm chế lạm phát ở mức tốt nhất.

19


KẾT LUẬN
Lạm phát là vấn đề kinh tế có ý nghĩa rất to lớn, nó không chỉ ảnh hưởng
tới tốc độ tăng trưởng kinh tế mà còn tác động đến đời sống nhân dân. Nếu
không có chính sách phù hợp sẽ làm cho xã hội có nhiều biến động. Ở Việt Nam
từ năm 2004 đến nay lạm phát luôn có những những biến phức tạp và ở mức cao.
Đòi hỏi Chính phủ cần có những biện pháp cụ thể để kiềm chế lạm phát.
Trong nội dung bài viết đã đề cập đến những vấn đề lý luận cơ bản của
lạm phát, và thực trạng lạm phát ở nước ta hiện nay. Đồng thời đề suất một số
giải pháp kiềm chế lạm phát cơ bản có thể áp dụng hiện nay.

20


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lý thuyết lạm phát, giảm phát và thực tiễn ở Việt Nam.
Tập thể tác giả:PTS:Nguyễn Minh Phong,TS:Võ Đại Lược,TS:Nguyễn Thị
Hiền, Và một số tác giả khác.
2. Giáo trình KTVM – DHKTQD

Giáo trình Lý Thuyết Tài chính Tiền Tệ
3. Tạp chí Thông tin kinh tế
4. Tạp chí Thông tin tài chính
5. Tạp chí Phát triển kinh tế

21


22



×