Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Cơ sở lý luận và thực tiễn áp dụng nguyên tắc Lex Rei sitae- luật nơi có tài sản ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.02 KB, 10 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Khi một chủ thể nước này mang tài sản, vốn liên doanh, hoạt động thương mại tại một quốc
gia khác sẽ làm phát sinh các quan hệ sở hữu có yếu tố nước ngoài. Các quan hệ sở hữu này có đặc
trưng khác biệt lớn nhất với các quan hệ sở hữu trong nước và luôn chịu sự điều chỉnh của ít nhất
hai hệ thống pháp luật. Tuy nhiên do sự khác nhau về trình độ phát triển kinh tế, chế độ, chính trị,
văn hóa,…nên pháp luật các nước có những qui định khác nhau vấn đề về sở hữu. Chính từ sự
khác nhau đó đã dẫn đến hệ quả tất yếu là trong quan hệ sở hữu có yếu tố nước ngoài luôn xảy ra
xung đột pháp luật về quyền sở hữu. Vấn đề đặt ra là giải quyết xung đột về quyền sở hữu trong
quan hệ sở hữu có yếu tố nước ngoài như thế nào hay là xác định hệ thống pháp luật của nước nào
sẽ được áp dụng để điều chỉnh quan hệ đó? Hiện nay, trong theo quy định pháp luật Việt Nam và
các điều ước mà Việt Nam kí kết hay gia nhập có quy định nguyên tắc giải quyết xung đột pháp
luật về sở hữu là nguyên tắc “ luật nước nơi có tài sản” để giải quyết các vấn đề về quyền sở hữu.
Để hiểu rõ thêm về vấn đề này, nhóm chúng em đã chọn đề tài “ Cơ sở lý luận và thực tiễn áp
dụng nguyên tắc Lex Rei sitae- luật nơi có tài sản ở Việt Nam hiện nay” để nghiên cứu, tìm
hiểu. Trong quá trình tìm tòi, nghiên cứu, làm bài mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng do trình độ
và thời gian còn hạn chế nên bài làm của chúng em vẫn không tránh khỏi những thiếu sót. Nhóm
chúng em rất mong nhận được sự góp ý của các quí thầy cô giáo để bài làm của chúng em thêm
phần hoàn chỉnh.
Nhóm chúng em xin chân thành cảm ơn !!!


1
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA NGUYÊN TẮC LUẬT NƠI CÓ TÀI SẢN TRONG TƯ
PHÁP QUỐC TẾ VIỆT NAM.
1. Khái niệm nguyên tắc luật nơi có tài sản.
Nguyên tắc luật nơi có tài sản dựa trên cơ sở học thuyết quy chế lãnh thổ, theo đó, khi tài
sản tồn tại ở lãnh thổ quốc gia nào thì việc giải quyết các vấn đề liên quan đến tài sản luôn
thuộc về quyền tài phán của pháp luật quốc gia nơi hiện có tài sản, pháp luật các nước đều thừa
nhận luật áp dụng điều chỉnh các vấn đề liên quan tới tài sản là luật nước nơi có tài sản đó, đặc
biệt là đối với tài sản là bất động sản. Thuật ngữ “ Lex rei sitae ” trong tư pháp quốc tế được
hiểu là: Nguyên tắc theo đó quan hệ pháp luật về tài sản có nhân tố nước ngoài được điều chỉnh


theo pháp luật của nước nơi có tài sản, động sản, và bất động sản tọa lạc. Pháp luật của nước
nơi có tài sản quy định cả những điều kiện phát sinh, chuyển nhượng và chấm dứt quyền tài sản.
Nguyên tắc “ Lex rei- sitae” được ghi nhận trong pháp luật quốc gia và cả trong các điều ước
quốc tế. Ví dụ: Khoản 3, Điều 32 “ Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lí về các vấn đề dân sự,
gia đình và hình sự” giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên bang Nga quy
định: “ Đối với hình thức hợp đồng về bất động sản thì phải tuân theo pháp luật của nước kí kết
nơi có bất động sản”. Theo thông lệ quốc tế, đối với các đồ vật riêng biệt, luật pháp của nước
nơi có tài sản tọa lạc được áp dụng. Đối với một số động sản hữu hình như tàu biển, máy bay,
hoặc đối với các tài sản vô hình như “trái quyền” không thể định rõ cư sở (domicile) các tài sản
đó theo thông lệ quốc tế thì lấy luật pháp của nơi có “cơ sở pháp định” là hải cảng, cảng hàng
không, căn cứ tàu biển, máy bay hoặc cư sở của người thụ trái để áp dụng.
2. Cơ sở lý luận nguyên tắc luật nơi có tài sản trong tư pháp quốc tế Việt Nam.
Trong tư pháp quốc tế Việt Nam áp dung nguyên tắc luật nơi có tài sản dựa trên
những cơ sở lý luận sau.
2.1. Ý nghĩa nguyên tắc luật nơi có tài sản trong tư pháp quốc tế Việt Nam.
2. 1.1. Đối với nhà nước nơi có tài sản đang tồn tại: Nguyên tắc này thể hiện sự tôn trọng
pháp luật và lợi ích của quốc gia nơi tài sản đang thực tế tồn tại do:
Thứ nhất, quyền sở hữu là quyền cơ bản, quan trọng, là nền tảng của nền kinh tế. Nó chi
phối hoạt động kinh tế ở mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ. Cũng không sai khi nói rằng chế độ sở
hữu sẽ quyết định chế độ chính trị của mỗi quốc gia. Và để đảm bảo tôn trọng lợi ích nhà nước
nơi có tài sản( bảo đảm trật tự công của quốc gia), Nhà nước thực thi chủ quyền của mình đối
với con người và mọi tài sản trên lãnh thổ của quốc gia mình. Chính vì thế, đối với bất kì quốc
gia nào thì việc xây dựng quy chế pháp lý tài sản là một vấn đề trọng tâm, nó ảnh hưởng lớn
đến toàn bộ cấu trúc kinh tế, chính trị- xã hội của quốc gia đó. Vì vậy, pháp luật của hầu hết các
nước không áp dụng pháp luật quốc tịch của chủ sở hữu tài sản đối với quy chế pháp lý tài sản.
Mặc dù với sự di chuyển, phân bổ dòng vốn từ nước này sang nước khác thì tài sản di chuyển
sang lãnh thổ quốc gia nào sẽ luôn chịu sự chi phối, điều chỉnh của pháp luật quốc gia đó, cụ
thể, pháp luật quốc gia sẽ quy định đối tượng tài sản được phép mang vào lãnh thổ quốc gia là
những loại tài sản nào? Nhằm mục đích gì? Phạm vi quyền sử dụng đối với tài sản. Bởi vậy,
xuất phát từ lý do bảo vệ nền kinh tế, từ chủ quyền của quốc gia, pháp luật các nước muốn dùng

2
pháp luật nơi có tài sản – đối tượng của quyền sở hữu tồn tại để điều chỉnh quan hệ sở hữu có
yếu tố nước ngoài.
Thứ hai, xuất phát từ lí do chủ quyền quốc gia, pháp luật các nước dùng nguyên tắc luật nơi
có tài sản để giải quyết các vấn đề về quyền sở hữu khi tài sản là bất động sản. Vì thực tế, bất
động sản là một bộ phận quan trọng của lãnh thổ quốc gia nên không thể có chuyện đem luật
của một quốc gia khác áp dụng đối với một phần lãnh thổ quốc gia mình. Điều này sẽ vi phạm
đến chủ quyền của quốc gia.
2.1.2 . Đối với cơ quan giải quyết tranh chấp.
Nguyên tắc luật nơi có tài sản còn giúp các cơ quan có thẩm quyền trong trường hợp thụ lý
giải quyết các vấn đề quyền sở hữu có yếu tố nước ngoài khi các bên tranh chấp có quốc tịch
khác nhau sẽ dễ dàng hơn trong việc chọn luật. Ví dụ : Một công dân Anh và một công dân Mỹ
có tranh chấp về quyền sở hữu đối với 1 tài sản tồn tại ở việt nam. Nếu theo nguyên tắc luật
nhân thân thì trong trường hợp này sẽ áp dụng luật của Anh hay của Mỹ để giải quyết tranh
chấp về sở hữu trên. Trong khi đó thật dễ dàng hơn nhiều nếu áp dụng nguyên tắc pháp luật của
nước nơi có tài sản- pháp luật việt nam.
2.1.3. Thuận lợi cho chủ sở hữu thực hiện các giao dich , các quyền của mình đối với tài sản,
đồng thời bảo vệ lợi ích của chủ sở hữu tài sản trong việc thực hiện quyền của mình.
Chằng hạn trong trường hợp người nước ngoài đến làm ăn, sinh sống lâu dài tại Việt
nam và đã tích lũy được một số lượng động sản tại viêt nam( lúc này, họ gắn bó với quốc gia
mà họ là công dân về mặt pháp lý còn việt nam mới là nơi mà họ gắn bó thực tế, nơi họ thực
hiện các quyền và nghĩa vụ chủ yếu, thường xuyên) khi điều chỉnh các quan hệ về sở hữu động
sản của họ mà áp dụng nguyên tắc luật quốc tịch thì hoàn toàn không thuận lợi và không phù
hợp với thực tế.
Trong xu thế hội nhâp như hiện nay, đặc biệt là các chính sách mở cửa của chính phủ
việt nam đã thu hút lượng lớn người nước ngoài đến việt nam làm ăn sinh sống lâu dài. Một
vấn đề đặt ra là bảo hộ quyền sở hữu của họ tại Việt nam như thế nào? Dựa vào những phân
tích trên thì quyền sở hữu của người nước ngoài đối với tài sản tại Việt Nam sẽ được điều chỉnh
theo nguyên tắc luật nơi có tài sản- Hệ thống pháp luật Việt Nam.
2.2. Phạm vi áp dụng nguyên tắc luật nơi có tài sản trong tư pháp quốc tế Việt Nam.

Mặc dù khác biệt về kinh tế, chính trị, trình độ phát triển nhưng khi giải quyết xung
đột về quyền sở hữu, hấu hết các quốc gia trên thế giới đều lựa chọn nguyên tắc luật nơi có tài
sản- Lex reisitae, đặc biệt là đối với tài sản là bất động sản. Điều 23 khoản 1 Luật về tư pháp
quốc tế Ba Lan quy định: “ Quyền sở hữu và các quyền tài sản chịu sự điều chỉnh của pháp luật
nước nơi có tài sản ”. Hay khoản 1, Điều 766 BLDS Việt Nam có quy định: “ Việc xác lập, thực
hiên, thay đổi chấm dứt quyền sở hữu tài sản, nội dung quyền sở hữu đối với tài sản được xác
định theo pháp luật của nước nơi có tài sản đó”. Ví dụ: Chị A và anh B cùng yêu cầu cơ quan
có thẩm quyền tại Việt Nam giải quyết tranh chấp về quyền sở hữu đối với 1 căn biệt thự là tài
sản chung của anh chị đã tạo lập nên khi còn ở Hàn Quốc. Như vậy, căn cứ theo nguyên tắc luật
của nước nơi có tài sản thì hệ thống pháp luật được áp dụng để giải quyết tranh chấp trong
trường hợp này là luật của Hàn Quốc.
3
Thứ nhất, nguyên tắc này được áp dụng trong việc giải quyết xung đột pháp luật về định
danh tài sản. Vì mỗi nước có quy chế pháp lý khác nhau về định danh tài sản nên áp dụng luật
nơi có tài sản để xác định tính chất tài sản như phân biệt bất động sản, động sản, tài sản hữu
hình, tài sản vô hình, các quyền tài sản, tài sản thuộc sở hữu công Pháp luật của đa số các
nước dựa trên các đạo luật trong nước và các điều ước quốc tế thường ghi nhận nguyên tắc
luật nơi có tài sản để giải quyết xung đột pháp luật về định danh. Các hiệp định tương trợ tư
pháp mà Việt Nam đã ký kết với các nước trên thế giới như Cuba( khoản 3, điều 34),
Hungary( khoản 3, điều 43)... đều thống nhất nguyên tắc áp dụng luật nơi nước có tài sản.
Trong pháp luật Việt Nam, tại khoản 3, Điều 766 BLDS 2005 quy định: “… động sản hay bất
động sản được xác định theo pháp luật của nước nơi có tài sản…”. Như vậy, pháp luật Việt
Nam cũng như pháp luật của hầu hết các nước trên thế giới đều ghi nhận áp dụng hệ thuộc luật
nơi có tài sản để giải quyết vấn đề định danh tài sản.
Thứ hai, áp dụng nguyên tắc trong việc giải quyết xung đột pháp luật về việc xác
lập, thực hiện, thay đổi, chấm dứt quyền sở hữu tài sản cũng như về nội dung quyền sở hữu.
Ví dụ: trong khoản 2, Điều 24 luật tư pháp quốc tế của Ba lan có quy định: “… quyền sở hữu
cũng như sự phát sinh, chuyển dịch hoặc chấm dứt... điều chỉnh của pháp luật nơi có tài sản
…” . Căn cứ vào quy định xung đột được quy định tại khoản 1, Điều 766 BLDS năm 2005:
“Việc xác lập, thực hiên, thay đổi chấm dứt quyền sở hữu tài sản, nội dung quyền sở hữu đối

với tài sản được xác định theo pháp luật của nước nơi có tài sản đó…”, thì các quyền sở hữu
tài sản và các quyền khác do pháp luật của nước nơi có tài sản điều chỉnh, không phụ thuộc
đối tượng điều chỉnh là động sản hay bất động sản.
Thứ ba, Quyền sở hữu: Nội dung quyền sở hữu bao gồm các quyền chiếm hữu, sử dụng,
định đoạt tài sản luôn được xác định theo pháp luật nước nơi có tài sản. Các quyền của chủ sở
hữu như khai thác, cầm cố, thế chấp, chuyển nhượng, cho thuê trong thời hạn bao lâu, theo
phương thức nào đều dựa trên pháp luật nơi có tài sản để xác định.
II. THỰC TIỄN ÁP DỤNG NGUYÊN TẮC LUẬT NƠI CÓ TÀI SẢN TRONG TƯ
PHÁP QUÔC TẾ VIỆT NAM.
1. Ngoại lệ không áp dụng nguyên tắc luật nơi có tài sản trong tư pháp quốc tế Việt
Nam.
Trong thực tiễn, không phải lúc nào nguyên tắc “ Luật nơi có tài sản” luôn được áp dụng
trong mọi trường hợp có xung đột pháp luật về quyền sở hữu. Nói cách khác, trong nhiều
trường hợp, không thể áp dụng được nguyên tắc này do không xác định được tài sản thực tế
đang ở lãnh thổ quốc gia nào. Hiện nay, trong tư pháp quốc tế cũng như trong tư pháp quốc tế
Việt Nam không áp dụng nguyên tắc này trong các trường hợp sau:
+ Xuất phát từ tính chất di chuyển của các loại tàu bay, tàu biển trong quyền sở hữu tàu bay,
tàu biển, luật hàng không dân dụng Ba Lan 1962 có quy định: “ Các quyền sở hữu đối với tàu
bay cũng như tài sản trên tàu bay được điều chỉnh bởi pháp luật của nước nơi tàu bay đăng
ký( điều 10)”. Hay trong sở hữu tàu biển, khoản 4, Điều 766 BLDS có quy định: “ Việc xác định
quyền sở hữu đối với tàu bay dân dụng và tàu biển tại việt nam phải tuân theo pháp luật về hàng
không dân dụng và pháp luật về hàng hải của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” ; Khoản 1,
4
điều 3 Bộ luật Hàng hải Việt Nam năm 2005 có quy định: “ Trong trường hợp quan hệ pháp
luật có liên quan đến quyền sở hữu trên tàu biển, hợp đồng cho thuê tàu biển, hợp đồng thuê
thuyền viên, hợp đồng vận chuyển hành khách và hành lý, phân chia tiền công cứu hộ giữa chủ
tàu cứu hộ và thuyền bộ của tàu cứu hộ, trục vớt tài sản chìm đắm ở biển cả, các vụ việc xảy ra
trên tàu biển khi tàu đang ở biển cả thì áp dụng pháp luật của quốc gia mà tàu biển mang quốc
tịch”( hệ thuộc luật quốc tịch- Lex Banderae).
+ Tại Việt Nam Điều 766, khoản 2 BLDS 2005 đã đưa ra “ Quyền sở hữu đối với động sản

trên đường vận chuyển đến được xác định theo pháp luật của nước nơi động sản được chuyển
đến, nếu không có thỏa thuận khác”. Trường hợp này pháp luật cho phép các bên tự do thỏa
thuận lựa chọn hệ thống pháp luật điều chỉnh vì do tài sản đang trên đường vận chuyển khó có
thể xác dịnh được nới nó đang tồn tại.,
+ Ngoài ra, hệ thuộc pháp luật của nước nơi có tài sản cũng không được áp dụng để điều
chỉnh các quan hệ sở hữu phát sing trong một số lĩnh vức khác như:
* các quan hệ sở hữu đối với đối tượng của sở hữu trí tuệ: Xuất phát từ đặc điểm cơ bản của
quyền sở hữu trí tuệ - mang tính chất lãnh thổ. Thực chất đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ là
những tài sản phi vật chất, ở chúng không có sự thống nhất giữa nội dung và hình thức tài sản
(như các tài sản thông thường khác), một nội dung có thể được thể hiện bằng nhiều hình thức
khác nhau, và tại nhiều nơi trên thế giới vào cùng một thời điểm. Bởi vậy, rất khó để chọn ra
luật nước nào áo dụng. Thêm vào đó, đối tượng của sở hữu trí tuệ luôn được bảo hộ duy nhất tại
một quốc gia nhất định bởi những qui định về sở hữu trí tuệ. Do đó, sở hữu trí tuệ là lĩnh vực
không có xung đột pháp luật. Quan hệ sở hữu đối với đối tượng của sở hữu trí tuệ chỉ chịu sự
điều chỉnh của pháp luật nước nơi bảo hộ cho nó.
* Các quan hệ về tài sản đối với pháp nhân nước ngoài khi pháp nhân đó giải thể: Pháp nhân
nước ngoài là pháp nhân thành lập theo pháp luật nước ngoài( nghị định 138/2006/NĐ-CP), có
tư cách pháp lý theo qui định của pháp luật nước đó. Cho nên, khi pháp nhân giải thể, tức là
chấm dứt tư cách pháp lý phải tuân thủ các qui định của pháp luật của nước đã cho phép pháp
nhân đăng ký thành lập. Nói cách khác, trong trường hợp này, áp dụng hệ thuộc luật quốc tịch
của pháp nhân để giải quyết các quan hệ về tài sản với pháp nhân giải thể.
* Các quan hệ về tài sản liên quan đến tài sản của quốc gia đang ở nước ngoài: Bắt nguồn từ
chủ quyền thiêng liêng và bất khả xâm phạm của mình, nên quốc gia có quyền xác lập quan hệ
sở hữu với tài sản thuộc quốc gia mình dù tài sản đang ở bất kỳ đâu. Điều này thể hiện sự bình
đẳng về địa vị pháp lý quốc tế giữa các quốc gia trên thế giới. Trong quan hệ sở hệ hữu này tài
sản sẽ chịu sự điều chỉnh của pháp luật nước nơi có tài sản thuộc sở hữu không phải pháp luật
nước nơi có tài sản đang tồn tại.
* Các quan hệ tài sản liên quan đên đối tượng của đạo luật quốc hữu hóa: Thông qua việc ban
hành đọa luật quốc hữu hóa, Nhà nước xác lập quyền sở hữu đối với các loại tài sản của các chủ
thể khác thuộc đối tượng điều chỉnh của nó, mà không cần phải có bất kỳ sự thỏa thuận nào.

Đạo luật quốc hữu hóa thể hiện chủ quyền quốc gia. Được thừa nhận mang tính “trị ngoại lãnh
thổ” đạo luật quốc hữu hóa có hiệu lực cả ngoài phạm vi lãnh thổ quốc gia. Bởi vậy, khi điều
chỉnh loại quan hệ này phải dựa trên những qui định pháp luật của quốc gia ban hành nên đạo
luật quốc hữu hóa.
5

×