Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

TIỂU LUẬN KINH tế CHÍNH TRỊ THỰC CHẤT bước NGOẶT CÁCH MẠNG DO các mác THỰC THIỆN TRONG PHÁT TRIỂN lý LUẬN GIÁ TRỊ THẶNG dư, ý NGHĨA TRONG NHẬN THỨC về CHỦ NGHĨA tư bản NGÀY NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.63 KB, 27 trang )

MỞ ĐẦU
Cùng với sự phát triển của nền sản xuất xã hội thì nhu cầu nhận thức về
các quá trình kinh tế xã hội của con người ngày càng cao. Lúc đầu xuất hiện dưới
các tư tưởng đơn lẻ, chất phác, ngây thơ không có tính hệ thống nhằm giải thích
các quá trình kinh tế xã hội đang diễn ra. Khi nền sản xuất kiểu kinh tế tự nhiên,
tự cung tự cấp và phương thức sản xuất phong kiến theo kiểu phường hội suy tàn
cùng với sự tan rã của chế độ phong kiến ở Châu âu; sản xuất hàng hoá có bước
phát triển vượt bậc khẳng định ưu thế vượt trội của nó trong đời sống kinh tế xã
hội thì các tư tưởng kinh tế với tư cách là hệ thống ra đời. Các tư tưởng kinh tế,
các học thuyết kinh tế trước C.Mác ra đời và tồn tại khoảng bốn trăm năm(từ
giữa thế kỷ XV đến đầu thế kỷ XIX) mà khởi nguyên là tư tưởng kinh tế của
trường phái trọng thương (khoảng giữa thế kỷ XV đến cuối thế kỷ XVII) và đạt
đến đỉnh cao rực rỡ ở các tư tưởng kinh tế của trường phái kinh tế chính trị tư
sản cổ điển (khoảng cuối thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XIX). Học thuyết kinh tế
chính trị của C.Mác ra đời với “hòn đá tảng” là học thuyết giá trị thặng dư đã tạo
ra cuộc cách mạng trong lịch sử các học thuyết kinh tế của nhân loại, đưa kinh tế
- chính trị từ giai đoạn cổ điển sang giai đoạn hiện đại; chuyển giai đoạn con
người từ nhận thức, giải thích các hiện tượng, các quá trình kinh tế xã hội để bảo
vệ sự tồn tại của một phương thức sản xuất sang giai đoạn con người không chỉ
nhận thức các quá trình, các hiện tượng kinh tế mà còn chỉ ra quy luật cải tạo
phương thức sản xuất đã lỗi thời xây dựng một phương thức sản xuất tiến bộ
hơn. Từ khi ra đời là một “bóng ma” ở Châu âu đến khi trở thành hệ tư tưởng của
giai cấp vô sản và nhân loại tiến bộ; trải qua những thăng trầm của lịch sử, học
thuyết kinh tế mà “hòn đá tảng” là học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác vẫn thể
hiện sức sống trường tồn và còn nguyên vẹn tính thời sự của nó trong xem xét
nhận thức về các quá trình kinh tế xã hội, về xem xét đánh giá chủ nghĩ tư bản
hiện nay. Cũng như hàng triệu triệu con tim khối óc của nhân loại, tác giả bị
2


chinh phục bởi giá trị khoa học, tính cách mạng, tính chiến đấu và tính nhân văn


cao cả của học thuyết giá trị thặng dư. Đồng thời mong muốn góp phần nhỏ bé
của mình vào việc làm sáng tỏ công lao to lớn của C.Mác trong phát triển lý luận
giá trị thặng dư cũng như ý nghĩa thời đại, sức sống trường tồn của học thuyết
giá trị thặng dư và là sự tiếp tục kết quả nghiên cứu mà bản thân đã đạt được
trong thực hiện bài thu hoạch. Tác giả lựa chọn nội dung “Thực chất bước
ngoặc cách mạng do C.Mác thực hiện trong phát triển lý luận giá trị thặng dư
và ý nghĩa của nó đối với việc xem xét chủ nghĩa tư bản hiện nay ” làm chủ đề
tiểu luận sau khi hoàn thành chương trình nghiên cứu, học tập môn lịch sử các
học thuyết kinh tế.
NỘI DUNG
PHẦN I: LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN LÝ LUẬN GIÁ TRỊ THẶNG DƯ
TRONG LỊCH SỬ CÁC HỌC THUYẾT KINH TẾ
1.1. Khái lược về giá trị thặng dư trong lịch sử các học thuyết kinh tế
thời kỳ trước C.Mác.
Các tư tưởng kinh tế, các học thuyết kinh tế trước C.Mác khởi đầu từ các
học thuyết kinh tế của chủ nghĩa trọng thương (ra đời khoảng giữa thế kỷ XV) và
kết thúc ở các học thuyết kinh tế của trường phái kinh tế-chính trị tư sản cổ điển
vào những năm đầu của thế kỷ XIX với thời gian tồn tại hàng trăm năm. Đó là
những tư tưởng kinh tế, những học thuyết kinh tế của các đại biểu đại diện cho
giai cấp tư sản, phản ánh hệ thống các quan điểm về thế giới quan, phương pháp
luận về nền sản xuất xã hội; qua đó thể hiện tính kế thừa, phát triển của các tư
tưởng kinh tế, các học thuyết kinh tế xuyên suốt chiều dài lịch sử trở thành hệ tư
tưởng kinh tế bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản và sự tồn tại phát triển của
phương thức sản xuất tư bản từ giai đoạn tích luỹ nguyên thuỷ đến khi nó xác lập
được vai trò thống trị trong đời sống kinh tế xã hội trên toàn Châu âu. Trong
chiều dài lịch sử đó đã phản ánh sự suy tàn, tan rã của chế độ phong kiến cùng
3


với sự phát sinh, tồn tại, phát triển của phương thức sản xuất tư sản chủ nghĩa và

giai cấp tư sản. Chế độ phong kiến với phương thức sản xuất phong kiến mang
nặng tính tự cung, tự cấp, phường hội đã tỏ ra lỗi thời lạc hậu so với nền sản xuất
hàng hoá. Tuy nhiên sự phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa lại
vấp phải sự cản trở của giai cấp phong kiến đang giữ địa vị thống trị xã hội, nên
cần một hệ thống tư tưởng lí luận kinh tế để bảo vệ sự tồn tại phát triển của nó.
Trải qua ba giai đoạn phát triển, từ tích luỹ nguyên thuỷ tư bản, công trường thủ
công, đến đại công nghiệp cơ khí, giai cấp tư sản và phương thức sản xuất tư
bản đã đóng vai trò thực hiện tiến bộ lịch sử vì vậy họ cần thế giới quan vô thần
gắn chặt với khoa học tự nhiên, nên trong hệ thống các học thuyết kinh tế đã bám
sát thực tiễn đời sống kinh tế xã hội để phản ánh các quá trình kinh tế, các qui
luật kinh tế nhằm hiểu thực chất bản chất của nó. Chính vì thế mà các học thuyết
kinh tế trước C.Mác đã đạt được những thành tựu khoa học to lớn mà đỉnh cao
rực rỡ là các học thuyết kinh tế của trường phái kinh tế chính trị tư sản cổ điển.
Những học thuyết kinh tế của chủ nghĩa trọng thương cho rằng lợi nhuận
được tạo ra trong quá trình lưu thông, đó là kết quả của sự mua rẻ bán đắt. Họ
tuyệt đối hoá vai trò lưu thông mà không quan tâm đến sản xuất và tiêu dùng,
các luận điểm của họ chỉ dừng lại ở miêu tả, phân tích thực tiễn để đưa ra những
lời khuyên về chính sách kinh tế, ít tính lí luận, chưa biết đến các qui luật kinh
tế...do vậy họ chưa đề cập, nghiên cứu về giá trị thặng dư.
Chỉ đến kinh tế chính trị tư sản cổ điển thì giá trị thặng dư với được đề
cập nghiên cứu, với phương pháp luận là tôn trọng các qui luật kinh tế khách
quan, các học giả kinh tế của kinh tế chính trị tư sản cổ điển đã chuyển việc
nghiên cứu nguồn gốc của giá trị thặng dư từ lĩnh vực lưu thông sang lĩnh vực
sản xuất nên đã từng bước giải quyết được các nội dung về giá trị thặng dư ở các
cấp độ khác nhau tuỳ thuộc vào sự chín mồi của hoàn cảnh lịch sử.

4


Wiliam Petty (1623-1687) là một trong những người sáng lập ra học

thuyết kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh. Xuất thân từ một gia đình làm nghề
thủ công nhưng Wiliam Petty lại là một người có kiến thức uyên bác trong gần
như tất cả các lĩnh lực của đời sống xã hội, đặc biệt trong lĩnh vực khoa học như;
vật lý, toán học, y học, kinh tế học, âm nhạc, tài chính, thống kê. Ông là tiến sỹ
vật lý, là nhạc trưởng, là người phát minh ra máy chữ, giảng viên trường đại học,
là bác sỹ quân y...Những tác phẩm chủ yếu của Wiliam Petty là; Bàn về thuế
khoá và lệ phí (1662), Lời nói với những kẻ khôn (1664), Giải phẫu chính trị
nước Airơlan (1672), Số học chính trị (1676), Những ý kiến về tiền tệ (1682). Là
một người chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng của chủ nghĩa trọng thương, nên các
tác phẩm cảu Wiliam Petty chủ yếu biện hộ cho lập trường kinh tế của chủ nghĩa
trọng thương, chỉ đến khi viết tác phẩm “Những ý kiến về tiền tệ” ông mới đoạn
tuyệt dần với chủ nghĩa trọng thương. Trong lý thuyết về lợi tức, địa tô Wiliam
Petty đã không trình bày lợi nhuận của các doanh nghiệp công nghiệp mà chỉ
trình bày hai hình thái của giá trị thặng dư là địa tô và lợi tức. Wiliam Petty đã
tìm cách giải quyết một cách sâu sắc hơn về nguồn gốc đầu tiên của các thu nhập
tư bản chủ nghĩa, bằng việc tìm nguồn gốc của nó trong lĩnh vực sản xuất. Ông
đã nghiên cứu nguồn gốc của địa tô và tìm thấy nguồn gốc đó trong lĩnh vực sản
xuất, như vậy Wiliam Petty đã có bước tiến và khắc phục được hạn chế của chủ
nghĩa trọng thương khi chuyển nghiên cứu giá trị thặng dư từ lĩnh vực lưu thông
sang lĩnh vực sản xuất. Trong tác phẩm “Bàn về thuế khoá” Wiliam Petty đã định
nghĩa địa tô là số chênh lệch giữa giá trị của sản phẩm và chi phí sản xuất (chi
phí này gồm giống và tiền lương). Như vậy Wiliam Petty đã hiểu địa tô là hình
thái chân chính của giá trị thặng dư, nó là khoản dôi ra ngoài tiền lương do nhà
tư bản chiếm đoạt được ngoài thời gian lao động tất của người nông dân-tức là
sản phẩm của lao động thặng dư. Đồng thời Wiliam Petty cũng đã nghiên cứu chi
tiết địa tô chênh lệch I khi chỉ ra rằng các mảnh ruộng xa, gần khác nhau mang
5


lại thu nhập khác nhau, đó là thu nhập chính đáng. Wiliam Petty cũng cho rằng;

lợi tức là thu nhập phái sinh của địa tô, ông quan niệm lợi tức là địa tô của
tiền, bởi người có tiền có thể mua đất để hưởng địa tô hoặc gửi ngân hàng để
thu lợi tức, mức lợi tức phụ thuộc vào mức địa tô và mức lợi tức cao hay
thấp là do điều kiện sản xuất trong nông nghiệp quy định. Từ định nghĩa về
địa tô và những luận điểm về lợi tức, địa tô mà Wiliam Petty đã trình bày C.Mác
đã nhận xét rằng “công lao to lớn của Wiliam Petty là đã chỉ ra được nguồn gốc
của giá trị thặng dư, mầm mống lý luận về bóc lột theo lối tư bản chủ nghĩa”.
Tuy nhiên Wiliam Petty đã vấp phải hạn chế là đồng nhất giá trị thặng dư với
hình thái cụ thể của nó và ông cũng chưa giải quyết được một cách thấu đáo
các nội dung liên quan để tìm ra được bản chất, nguồn gốc thực sự của giá trị
thặng dư.
Francais Quesnay(1694-1774) là đại biểu xuất sắc nhất của trường
phái trọng nông, người đã có công đưa những tư tưởng trọng nông thành một
trường phái lý luận. Sinh ra trong một gia đình chủ nông nhỏ nhưng Francais
Quesnay lại là người có năng lực phi thường, ông học nghề y và đã từng làm
quan ngự y, được phong tước vị quý tộc. Nhưng mãi đến năm 1753 ông mới
chuyển sang nghiên cứu kinh tế song ông đã để lại cho đời sau nhiều tác
phẩm có giá trị như; Biểu kinh tế (1758), Bàn về thương mại (1760), Phân
tích biểu kinh tế (1766), Những nguyên lý chung của chính sách kinh tế của
một quốc gia nông nghiệp (1766,) Chế độ chuyên chế ở Trung Qốc (1767).
Francais Quesnay đã có công lao to lớn khi đặt ra một cách khoa học vấn ssề
nghiên cứu sản phẩm thuần tuý - giá trị thặng dư, thông qua nội dung học
thuyết về sản phẩm thuần tuý. Trong học thuyết này Francais Quesnay đã xác
định muốn tìm kiếm nguồn gốc thực sự của của cải thì phải chuyển đối tượng
nghiên cứu từ lĩnh vực sang lĩnh vực sản xuất. Theo Francais Quesnay thì
sản phẩm thuần tuý - giá trị thặng dư chỉ được tạo ra trong quá trình sản
6


xuất, song chỉ có trong sản xuất nông nghiệp. Ông quan niệm “Sản phẩm

thuần tuý là sản phẩm cảu đất đai dôi ra còn lại sau khi đã trừ đi chi phí lao
động và những chi phí cần thiết khác cho việc thực hiện canh tác ruộng đất”.
Fransois Quesnay đã đưa ra hai nguyên tắc về hình thành giá trị: Trong công
nghiệp, giá trị hàng hóa bằng tổng chi phí; bao gồm nguyên liệu, tiền lương
công nhân, tiền lương của nhà tư bản và chi phí bổ sung của tư bản thương
nghiệp. Trong nông nghiệp, giá trị hàng hoá bằng tổng chi phí như trên
nhưng cộng với sản phẩm thuần túy. Trên cơ sở đó ông đưa ra kết luận; “chỉ
có trong nông nghiệp mới có sản phẩm thuần túy”. Điều đó được ông giải
thích rằng trong công nghiệp quá trình sản xuất là sự kết hợp giản đơn
những chất cũ, không có sự tăng thêm về chất nên không có sản phẩm thuần
túy. Tuy nhiên trong nông nghiệp với sự trợ giúp của tự nhiên nên có sự tăng
thêm về chất, chẳng hạn 1 hạt lúa mì được gieo xuống khi trổ bông cho thu
hoạch hàng trăm hạt mới, sự trội thêm đó duy nhất chỉ có ở trong nông
nghiệp do đất đai mang lại và chỉ có lao động trong nông nghiệp mới là lao
động sản xuất -lao động tạo ra giá trị thặng dư. Khi phê phán học thuyết kinh
tế của trường phái trọng nông C.Mác đã nhận định “ Họ đã hoàn toàn đúng
khi đưa ra cái luận điểm cơ bản cho rằng chỉ có lao động nào tạo ra giá trị
thặng dư, tức là chỉ có lao động nào mà sản phẩm chứa đựng một giá trị
vượt quá tổng số những giá trị đã bị tiêu dùng đi trong khi sản xuất ra sản
phẩm đó, thì lao động đó mới là lao động sản xuất ”1. Tuy nhiên, cũng giống
như các đại biểu trước đó, trường phái trọng nông cũng mắc phải những giới
hạn không thể vượt qua như; đồng nhất giá trị thặng dư với một hình thái cụ
thể của nó là địa tô; cho rằng chỉ có lao động trong nông nghiệp mới tạo ra
giá trị thặng dư; nguồn gốc của giá trị thặng dư - sản phẩm ròng bắt nguồn từ
tự nhiên mà trực tiếp là đất đai.
1

C.Mác và ph.Ăng-ghen toàn tập, Nxb CTQG,H 1995, tập 26, phần II, tr29

7



Ađam Smith(1723-1790) sinh ra và lớn lên trong giai đoạn phát triển
công trường thủ công của chủ nghĩa tư bản, là ngườốcc kiến thức sâu rộng về
nhiều lĩnh vực như; thần học, luân lý học, luật học, lôgíc, chính trị, văn học,
vật lý học, thiên văn học. A.Smith đã có những tác phẩm là nổi tiếng tên tuổi
của mình như; Lý luận đạo đức (1765), Nghiên cứu về bản chất và nguồn
gốc của tài sản các dân tộc (1766). Trong “Lý thuyết về thu nhập” của
A.Smith đã có những bước tiến dài so với trường phái trọng nông trong việc
phân tích giá trị thặng dư, bởi ông nghiên cứu về giá trị thặng dư vào tất cả
các lĩnh vực lao động sản xuất của xã hội. Các hình thái biểu hiện của giá trị
thặng dư được biểu hiện thông qua việc xác định giá trị hàng hóa do công
nhân tạo ra, anh ta chỉ nhận được một phần, phần còn lại là địa tô và lợi
nhuận của tư bản. A.Smith đã đưa ra hai quan điểm về khái niệm địa tô: Một
là, địa tô là khoản khấu trừ đầu tiên vào sản phẩm, là kết quả của việc bóc lột
người sản xuất trực tiếp; hai là, địa tô là tiền trả về việc sử dụng đất đai, phụ
thuộc vào mức độ phì nhiêu của đất đai. cả hai luận điểm trên mối quan hệ
giữa giai cấp địa chủ, tư bản kinh doanh nông nghiệp và công nhân nông
nghiệp. Theo A.Smith lợi nhuận là khỏan khấu trừ thứ hai vào sản phẩm lao
động, do công nhân tạo ra, là kết quả của lao động đem lại, đồng thời ông
cũng cho rằng không chỉ có lao động nông nghiệp mà cả lao động công
nghiệp cũng tạo ra lợi nhuận. Cả địa tô và lợi nhuận chúng đều có chung
nguồn gốc là lao động không được trả công của công nhân. Còn lợi tức là
một phần lợi nhuận mà nhà tư bản đi vay phải trả cho chủ của nó để được
quyền sử dụng tư bản. Đồng thời ông đã nhìn thấy xu hướng bình quân hóa tỉ
suất lợi nhuận, xu hướng tỉ suất lợi nhuận giảm sút do khối lượng tư bản đầu
tư tăng lên. Những tiến bộ của A.Smith trong phân tích giá trị thặng dư được
C.Mác nhận xét là “Ở trường phái trọng nông, chỉ có một loại lao động cụ
thể nhất định-tức là lao động nông nghiệp-mới tạo ra giá trị thặng dư....Ở
8



A.Smith, ngược lại, giá trị là do lao động xã hội chung tạo nên, dầu lao
động đó được thể hiện trong bất cứ giá trị sử dụng nào; giá trị chỉ do số
lượng lao động cần thiết tạo ra mà thôi. Giá trị thặng dư, dầu nó thể hiện ra
dưới hình thái lợi nhuận, địa tô, hay dưới hình thái phái sinh của lợi tức ”.2
Dù đã đạt được những thành công nhất định trong việc phân tích giá trị thặng
dư nhưng A.Smith lại sai lầm khi cho rằng; tư bản là điều kiện vật chất cần
thiết cho sản xuất của mọi xã hội. Nó tồn tại vĩnh viễn, còn sự lẫn lộn giữa
giá trị thặng dư và lợi nhuận, giá trị của nguyên liệu và của công cụ lao động
không tồn tại, vẫn qui giá trị thặng dư với các hình thái biểu hiện của nó.
Đavi Ricardo(1772-1823) sinh ra, trưởng thành trong thời kỳ đại công
nghiệp cùng với kinh nghiệm hoạt động thực tiễn phong phú đã giúp D.Ricardo
trở thành đại biểu xuất sắc nhất của kinh tế học tư sản cổ điển, là tiền bối trực
tiếp của C.Mác; rất nhiều phạm trù, khái niệm của D.ricardo được C.Mác kế
thừa trực tiếp để xây dựng nên Học thuyết kinh tế nổi tiếng của mình. Tuy
nhiên về lý luận giá trị thặng dư thì D.Ricardo không có đóng góp nhiều về mặt
lý luận, ông nghiên cứu giá trị thặng dư dưới các hình thức lợi nhuận và địa tô.
Vấn đề lợi nhuận đã được D.Ricardo viết một chương đặc biệt trong tác phẩm
“Những nguyên lý của khoa kinh tế chính trị”; tuy không trực tiếp trình bày
nguồn gốc của lợi nhuận, nhưng thông qua một số luận điểm của ông về giá trị,
về mối quan hệ giữa các thu nhập, “tiền công thấp chỉ là một tên gọi khác đị
với các lợi nhuận cao”. Điều đó chứng tỏ D.Ricardo đã xem lợi nhuận là kết
quả lao động của người công nhân, đó chính là phần giá trị lao động do công
nhân tạo ra không được trả công bị nhà tư bản chiếm đoạt. Theo C.Mác “giá trị
thặng dư tương đối –đó là cái hình thái giá trị giá trị thặng dư duy nhất mà
trên thực tế D.ricardo đã nghiên cứu dưới danh từ lợi nhuận”3. Lý luận địa tô
của D.Ricardo cũng là một cống hiến to lớn của ông cho kinh tế chính trị, ông
2
3


Sdd, tr 88
Sdd, phần II, tr 610

9


đã bác bỏ các luận điểm cho rằng địa tô là sản vật của lực lượng tự nhiên hoặc
của năng suất lao động dặc biệt trong nông nghiệp. D.Ricardo đã đứng vững
trên cơ sở lý luận giá trị lao động để giải thích địa tô và khẳng định rằng địa tô
được hình thành không trái với quy luật giá trị. Đồng thời D.Ricardo đã đề cập
các hình thức của địa tô, đã phân tích sâu sắc địa tô chênh lệch I và chỉ rõ bộ
máy chiếm hữu địa tô đó. Cũng giống như các nhà tiền bối ở D.ricardo vẫn còn
có những giới hạn không thể vượt qua như; ông lẫn lộn các qui luật giá trị
thặng dư với các qui luật của lợi nhuận, lẫn lộn giá cả chi phí với giá trị, lẫn lộn
giữa lao động với sức lao động, không có sự phân tích nguồn gốc của giá trị
thặng dư... C.Mác đã mhận xét về D.ricardo như sau “không có chỗ nào
D.ricardo xem xét giá trị thặng dư một cách riêng biệt và tách khỏi những hình
thái đặc biệt của nó là lợi nhuận(lợi tức) và địa tô”.4
Như vậy các nhà kinh tế học trước C.Mác đã có nhiều cố gắng trong
giải thích, nghiên cứu về giá trị thặng dư và đã đạt được những kết quả nhất
định ở nhiều cấp độ khác nhau. Đó chính là sự vận động phát triển của bản
thân phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, các tư tưởng kinh tế, các học
thuyết kinh tế chỉ là sự phản ánh các quá trình kinh tế xã hội và sự vận động
biến đổi của nó mà thôi. Do hạn chế về mặt phương pháp luận cũng như lập
trường giai cấp và điều kiện lịch sử, nên các nhà kinh tế trước C.Mác chưa
thể nghiên cứu về giá trị thặng dư với tư cách là một phạm trù kinh tế riêng
biệt tách khỏi những hình thái biểu hiện của nó là lợi nhuận, lợi tức và địa tô.
Những cửa ải mà các nhà kinh tế trước C.Mác không thể vượt qua đã được
C.Mác khắc phục và hoàn thiện một cách triệt để trong lý luận về học thuyết

giá trị thặng dư của mình.
1.2. Nội dung cơ bản học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác.
4

Sdd, phần II, tr 546

10


Ngày 5 tháng 5 năm 1818, ở thành phố Trier cổ kính miền Tây nước Đức
đã sinh ra một con người mà cuộc đời và sự nghiệp sẽ sống mãi trong khối óc,
trái tim của hàng triệu, hàng triệu con người yêu tự do, hoà bình, công lý và
chính nghĩa, một con người mà chính kẻ thù tư tưởng cũng phải nghiêng mình
kính phục trước đạo đức sáng ngời và trí tuệ vô song. Con người ấy là C.Mác.
Sinh ra và trưởng thành trong thời kỳ chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai
đoạn “cách mạng đại công nghiệp cơ khí”. Chủ nghĩa tư bản đã đạt được những
thành tựu vượt bậc trong phát triển kinh tế xã hội mà theo C.Mác “gần hai trăm
năm ra đời và phát triển nhưng phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã sản
xuất ra một khối lượng hàng hoá khổng lồ bằng tất cả các phương thức sản
xuất trước đó cộng lại ”. Giai cấp tư sản lúc này đã hết vai trò là giai cấp tiến bộ
của lịch sử trở thành giai cấp phản động dùng mọi thủ đoạn bóc lột quần chúnh
nhân dân và công nhân lao động. Là người con trong một gia đình trí thức, song
ngay từ tuổi thiếu niên C.Mác đã sống rất gần gũi với công nhân và nhân dân lao
động cần lao. C.Mác đã tận mắt chứng kiến bao nỗi khổ cực, bất công mà người
lao động phải chịu đựng, những tai họa thường xuyên đe doạ cuộc sống của họ.
Vào đầu những năm 40 thế kỷ XIX, các phong trào giải phóng của quần chúng
nhân dân, đặc biệt là phong trào công nhân phát triển mạnh mẽ khắp nước Đức
và khắp các nước Tây Âu. C.Mác nhận thấy các phong trào đấu tranh của quần
chúng nhân dân thường lâm vào bế tắc, không tránh khỏi thất bại vì chúng tự
phát, mò mẫm trong đêm tối. Cần phải nghiên cứu đánh giá đúng về bản chất của

phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và xã hội tư bản là một yêu cầu bức thiết
của lịch sử. Hoàn cảnh lịch sử cho phép và bằng thiên tài của mình C.Mác đã
xây dựng nên học thuyết kinh tế chính trị khoa học và cách mạng nhất trong lịch
sử tư tưởng kinh tế nhân loại, trong đó học thuyết giá trị thặng dư là “ hòn đá
tảng” của học thuyết kinh tế C.Mác. Trên cơ sở hoàn thiện lý luận giá trị lao
động và xây dựng hệ thống khái niệm hoàn chỉnh thông qua việc đấu tranh
11


phê phán một cách biện chứng các tư tưởng của các nhà kinh tế trước đó về
lý luận giá trị thặng dư. C.Mác đã trình bày học thuyết giá trị thặng dư của
mình trên các nội dung cơ bản như; sự chuyển hoá tiền tệ thành tư bản, sự
chuyển hoá sức lao động thành hàng hoá, hai thuộc tính của hàng hoá sức lao
động, quá trình sản xuất giá trị thặng dư.
Để làm rõ quá trình chuyển hoá tiền tệ thành tư bản C.Mác đã xuất phát
từ việc nghiên cứu công thức chung của tư bản và mâu thuẫn của công thức
chung của tư bản. Theo C.Mác tiền là sản phẩm cuối cùng của quá trình lưu
thông hàng hoá, đồng thời tiền cũng là hình thức biểu hiện đầu tiên của tư bản.
Song bản thân tiền không phải là tư bản mà tiền chỉ trở thành tư bản khi chúng
được sử dụng để bóc lột lao động của người khác. Tiền được coi là tiền thông
thường thì vận động theo công thức H-T-H. Còn tiền được coi là tư bản thì vận
động theo công thức T-H-T’. C.Mác đã phân tích, so sánh hai công thức trên cả
về hành vi, yếu tố vật chất, điểm xuất phát, điểm kết thúc và đã chỉ ra mục đích
cuối cùng của lưu thông tư bản là giá trị lớn hơn, nên số tiền thu về phải lớn hơn
số tiền ứng ra ban đầu. Vậy với tính cách là tư bản, công thức vận động của tiền
là ; T-H-T’, trong đó T’=T+t; t là số tiền trội hơn so với số tiền ứng ra ban đầu,
số tiền trội hơn đó được C.Mác gọi là giá trị thặng dư và được ký hiệu là m.
Công thức T-H-T’ được gọi là công thức chung của tư bản vì mọi tư bản dù cho
chúng mang hình thái giá trị cụ thể nào cũng đều là giá trị mang lại giá trị thặng
dư. Tuy nhiên công thức chung của tư bản làm cho người ta lầm tưởng rằng cả

sản xuất và lưu thông đều tạo ra giá trị thặng dư. Vậy lưu thông có tạo ra giá trị
thặng dư và làm tăng thêm giá trị không?. Thông qua việc phân tích hành vi mua
và bán ở cả ba trường hợp; trao đổi ngang giá, trao đổi không ngang giá và
trường hợp trong xã hội có những kẻ chuyên mua rẻ bán đắt, C.Mác khẳng định
lưu thông không tạo ra giá trị và giá trị thặng dư. Nhưng thực tế lại chứng minh
rằng nếu không có lưu thông tức là tiền để trong két, hàng hoá để trong kho thì
12


cũng không thể có được giá trị thặng dư. Như vậy giá trị thặng dư vừa được sinh
ra trong quá trình lưu thông vừa không thể sinh ra trong quá trình lưu thông, đây
chính là mâu thuẫn chung của công thức chung của tư bản.
Để giải quyết mâu thuẫn của công thức chung của tư bản chúng ta cần
nhận thấy rằng, điều kiện để tiền biến thành tư bản là sự tồn tại trên thị trường
một loại hàng hoá mà việc sử dụng nó có thể tạo ra được giá trị lớn hơn giá trị
của bản thân nó - hàng hoá sức lao động. Theo C.Mác; sức lao động là toàn bộ
những năng lực (thể lực và trí lực) tồn tại trong một con người và được người đó
sử dụng vào sản xuất hàng hoá. Sức lao động không phải bao giờ cũng là hàng
hoá nó chỉ biến thành hàng hoá khi có đầy đủ hai điều kiện; Thứ nhất, người lao
động phải được tự do về thân thể, tự do về năng lực lao động của mình và chỉ
bán sức lao động đó trong một thời gian nhất định; Thứ hai, Người lao động phải
bị tước hết tư liệu sản xuất, muốn sống họchỉ còn một cách duy nhất là phải bán
sức lao động của mình. Khi sức lao động trở thành hàng hoá, nó cũng có hai
thuộc tính là giá trị và giá trị sử dụng. Giá trị hàng hoá sức lao động do thời gian
lao động xã hội cần thiết để sản xuất và tái sản xuất ra sức lao động quyết định.
Sản xuất và tái sản xuất sức lao động được thực thiện thông qua tiêu dùng cá
nhân, nên giá trị sức lao động là giá trị của toàn bộ các tư liệu sinh hoạt cần thiết
để sản xuất và tái sản xuất sức lao động, để duy trì đời đời sống của công
nhân làm thuê. Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động, nó cũng giống như
các hàng hoá thông thường khác ở chỗ là nó cũng phải thoả mãn nhu cầu nào đó

của người mua. Nhưng khác ở chỗ, các hàng hoá thông thường qua tiêu dùng thì
giá trị của nó giảm dần còn sức lao động qua tiêu dùng tức là qua lao động thì nó
tạo ra lượng giá trị mới lớn hơn giá trị bản thân nó, phần giá trị dôi ra đó là giá
trị thặng dư. Đây chính là chìa khoá để giải quyết mâu thuẫn trong công thức
chung của tư bản.

13


Mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải là giá trị sử dụng mà
là giá trị, hơn nữa cũng không phải là giá trị đơn thuần mà là giá trị thặng dư.
Nhưng để sản xuất giá trị thặng dư trước hết nhà tư bản phải sản xuất ra một giá
trị sử dụng nào đó, vì giá trị sử dụng là vật mang giá trị và giá trị thặng dư.
C.Mác đã làm rõ quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư thông qua nghiên cứu
hành vi sản xuất cụ thể của nhà tư bản. Giả sử để sản xuất ra 1 kg sợi, nhà tư bản
đã mua (giả định theo đúng giá trị) 1kg bông giá 10 đôla; tiền hao mòn máy móc
3 đôla, tiền mua sức lao động của công nhân là 5 đôla (ngang bằng tư liệu sinh
hoạt để họ sống trong một ngày), sức lao động đó có khả năng tạo ra giá trị 1
đôla trong một giờ lao động và một ngày làm việc kéo dài 10 giờ. Quá trình sản
xuất được tiến hành trong 5 giờ đầu bằng lao động cụ thể công nhân kéo hết 1kg
bông thành 1 kg sợi. Giá trị của bông và hao mòn máy móc được lao động cụ thể
của công nhân chuyển dịch và bảo tồn vào giá trị của sợi, hình thành ra bộ phận
giá trị cũ (C) là 13 đôla, bằng lao động trừu tượng công nhân đã tạo ra một
lượng giá trị mới 5 đô la nhập vào sợi. Như vậy chỉ trong 5 giờ công nhân đã
chuyển xong 1kg bông thành 1kg sợi và giá trị của 1kg sợi được tính là; giá trị
1kg bông chuyển vào 10 đôla, hao mòn máy móc 3, giá trị mới tạo ra 5 đôla,
tổng cộng 18 đôla. Nếu quá trình lao động dừng ở đây thì nhà tư bản không thu
được giá trị thặng dư, nhưng nhà tư bản thuê công nhân trong 10 giờ chứ không
phải là 5 giờ. Trong 5 giờ tiếp theo công nhân phải tiếp tục lao động cho nhà tư
bản và quá trình lao động diễn ra như 5 giờ đầu và nhà tư bản thu được thêm

1kg sợi có giá trị bằng 18 đôla. Tổng số tiền nhà tư bản chi ra để có được 2kg sợi
là: tiền mua bông 20 đôla, tiền hao mòn máy móc 6 đôla, tiền thuê công nhân 5
đôla, tổng cộng 31 đôla. Trong khi đó giá trị của 2kg sợi là 36 đôla, như vậy nhà
tư bản thu được một lượng giá trị thặng dư là 36 đôla -31 đôla =5 đôla. Từ ví dụ
trên C.Mác đã đưa ra khái niệm về giá trị thặng dư là giá trị mới do lao động
của người công nhân sáng tạo ra ngoài giá trị sức lao động bị nhà tư bản chiếm
14


đoạt. Đồng thời C.Mác đã phân chia ngày lao động của công nhân thành phần;
thời gian lao động tất yếu cho người công nhân và thời gian lao động thặng dư
cho nhà tư bản. Trên cơ sở đó chỉ ra các phương pháp bóc lột giá trị thặng dư đó
là; phương pháp bóc lột giá trị thặng dư tuyệt đối, là giá trị thặng dư thu được do
kéo dài thời gian lao động trong ngày, trong khi năng suất lao động , giá trị
sức lao động và thời gian lao động tấtmyếu không đổi; phương pháp bóc lột
giá trị thặng dư tương đối, là giá trị thặng dư thu được do rút ngắn thời gian
lao động tất yếu, bằng cách hạ thấp giá trị sức lao động, nhờ đó tăng thời
gian lao động thặng dư, trong khi thời gian lao động trong ngày không đổi.
C.Mác đã chỉ rõ vai trò của từng bộ phận tư bản trong quá trình tạo ra giá trị
thặng dư thông qua việc phân chia tư bản thành tư bản bất biến và tư bản khả
biến và khẳng định tư bản khả biến có vài trò toạ ra giá trị thặng dư. Để phản
ánh trình độ bóc lột của nhà tư bản đối với công nhân C.Mác đã xây dựng và
hoàn thiện các khái niệm tỉ suất giá trị thặng dư, khối lượng giá trị thặng dư,
mối quan hệ giữa giá trị thặng dư và lợi nhuận, giữa tỉ suất giá trị thặng dư
và tỉ suất lợi nhuận...
Bằng phương pháp luận khoa học, C.Mác đã kế thừa những giá trị khoa
học và khắc phục những rào cản của các đại biểu trước đó về lý luận giá trị thặng
dư. C.Mác đã xây dựng, hoàn chỉnh lý luận giá trị thặng dư thành một học thuyết
cách mạng, khoa học và triệt để nhất trong lịch sử các học thuyết giá trị thặng
dư, đặt dấu chấm hết vai trò lịch sử của kinh tế chính trị tư sản cổ điến, đưa khoa

học về kinh tế chính trị của nhân loại sang giai đoạn hiện đại.
PHẦN II. THỰC CHẤT BƯỚC NGOẶC CÁCH MẠNG DO C.MÁC
THỨC HIỆN TRONG PHÁT TRIỂN LÝ LUẬN GIÁ TRỊ THẶNG DƯ VÀ Ý
NGHĨA CỦA NÓ TRONG XEM XÉT CHỦ NGHĨA TƯ BẢN HIỆN NAY

15


2.1. Thực chất bước ngoặc cách mạng về phát triển lý luận giá trị
thặng dư do C.Mác thực hiện trong lịch sử các học thuyết kinh tế.
Học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác ra đời đã làm thay đổi nhận thức
của nhân loại tiến bộ về phương thức sản xuất tư bản cũng như xã hội tư bản
chủ nghĩa. Với bản chất cách mạng, khoa học và triệt để học thuyết giá trị thặng
dư đã nhanh chóng xâm nhập sâu rộng vào phong trào đấu tranh của giai cấp
công nhân; trở thành hệ tư tưởng, vũ khí lý luận góp phần đưa phong trào đấu
tranh từ tự phát lên tự giác. Đó là kết quả trực tiếp của bước ngoặc cách mạng do
C.Mác thực hiện trong phát triển lý luận giá trị thặng dư trong lịch sử các học
thuyết kinh tế. Bởi trong học thuyết giá trị thặng dư của mình, ngoài kế thừa
những nhân tố khoa học của các đại biểu kinh tế trước đó C.Mác còn kiến tạo ra
những nội dung mới, mà những nội dung đó đã góp phần đưa lý luận giá trị
thặng dư trở thành một học thuyết cách mạng nhất, khoa học nhất và triệt để
nhất. Với quan điểm tiếp cận như vậy, tác giả khái quát thực chất bước ngoặc
cách mạng do C.Mác thực hiện trong phát triển lý luận giá trị thặng dư trong
lịch sử các học thuyết kinh tế như sau. “ C.Mác là người đầu tiên nghiên cứu
giá trị thặng dư với tư cách là phạm trù kinh tế độc lập với các hình thái
biểu hiện của nó; chỉ ra nguồn gốc bản chất của giá trị thặng dư, bản chất
của tiền lương; làm rõ vai trò của từng bộ phận tư bản trong quá trình tạo
ra giá trị thặng dư và thực chất của tích luỹ tư bản; chỉ ra mối quan hệ hữu
cơ giữa giá trị thặng dư và lợi nhuận; trên cơ sở đó chỉ ra qui luật kinh tế
cơ bản của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa; luận giải khoa học về

vai trò, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, trở thành vũ khí lý luận tư
tưởng của giai cấp công nhân trên vũ đài chính trị ”. Thực chất bước ngoặc
cách mạng đó được biểu hiện trên các nội dung sau:

16


Một là; C.Mác là người đầu tiên trong lịch sử nghiên cứu giá trị
thặng dư với tư cách khái niệm độc lập với các hình thái biểu hiệncụ thể
của nó.
Trong lịch sử các học thuyết kinh tế mặc dù đã có nhiều cố gắng trong
việc nghiên cứu giá trị thặng dư và đã đạt được những thành công nhất định
nhưng chưa có ai xác định giá trị thặng dư là một khái niệm độc lập với các hình
thái của nó mà luôn gắn việc nghiên cứu giá trị thặng dư với một hay nhiều hình
thái biểu hiện của giá trị thặng dư như, lợi nhuận và địa tô như đã trình bày ở
phần 1.1, C.Mác với phương pháp luận biện chứng duy vật và phương pháp
nghiên cứu đặc thù là trừu tượng hoá khoa học đã nghiên cứu giá trị thặng dư là
một phạm trù kinh tế độc lập với các hình thái biểu hiện của nó. Có thể hiểu
phương pháp này là “phương pháp đòi hỏi phải gạt sang một bên những tình
huống không bắt nguồn từ những qui luật nội tại, những điều ngẫu nhiên, không
bị lầm lạc bởi những tình huống phụ xa lạ với tíên trình thực sự và làm rối loạn
tiến trình ấy, khi nghiên cứu không bị những chi tiết phụ làm rối” 5. Chính nhờ
phương pháp này mà C.Mác đã làm cho học thuyết giá trị thặng dư của mình trở
thành một trong hai phát kiến vĩ đại. “Các nhà kinh tế học tư sản thời C.Mác
cũng đã phải thừa nhận phương pháp của C.Mác và nhờ đó C.Mác đã được đặt
lên hàng những trí tuệ có năng lực kiệt xuất nhất” 6. Phạm trù giá trị thặng dư là
kết quả của sự trừu tượng hoá cao, lôgic và khoa học, giá trị thặng dư được sáng
tạo ra trong lĩnh vực sản xuất nhưng lại được thực hiện trong lĩnh vực lưu thông
và được biểu hiện ra bên ngoài thông qua các hình thái cụ thể là, lợi nhuận, lợi
tức và địa tô. Như vậy chỉ đến C.Mác và duy nhất chỉ có C.Mác mới chỉ ra được

những sai lầm, hạn chế và đã khắc phục được sai lầm,hạn chế đó mà các đại biểu
trước C.Mác không thể vượt qua là đồng nhất giá trị thặng dư về một hình thái
cụ thể nào đó của nó.
5
6

Lê Hữu Nghĩa, Thời đại chúng ta và sức sống của chủ nghĩa Mác-Lênin. Nxb CTQG, H2002, tr135
Sdd, tr137

17


Hai là; chỉ đến C.Mác thì vấn đề về nguồn gốc bản chất của giá trị
thặng dư mới được giải quyết một cách triệt để, trên cơ sở đó C.Mác đã
làm sáng tỏ bản chất của tiền lương.
Các nhà kinh tế chính trị tư sản cổ điển đã có công lao to lớn khi xác
định giá trị thặng dư được tạo ra trong lĩnh vực sản xuất, mà cụ thể là do lao
động tạo ra nhưng chưa chỉ ra được nguồn gốc thực sự của nó, mà thường
cho rằng giá trị thặng dư luôn gắn với một hình thái nào đó. C.Mác đã khẳng
định; nguồn gốc giá trị thặng dư là sức lao động của công nhân làm thuê-chỉ
có lao động sống mới tạo ra giá trị trong đó có giá trị thặng dư. Theo C.Mác,
những giá trị sử dụng của các loại hàng hoá là muôn hình vạn trạng, không thể
dùng số lượng để đo lường chúng là bao nhiêu. Ông nói: "Nếu bóc tách riêng giá
trị sử dụng của hàng hoá ra, hàng hoá chỉ còn lại một thuộc tính, đó là thuộc
tính sản phẩm lao động". Tức là, giá trị của hàng hoá chính là lao động tiêu hao
để sản xuất ra hàng hoá đó. Cho nên, chúng ta thường nói rằng, lao động tạo ra
giá trị. Trong chế độ tư bản chủ nghĩa, để đạt được giá trị thặng dư, nhà tư bản
bắt buộc phải tìm trên thị trường loại hàng hoá mà bản thân giá trị sử dụng của
nó có một thuộc tính đặc biệt làm nguồn gốc cho giá trị, quá trình sử dụng nó
đồng thời là quá trình tạo ra giá trị. Loại hàng hoá đặc thù đó chính là “sức lao

động” của con người. Điều cần đặc biệt chú ý là, "lao động" và "sức lao động" là
hai khái niệm không giống nhau. Sức lao động là năng lực tiến hành lao động
của con người. Sử dụng sức lao động mới là lao động, mà lao động tức là tạo ra
giá trị. Giá trị của bản thân sức lao động bị quyết định bởi thời gian lao động bắt
buộc (tức giá trị chi phí trang trải sinh hoạt mà công nhân và người nhà của họ
cần đến) trong xã hội có nhu cầu về sức lao động sản xuất. Nhà tư bản mua lại
sức lao động theo giá trị sức lao động trên thị trường, nghĩa là có quyền sử dụng
sức lao động đó trong sản xuất, và cưỡng bức người lao động phải làm việc cả
ngày. Ví dụ như để họ làm việc 12 tiếng, thì trong vòng 6 tiếng (thời gian lao
18


động "bắt buộc"), người lao động đã có thể tạo ra sản phẩm đủ bù cho chi phí đời
sống của họ, 6 tiếng còn lại (thời gian lao động "dư thừa") họ tạo ra sản phẩm
"dư thừa" mà nhà tư bản không phải trả thù lao nữa, tức là giá trị thặng dư. Trong
lịch sử loài người, do có lao động thặng dư mới sinh ra khả năng bất bình đẳng,
người bóc lột người. C.Mác chỉ rõ: lao động thặng dư không phải xuất hiện từ
khi có tư bản. Trong xã hội được tạo nên bởi kẻ bóc lột và người bị bóc lột, giai
cấp thống trị đều thu được lao động thặng dư trên thân thể của số đông người lao
động bị bóc lột. Ông nói: "Sự phân biệt các kiểu hình thái kinh tế - xã hội khác
nhau như xã hội nô lệ và xã hội thuê mướn lao động, chỉ là các hình thức khác
nhau của việc tước đoạt lao động thặng dư trên thân thể người sản xuất, người
lao động". Qua đó đã chứng minh được bản chất của tiền công là giá cả của sức
lao động chứ không phải của lao động như các nhà kinh tế trước C.Mác đã xác
định.
Ba là; C.Mác là người đầu tiên phân chia tư bản thành tư bảnbất biến
và tư bản khả biến nên đã chỉ rõ vai trò của từng bộ phận tư bản trong quá
trình tạo ra giá trị thặng dư và thực chất của tích luỹ tư bản; chỉ ra mối
quan hệ hữu cơ giữa giá trị thặng dư và lợi nhuận.
D.ricardo là người đã có công trong phân chia tư bản thành tư bản cố

định và tư bản lưu động, nhưng C.Mác là người đầu tiên chia tư bản thành tư
bản bất biến và tư bản khả biến; vạch rõ vai trò của từng bộ phận tư bản
trong quá trình tạo ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản; trong đó tư bản bất
biến đóng vai trò là điều kiện quan trọng còn tư bản khả biến là tư bản đóng
vai trò trực tiếp tạo ra giá trị thặng dư, do vậy cấu tạo hữu cơ tư bản càng
giảm thì giá trị thặng dư nhà tư bản thu được ngày càng nhiều. Đồng thời
cũng phân tích sự tích lũy tư bản trong điều kiện cấu tạo hữu cơ tư bản tăng;
chỉ rõ thực chất của tích lũy tư bản là tư bản hóa giá trị thặng dư ; nguồn gốc
của tư bản tích lũy là giá trị thặng dư; quy luật tích luỹ tư bản; hậu quả của
19


tích lũy tư bản là bần cùng hóa giai cấp vô sản. Ở D.ricardo cũng như các
nhà kinh tế khác thường đồng nhất giá trị thặng dư với lợi nhuận nhưng
C.Mác đã vạch rõ mối quan hệ hữu cơ giữa giữa giá trị thặng dư và lợi
nhuận; trong đó giá trị thặng dư là nội dung được tạo ra trong quá trình sản
xuất còn lợi nhuận là hình thức thu được trong quá trình thực hiện hàng hoá
ở lĩnh vực lưu thông. Không dừng lại ở đó C.Mác đã vạch ra cơ chế chuyển
hoá giá trị thặng dư thành lợi nhuận bình quân và giá trị hàng hoá thành giá
cả sản xuất; trên cơ sở đó giải quyết hàng loạt vấn đề mà các nhà kinh tế
trước đó không thể vượt qua như; lợi nhuận bình quân, địa tô tuyệt đối, tỉ
suất lợi nhuận....Theo C.Mác thì phạm trù giá trị thặng dư phản ánh mối
quan hệ bóc lột, còn phạm trù lợi nhuận lại che đậy mối quan hệ đó nhưng
giữa chúng không có sự mâu thuẫn mà có sự thống nhất biện chứng trong
mối tương quan chuyển hoá lẫn nhau.
Bốn là; với học thuyết giá trị thặng dư C.Mác đã chỉ ra quy luật
kinh tế cơ bản của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa từ đó luận
giải một cách khoa học về vai trò, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân, trở thành vũ khí lí luận tư tưởng của giai cấp công nhân trên vũ
đài chính trị.

Đặc điểm của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa là ngày càng bóc
lột nhiều hơn lao động thặng dư, dùng những thủ đoạn tinh vi hơn, khéo léo hơn,
lừa bịp hơn để đoạt lấy lao động thặng dư. Với phát minh ra “học thuyết giá trị
thặng dư”, C.Mác đã bóc trần bí mật của sự bóc lột của tư bản đối với công
nhân, thông qua hai phương pháp sản xuất ra giá trị thặng dư. Trong học thuyết
giá trị thặng dư của Mác đã chứng minh rằng dưới xã hội tư bản, sức lao động của
con người trở thành hàng hoá, một thứ hàng hoá đặc biệt, tư bản sử dụng thứ hàng
hoá sức lao động vì nó tạo ra giá trị lớn hơn nhiều so với giá trị mà nhà tư bản đã
bỏ ra để mua sức lao động ấy và nhà tư bản chiếm hữu giá trị dôi ra ấy, tức giá trị
20


thặng dư. Việc sản xuất ra giá trị thặng dư và chiếm đoạt giá trị thặng dư là mục
đích của nền sản xuất tư bản chủ ngghĩa, nó trở thành quy luật kinh tế cơ bản chi
phối toàn bộ quá trình sản xuất của phương thức đó. Đồng thời C.Mác khẳng định
quy luật sản xuất ra ngày càng nhiều giá trị thặng dư là quy luật kinh tế tuyệt đối
của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Từ học thuyết kinh tế mà hòn đá tảng
là học thuyết giá trị thặng dư, C.Mác đã luận chứng một cách khoa học vai trò lịch
sử thế giới của giai cấp công nhân là người xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa thay
thế xã hội tư bản. Bởi muốn xoá bỏ bóc lột thì chúng ta phải xoá bỏ cơ sở kinh tế
của quan hệ bóc lột đó là quan hệ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu
sản xuất. Phép biện chứng duy vật và học thuyết giá trị thặng dư là hai phát kiến vĩ
đại của C.Mác trong lịch sử tư tưởng nhân loại, đã làm cho lý luận về chủ nghĩa xã
hội từ không tưởng trở thành khoa học, là cơ sở cho C.Mác xây dựng thành công
học thuyết về sự nghiệp giải phóng giai cấp công nhân và giải phóng loài người
khỏi mọi hình thức áp bức, bóc lột và tha hoá.
Học thuyết giá trị thặng dư là một trong hai phát kiến vĩ đại của C.Mác,
nó đã làm thay đổi nhận thức của loài người về phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa cũng như bản chất của xã hội tư bản. C.Mác đã trả lời được những câu hỏi
lớn của thời đại đó là lợi nhuận và các nguồn thu nhập của giai cấp tư sản có

nguồn gốc từ đâu, nhĩa là; giá trị thặng dư do đâu mà có? nó được tạo ra như thế
nào? bản chất của nó ra sao? các hình thái biểu hiện cụ thể của giá trị thặng dư là
gì?...Học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác mang tầm vóc thời đại, nó là cơ sở,
phương pháp luận, kim chỉ nam trong nhận thức và cải tạo xã hội tư bản cũng
như phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Với tính cách mạng, khoa học triệt
để, học thuyết giá trị thặng dư là hạt nhân, là linh hồn và góp phần quan trọng
tạo nên sức sống trường tồn của chủ nghĩa Mác.
2.2. Ý nghĩa của học thuyết giá trị thặng dư trong xem xét chủ nghĩa
tư bản hiện nay.
21


Ngay thừ khi mới ra đời, rồi trở thành hệ vũ khí lý luận tư tưởng của giai
cấp công nhân, trải qua những thăng trầm của lịch sử, cho đến hiện nay thì học
thuyết giá trị thặng dư của C.Mác vẫn là mục tiêu chống phá của các thế lực thù
địch và các học giả tư sản. Bởi chúng nhận thức được rằng, học thuyết giá trị
thặng dư là hòn đá tảng của học thuyết kinh tế của C.Mác, mà học thuyết kinh tế
của C.Mác là linh hồn của chủ nghĩa Mác-Lênin. Nếu đánh đổ được học thuyết
giá trị thặng dư thì sẽ đánh đổ được học thuyết kinh tế của C.Mác cũng như tước
bỏ được vũ khí lí luận cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động,
thực hiện mưu đồ dập tắt phong trào cách mạng trên hành tinh của chúng ta
làm sụp đổ chủ nghĩa Mác-Lênin. Ngày nay chủ nghĩa tư bản hiện đại đã có
những điều chỉnh thích nghi và có khả năng phát triển trong miền có thể của nó,
trong xu thế toàn cầu hoá, quốc tế hoá đời sống kinh tế đang diễn ra sâu rộng và
cùng với sự vượt trội của nền kinh tế tri thức. Khoa học kỹ thuật đã trở thành lực
lượng sản xuất trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất, sự bùng nổ của công
nghệ thônh tin, công nghệ số, công nghệ tự động hoá...đã làm thay đổi cơ bản
cách thức lao động của người công nhân từ lao động trực tiếp, cơ khí là chính
chuyển sang lao động gián tiếp,tự động hoá trở thành phổ biến. Sự điều chỉnh về
quuan hệ sở hữu, về chính sách phúc lợi xã hội...đã hình thành trong xã hội tư

bản một bộ phận không nhỏ của giai cấp công nhân có thu nhập và mức sống
cao. Đặc biệt sau cơn địa chấn chính trị ở Liên Xô và các nước xã hội chủ
nghĩa ở Đông Âu dẫn đến sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa trên toàn
thế giới, phong trào cách mạng tạm thời lâm vào tình thế bất lợi... Thì kẻ thù
của chủ nghĩa Mác ra sức tuyên truyền, cổ suý cho cái gọi là; chủ nghĩa tư
bản nhân dân, chủ nghĩa tư bản ngày nay không còn bóc lột nữa, học thuyết
giá trị thặng dư của C.Mác đã cổ hủ, lỗi thời, nó chỉ đúng trong trong nền
văn minh cơ khí chứ không thích hợp với thời đại ngày nay...Điều đáng chú
ý là những tư tưởng, quan điểm đó không chỉ xuất hiện từ kẻ thù của chủ
22


nghĩa Mác, mà con xuất hiện ngay trong hàng ngũ những kẻ cơ hội đã có
thời tự xưng là môn đồ kiệt xuất của C.Mác. Tuy nhiên dưới ánh sáng của
học thuyết giá trị thặng dư chúng ta hoàn toàn có đủ cơ sở lý luận và thực
tiễn để phủ nhận mọi luận điệu gian trá của kẻ thù. Những người cộng sản có
thể hiên ngang khẳng định học thuyết giá trị thặng dư là học thuyết mang
tầm thời đại, nó vẫn còn nguyên giá trị xuyên suốt lịch sử xã hội loài người.
Do vậy, học thuyết giá trị thặng dư vẫn giữ vai trò là kim chỉ nam, sợi chỉ đỏ
xuyên suốt trong việc xem xét chủ nghĩa tư bản hiện nay, Ý nghĩa đó được
tác giả khái quát, trình bày thành các nội dung sau:
Thứ nhất; trong chủ nghĩa tư bản nhờ những thành tựu rất lớn về
khoa học và công nghệ đã được ứng dụng vào quá trình sản xuất nên đã tạo
ra những biến đổi to lớn trong đời sống kinh tế xã hội trên phạm vi toàn thế
giới, nhưng không làm thay đổi vai trò của lao động trong quá trình tạo ra
giá trị thặng dư. Thật vậy so với thời kỳ của C.Mác thì chủ nghĩa tư bản còn
ở trình độ lao động thủ công và cơ giới, ngày nay loài người bước vào thời
đại tin học, tự động hoá, chuyên môn hoá cao, những công nghệ, máy móc
hiện đại đã thay thế lao động trực tiếp của người công nhân nên các học giả
tư sản cho rằng học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác không còn đúng nữa.

Cần khẳng định một cách dứt khoát rằng học thuyết giá trị thặng dư của
C.Mác trong thời kỳ hậu công nghiệp vẫn còn nguyên giá trị, bởi máy móc
dù có hiện đại, tinh vi đến đâu thì cũng là sản phẩm của lao động của con
người và trong dây chuyền tự động ấy vẫn cần có sự điều khiển của người
công nhân. Theo C.Mác thì máy móc chỉ tham gia vào quá trình tạo ra giá trị
sản phẩm chứ không có khả năng sáng tạo ra giá trị mới, mặt khác dù máy
móc có hiện đại tới đâu thì cũng không tự nó chuyển giá trị vào sản phẩm mà
phải thông qua sự điều khiển hoạt động trực tiếp hoặc gián tiếp của con
người. Điều này đã được C.Mác xác định “lao động được biểu hiện ra không
23


phải chủ yếu với tư cách là lao động được nhập vào quá trình sản xuất
nữa, mà là chủ yếu với tư cách là một loại lao động trong đó con người ngày
càng đứng sang bên cạnh với chức năng giám sát, điều khiển, sáng tạo mà
máy móc không làm nổi”.
Thứ hai; tuy mức sống, điều kiện làm việc, thu nhập, cũng như các
quyền cơ bản của người công nhânở một số nước tư bản phát triển đã được
cải thiện, nhưng bản chất bóc lột của nhà tư bản cũng như vai trò lao động
sống của người công nhân trong quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư
không thay đổi. Khi thành tựu khoa học công nghệ được ứng dụng rộng rãi
vào quá trình sản xuất, đời sống và điều kiện làm việc của công nhân ỏ các
nước tư bản phát triển ngày càng được cải thiện nâng cao thì các nhà tư bản
cho rằng; không còn sự bóc lột hoặc nếu có bóc lột thì chẳng qua là bóc lột
máy móc thiết bị mà thôi. Điều này hoàn toàn sai bởi chủ nghĩa tư bản hiện
nay tuy đã kịp điều chỉnh thích nghi về sở hữu, phân chia lợi nhuận, thực
hiện chính sách xã hội..., nhưng bản chất kinh tế của nó vẫn không hề thay
đổi, vẫn là chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Do
vậy bóc lột sức lao động làm thuê là điều kiện, là phương thức tồn tại của
chủ nghĩa tư bản, đó là sự chiếm đoạt thành quả lao động của người khác cho

cái nhân nhà tư bản hoặc cho cả giai cấp tư sản bằng cách dựa vào quyền tư
hữu về tư liệu sản xuất hoặc quyền lực chính trị. Mặc dù áp dụng máy móc
hiện đại vào sản xuất nhưng nhà tư bản vẫn bóc lột công nhân đồng thời
bằng cả hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối và tuyệt đối.
Tuy thời gian lao động trong ngày có giảm xuống còn bảy đến tám giờ trên
một ngày lao động, nhưng trên thực tế nhà tư bản đã kéo dài thời gian làm
việc lên nhiều lần so với trước đây. Bởi trong các dây chuyền sản xuất hiện
đại đòi hỏi người công nhân phải tăng cường lao động một cách tối đa để
theo kịp sự vận hành của máy móc, đồng thời thời gian lao động tất yếu
24


trong ngày dưới sự hỗ trợ của máy móc thì nó đã giảm xuống tới mức tối
thiểu, do đó thời gian lao động thặng dư tăng lên gấp nhiều lần. Trong học
thuyết giá trị thặng dư C.Mác đã khẳng định chỉ có lao động sống của người
công nhân mới có khả năng sáng tạo ra một lượng giá trị lớn hơn giá trị của
chính nó, phần lớn hơn đó là giá trị thặng dư bị nhà tư bản chiếm đoạt. Như
vậy dù chủ nghĩa tư bản có phát triển, có điều chỉnh thế nào thì nguồn gốc
của giá trị thặng dư do C.Mác xác định vẫn không bao giờ thay đổi.
Thứ ba; học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác vẫnlà cơ sở khoa học
để nhận rõ sự thống nhất giữa giá tri lao động và giá trị tri thức trong điều
kiện hàm lượng tri thức khoa học ngày càng chiếm tỉ trọng cao trong cấu
thành giá trị của sản phẩm. Trong thời kỳ đại cách mạng công nghiệp, C.Mác
vẫn chưa thể bóc tách riêng lao động trí óc ra, chuyên đi sâu nghiên cứu vai trò
của nó trong việc tạo ra giá trị. Đây là chủ đề mà trước mắt chúng ta cần cấp
thiết nghiên cứu. Từ những năm 60 của thế kỷ XX tới nay, tri thức khoa học tăng
trưởng rất lớn, sự thẩm thấu và kết hợp lẫn nhau giữa khoa học tự nhiên và khoa
học xã hội, giữa khoa học và kỹ thuật khiến cho khoa học - kỹ thuật hiện đại trở
thành một hệ thống tri thức thống nhất, đóng vai trò là một nhân tố quan trọng đối
với tăng trưởng kinh tế, nhưng từ trước đến nay chưa hề có nhiều lao động tri thức

như bây giờ, và cũng chưa từng có việc truyền bá tri thức nhanh như bây giờ
thông qua máy tính và mạng internet. Nhìn chung, cung cấp tri thức không gây ra
cho người cung cấp sự nghèo đói, mà ngược lại, chia sẻ tri thức thường lại có thể
là nguồn gốc đem lại sự giàu có. Tri thức hiện tại được coi như một động lực thúc
đẩy cho sự phát triển sức sản xuất và tăng trưởng kinh tế. Ngày nay việc ứng dụng
của khoa học - kỹ thuật vào quá trình sản xuất, tiến hành tự động hoá sản xuất chỉ
biểu hiện kết cấu sức lao động đã có sự biến chuyển lớn. Giá trị hàng hoá được tạo
ra càng ít dựa vào lao động thể lực của người sản xuất, thì lại dựa càng nhiều vào
lao động trí óc của họ. Lao động thể lực của công nhân giảm đi, nhưng lao động
25


trí óc họ phải bỏ ra nhiều hơn. Việc tạo ra giá trị hàng hoá công nghệ cao thể hiện
trong tất cả quá trình nghiên cứu, thiết kế, sản xuất và tiêu thụ. Trong toàn bộ quá
trình đó, khoa học - kỹ thuật, tri thức, thông tin phát huy vai trò to lớn, nhưng suy
đến cùng, chúng đều là sản phẩm của lao động trí óc mang tính sáng tạo của con
người. Do đó, tình hình mới của phát triển sản xuất không hề làm thay đổi sự thực
là lao động tạo ra giá trị. Đồng thời, sự phát triển của khoa học - kỹ thuật hiện đại
chỉ thúc đẩy sự thay đổi của cấu tạo hữu cơ tư bản, chứ không thể thay đổi thực tế
sự phát triển kinh tế của chủ nghĩa tư bản đương đại vẫn phải dựa vào việc theo
đuổi giá trị thặng dư. Hơn nữa, khi người lao động trí óc sáng tạo và sử dụng khoa
học - kỹ thuật, họ cũng phải bỏ ra rất nhiều lao động. Trong quá trình sản xuất
hiện đại hoá, số lượng người lao động trí óc tăng lên rất nhiều, họ cũng bị nhà tư
bản thuê, sáng tạo một lượng lớn giá trị thặng dư. Từ đó để thấy rằng, lý luận giá
trị thặng dư của C. Mác không hề lỗi thời và mất đi tác dụng.
Thứ tư; nghiên cứu học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác không phải để
kỳ thị, phủ nhận sự tồn tại khách quan của thành phần kinh tế tư nhân cũng như
chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuấ trong nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Sự hoạt động của qui luật giá trị thặng dư
tạo điều kiện thúc đẩy nhanh quá trình cải tiến kỹ thuật, ứng dụng các thành tựu

khoa học vào sản xuất, trên cơ sở đó thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Học
thuyết giá trị thặng dư của C.Mác là cơ sở lý luận khoa học cho đảng ta đề ra các
chủ trương giải pháp đúng đắn để giải quyết các vấn đề cấp thiết của nền kinh tế
đặt ra như; lựa chọn hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh cho các loại hình, các
thành phần kinh tế trong nước; vấn đề huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn
lực kinh tế; lựa chọn công nghệ và vấn đề đảng viên làm kinh tế tư nhân không
hạn chế qui mô...Do vậy chúng ta cần nắm vững và vận dụng sáng tạo học thuyết
giá trị thặng dư của C.Mác để giải quyết có hiệu quả các vấn đề cơ bản của nền
kinh tế đó là: Sử dụng đúng đắn mối quan hệ hàng-tiền để ổn định và phát triển
26


×