Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

Sơ lược về tài nguyên đất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (263.08 KB, 34 trang )

Lời mở đầu
Trái đất mà con người chúng ta đang sống này có rất
nhiều nguồn tài nguyên như tài nguyên đất, tài nguyên rừng,
tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản,… Tuy nhiên trong đó
tài nguyên đất là một trong những tài nguyên thiên nhiên
đang được quan tâm vì nó liên quan đến con người cũng như
các loài động vật, thực vật và đến những loài vi sinh vật nhỏ
bé sống trong đất.
Đất cung cấp chất dinh dưỡng cho cây trồng, cung cấp
lương thực cho con người và động vật để bảo tồn sự sống. Đất
còn cung cấp các sản phẩm phục vụ cho các nhu cầu khác của
con người như bông, gỗ xẻ, giấy, dược liệu .v.v…
Tài nguyên đất hiện bị suy giảm do áp lực tăng dân số
(200.000 người/ngày), giảm diện tích đất trồng để xây nhà (đô
thị hóa), làm đường cao tốc và nhà máy công nghiệp (tại Mỹ
khoảng 2 triệu acre đất trồng được dùng để phát triển đô thị,
1 triệu acre bị ngập nước), đất bị xói mòn do gió và nước.
Ngoài ra thì tài nguyên đất còn có một số vấn đề bất cập
như ô nhiễm môi trường đất, hiện tượng sa mạc hóa, xói mòn
rửa trôi, chua đất,…. Cũng vì đó mà nước ta và các nước trên
thế giới đã tìm ra những giải pháp khắc phục. Đồng thời tìm
ra những nguyên nhân đã dẫn đến những hiện tượng đó. Để
hiểu rõ hơn về tài nguyên đất và các vấn đề môi trường-tài
nguyên đất cũng như giải pháp khắc phục thì hãy cùng tôi tìm
hiểu.
Phần 1: tài nguyên đất (sơ lược, hiện trạng của thế giới và Việt
Nam )


Phần 2: các vấn đề về môi trường – tài nguyên đất và giải
pháp


Phần 3: kết luận


Mục lục:

Danh mục bảng:


Phần I: Tài nguyên đất
1. Sơ lược về tài nguyên đất
1.1. Khái niệm
Ðất là một dạng tài nguyên vật liệu của con người. Ðất
có hai nghĩa: đất đai là nơi ở, xây dựng cơ sở hạ tầng của con
người và thổ nhưỡng là mặt bằng để sản xuất nông lâm
nghiệp.
Đất hiểu theo nghĩa thông thường nhất là phần mỏng
nằm trên bề mặt của Trái Đất mà không bị nước bao phủ.
Và đất theo nghĩa thổ nhưỡng là vật thể thiên nhiên có
cấu tạo độc lập lâu đời, hình thành do kết quả của nhiều yếu
tố: đá gốc, động thực vật, khí hậu, địa hình và thời gian. Thành
phần cấu tạo của đất gồm các hạt khoáng chiếm 40%, hợp
chất humic 5%, không khí 20% và nước 35%. Giá trị tài
nguyên đất được đo bằng số lượng diện tích (ha, km2) và độ
phì (độ mầu mỡ thích hợp cho trồng cây công nghiệp và lương
thực).

1.2. Thành phần
Các thành phần chủ yếu của đất như chất khoáng, chất
mùn, thành phần hữu cơ (khoảng 1-6% trọng lượng đất) và
các thành phần hữu sinh như các loài gặm nhấm, giun, kiến

…, vi sinh vật (1 gram đất có khoảng 100-1 tỉ vi khuẩn,
100.000-100 triệu actinomyces, 20000-1 triệu nấm, 10050.000 tảo), các động vật nguyên sinh.
Chức năng chính của vi sinh vật đất là tham gia vào quá
trình phân hủy chất hữu cơ, tham gia vào chu trình tuần hoàn;
4


tạo nên những hợp chất hữu cơ đóng vai trò quan trọng trong
gắn kết các hạt đất lại với nhau.
Đất có các nguyên tố cần thiết theo một tỉ lệ thích hợp: 3
nguyên tố (C, H, O); 3 nguyên tố cơ bản (N, P, K); 3 nguyên tố
kế (Ca, Mg, S) và 7 nguyên tố vi lượng (B, Cl, Cu, Fe, Mn, Mo,
Zn).
pH của đất thay đổi tùy thuộc vào sự hiện hiện của H +.
Trung bình 5,5-7,5. pH giúp cho các hoạt động của vi sinh vật
đất. Đất acid thích hợp cho các loại nấm. Đất cung cấp chất
khoáng cần thiết cho cây trồng. pH đất thay đổi là do tăng
CaCO3 hoặc giảm H+.
Đất tốt là đất có pH thích hợp, ½ khoáng, ¼ không khí và
¼ nước, sử dụng phân bón đúng liều lượng, cây trồng thu được
năng suất cao.

1.3. Phân loại
 Trên thế giới có nhiều phương pháp phân loại đất khác

nhau:
• Phân loại đất theo phát sinh (phương pháp bán định
lượng)

• Phân loại đất của Mỹ (Soil Taxonomy): còn gọi là


phương pháp phân loại định lượng
• Phân loại đất của FAO – UNESCO (dựa vào các nguồn
gốc phát sinh và các tính chất hiện tại của đất)

 Tại Việt Nam từ cuối thập kỉ 80, Việt Nam tiếp thu Soil

Taxonomy và hệ thống phân loại FAO-UNESCO:
• Đất cát biển:
 Đất cồn cát trắng vàng
 Đất cồn cát đỏ
 Đất cát biển
• Đất mặn:
 Đất mặn sú vẹt đước
 Đất mặn nhiều
 Đất mặn trung bình và ít
5























Đất
Đất
Đất
Đất
Đất
Đất
Đất
Đất
Đất
Đất
Đất
Đất
Đất
Đất
Đất
Đất
Đất
Đất
Đất

phèn (chua mặn):

phèn phù sa
glây phèn
than bùn phèn
phù sa:
phù sa sông Hồng
phù sa sông Cửu Long
phù sa sông ngòi miền Trung
phù sa chua
phù sa trung tính ít chua
phù sa đồng bằng
xám bạc màu:
xám feralit
xám mùn trên núi
xám glây
xám bạc màu
xám có tầng loang lổ
nâu vùng bán khô hạn:
nâu vùng bán khô hạn phát triển trên đá mẹ









giàu thạch anh
Đất đỏ vùng bán khô hạn
Đất đen

Đất đỏ vàng (Feralit)
Đất mùn vàng đỏ trên núi
Đất mùn trên núi
Đất pôtzôn
Đất xói mòn trơ sỏi đá

1.4. Vai trò và chức năng
1.4.1.

Vai trò
Đất có vai trò quan trọng trong nhiều quá trình tự

nhiên như:








Môi trường cho cây trồng sinh trưởng và phát
triển
Đảm bảo an ninh sinh thái và an ninh lương thực
Nơi chứa đựng và phân hủy chất thải
Nơi cư trú của động vật trên và trong đất
Nơi ở và sinh hoạt của con người
Nơi lọc và cung cấp nước
....


6


Đất là tài nguyên vô cùng quý giá, là giá đỡ và nuôi
dưỡng toàn bộ các hệ sinh thái trên đất, trong đó có hệ sinh
thái nông nghiệp hiện đang nuôi sống toàn nhân loại. Tập
quán khia thác tài nguyên đất phân hóa theo cộng đồng, phụ
thuộc vào điều kiện địa lí, khí hậu, đặc trưng tập đoàn cây
trồng, đặc thù văn hóa, trình độ khoa học công nghệ và mục
tiêu kinh tế.
1.4.2. Chức năng của tài nguyên đất
 Không gian sống: đất là giá thể cho sinh vật và

con người
Chức năng
Chức năng
Chức năng
Chức năng
Chức năng
Chức năng
Chức năng










điều hòa khí hậu
điều hòa nguồn nước
kiểm soát chất thải và ô nhiễm
sản xuất và môi trường sống
nối liền không gian
tồn trữ
bảo tồn văn hóa và lịch sử

2. Hiện trạng tài nguyên đất

2.1. Hiện trạng tài nguyên đất của thế giới
Diện tích đất liền toàn cầu là 14.477 triệu ha, trong đó
11% là đất đang canh tác (1500 triệu ha), 24% làm đồng cỏ
chăn nuôi gia súc, 32% là diện tích rừng và đất rừng, 32% còn
lại là đất dùng vào các mục đích khác (dân cư, đầm lầy, đất
ngập mặn,...).
Thế giới có khoảng 3200 triệu ha đất tiềm năng nông nghiệp
và hiện đang canh tác trên khoảng gần ½ diện tích, trong đó tỉ
lệ đã sử dụng ở các khu vực là:






Châu Á 92%
Mĩ Latinh 15%
Châu Phi 21%
Các nước phát triển 70%
Các nước đang phát triển 36%


7


Đất tiềm năng nông nghiệp nhưng vẫn chưa được đưa
vào sử dụng là do có những yếu tố hạn chế như: khí hậu khắc
nghiệt, thiếu nước, đất dốc, đất mặn hoặc chua phèn, đất bạc
màu,.... Việc đưa các loại đất có vấn đề này vào khai thác
nông nghiệp sẽ cho hiệu quả kinh tế thấp hơn, đòi hỏi đầu tư
ban đầu lớn hơn và có nguy cơ gây hậu quả sinh thái môi
trường sâu sắc hơn. Cùng với sự gia tăng dân số, gia tăng mức
sống, nhu cầu về đất nông nghiệp sẽ không ngừng tăng. Trung
bình mỗi năm, 95 triệu người mới sinh cần có thêm 5 triệu ha
đất nông nghiệp mới.
Năm 1995, bình quân đất tự nhiên thế giới là 3,23
ha/người, châu Á 1.14 ha/người, bình quân đất nông nghiệp
thế giới là 0.31 ha/người, tại Mĩ là 0.5 ha/người, tại châu Á là
0.19 ha/người. Theo các nhà khoa học, tối thiểu đất nông
nghiệp bình quân đầu người phải là 2600 m2 .

Bảng 1: tỉ lệ đất tự nhiên và nông nghiệp trên toàn
thế giới

Bảng 2: Cơ cấu sử dụng đất
%

19738


1988

Đất nông nghiệp

1
1

Tăng 4%

Đất đồng cỏ, chăn 2

Giảm

thả

4

0,3%

3

Giảm

1

3,5%

3

Tăng

4


2,3%

Đất rừng và rừng

Đất khác (*)

(*) Trong 34% đất khác bao gồm: đất có khả năng nông
nghiệp, đất xây dựng, đất chứa thải…. Đất có khả năng nông
nghiệp là 3.200 triệu ha, hơn gấp đôi mức đã sử dụng (1.475
triệu ha); trong đó tỉ lệ đưa vào sử dụng ở các nước phát triển
là 70%, các nước đang phát triển chỉ có 30%.
Với đất chưa sử dụng (đất dự trữ) thì đất không đòi hỏi
các khoản chi phí lớn vào khai khẩn chỉ chiếm 5% diện tích đất
tự nhiên; Đất cần những chi phí lớn trong sử dụng: 24% diện
tích đất tự nhiên (hoang mạc, đầm lầy, sườn dốc đứng, đài
nguyên rừng, đất hoang do con người); Đất không dùng được
chiếm 15% diện tích đất tự nhiên (sông băng, núi cao gần
đường tuyết, đài nguyên).
Diện tích đất thế giới hiện nay: 20% ở vùng quá lạnh,
20% ở vùng quá khô, 20% ở vùng quá dốc, 10% có tầng đất
mỏng, 10% ở vùng trồng trọt được, 20% có thể làm đồng cỏ,
đất trồng trọt chiếm tỉ lệ thấp, trong đó, đất có năng suất cao
(14%), trung bình (28%) và thấp (58%) (nguồn FAO-UNESCO).

9


Tuy nhiên hiện nay khoảng 2/3 diện tích đất nông nghiệp
trên thế giới đã bị suy thoái nghiêm trọng trong 50 năm năm

qua do xói mòn rửa trôi, sa mạc hóa, chua hóa, mặn hóa thứ
sinh, ô nhiễm môi trường, khủng hoảng hệ sinh thái đất.
Khoảng 40% đất nông nghiệp đã bị suy thoái mạnh hoặc rất
mạnh, 10% bị sa mạc hóa do biến động khí hậu bất lợi và khai
thác sử dụng không hợp lí. Sa mạc Sahara mỗi năm mở rộng
lấn mất thêm 100.000 ha đất nông nghiệp và đồng cỏ. Thoái
hóa môi trường đất có nguy cơ làm giảm 10-20% sản lượng
lương thế giới trong 25 năm tới. Tỉ trọng đóng góp gây thoái
hóa đất trên thế giới như sau:



Mất rừng 30%
Khai thác rừng quá mức (chặt cây cối

làm củi,..) 7%
• Chăn thả gia súc quá mức 35%
• Công nghiệp hóa gây ô nhiễm 1%
• Canh tác nông nghiệp không hợp lí 27%
Vai trò của các nguyên nhân gây thoái hóa đất ở các
châu lục không giống nhau: ở châu Âu, châu Á, Nam Mĩ mất
rừng là nguyên nhân hàng đầu, châu Đại Dương và châu Phi
chăn thả gia súc quá mức có vai trò chính yếu nhất, Bắc và
Trung Mĩ chủ yếu do hoạt động nông nghiệp.

2.2. Hiện trạng tài nguyên đất của Việt Nam
Diện đất tự nhiên nước ta khoảng 33 triệu ha, được xếp
thứ 57/200 nước, nhưng dân số đông (khoảng 78 triệu người)
nên diện tích đất bình quân mỗi người vào loại thấp (0,5 ha)
và xếp vào thứ 159.

Đất vùng đồi núi, dốc chiếm 22 triệu ha (67% diện tích
cả nước), đất tốt có đất bazan 2,4 triệu ha chiếm 7,2%, đất
phù sa 3,0 triệu ha chiếm 8,7%. Nhìn chung đất tốt chỉ được
xấp xỉ 20%.
10


Đất nông nghiệp khoảng 7,36 triệu ha, trong đó 5,9
triệu ha trồng cây ngắn ngày như lúa, hoa màu, lương thực
thực phẩm (số liệu năm 1994). Đất rừng khoảng 9,91 triệu ha.
Ngoài ra, có khoảng 13,58 triệu ha chưa được sử dụng trong
đó chỉ có khoảng 400.000 ha có thể sử dụng vào nông nghiệp,
còn lại là đồi núi trọc và mặt nước ao hồ sông suối.
Diện tích đất nông nghiệp những năm qua có tăng ít
nhiều nhưng so với tỉ lệ tăng dân số thì vẫn sụt giảm. Khả
năng mở rộng đất nông nghiệp là rất hạn chế do điều kiện tự
nhiên và kỹ thuật. Ngoài ra đất chuyên dùng như đất xây
dựng, giao thông, thủy lợi, đất ở ngày một tăng càng làm thu
hẹp đất nông nghiệp.
Trừ hai vùng đồng bằng sông Cửu Long, sông Hồng và
đất Tây Nguyên là đất tốt, những vùng đất còn lại đều có tiềm
năng năng suất thấp, lại bị rửa trôi, xói mòn, nhiễm mặn,
nhiễm phèn; nhiều đất phì nhiêu đã bị thoái hóa. Hơn 1 triệu
ha bị xói mòn trơ sỏi đá, laterit hóa.
Trung bình, lượng chất dinh dưỡng của đất hàng năm bị
mất đi là chất hữu cơ 5.600 tấn/năm; nitơ 199,2 kg/năm; lân
163,2 kg/năm; Ca và Mg 33 kg/năm. Sự phá hủy rừng cây đẩy
nhanh tốc độ xói mòn và suy thoái đất. Việc sử dụng không
hạn chế phân hóa học và thuốc trừ sâu làm cho đất bị chai
cứng, bị nhiễm độc. Thâm canh tăng vụ, quay vòng đất nhanh

cũng làm cho đất cạn kiệt, không kịp phục hồi.
Cơ cấu sử dụng đất ở Việt Nam cũng có xu hướng giống
thế giới: tăng đất nông nghiệp, giảm đất rừng, tăng đất
chuyên dùng và đất trống đồi trọc, 55% diện tích đất tự nhiên
được sử dụng vào 4 mục đích cơ bản: nông nghiệp, lâm
nghiệp, chuyên dụng và các khu dân cư. Khoảng 7 triệu ha đất
(21,13% diện tích đất tự nhiên) được sử dụng vào nông nghiệp
11


như trồng cây hàng năm (5,5 triệu ha), trồng cây lâu năm (1,1
triệu ha), đồng cỏ chăn nuôi (0,35 triệu ha).
Việt Nam nằm ở vùng nhiệt đới, mưa nhiều, nhiệt độ
không khí cao, khoáng hóa mạnh, dễ bị rửa trôi, xói mòn,
ruộng đất dễ bị thoái hóa, khó khôi phục lại trạng thái ban
đầu.
Ô nhiễm môi trường đất đang có chiều hướng tăng lên
do tăng mức sử dụng, sử dụng không hợp lý các dạng phân
bón, chất thải rắn đô thị chưa được thu gom, vận chuyển và
xử lý kịp thời, phương thức canh tác không đúng kỹ thuật, đốt
nương làm rẫy trên các vùng đất dốc, tưới tiêu không hợp lý
đã làm thoái hóa đất như rửa trôi, xói mòn, phèn hóa, mặn và
chua hóa thứ sinh.

Bảng 3: Tình hình sử dụng đất tại Việt Nam (%)
Năm

1991

Tổng


diện :

tích đất
Đất

nông

Đất rừng
chuyên

dụng
Đất định cư
Đất chưa sử
dụng

199

199

199

2

3

4

5


22,

22,

22,

22,

03

20

25

26

28,

29,

29,

32,

77

12

95


61

3,3

3,3

3,3

3,8

4

5

9

4

2,3

2,3

2,1

2,5

4

4


7

0

43,

42,

42,

38,

52

99

24

80

1996

33.104,22

triệu ha

nghiệp

Đất


199

21,17

29,05

3,03

2,44

44,31

24,09

32,84

3,93

2,62

36,52

12


Bảng 4: biểu đồ diện tích đất nông nghiệp và phi
nông nghiệp ở Việt Nam

Bảng 5: Diện tích đất nông nghiệp và đất rừng so
với diện tích đất tự nhiên năm 1994 chia theo vùng

Đất

Tự

nhiên Nông

nghiệp

Rừn
g

(%)

(%)

100

22,3

100

3,6

6,2

Đồng bằng sông Hồng

100

2,1


0,2

Khu Bốn cũ

100

2,0

5,7

Duyên hải miền Trung

100

1,6

5,6

Tây Nguyên

100

1,9

9,9

Đông Nam bộ

100


2,9

1,5

100

8,0

0,9

Cả nước
Miền núi và trung du
Bắc bộ

Đồng bằng sông Cửu
Long

(%)
30,
0

13


Ngoài ra, suy thoái tài nguyên đất Việt Nam bao gồm
nhiều vấn đề và do nhiều quá trình tự nhiên xã hội khác nhau
đồng thời tác động. Những quá trình thoái hóa đất nghiêm
trọng ở Việt Nam là:
- Xói mòn rửa trôi bạc màu do mất rừng, mưa lớn, canh tác


không hợp lí, chăn thả quá mức
- Chua hóa, mặn hóa, phèn hóa, sa mạc hóa, cát bay, mất cân
bằng dinh dưỡng,... Tỉ lệ bón phân N: P 2O5: K2O trung bình
trên thế giới là 100 : 33 : 17, còn ở Việt Nam là 100 : 29 : 7,
thiếu lân và kali nghiêm trọng.
Theo thống kê, đến cuối năm 2011 đất nông nghiệp nước
ta đạt khoảng 26.3 triệu ha, trong đó có khoảng 10.1 triệu ha
đất sản xuất nông nghiệp, 15.4 triệu ha đất lâm nghiệp, 0.7
triệu ha đất nuôi rồng thủy sản, 18 nghìn ha đất làm muối và
26 nghìn ha đất nông nghiệp khác. Còn lại khoảng 3,7 triệu ha
đất phi nông nghiệp (đất ở, đất chuyên dùng, đất tôn giáo, tín
ngưỡng, đất nghĩa trang, nghĩa địa, đất sông suối và mặt nước
chuyên dùng, đất phi nông nghiệp khác) và 3 triệu ha đất
chưa sử dụng.

Phần II: Các vấn đề về môi trường – tài nguyên đất
và giải pháp
1. Các vấn đề môi trường- tài nguyên đất
1.1. Ô nhiễm môi trường đất
Ô nhiễm môi trường đất được xem là tất cả các hiện
tượng làm nhiễm bẩn môi trường đất bởi các chất gây ô
nhiễm(pollutant). Người ta có thể phân loại đất bị ô nhiễm
theo nguồn gốc phát sinh, hoặc theo các tác nhân gây ra ô
nhiễm.
Nếu theo nguồn gốc phát sinh có:
14





Ô nhiễm đất do các chất thải sinh hoạt.



Ô nhiễm đất do chất thải công nghiệp.



Ô nhiễm đất do hoạt động nông nghiệp.
Môi trường đất có những đặt thù riêng và một số tác
nhân gây ô nhiễm có thể có cùng nguồn gốc nhưng lại gây tác
động rẩ bất lợi rất khác nhau. Do đó, phân loại theo các tác
nhân gây ô nhiễm sẽ phù hợp hơn đối với môi trường đất:



Ô nhiễm do tác nhân hóa học



Ô nhiễm do tác nhân sinh học.



Ô nhiễm do tác nhân vật lý.
Ô nhiễm ở khu công nghiệp và đô thị: Quá trình phát
triển công nghiệp và đô thị cũng ảnh hưởng đến tính chất lý
và hóa học đất.



Những tác động về vật lý đất như: gây xói mòn,
nén chặt đất và phá hủy cấu trú đất do kết quả
của các hoạt động xây dựng, sản xuất khai thác
mỏ.



Những tác động về hóa học như: các chất thải rắn,
lỏng và khí tác động đến đất.

Tác động của công nghiệp và đo thị đén đất xảy ra rất
mạnh từ cuộc cách mạng công nghiệp thế kỷ XVIII – XIX, đặc
biệt là trong những thập niên gần đây. Các chất thải công
nghiệp ngày càng nhiều và có độc tính ngày càng cao, nhiều
loại rất khó bị phân hủy sinh học. Các chất thảiđộc hại có thể

15


được tích lũy trong đất trong thời gian dài gây ra nguy cơ tiềm
năng đối với môi trường.
Có thể phân chia các chất thải ra 4 nhóm chính:


Chất thải xây dựng,



Chất thải kim loại,




Chất thải khí,



Chất thải hóa học và hữu cơ.


Chất thải xây dựng
Chất thải xây dựng như gạch ngói, thủy tinh, gỗ, ống

nhựa, dây cáp, bêtông, nhựa…trong đất các chất này bị biến
đổi theo nhiều con đường khác nhau, nhiều chất rẩ khó bị
phân hủy…


Chất thải kim loại
Các chất thải kim loại, đặc biệt là các kim loại nặng (Pb,

Zn, Cd, Cu và Ni) thường có nhiều ở các khu vực khai thác mỏ,
các khu công nghiệp và đô thị.
Kết quả điều tra đất vườn ở 53 thành phố, thị xã ở nước
Anh cho thấy hầu hết có lượng chì tổng số vượt trên 200
mg/kg, ở nhiều vùng công nghiệp đã vượt quá 500 mg/kg, các
giá trị này cao hơn đất bình thường không bị nhiễm bẩn (<100
mg/kg).
Nguồn gốc chính của kim loại nặng trong chất thải:


16




Các loại bình điện (pin, ac quy) có mức chất thải kim
loại nặng cao nhất: 93% tổng số lượng thủy ngân,
khoảng 45% số lượng Cadmium (Cd).



Sắt phế liệu chứa khoảng 40% số lượng chì (Pb), 30%
đồng (Cu), 10% crôm (Cr).



Các chất thải mịn (<20 mm) chứa 43% Cu thải, 20%
Pb và 12% nickel (Ni).



38% Cd thải và 25% Ni là từ chất dẻo.



Nickel có trong các loại thành phần rác, trong đó có 6
loại rác chứa trên 10% Ni.
Các tác giả nghiên cứu chủ yếu trên những vùng co vấn

đề ô nhiễm chung quanh các nhà máy lớn có khói, bụi, chất

thải gây ô nhiễm, các thành phố lớn, các sông và cửa sông
phải hứng chịu các nguồn chất thải lớn…. Một số tác giả đi sâu
nghiên cứu tác hại trên sức khoẻ con người, gia súc hoặc đi
sâu về cơ chế hấp thu, vận chuyển, tích tụ kim loại nặng.
Teruo Asami (Nhật Bản) phân tích mẫu bụi của 12 thành
phố lớn ở Nhật và nhận thấy hàm lượng kim loại nặng phản
ánh đặc tính của thành phố. Ở Osaka, người ta thấy có hệ
thống tương quan cao giữa tỷ lệ bệnh nhân (xác định) và hàm
lượng kim loại nặng được dùng trong công nghiệp sắt, thép.
Người ta thấy rằng, bụi bay trong không khí và bụi lắng ở
các khu vực đô thị chắc chắn chứa nhiều nguy cơ có nhiều độc
tiềm tàng kim loại hơn bụi ở khu vực nông thôn. Do vậy cư dân
sống ở những khu vực đô thị phải hứng chịu nhiều nguy cơ
tiềm tàng về kim loại nặng hơn những cư dân sống ở nông
thôn.
17


Teruo Asami đã thu thập 308 mẫu bụi đường ở 12 thành
phố của Nhật Bản, bao gồm cả Tokyo, Osaca, Kyoto và điều tra
mối tương quan giữa hàm lượng kim loại nặng trong bụi đường
và tỷ lệ người mắc bệnh, nhất là ở Osaka là thành phố lớn thứ
nhì và có hầu hết các ngành công nghiệp nặng của Nhật Bản.
Kết quả cho thấy hàm lượng kim loại nặng trong bụi
đường ( g/g DM) ở các thành phố, nhất là các thành phố lớn
như: Osaka, Tokyo cao gấp nhiều lần so với đất không ô
nhiễm:
Cd : 3,26 so với 0,37; Cu : 258 so với 20,4;
Zn : 1601 so với 65,1; Ni : 96,9 so với 14,8;
Pb : 465 so với 18,1; Cr : 133 so với 27,2.

Hệ số tương quan giữa tỷ lệ bệnh nhân có chứng nhận và hàm
lượng kim loại nặng (
g/g Dm) ở Osaka như sau (n=26):

* : ý nghĩa 5%
** : ý nghĩa 1%
*** : ý nghĩa 0,1%

18


Các kim loại độc hại có thể tồn tại trong đất dưới nhiều
dạng khác nhau, (hấp phụ, liên kết) với các hợp chất hữu cơ,
vô cơ hoặc tạo thành các chất phức hợp (chelat).
Khả năng dễ tiêu của chúng đối với thực vật phụ thuộc
vào nhiều yếu tố như: pH, khả năng trao đổi cation (CEC) và
sự phụ thuộc lẫn ngau vào các kim loại khác. Ở các đất có
CEC cao, chúng bị giữ lại nhiều trên các phứ hệ hấp phụ.
Các kim loại nặng có khả năng linh động lớn ở đất chua
(pH < 5,5). Các kim loại nặng được tích luỹ trong các cơ thể
sinh vật theo các chuỗi thức ăn và nước uống.
Ảnh hưởng của các kim loại nặng trong đất đối với sức
khoẻ con người chưa được xác đinh một cách rã ràng, nên rất
khó xây dựng ngưỡng độc hại chính xác. Tuy nhiên nhiều nước
cũng đã xây dựng tiêu chuẩn độc hại của các nguyên tố trong
đất. Nhưng giá trị này thường khác nhau tuỳ thuộc vào điều
kiện môi trường, các chính sách và luật pháp cụ thể.
Ở Hà Lan, chính phủ đã xây dựng hệ thống gồm 3 mức:
giá trị chấp nhận được hay giá trị nền, giá trị chứng tỏ quá
trình nhiễm bẩn đang xảy ra và giá trị cần thiết phải làm sạch.


19


Bảng 6: Đánh giá mức ô nhiễm bẩn kim loại trong
đất ở Hà Lan (Thoromon, 1991).

Một nguồn gây ô nhiễm đất đáng kể là từ các nhà máy
nhiệt điện, các khu vực khai thác than. Nguồn ô nhiễm đất do
các chất phóng xạ từ các phế thải của các cơ sở khai thác chất
phóng xạ. Trung tâm nghiên cứu nguyên tử, các nhà máy điện
nguyên tử, các vụ thử hạt nhân, các cơ sở sử dụng đồng vị
phóng xạ trong nông nghiệp, công nghiệp và y tế. Ở các khu
vực nhà máy điện nguyên tử thường gây ô nhiễm các chất
phóng xạ như

137

Cs và

134

Cs.

Hiện nay, người ta đã phát hiện có hơn 50 nguyên tố
phóng xạ tự nhiên và 1000 đồng vị phóng xạ nhân tạo. Những
chất
là:

131


phóng
I,

32

F,

60

Co,

36

xạ
S,

45

Ca,

235

nguy
U,

14

C,


98

Al,

hiểm
226

Ra,

130

Ba.

nhất
Các

chất

phóng xạ có khả năng tích luỹ cao trong các đất có CEC lớn,
20


đất gần trung tính và trung tính, đất giàu khoáng sét và các
chất mùn.
Các tác giả đã đưa ra các biện pháp để ngăn ngừa sự
thải kim loai nặng vào môi trường, xưm đây là sự cần thiết về
mặt sinh thát và biện pháp kinh tế xã hội. Theo họ, các chính
phủ cần ban hành các biện pháp chiến lược bao gồm:



Ban hành các văn bản pháp luật quy định việc thay
thế các chất kim loại nặng bằng các hợp chất không
độc, chẳng hạn thay thế nắp bằng hợp kim chì của
rượu vang bằng vật liệu khác như: sáp, PE hay
nhôm.



Phân loại và chọn lọc từ nguồn: thực hiện các
chương trình với kết quả tốt đối với giấy, thuỷ tinh,
kim loại,… nhất là đối với các loại pin, bình nhiệt.



Xây dựng các nhà máy chọn và xử lý rác như: ở Pháp
có các nhà máy phân rác, đốt rác.



Các tiến trình lọc, đốt cần ngăn ngừa kim loại nặng
thoát ra ở mức thấp nhất.



Chất thải khí
- CO là sản phẩm đốt cháy không hoàn toàn carbon (C),

80% Co là từ động cơ xe hơi, xe máy, hoạt động của các máy
nổ khác, khói lò gạch, lò bếp, núi lửa phun…CO vào cơ thể
động vật, người gây nguy hiểm do CO kết hợp với Hemoglobin

làm máu không hấp thu oxy, cản trở sự hô hấp. Trong đất một
phần CO được hấp thu trong keo đất, một phần bi oxy hoá
thành CO2.

21


- CO2, SO2, NO2 trong không khí bị ô nhiễm là nguyên nhân
gây ra mưa axít, làm tăng quá trình chua hoá đất.


Chất thải hoá học và hữu cơ
Các chất thải có khả năng gây ô nhiễm đất ở mức độ lớn

như: chất tẩy rửa, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, thuốc
nhượm, màu vẽ, công nghiệp sản xuất pin, thuộc da, công
nghiệp sản xuất hoá chất.
Nhiều loại chất thải hữu cơ cũng dẫn đến ô nhiễm đất.
Nhiều loại nướ từ cống rãnh thành phố thường được sử dụng
như nguồn nước tưới trong sản xuất nông nghiệp. Trong các
loại nước thải này thường bao gồm cả nước thải sinh hoạt và
công nghiệp, nên thường chứa nhiều các kim loại nặng.
Những chất tẩy rửa của những chất thải bỏ công nghiệp
rắn có thể chứa những sản phẩm hoá học độc hại ở dạng dung
dịch. Trong thiên nhiên những chất này có thể tích luỹ lại bằng
nhiều cơ chế khác nhau. Đa số các chất này được phóng ra
mặt đất, một số chất được phóng ra biển, đi vào sông ngòi, hệ
thống nước ngầm, và được tưới cho cây trồng.
Ở TP. Hồ Chí Minh, với dân số gần 7 triệu người, nên
hàng ngày thải ra một lượng rác vô cung lớn, và có thành

phần hết sức phức tạp, nguồn gốc khác nhau từ bùn cống, rừ
nước thải, phế thải của nhà máy, trong đó có chứa các chất
như mảnh vụn, kim loại linh tinh, mảnh vỏ đồ hộp, sành sứ,
chai lọ. Các chất thải này thông qua chế biến và đựơc nông
dân sử dụng trực tiếp để bón cho cây trồng.
Ngoài ra các cơ sở sản xuất xi mạ, pin acquy,… cũng đã
thải ra một lượng lớn kim loại nặng vào cống và chính những

22


độc tố náyex đi vào môi trường nông nghiệp qua việc tưới
nước cho cây trồng.
Tóm lại, về tương tác giữa ô nhiễm kim loại nặng trong
môi trường đất và thực vật, được ghi nhận ở hình 7

23


Hình 7 : Ô nhiễm kim loại nặng vào môi trường đất và
sự tương tác giữa đất và vây qua môi trường rễ cây
(Rhzosphere), cây, dung dịch đất…
Hiện nay trên thế giới có nhiều vùng đã được xác định là
bị ô nhiễm, như ỏ Anh đã chính thức xác nhận 300 vùng với
diện tích 10.000 ha, tuy nhiên trên thực tế có thể tới 50.000 –
100.000 vùng với diện tích khoảng 100.000 ha (Bridges,
1991). Ở Mỹ có khoảng 25.000 vùng, Hà Lan là 6.000 vùng ô
nhiễm cần xử lý.



Ô nhiễm đất do hoạt động nông nghiệp
Bao gồm các loại chất thải như: phân bón, thuốc bảo vệ

thực vật, tàn tích sản phẩm và cây trồng nông nghiệp, chất
thải gia súc và tàn tích rừng.


Ô nhiễm do phân bón
-

Phân vô cơ:

Để tăng năng suất cây trồng, người ta thường sử dụng
các loại phân hoá học như: đạm (N), lân (P 2O5), kali (K2O).
Nhưng trong các loại phân vô cơ, đáng chú ý nhất là phân N,
một loại phân mang lại hiệu quả quan trọng nhất cho năng
suất cây trồng, tuy nhiên nó cũng rất dễ gây ô nhiễm cho môi
trường đất do tồn dư của nó do sử dụng với liều lượng cao. Khi
bón N, cây sử dụng tối đa 30% lượng phân bón vào đất. Còn
lại, phần thì vị rửa trôi làm mất đi,phần còn lại trong đất sẽ
gây ô nhiễm đất.
Khi bón N vào đất thường trong đất tồn tại 2 dạng:
NH4 và NO3-, cây trồng hấp thu cả 2 dạng này, nếu cây hấp thu

24


nhiều N, trong ccây sẽ tồn lưu cao NO 3- trong lá, quả, hạt quá
mức sẽ gây hại cho người tiêu dùng.
Lượng N tồn dư trong đất dạng NO3- dễ bị rửa trôi xuống

sông, suối hoặc trực tiếp đi xuống nước ngầm gây ô nhiễm
nước ngầm. Theo mức cho phép của WHO, nước ngầm chứa >
45 mg/l NO3-, khoong thể dùng làm nước uống.
Quá trình nitrat hoá làm tăng tính chua của môi trường
đất do trong đất tồn tại HNO3.
Một số phân bón hoá học khác gây ô nhiễm môi trường
đất như phân lân. Phân super lân thường có 5% axít tự do
(H2SO4), làm cho môi trường đất chua. Trong các loại phân lân
cũng còn chứa một lượng các kim loại nặng khác như As, Cd,
Pb cũng là nguyên nhân làm tích luỹ các kim loại này trong
đất.
Các phân hoá học khác hầu hết là các dạng muối
(NH4SO4, KCL, K2SO4, KNO3…) của các axít, do đó khi bón vào
đất làm cho đất chua.
-

Phân hữu cơ:

Thông thường phân hữu cơ gồm: phân chuồng, phân
xanh, phân ủ. Thành phần của phân tuỳ thuộc vào nguồn chế
biến. Nguồn phân hữu cơ gây ô nhiễm đất có thể do cách sử
dụng, nguồn sử dụng để chế biến.
Phân chuồng nếu không được ủ đúng kỹ thuật, như nông
dân sử dụng phân tươi (phân chuồng, phân bắc) ngâm ủ, nông
dân sử dụng tưới trên cây trồng chứa rất nhiều các vi sinh
(Coliform,

E.coli,

Clostridium


perfingens,

Streptococcus,

Salmonella, Vibrio cho lera), ký sinh trùng (giun đũa) trong sản
25


×