Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

19 mo hinh mo phong ung dung nguyen duy long

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.95 KB, 6 trang )

Hội nghò Khoa học trẻ Bách Khoa lần 4 năm 2003

MÔ HÌNH MÔ PHỎNG ỨNG DỤNG TRONG QUẢN LÝ DỰ ÁN XÂY DỰNG
Nguyễn Duy Long
Khoa Kỹ Thuật Xây Dựng, Trường Đại Học Bách Khoa TP.HCM

TÓM TẮT

Bài báo này xây dựng một mô hình mô phỏng ứng dụng nhằm nắm bắt những động thái của dự án ở
giai đoạn thi công. Một mô hình toán được hình thành dưới dạng các đồ giải “stock” (tích) và “flow”
(dòng). Kế tiếp, mô hình được đem ứng dụng cho một dự án thực đang trong quá trình thi công. Thử
nghiệm cho thấy những ứng xử của mô hình mô phỏng này và ứng xử thực của dự án là tương tự. Điều
này chứng tỏ rằng mô hình có khả năng mô phỏng những động thái của dự án.

ABSTRACT

This paper presents an applicable simulation model to capture the dynamics of construction projects
in the construction phase. A mathematical model is developed in terms of stock and flow maps. The
model is then calibrated into a real project under construction. Testing reveals similarities between the
simulated behavior of the model and the actual behavior of the project. This indicates that the model is
capable to simulate the dynamics of the project and, finally, to improve project control.

1. GIỚI THIỆU
Các dự án xây dựng (DAXD) thường rất phức tạp và nhiều rủi ro. DAXD là một hệ thống động: (i)
rất phức tạp, nhiều yếu tố phụ thuộc lẫn nhau, (ii) không ngừng biến đổi, (iii) nhiều quá trình phản hồi,
(iv) nhiều quan hệ phi tuyến, và (v) gồm nhiều dữ liệu “cứng” và “mềm” (Sterman, 1992). Vì thế,
việc quản lý dự án (QLDA) xây dựng chứa đựng nhiều thử thách. Thêm vào đó, các công cụ QLDA
truyền thống có nhiều thiếu sót, nhất là trong môi trường ra quyết đònh mang tính chiến lược.
Mục đích chính của bài báo này là trình bày một mô hình mô phỏng động mà mô hình này đóng
vai trò như một công cụ đầy hứa hẹn, giúp cho các nhà thầu “thử nghiệm” những tác động và “tiên
liệu” những kết quả của các chiến lược và chính sách của mình trước khi các chính sách này được thực


hiện. Mô hình này được đem ứng dụng vào một dự án cụ thể đang thi công để nắm bắt những động
thái của nó.

2. NHỮNG ỨNG DỤNG CỦA “ĐỘNG THÁI HỆ THỐNG” TRONG QLDA
“Động thái hệ thống” (ĐTHT - System Dynamics) đã được Jay Forester phát minh vào cuối thập
kỷ 50 của thế kỷ XX. Sterman (1992) đã khẳng đònh rằng ĐTHT đã chứng tỏ là công cụ phân tích hiệu
quả trong vô vàn tình huống – cả trong học thuật và ứng dụng – và ngày nay nó được sử dụng bởi
nhiều công ty bao gồm cả các công ty trong “Top 500” của tạp chí Fortune. Trong QLDA nói chung,
sự hạn chế của các công cụ quản lý truyền thống đã khuyến khích nhiều học giả và chuyên gia tìm
kiếm những công cụ bổ sung. Trong đó, ĐTHT được xem là một phương án đầy hứa hẹn. ĐTHT là một
“quan điểm” và một tập hợp các công cụ có thể giúp chúng ta hiểu những cấu trúc và động thái của
các hệ thống phức tạp (Sterman, 2000). Mô hình ĐTHT có thể kết hợp các yếu tố khác nhau từ kỹ
thuật, tổ chức đến con người và môi trường. Rodrigues và Bowers (1996) đưa ra các nhân tố nhằm
khuyến khích những ứng dụng của ĐTHT vào QLDA là: (i) quan tâm đến tổng thể DA hơn là tập hợp
các yếu tố riêng biệt, (ii) nhu cầu xem xét những khía cạnh phi tuyến mà tiêu biểu là các vòng (loop)
phản hồi “cân bằng” (balancing) và “củng cố” (reinforcing), (iii) nhu cầu có một mô hình dự án linh
hoạt như một “phòng thí nghiệm” cho các lựa chọn/quyết đònh quản lý, và (iv) sự không hiệu quả của
các công cụ phân tích truyền thống trong việc giải quyết các vấn đề quản lý cùng lúc mong muốn thử
nghiệm những điều mới mẻ hơn.
108


Hội nghò Khoa học trẻ Bách Khoa lần 4 năm 2003

Kể từ khi nó được phát minh, ĐTHT đã và đang ứng dụng trong việc quản lý các dự án phức tạp.
Hầu hết những ứng dụng này bò giới hạn trong các DA nghiên cứu phát triển (R&D) (Roberts, 1964,
Richardson và Pugh, 1981) và phát triển phần mềm (Abdel-Hamid và Madnick 1991). Cooper (1980)
đã xây dựng và ứng dụng một mô hình mô phỏng để giải quyết tranh chấp giữa nhà thầu và chủ đầu tư
(Hải Quân Hoa Kỳ) trò giá 500 triệu USD. Trong quản lý xây dựng, mô hình hóa ĐTHT của các dự án
đã được nghiên cứu đáng kể. Chang (1990) đã phát triển một mô hình DAXD dựa trên mô hình dự án

R&D của Richardson và Pugh (1981). Mô hình ĐTHT cũng được áp dụng trong quản lý thiết kế (Love
et al. 2000), sự cản trở và làm chậm trể công trình (Howick và Eden, 2001), dự án BOT (Chritamara,
et al., 2002), và quản lý dự phòng (Ford, 2002). Ở chừng mực nào đó, những nghiên cứu này đã giải
quyết nhiều động thái của các dự án phức tạp. Tuy nhiên, những đặc tính động khác của dự án cần
được nghiên cứu đầy đủ hơn.

3. PHƯƠNG PHÁP LUẬN
Phương pháp luận ĐTHT được áp dụng trong nghiên cứu này. Mô hình hóa ĐTHT là một bộ phận
của quá trình nhận thức và là một tiến trình liên tục trong việc hình thành giả thiết, kiểm tra, và hiệu
chỉnh cả mô hình “nhận thức” (mental model) và mô hình toán (Sterman, 2000). Quá trình mô hình
hóa thường có năm bước. Nghiên cứu này chọn quá trình mô hình hóa được đề nghò bởi Sterman
(2000) gồm những công tác sau: (i) xác đònh vấn đề cần giải quyết, (ii) hình thành giả thiết động hay
lý thuyết về nguyên nhân của vấn đề, (iii) xây dựng mô hình mô phỏng để kiểm tra giả thiết, (iv) thử
nghiệm mô hình cho đến khi mô hình phù hợp với mục đích đặt ra, và (v) thiết kế và thẩm đònh các
chính sách để cải tiến khả năng thực hiện. Phần mềm Vensim® PLE được chọn cho các công tác mô
phỏng như xây dựng các biểu đồ phản hồi, đồ giải “tích” và “dòng”, mô hình chi tiết, thử nghiệm mô
hình, quá trình mô phỏng, và phân tích chính sách. Chi tiết của phương pháp luận ĐTHT có thể tham
khảo ở nhiều công trình khác (Richardson và Pugh, 1981, và Sterman, 2000). Vì số trang giới hạn, bài
báo này chỉ trình bày vắn tắt việc xây dựng mô hình (model formulation), thử nghiệm hiệu chỉnh
(validation) và ứng dụng mô hình (calibration).

4. CÁC CƠ CẤU PHẢN HỒI CHÍNH (KEY FEEDBACK STRUCTURES)
Một vài nghiên cứu trước đây đã kết hợp những yếu tố động vào trong các mô hình cho từng dự án
cụ thể. Ví dụ, Richardson and Pugh (1981) cho dự án R&D, Cooper và Mullen (1993) cho dự án phát
triển phần mềm, Ford (1995) cho dự án phát triển sản phẩm. Từ những công trình nghiên cứu sẵn có,
Ford (1995) đã kết hợp thành sáu cơ cấu phản hồi chính. Những cơ cấu này không phản ánh đầy đủ
những đặc tính động của DAXD vì những tài nguyên khác ngoài nhân lực, an toàn lao động,… chưa
được xem xét. Dựa trên những mô hình có sẵn và thực tiễn của ngành xây dựng, tám cấu trúc phản hồi
của DAXD trong giai đoạn thi công được hình thành từ nghiên cứu này. Đó là những khung “khái
niệm” cho việc nhận thức cách ứng xử (behavior) của dự án và là nền tảng cho việc xây dựng mô

hình. Những cơ cấu phản hồi này có thể tham khảo chi tiết ở trong Long (2003) và Long và Ogunlana
(2003).

5. DỰ ÁN NGHIÊN CỨU
Mặc dù có thể suy rộng cho tất cả các DAXD phức tạp nhưng mô hình được áp dụng cho một dự án
cụ thể để dể dàng xây dựng giới hạn mô hình, giả thiết, xác đònh thông số, và thử nghiệm hiệu chỉnh.
Dự án được dùng để nghiên cứu mô hình là Dự Án Đường Hầm Hải Vân. Gói thầu 1A trò giá xấp xỉ 43
triệu USD thực hiện 3.857m phía Bắc đường hầm được khảo sát trong nghiên cứu này. Vào thời điểm
khảo sát (cuối năm 2002), dự án đã được xây dựng 28 tháng trong tiến độ kế hoạch 48 tháng.
Công tác thu thập dữ liệu bao gồm: tham khảo các tài liệu về dự án, quan sát hiện trường và phỏng
vấn giám đốc dự án. Dữ liệu thu thập là (i) thông tin về dự án, (ii) các vấn đề nảy sinh (tình hình ngân
sách và tiến độ, công việc cần thực hiện lại…), (iii) việc thi công thực tế (công việc hoàn thành, tiến độ
109


Hội nghò Khoa học trẻ Bách Khoa lần 4 năm 2003

thực hiện, vật tư, thời gian làm việc…), và (iv) những chính sách quản lý phổ biến thực thi trong dự án.
Phó giám đốc dự án được mời tham gia phỏng vấn để xác đònh rõ hơn những vấn đề mà nhà thầu thực
sự gặp phải và để nắm bắt các dữ liệu khác (cách ứng xử của công nhân, tác động của mệt mỏi vào
năng suất lao động,...), mà không thể thu thập từ các tư liệu có sẵn.

6. GIỚI HẠN CỦA MÔ HÌNH (MODEL BOUNDARY)
Mô hình được giới hạn trong giai đoạn xây dựng và dùng cho nhà thầu (Bảng 1). Trong khi có
nhiều giai đoạn khác nhau và nhiều tương tác giữa các giai đoạn, mô hình hóa ở giai đoạn thi công là
cần thiết vì có nhiều tài nguyên và công sức được sử dụng ở giai đoạn này. Những tiền đề để xây dựng
mô hình có thể xem chi tiết ở Long (2003) và Long và Ogunlana (2003).
Bảng 1. Bảng giới hạn mô hình
Yếu tố “nội sinh”
Qui mô dự án

Công việc phải làm lại
Chất lượng công việc
Nhân lực
Máy móc thiết bò
Vật tư
Phân phối tài nguyên
Khả năng thực hiện
Các mục tiêu của dự án

Yếu tố “ngoại sinh”
Thay đổi qui mô công trình
Thời gian hoàn thành
Các ràng buộc về tài nguyên
Phân bố tài nguyên
Vật tư dự trữ
Sở hữu máy móc thiết bò

Yếu tố không xét đến
Thầu phụ
Giai đoạn trước và sau thi công
Thay đổi công nghệ
Sự phối hợp giữa các bên
Những điều kiện ngoài dự đoán

7. CẤU TRÚC MÔ HÌNH (MODEL STRUCTURE)
Tài Nguyên
o
o
o
o

o

Nhân lực
Thiết bò chính
Thiết bò hổ trợ
Vật tư
Tay nghề công
nhân

Qui Mô
o Qui mô
o Thay đổi qui mô

Mô Hình Mô Phỏng
Động
(DSM)

o Chi phí vật tư
o Chi phí nhân công
o Chi phí thiết bò

o Tiến độ t/hiện
o C/việc làm lại

Phân Chia Chi Phí

Tiến Độ và C/việc Làm Lại

Khả năng Thực Hiện
o

o
o
o
o
o
o

Năng suất lao động
Năng suất thiết bò
Kinh nghiệm
An toàn lao động
Chất lượng c/việc
T/gian làm việc
Giám sát

o Kiểm soát tiến độ
o Kiểm soát chi phí
o Kiểm soát ch/lượïng

Kiểm Soát Mục Tiêu

Hình 1. Các hệ thống con và thành tố của mô hình
Mô hình bao gồm rất nhiều biến và phương trình và được chia làm sáu hệ thống con (HTC –
subsystems) (Hình 1). Sáu HTC là qui mô (scope), tiến độ thực hiện và công việc phải làm lại
(progress and rework), tài nguyên (resources), khả năng thực hiện (performance), chi phí (cost
breakdown) và kiểm soát mục tiêu (objectives control). Cũng vậy, mỗi HTC có thể được phân thành
các thành tố (sectors). Những HTC và thành tố này được liên hệ với nhau bằng các thông số chung
(shared parameters). Tiến độ thực hiện và công việc phải làm lại có thể nhóm thành một HTC vì
chúng có một mối liên hệ đặc biệt. Khi tiến hành các công việc của dự án, công việc cần phải làm lại
(rework) có nguy cơ xuất hiện. Tài nguyên bao gồm nhân lực, máy móc thiết bò, và vật tư. HTC tài

nguyên thể hiện sự phân phối khối lượng của chúng theo thời gian. Năng suất lao động, năng suất thiết
bò, kinh nghiệm thi công, an toàn lao động, chất lượng công việc, thời gian làm việc, và giám sát công
trường được xếp vào một HTC gọi là “khả năng thực hiện”. Chi phí cho dự án có thể phân ra thành chi
110


Hội nghò Khoa học trẻ Bách Khoa lần 4 năm 2003

phí vật tư, nhân công và máy móc thiết bò. Một DA rõ ràng là có nhiều mục tiêu. Tuy nhiên, các nhà
thầu và các bên trong DA thường chú ý đến thời gian, chất lượng và chi phí. Vì thế, mô hình đã xem
xét những mục tiêu này và kết hợp thành hệ thống con được đặt tên là kiểm soát mục tiêu.
Mô tả chi tiết về cơ sở để hình thành cấu trúc mô hình, các quan hệ, thông số, biến và các HTC
của mô hình này có thể tham khảo trong Long (2003) và Long và Ogunlana (2003). Dưới đây là hình
minh họa một vài HTC và thành tố được trích ra từ mô hình này.
<scope change rate> <labor progress rate>
<initial project scope>
<major equip progress rate>
Work
accomplished

Work
remaining
progress rate
Known
rework

<quality of practice>

Undiscovered
rework

rework discovery rate

completed>
discovered rework probability
time to discover defects

Hình 2. HTC tiến độ thực hiện

c/o effect on deadline
<avg change fraction>

initial deadline

Project
deadline
sp effect on accident change in deadline
<Time>
sp effect on workmonth schedule pressure
scheduled completion d
sp effect on rework
sp effect on labor prodty
progress rate>
sp effect on equip prodty
<Work remaining>
sp effect on waste
time estimated required

Hình 3. Thành tố kiểm soát tiến độ


initial uw
uw adjustment time
normal uw turnover fraction
on wf sought><workforce>
status effect<mgt fraction>
<time remaining>Unskilled
on wf sought>
workers
manpower resource leveling
uw tunover rate
change
in
uw
workers sought
<Project deadline> WF sought
onsite training rate
learning time
normal sw
training fraction
turnover fraction
project scope>
max workforce by space constraints
Skilled
indicated
WF

workers
labor prodty>
on turnover>
normal sw/uw fraction <Work accomplished>
change in sw
sw turnover rate
sw/uw fraction
initial sw
sw adjustment time
Management
team
<workforce>
on sw/uw>
<qual gap effect on mt>
change in mt
mt turnover rate
normal mt turnover
normal mgt fraction
initial mt
fraction
mgt fraction
mt adjustment time

Hình 4. Thành tố nhân lực thi công

Mối quan hệ giữa các biến và tham số được thể hiện dưới dạng các phương trình toán theo ngôn ngữ
của phần mềm mô phỏng. Ví dụ, một số phương trình tiêu biểu của HTC tiến độ thực hiện (Hình 2)
được biểu diễn trong môi trường Vensim® PLE như sau:


Work remaining = INTEG (-progress rate + rework discovery rate + scope change rate, initial project scope)
Work accomplished = INTEG (progress rate - rework discovery rate, 0) (tasks)
Undiscovered rework = INTEG (progress rate*(1-quality of practice)-rework discovery rate, 0) (tasks)
Known rework = INTEG (rework discovery rate, 0) (tasks)
progress rate = MIN (labor progress rate, major equip progress rate) (tasks/month)
rework discovery rate = (Undiscovered rework/time to discover defects)*discovered rework probability

8. ỨNG XỬ CỦA MÔ HÌNH (MODEL BEHAVIOR)
Một đặc điểm quan trọng của ĐTHT là chú ý đến ứng xử (behavior) của các biến theo thời gian.
Sự nhận thức trực quan về những tác động của kết cấu mô hình lên các ứng xử đáng chú ý hơn là
những giá trò chính xác của thông số và kết quả mô phỏng (Ford, 1995). Chuổi các kết quả mô phỏng
theo thời gian giúp hiểu các ứng xử của mô hình. Số liệu đầu vào được lấy từ gói thầu 1A của đường
hầm Hải Vân như đã trình bày ở trên. Kết quả ứng xử của mô hình với dữ liệu thực này được gọi là
“baserun”. Theo tình hình của dự án tại thời điểm khảo sát thì quá trình mô phỏng cho thấy rằng công
trình sẽ hoàn thành sau 52 tháng thi công. Như vậy, kết quả mô phỏng dự báo rằng công trình sẽ chậm
111


Hội nghò Khoa học trẻ Bách Khoa lần 4 năm 2003

tiến độ 4 tháng nếu so với 48 tháng được ghi trong hợp đồng. Cũng vậy, xem xét kết quả mô phỏng
cho thấy rằng ứng xử của các biến là rất hợp lý.
11,000
11,000
50
1,000

tasks
tasks

tasks
tasks

1

1
1

2
1

2
1

0
0
0
0

3
2

2 4

0

6

23 4


4

12

3 4

18

3

3
2

3
3
2

1

1

2

2

3

3

2


2
3

months
months
months
Dmnl

1

2

tasks
tasks
tasks
tasks

110
110
110
4

2

1

3

24

30
Time (Month)

3

4

4

4

4

4

1
3

36

4

3

42

1
1
1
1

1
1
1
Work remaining : Baserun
2
2
2
2
2
2
Work accomplished : Baserun 2
3
3
3
3
3
3
Undiscovered rework : Baserun 3
4
4
4
4
4
4
4
Known rework : Baserun

1
3


0
0
0
1

tasks
tasks
tasks
tasks

Hình 5. Ứng xử của các biến thuộc dạng công việc

1

12

4

months
months
months
Dmnl

3

1

3

1


3

1

1

3

1

1

3

1

2
4

2
2

2

4
4

0


48

1

6

12

18

4

4

24
30
Time (Month)

2
4

4

36

4

42

2 4


48

1
1
1
1
1
1
1
Project deadline : Baserun
months
2
2
2
2
2
2 months
time estimated required : Baserun
3
3
3
3
3
scheduled completion date : Baserun
months
4
4
4
4

4
4
schedule pressure : Baserun 4
Dmnl

Hình 6. Ứng xử của các biến thuộc tiến độ

“Công việc còn lại” (work remaining) giảm dần trong khi “công việc hoàn thành” và “công việc
không đạt đã phát hiện” (known rework) biến thiên tăng hình chữ S (như S curve trong kiểm soát chi
phí) (Hình 5). Ứng xử của các biến thuộc về kiểm soát tiến độ thể hiện trong Hình 6. Vì qui mô của dự
án nghiên cứu là không thay đổi tại thời điểm khảo sát, “thời gian ấn đònh” bởi chủ đầu tư (project
deadline) vẫn không đổi (48 tháng). “Kế hoạch thời gian hoàn thành” (scheduled completion date)
của nhà thầu là rất lớn ở những tháng đầu thi công vì năng suất thi công hầm trong thời gian này rất
thấp. Trong quá trình mô phỏng, “kế hoạch thời gian hoàn thành” lớn hơn “thời gian ấn đònh” nên nhà
thầu luôn chòu “áp lực tiến độ” (schedule pressure) khi thi công. Nghóa là, biến “áp lực tiến độ” trong
mô hình lớn hơn một khi mô phỏng. Thêm vào đó, sự chênh lệch giữa “kế hoạch thời gian hoàn
thành” và “thời gian ấn đònh” phản ánh công trình chậm hoặc vượt tiến độ.

9. THỬ NGHIỆM MÔ HÌNH (MODEL TESTING)
Trong mô phỏng ĐTHT, có rất nhiều dạng thử nghiệm khác nhau nhằm tìm ra những khiếm
khuyết của mô hình và để cải tiến mô hình. Sterman (2000) đã chỉ ra 12 loại thử nghiệm mô hình và
có những mục đích khác nhau. Đó là: mức độ đầy đủ của mô hình (boundary adequacy), xem xét cấu
trúc (structure assessment), sự đúng đắn về thứ nguyên (dimensional consistency), khảo sát tham số
(parameter assessment), thử với các điều kiện tới hạn (extreme conditions), sai số trong sai phân và
tích phân (integration error), phản ánh ứng xử thực (behavior reproduction), sự dò thường trong ứng xử
(behavior anomaly), thử nghiệm với một vấn đề tương tự (family member), ứng xử bất ngờ (surprise
behavior), phân tích cảm biến (sensitivity analysis), và cải tiến hệ thống (system improvement). Lý
thuyết của các thử nghiệm này tham khảo ở Sterman (2000) và cụ thể áp dụng trong mô hình này tham
khảo ở Long (2003) và Long và Ogunlana (2003). Sau nhiều sửa đổi và cập nhật mô hình, cuối cùng,
kết quả thử nghiệm mô hình cho thấy mô phỏng phản ánh được động thái thực của dự án nghiên cứu.


10. KẾT LUẬN
Các dự án xây dựng lớn thường tương tác với nhiều yếu tố khác nhau: xã hội, kinh tế, quản lý,
công nghệ, và môi trường. Những tác động của của các yếu tố này lên các ứng xử của dự án luôn ở
trạng thái động. Những công cụ truyền thống (cơ cấu phân chia công việc (WBS), sơ đồ mạng (CPM),
giá trò tích lũy (Earned Value),...) giải quyết khía cạnh tónh của QLDA. Vì thế, các bên tham gia sẽ rất
khó khăn trong việc nắm bắt các ứng xử của DA ở mức độ tổng thể – mà lại là điều tối cần thiết trong
quản lý chiến lược các dự án lớn. Từ đó, mô hình mô phỏng động trình bày trong nghiên cứu này đã
tạo điều kiện cho các nhà thầu dễ dàng nắm bắt các động thái của dự án mà họ đang triển khai.
112


Hội nghò Khoa học trẻ Bách Khoa lần 4 năm 2003

Khi ứng dụng mô hình này vào dự án thực, có sự tương tự giữa ứng xử mô phỏng của mô hình và
ứng xử thực của dự án một khi các thông số được chuẩn bò hợp lý. Điều này chứng tỏ rằng mô hình có
thể mô phỏng động thái của dự án nghiên cứu. Như vậy, mô hình có thể giúp nhà thầu nâng cao khả
năng kiểm soát dự án. Cuối cùng, nhà thầu có thể sử dụng mô hình này để xây dựng và thẩm đònh các
chính sách để nâng cao hiệu quả hoạt động của dự án bằng cách thay đổi các giá trò của thông số trong
mô hình và/hoặc thay đổi cấu trúc của mô hình.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]
[2]
[3]
[4]
[5]

[6]
[7]

[8]
[9]
[10]
[11]
[12]
[13]
[14]
[15]

Abdel-Hamid, T. và Madnick, S. (1991). “Software Project Dynamics: An Integrated
Approach”, Prentice Hall, Englewood Cliffs, USA.
Chang, C. L. (1990). “Applying R&D project dynamics concepts to construction management.”
Master Research Study No. IE-90-1, AIT, Bangkok, Thailand.
Chritamara, S., Ogunlana, S. O. và Bach, N. L. (2002). “System dynamics modeling of design
and build construction projects” Construction Innovation, 2(4), 269-295.
Cooper, K. G. (1980). “Naval ship production: a claim settled and a framework built.”
Interfaces, 10(6), 20-36.
Ford, D. N. (1995). “The Dynamics of Project Management: An Investigation of the Impacts of
Project Process and Coordination on Performance”. Doctoral Dissertation. Massachusetts
Institute of Technology, MA, USA.
Ford, D. N. (2002). “Achieving multiple project objectives through contingency management.”
Journal of Construction Engineering and Management, 128(1), 30-39.
Howick, S. và Eden, C. (2001). “The impact of disruption and delay when compressing large
projects: going for incentives” Journal of the Operational Research Society, 52, 26-34.
Long, N. D. (2003). “Policy Analysis for Improving Performance of a Construction Projects by
System Dynamics Modeling.” Master Thesis, AIT, Bangkok, Thailand.
Long, N. D. và Ogunlana, S. O. (2003). “Modeling the dynamics of an infrastructure project.”
Computer-Aided Civil and Infrastructure Engineering (under reviews).
Love, P. E. D., Mandal, P., Smith, J. và Li, H. (2000). “Modelling the dynamics of design error
induced rework in construction.” Construction Management and Economics”, 18(5), 567-574.

Richardson, G. P. và Pugh A. L. (1981). “Introduction to System Dynamic Modeling with
DYNAMO”. The MIT Press, MA, USA.

Roberts, E. (1964), “The Dynamics of Research and Development”, Harper and Row,
USA.
Rodrigues, A và Bowers, J (1996). “The role of system dynamics in project management.”
International Journal of Project Management, 14(4), 213-220.
Sterman, J. D. (1992). “System dynamics modeling for project management.” System Dynamics
Group, MIT Sloan School of Management, Cambridge, MA, USA.
Sterman. J. D. (2000). “Business Dynamics: System Thinking and Modeling for a Complex
World”. Irwin McGraw-Hill, USA.

113



×