Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

PHÂN TÍCH CUỘC ĐỐI THOẠI GIỮA HỒN TRƯƠNG BA VÀ XÁC HÀNG THỊT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (108.91 KB, 16 trang )

PHÂN TÍCH CUỘC ĐỐI THOẠI GIỮA HỒN TRƯƠNG BA VÀ XÁC
HÀNG THỊT
– Khái quát: LQV là được mệnh danh là “cây bút vàng” của sân khấu VN những
năm 80 của thế kỉ 20. Vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” được viết năm 1981,
và là vở kịch nói đầu tiên mang ra nước ngoài công diễn. Bằng ngòi bút giàu chất
triết lý, Lưu Quang Vũ đã thổi vào tích xưa một luồng gió mới. Kịch bản của ông
không đơn thuần là chuyện vay mượn xác – tái sinh. Đặt vấn đề về lẽ sống con
người qua nỗi khổ “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”, qua mâu thuẫn giữa
tâm hồn (thanh cao) và thể xác (phàm tục), vở kịch mang chứa những triết lý nhân
sinh. “Tôi muốn là tôi toàn vẹn”, bởi sống nhờ, sống giả, sống không phải là mình,
đó là bi kịch đau đớn nhất của con người.
1.

a) Hồn TB:

– Tâm thế của hồn TB trong cuộc đối thoại: Lời thoại của Hồn Trương Ba ở đầu
đoạn trích đã bộc lộ rõ tâm trạng vừa chán ngán, vừa sợ hãi cái thân xác mà ông
đang vay mượn: “Tôi chán cái chỗ không phải của tôi này lắm rồi, chán lắm rồi!
Cái thân thể kềnh càng thô lỗ này, ta bắt đầu sợ mi, ta muốn rời xa mi ngay tức
khắc! Nếu cái hồn của ta có hình thù riêng nhỉ, để nó tách ra khỏi cái xác này, dù
chỉ một lát!”.
=> Ước muốn của Hồn Trương Ba đã được thoả nguyện. Sự phân tách và đối đầu
giữa Hồn Trương Ba và Xác hàng thịt trước hết có thể hiểu là sự tranh cãi quyết
liệt giữa một bên là Hồn TB (tượng trưng cho sự cao khiết, cho đạo đức, cho “phần
Người” chân chính của mỗi con người) và một bên là Xác hàng thịt (tượng trưng
cho bản năng, cho nhưng ham muốn trần tục, là “phần Con” tầm thường ẩn nấp
trong mỗi con người).
– Nội dung lời nói của Hồn TB:
+ Hồn có cơ hội bày tỏ tâm trạng uất ức, tức giận vì phải chung sống với Xác thô
lỗ, tầm thường, dung tục. Hồn cũng không che giấu sự coi thường, khinh bỉ đối với
Xác, “kẻ âm u đui mù, không cảm xúc, không tư tưởng, không có tiếng nói”…; kẻ


có nhu cầu vật chất thấp kém gần với con thú (thèm ăn ngon, thèm rượu thịt), sức
mạnh thể chất gắn với sự tàn bạo…
+ Hồn cũng phủ nhận sự lệ thuộc của linh hồn vào xác thịt, khẳng định linh hồn có
đời sống riêng: “nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn”…
=> Tưởng rằng, Hồn sẽ phần nào giải toả được nỗi đau khổ bị dồn nén bấy lâu khi
có cơ hội cất lên tiếng nói của mình.


1.

b) Xác hàng thịt:

– Tâm thế của xác hàng thịt trong cuộc đối thoại: Xác không bị động, nhún
nhường. Ngược lại, Xác có thái độ khi thì ngạo nghễ, thách thức, khi thì ranh mãnh
với những câu hỏi mang tính phản biện đầy bỡn cợt, châm chọc.
– Nội dung lời nói của Xác hàng thịt:
+ Xác âm u, đui mù nhưng có thể lấn át, sai khiến, thậm chí đồng hoá linh hồn cao
khiết. Hồn không thể còn nguyên vẹn, trong sạch, khi phải chung sống và chiều
theo những đòi hỏi của xác thịt dung tục (Hồn Trương Ba đã có cảm giác xao
xuyến, khao khat khi đnứg bên vợ hàng thịt, đến nỗi chân tay run rẩy, hơi thở
nóng rực, cổ nghẹn lại, đã có cảm xúc lâng lâng trước các món ăn mà ông cho là
dung tục như tiết canh, cổ hũ, khấu đuôi, đã sử dụng vũ lực mà ông cho là tàn bạo
để tát thằng con toé máu mồm, máu mũi… Rõ ràng, Hồn Trương Ba đã nhiễm
những thói hư tật xấu của xác hàng thịt).
=> Như vậy, Hồn Trương Ba đau đớn, dằn vặt, khao khát khẳng định mình vẫn là
mình, nhưng cuối cùng phải thừa nhận rằng, mình đang sống nhờ thể xác kẻ khác
và bị thể xác đó điều khiển, dẫn đến sự tha hoá không có cách gì chuyển biến được. Bi kịch của Hồn Trương Ba, vì thế, không những không được giải toả, mà còn
trở nên đau đớn, xót xa hơn.
+ Trước đó, Hồn TB cho mình là cao khiết và coi thường, khinh bỉ Xác hàng thịt,
thậm chí uất ức vì phải chung sống với Xác HT. Nhưng Xác hàng thịt đã chỉ ra

thói hư tật xấu trong Hồn Trương Ba “Những vị lắm chữ nhiêu sách như các ông
cứ vin vào cớ linh hồn là quý, khuyên con người ta sống vì phần hồn để rồi bỏ bê
thân xác mãi khổ sở nhếch nhác” và “làm xong điều xấu gì, ông cứ việc đổ tội cho
tôi, để ông được thanh thản. Tôi biết: cần phải để cho tính tự ái của ông được ve
vuôt. Tâm hồn là thứ lắm sĩ diện” . Đồng thời, Xác hàng thịt đã bày tỏ những bất
công mà mình phải gánh chịu khi sống với linh hồn Trương Ba: bị xúc phạm, bị bỏ
bê nhếch nhác, khổ sở…vì những lí do không chính đáng.
=> Những lý lẽ và dẫn chứng mà Xác hàng thịt đưa ra khiến Hồn Trương Ba không
thể phủ nhận được.
1.

c) Ý nghĩa: Cuộc đối thoại căng thẳng, quyết liệt giữa hồn và xác mang ý
nghĩa sâu sắc.

+ Trước hết, ở góc độ Hồn TB, ta nhận ra khát vọng sống cao thượng, thánh thiện
của con người, khi bị những cám dỗ vật chất phàm tục làm cho tha hoá, biến chất.


+ Ở góc độ Xác hàng thịt, ta nhận ra những nếp nghĩ sai lầm của con người: đó là
thói quen đề cao tinh thần mà coi thường vật chất, tự ru ngủ mình trong những giấc
mơ cao thượng mà quên đi rằng, cần phải thiêt lập mối quan hệ hoà hợp, gắn bó
giữa chúng.
=> Như vậy, Hồn và Xác là những ẩn dụ nghệ thuật lớn, và cuộc đối thoại giữa
Hồn và Xác là một tình huống kịch đặc sắc, tô đậm bi kịch “bên ngoài một đằng,
bên trong một nẻo”, sự thiếu hài hoà, không thống nhất trên các phương diện: linh
hồn và thể xác, vật chất và tinh thần, nội dung và hình thức, bản năng và lí tưởng,
cao cả và tầm thường…ở mỗi con người.
– Kết thúc cuộc đối thoại, Hồn Trương Ba dằn vặt, đau đớn, hoang mang, tuyệt
vọng trở về cuộc sống trái với chính mình. Chi tiết “Hồn Trương Ba bần thần
nhập lại vào xác hàng thịt, ngồi lặng lẽ bên chõng” diễn tả cô đọng tính chất căng

thẳng của xung đột kịch: mâu thuẫn không những không được giải quyết mà còn
được đẩy lên đến một mức cao hơn.
ĐÁNH GIÁ CHUNG
– Đặc sắc nghệ thuật: Hồn Trương Ba, da hàng thịt” là vở bi kịch đặc sắc trên
nhiều phương diện: Sự kết hợp giữa nội dung hiện thực với yếu tố kì ảo, nghệ thuật
tạo tình huống và dẫn dắt xung đột kịch, sắc thái đa dạng của lời thoại khiến cho
tâm lí nhân vật được phơi trải, sát với đặc trưng thể loại, ngôn ngữ kịch giàu chất
triết lí, giọng điệu tranh biện độc đáo.
– Ý nghĩa triết lý về đạo đức và nhân sinh
Thứ nhất: là triết lí về sự hài hoà, thống nhất giữa hồn và xác trong mỗi con người,
qua đó phê phán hai quan niệm sống lệch lạc: hoặc quá coi trọng những ham muốn
của thân xác, hoặc chỉ chú trọng đời sống tinh thần. Ngòi bút Lưu Quang Vũ cũng
không ngần ngại phê phán lối sống giả tạo, làm cho con người có nguy cơ đánh
mất mình
Thứ hai là triết lí về nhân sinh, về hạnh phúc: Hạnh phúc ở đời không phải chỉ là
được sống, mà là được sống đúng là mình, sống trọn vẹn những giá trị mình vốn có
trong sự hài hòa giữa thể xác và tâm hồn. Để có được điều đó, con người phải luôn
luôn biết đấu tranh với nghịch cảnh, với chính bản thân để hoàn thiện nhân cách,
vươn tới những giá trị tinh thần cao quý.
RỪNG XÀ NU


Ý 1: Giới thiệu
Nguyễn Trung Thành có mặt ở Tây Nguyên trong cả hai cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp và đế quốc Mĩ. Ông đã từng nói: “Tây Nguyên đối với tôi là cả
niềm tâm sự không bao giờ dứt”. Ông đã có lần nói về tác phẩm: “ Rừng xà nu là
câu chuyện của một đời và được kể trong một đêm, cái đêm dài như cả đời
người”. Người được kể trong câu chuyện đó chính là Tnú. Nếu cụ Mết tượng trưng
cho truyền thống, là chiếc cầu nối giữa quá khứ và hiện tại, pho sử sống của làng
Xô Man thì Tnú là người tiêu biểu nhất cho sự tiếp nối của truyền thống đó và là

kết tinh vẻ đẹp của con người Tây Nguyên thời hiện tại.
Ý 2: Tnú khi còn nhỏ:
Ngay từ khi còn rất nhỏ, Tnú đã đến với cách mạng một cách tự nhiên, gan góc,
dũng cảm lạ thường. Mặc cho bọn địch khủng bố dã man những người tham
gia nuôi giấu cán bộ. Khi được cán bộ Quyết dạy chữ, Tnú học chậm, lại hay nổi
nóng. Khi anh Quyết rủ rỉ: “Sau này, nếu Mĩ- Diệm giết anh, Tnú phải làm cán bộ
thay anh. Không học chữ sao làm được cán bộ giỏi”, Tnú “giả ngủ” và “lén chùi
nước mắt” để rồi sáng hôm sau, nó đã dẹp tự ái cá nhân để thừa nhận “cái đầu tôi
ngu quá” và nhờ Mai dạy chữ. Học chậm nhưng khi đi liên lạc Tnú lại rất linh
hoạt, thông minh, táo bạo. Một lần, Tnú rơi vào ổ phục kích của giặc. Tnú nhanh
trí nuốt vội lá thư vào bụng.
Ý 3: Tnú khi vợ con bị giặc tra tấn:
Trận càn diễn ra quá bất ngờ, cụ Mết buộc phải dẫn Tnú và đám thanh niên lánh
tạm vào rừng, chỉ để lại đàn bà và con nít ở lại làng. Không ngờ bọn giặc đã bắt vợ
con Tnú với ý đồ nham hiểm “Bắt được con cọp cái và cọp con, tất sẽ dụ được cọp
đực trở về”. Quả đúng như vậy! Tnú lập tức trở về làng, dù trong tay không có vũ
khí. Chứng kiến cảnh vợ con bị bọn giặc hành hạ dã man, trái tim như ứa máu, lí trí
Tnú cố kiềm chế nhưng không thể. Tnú dũng mãnh như một con hổ dữ “nhẩy xổ
vào giữa bọn lính” được trang bị súng đạn đầy mình. Tất cả đã hun đúc nên một
Tnú dũng mãnh, kiêu hãnh không hề biết sợ.
Ý 4: Tnú khi bị giặc tra tấn:
Nhưng Tnú vẫn không cứu sống được vợ con Bởi vì Tnú chỉ có hai bàn tay trắng.
Với hai bàn tay trắng, Tnú thậm chí không bảo vệ được chính mình! Kẻ thù đã
quấn giẻ có tẩm dầu xà nu vào mười ngón tay anh rồi châm lửa đốt. Đó là 10 ngon
đuốc biểu tượng cho sự tàn bạo dã man của kẻ thù, cho ngọn lửa hờn căm đang
ngùn ngụt bốc lên ở những người Xô Man yêu nước.


Nhà văn đã đặc tả cảm giác đau đớn tột cũng của Tnú. Tnú không còn nhận biết
được xung quanh, chỉ còn cảm giác đau đớn rát bỏng lan ra khắp cơ thể. Tnú

nghe “lửa cháy ở ngực, ở bụng, Nhưng nhớ lời anh Quyết “người cộng sản không
thèm kêu van”, Tnú vẫn quyết không kêu, mặc dù máu đã mặn chát nơi đầu lưỡi.
Răng anh đã cắn nát môi anh rồi”. Nỗi đau tột cũng về thể xác đã chuyển hoá
thành nỗi đau tinh thần, ngọn lửa đời thường đã thành ngọn lửa uất hận: “Trời ơi,
Cháy, cháy cả ruột đây rồi”. Đoạn văn thấm đẫm chất bi tráng khi khắc hoạ lòng
quả cảm, phẩm chất anh hùng của người cộng sản trước sự tra tấn tàn bạo của kẻ
thù.
Ý 5: Bi kịch của Tnú và sự nổi dậy của dân làng Xô Man
Từ cái chết của mẹ con Mai và hai bàn tay bị đốt của Tnú, dân làng Xô Man đã
thấm thía một chân lí bất di bất dịch “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm
giáo”. Trong ánh đuốc xà nu, cụ Mết cùng đám thanh niện với giáo mac trong tay
xông lên diệt gọn tiểu đội lính địch, mở đầu cho cuộc nổi dậy vũ trang khởi nghĩa
của làng. Khi Tnú tỉnh lại thì lửa đã tắt trên mười đầu ngón tay, như là ẩn dụ cho sự
chiến đấu và chiến thắng. Nhưng đống lửa xà nu lớn giữa nhà vẫn đỏ, như lòng
căm thù, uất hận vẫn chưa thể nguôi ngoai. Lời hiệu triệu vang vọng của cụ Mết:
“Đốt lửa lên!” như là lời hịch vang vọng, đốt lên ngọn lửa của sự quyết tâm trong
cuộc sống mái với kẻ thù. Và đêm ấy, lửa cháy khắp rừng. Làng Xô Man đã trở
thành làng vũ trang, với khí thế ngút trời…
Ý 6: Kết luận:
Hình ảnh Tnú làm người đọc nhớ tới hình ảnh những cây xà nu mà “đạn đại bác
không giết nổi chúng, những vết thương của chúng chóng lành như trên một cơ thể
cường tráng. Tnú như là hiện thân cho thế hệ trẻ Tây Nguyên kiên cường, là hình
tượng góp phần mang lại không khí sử thi đậm nét cho tác phẩm.
MỘT SỐ NHÂN VẬT KHÁC
1.

Cụ Mết

Từ một nhân vật có thật ngoài đời, cụ Mết bước vào văn học như một nhân vật
trong thần thoại mà vô cùng sống động. Ông cụ “vẫn quắc thước như xưa”, dù râu

đã dài tới ngực nhưng vẫn đen bóng”, mắt “sáng và “xếch ngược”. Ông ở
trần, “ngực căng như một cây xà nu lớn” còn tiếng nói thì “ nặng trịch”, “ồ ồ dội
vang trong lồng ngực” tưởng như tiếng vọng của núi rừng. Bằng vài nét phác thảo
về ngoại hình, diện mạo có phần ước lệ, cụ Mết hiện lên vững vàng, mạnh mẽ,
tráng kiện tựa như một cây xà nu cổ thụ trong đại ngàn Tây Nguyên.


Không chỉ khoẻ khoắn về mặt thể chất, cụ Mết còn là chỗ dựa tinh thần vững chắc
cho dân làng Xô Man những ngày chống Mĩ. Cụ truyền cho con cháu niềm tin vào
Đảng, vào cách mạng: “Cán bộ là Đảng, Đảng còn núi nước này còn”, tiếp thêm
sức mạnh cho dân làng tin vào sức sống bất diệt của con người như tin vào sự bất
diệt của rừng xà nu “Không có cây gì mạnh bằng cây xà nu đất ta. Cây mẹ ngã,
cây con mọc lên, đố nó giết hết rừng xà nu này”. Những lời nói của cụ Mết giản dị
mà giống như những lời tổng kết thể hiện đường lối cách mạng “Trong cuộc chiến
đấu quyết liệt với kẻ thù, cụ đã rút ra một chân lý đúng đắn: không thể tay không
đương đầu với giặc. “Tnú cũng không cứu được vợ con. Còn mày, chúng nó bắt
mày, trong tay mày chỉ có hai bàn tay trắng… Tau không nhảy ra cứu mày. Tau
cũng chỉ có hai bàn tay không”. “Tay trắng”, “tay không” làm sao có thể đương
đầu với kẻ thù! …” Cụ Mết đã dặn dò tạc vào lòng con cháu một chân lí bất di bất
dịch: “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”. Tiếng cụ Mết như tiếng hịch
vang rền sông núi: “Tất cả người già, người trẻ, người đàn ông, người đàn bà, mỗi
người phải tìm lấy một cây giáo, một cây mác, một cây vụ, một cây rựa. Ai không
có chông thì vót chông, năm trăm cây chông. Đốt lửa lên!” …
– Khi kể chuyện Tnú: Cụ Mết là hiện thân cho truyền thống thiêng liêng, tạo nên
màu sắc Tây Nguyên đậm đà trên từng trang viết. Lối kể sử thi của cụ Mết đã
mang lại cho khuynh hướng sử thi của tác phẩm một biểu hiện đặc sắc, rất riêng.
2.

Dít – Mai


Nét nổi bật ở Mai là vẻ đẹp dịu dàng, tấm lòng yêu thương, nhân hậu. Người phụ
nữ ấy đã có những ngày tháng hạnh phúc êm đẹp bên người chồng dũng mãnh và
đứa con nhỏ yêu thương. Cái chết của mẹ con Mai làm ta liên tưởng đến những cây
xà nu đang tràn đầy sức sống, bị đại bác chặt đứt nửa thân mình, đổ ào ào như một
trận bão, những cây xà nu con phải chết một cách oan khuất…
Nếu vẻ đẹp nổi bật của Mai là sự yêu thương nhường nhịn thì Dít có thêm sự cứng
cỏi của người chiến sĩ. Lớn lên trong đau thương, mất mát của quê hương, gia
đình, thù nhà, nợ nước chồng chất đã tôi luyện cho Dít thành một con người kiên
gan cứng cỏi đến lạ thường. Phải chăng những giọt nước mắt của Dít đã chảy vào
trong kết thành những giọt thù, giọt hận thấm sâu trong tâm hồn để nuôi dưỡng
khát vọng trả thù.
3.

Heng

Là nhân vật nhỏ tuổi nhất, Heng như cây xà nu mới lớn. “Bên cạnh một cây xà nu
mới ngã gục có bốn, năm cây con mọc lên, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu
trời”. Heng háo hức tham gia cách mạng, ước mơ trở thành anh giải phóng quân.


Nó đã tự trang bị cho mình trang phục của người lính. Bằng cái nhìn rất hóm hỉnh
và nhân hậu, nhà văn đã dựng lên trước mắt người đọc bức chân dung vừa ngộ
nghĩnh vừa đáng yêu của cậu bé (xin được chiếc mũ tai bèo sùm sụp, chiếc áo bà
ba dài thườn thượt). Thông thạo tất cả hầm chông, bẫy đá, mọi lối đi của làng
Xôman, Heng dẫn đường cho Tnú về. Dường như trong chú bé này có hình bóng
của một Tnú khi còn làm liên lạc cho cán bộ khi xưa. Cùng với bước đi lên của
cách mạng, thế hệ của Heng chắc chắ sẽ có bước tiến vượt xa lớp cha anh.
Lịch sử làng Xô Man được cụ Mết kể suốt một đêm dài bên bếp lửa nhà ưng là một
chuỗi đau thương mất mát nhưng đó cũng là những trang sử vẻ vang bất khuất
không thể nào dập tắt được dân làng viết nên bằng máu và nước mắt của mình.

ĐOẠN MỞ ĐẦU TRONG TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP – HỒ CHÍ MINH
Ý 1: Đặt vấn đề:
Tác phẩm vừa là một văn kiện lịch sử vô giá, vừa là một áng văn chính luận mẫu
mực. Tác phẩm được viết trong những ngày mùa thu lịch sử, khi cả đất nước ngây
ngất trong niềm hạnh phúc được thoát khỏi kiếp sống nô lệ tủi nhục dưới ách thống
trị của thực dân phong kiến. Đất nuớc đã giành được độc lập nhung bọn đế quốc
thực dân – đặc biệt là thực dân Pháp đang lăm le quay trở lại nhằm nô dịch đất
nước ta một lần nữa.
Tuyên ngôn độc lập huớng tới không chỉ đồng bào trong cả nuớc mà còn là nhân
dân trên thế giới, truớc hết là nhân dân tiến bộ ở Pháp và Mỹ. Nó không nhằm chỉ
khẳng định quyền tự do độc lập của dân tộc Việt Nam mà còn bao hàm một cuộc
tranh luận ngầm nhằm bác bỏ luận điệu xảo trá của kẻ thù truớc dư luận thế giới.
Tuyên ngôn Độc lập là một bài văn chính luận mẫu mực: văn phong khúc chiết,
ngắn gọn, lập luận chặt chẽ đanh thép, lời lẽ hùng hồn và đầy sức thuyết phục.
Ý 2: Phân tích đoạn văn mở đầu – cơ sở lý luận vững chắc cho lời tuyên ngôn
* Để bác bỏ những luận điệu xảo trá và âm mưu đen tối của kẻ thù, ngay ở phần
mở đầu bản tuyên ngôn, Bác đã dẫn lời 2 bản tuyên ngôn nổi tiếng của Mỹ và của
Pháp, chứa đựng những tư tưởng lớn, kết tinh sự phát triển của văn minh nhân loại,
để làm cơ sở pháp lí cho bản tuyên ngôn của VN. Từ những nguyên lý chung, B đã
khẳng định: đó là những lẽ phải k ai chối cãi được”. Đây là đoạn văn có giá trị nổi
bật, rất tiêu biểu cho nghệ thuật chính luận của HCM.
– Trước hết, Bác khẳng định chân lí vĩnh hằng về quyền tự do bình đẳng và quyền
sống của con người: “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng…. quyền
mưu cầu hạnh phúc”. Đó là những lời trang trọng, đúng đắn rút ra từ TNĐL của


nước Mĩ. Không dừng lại ở đó, HCM tíêp tục trích dẫn TN nhân quyền và dân
quyền của Pháp: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng…..”.
– Những câu mà Bác đã trích dẫn đều là những câu tuyệt hay. Nhưng vẫn không
chứa đựng tư tuởng thực sự của Tuyên ngôn độc lập của Việt Nam. Vì những câu

ấy chỉ nêu lên quyền tự do, bình đẳng giữa người với người. Do đó, Bác còn dùng
thao tác “suy rộng ra” để nâng vấn đề quyền bình đẳng, tự do của con người lên
thành vấn đề quyền bình đẳng, tự do của mỗi dân tộc. Bác đã chuyển từ phạm
trù nhân quyền – nền móng tư tuởng của cách mạng tư sản, sang phạm trù chống
thực dân – nền móng của phong trào giải phóng dân tộc
* Cách lập luận của tác giả rất chặt chẽ, đanh thép, giàu sức thuyết phục, vừa khôn
khéo vừa kiên quyết, bởi lẽ:
+ Người vẫn tôn trọng những danh ngôn những bản Tuyên ngôn đã trở thành chân
lý bất hủ của nhân loại tiến bộ, cho dù có xuất xứ từ Mỹ hay từ Pháp. ở đây không
hề có sự lầm lẫn giữa nhân dân Mỹ, Pháp với bọn xâm lược Mỹ, Pháp.
+ Người đã dùng lời lẽ bản tuyên ngôn của Mỹ, Pháp để bác bỏ âm mưu xâm luợc
VN của hai cuờng quốc này, ngầm cảnh báo, nếu Pháp, Mỹ xâm lược Việt Nam thì
chính họ sẽ làm vấy bẩn lên lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái của cha ông họ. Nhà thơ
CLV từng nhận xét: “Những câu tuyên ngôn trích trên kia vừa là quả táo đối với
chúng ta, vừa là quả lựu đạn đối với kẻ thù, khạc chẳng ra, nuốt chẳng vào”. Trích
dẫn 2 bản Tuyên ngôn của Pháp và Mỹ là để tạo ra cơ sở pháp lý cho việc so sánh,
phản bác chống lại âm mưu đen tối của phương, là cách làm khéo léo mà kiên
quyết theo chiến thuật “lấy gậy ông đập lưng ông”.
+ Bên cạnh đó, cách mở đầu TN của VN còn có ý nghĩa khơi gợi lòng tự hào, tự
tôn dân tộc. Bởi HCM đã đặt 3 cuộc CM, 3 nền độc lập, 3 bản Tuyên ngôn ngang
hàng nhau như muốn CM quyền bình đẳng và tự do của dân tộc ta trên trường quốc
tế. Quả thật, nếu hai cuộc cách mạng nói trên mở ra một giai đoạn mới trong sự
phát triển của lịch sử xã hội loài người, thì cuộc cách mạng tháng Tám của ta
cũng mở ra kỷ nguyên giải phóng dân tộc ở các nuớc thuộc địa, là kỷ nguyên sụp
đổ của chủ nghĩa thực dân.
=> Chỉ trong đoạn văn ngắn gọn, súc tích mà chặt chẽ, khúc chiết, Hồ Chí Minh đã
giơ cao bó đuốc của tư tưởng giải phóng dân tộc, tạo cơ sở lý luận vững chắc để
triển khai lập luận ở phần sau. Lời TN của B xứng đáng là “lời non nước” cao cả
thiêng liêng…
SỰ HUNG BÀO CỦA SÔNG ĐÀ – NGUYỄN TUÂN



“Nguyễn Tuân là nhà văn mà khi ta gọi là bậc thầy trong nghệ thuật ngôn từ, ta
không hề thấy ngại miệng, một nhà văn độc đáo vô song mà mỗi dòng chữ tuôn ra
đầu ngọn bút đều như đóng một dấu triện riêng” (Anh Đức). Tuỳ bút” Người lái
đò Sông Đà” trích trong tập tuỳ bút Sông Đà (1960) là kết quả chuyến đi thực tế
Tây Bắc năm 1958 của nhà văn. Với ngòi bút tài hoa như mang phép thuật của một
thầy phù thuỷ ngôn từ, Nguyễn Tuân đã khắc hoạ rất thành công hình tượng dòng
sông Đà vừa hoang sơ, dữ dội, dòng sông “hung bạo”, như là kẻ thù nguy hiểm số
một của con người.
Ý 1. Đặc tả cái độ hẹp của lòng sông và độ cao của vách đá bờ sông, tác giả đã sử
dụng nhiều cách nói khác nhau. Cả một hệ thống hình ảnh liên tưởng, so sánh vừa
giản dị, sinh động lại vừa độc đáo, mới mẻ. Dòng sông vô tri có lúc được hình
dung như là cái “yết hầu” sinh tử trên cơ thể con người, bởi ở quãng ấy, bờ sông
Đà “dựng vách thành” chẹt lấy dòng sông tưởng như nghẹt thở. Dòng sông nơi
hoang sơ có lúc lại được gợi bằng hình ảnh rất hiện đại nơi thành thị. Đó là nhưng
so sánh vừa chính xác, tinh tế, vừa bất ngờ, lạ lùng, thực chất là những sự phá
cách trong nghệ thuật của các cây bút thức sự tài hoa. Nhờ đó, hình ảnh vách đá
bờ sông hiện lên vô cùng sống động, giúp bạn đọc cảm nhận một cách sâu sắc sự
hùng vĩ, dữ dội đến không ngờ.
Ý 2. Quãng mặt ghềnh Hát Lóng là vương quốc của đá, sóng, gió… chúng kết hợp
với nhau tạo thành những cơn xoáy – nhà văn đã khéo léo sử dụng kiểu câu liên
hoàn giúp ta hình dung một cách cụ thể cảnh tượng “nước xô đá, đá xô sóng, sóng
xô gió” và “gió cuồn cuộn gùn ghè suốt năm như muốn đòi nợ xuýt”, mà không
đòi được thì nó bắt người lái đò lại và “lật ngửa bụng thuyền ra”. Hai từ láy cuồn
cuộn, gùn ghè và hành động vô lối đòi nợ xuýt khiến ta có cảm giác gió, đá và sóng
nơi đây như những kẻ cùng hội cùng thuyền, vừa hung tợn vừa ngang ngược thật
vô cùng đáng sợ…
Ý 3. Trong trí tưởng tượng phong phú, táo bạo của người nghệ sĩ tài hoa, hút nước
giống như cái giếng bê tông…. Nó thở và kêu như cửa cống cái bị sặc… Tiếng

nước được miêu tả như tiếng một con vật bị bóp cổ đang sặc sụa những tiếng ặc…
ặc… Bạn đọc rùng mình vì cảm giác như đang chứng kiến giây phút ngắc ngoải
tuyệt vọng của một loài thuỷ quái nào đó. Còn dưới lòng hút nước đã có biết bao
cái thuyền bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến
đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh
sông dưới. Ngôn ngữ của nhà luyện đan ngôn từ có một sức thôi miên đến kì lạ
khiến người đọc vừa ngỡ ngàng trước vẻ đẹp tráng lệ của thiên nhiên, vừa rùng
mình vì sự dữ dội khủng khiếp của nó.
Ý 4. Nhưng sự hung bạo của Đà giang phải kể tới những thác nước hung thần. Con
thác đã được miêu tả từ xa, bằng thính giác và sự quan sát tỉ mỉ, chi tiết. Tiếng


thác lớn dần, lớn dần, càng gần thác càng điên cuồng gào thét. Chỉ một câu văn mà
giúp người đọc hình dung sự biến hoá khôn lường của tiếng thác, như một sinh thể
đang rơi vào tình trạng vừa giận dữ, vừa tuyệt vọng, sẵn sàng tráo trở, lật lọng để
thoát thân…
– Và bất ngờ cái âm thanh ấy được phóng to hết cỡ, cái nhạc khí bừng bừng của
một cơn phấn khích mạnh mẽ đầy man dại. Tiếng nước thác đã được động vật hóa:
được ví như tiếng bầy trâu mộng hung dữ đang điên cuồng chạy trốn khỏi rừng lửa.
Thậm chí, tác giả đã so sánh âm thanh với hình ảnh, tiếng thác nước với với lửa, so
sánh dòng sông với rừng tre nứa đang nổ lửa…
– Ý 5: Thạch trận trên sông:
+ “Đó là cả một chân trời đá”. Đá ở đây rất nhiều và cũng rất đa dạng theo chất
lượng hình khối: đá to, đá bé, đá tảng, đá hòn. Mỗi hòn đá mang gương mặt của
những chiến binh, “mặt hòn nào trông cũng ngỗ ngược nhăn nhúm” và cũng
rất nham hiểm. Không những thế chúng còn tàn ác, xảo quyệt ranh ma. “Hình như
sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn mới thấy rằng đây là nó bày thạch trận trên
sông”…
Ý 6: Tiểu kết
Tác giả đã dùng ngòi bút trăm màu và cặp mắt trăm con ngươi của mình để có

hàng trang những hình ảnh khác nhau mà luôn đặc sắc, vừa có tính trí tuệ, vừa có
tính chất tạo hình, vượt xa thủ pháp nhân hóa mà đi vào bản chất sâu xa nhất, độc
đáo nhất của sự vật thành những trang viết biến hóa khôn lường. Nói như Đỗ Kim
Hồi thì “Nguyễn Tuân đã buộc sự hung tợn mà kì vĩ của sông Đà phải sống dậy,
phải hiện hình, phải nổi lên thành hình khối và gào thét lên trong muôn vạn âm
thanh”.
TƯ TƯỞNG ĐẤT NƯỚC CỦA NHÂN DÂN
Từ trong lịch sử vhdt, tư ưởng đất nước của nhân dân đã manh nha xuất hiện gắn
với những nhà tư tưởng lớn, những nhà văn lớn của dân tộc. Song phải đến nền văn
học hiện đại Việt Nam, tư tưởng này mới đạt đến sự nhận thức sâu sắc, toàn vẹn.
Đặc biệt, các nhà thơ trẻ thời chống Mĩ, tiêu biểu là NKĐ đã phát biểu một cách
thấm thía những cảm nhận mới mẻ về đất nước. Trong chương thơ « Đất Nước »,
có hai câu thơ có thể thâu tóm tư tưởng trung tâm của tác phẩm, cũng là hội tụ mọi
xúc cảm của tác giả:
Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại


1.

Nhân dân làm nên tên đất tên làng, danh lam thắng cảnh

Để nói lên công lao to lớn của nhân dân trong quá trình dựng nước và giữ nước,
nhà thơ đã nhắc đến những danh lam thắng cảnh, những tên đất tên làng trên đất
nước từ Bắc chí Nam và khẳng định : những địa danh ngàn đời của Tổ quốc chính
là sự hóa thân của nhân dân- những con người bình dị vô danh
+ Núi Vọng Phu là tên gọi những tảng đá lớn hoặc núi đá trông như hình người đàn
bà bồng con gắn với sự tích người vợ ngóng chồng đến hóa đá. Và hòn Trống
Mái, một thắng cảnh đẹp ở gần bãi biển Sầm Sơn (Thanh Hóa) cũng gắn với một
truyền thuyết dân gian về tình yêu. Ý thức về đời sómg tình cảm giàu tình nặng

nghĩa đã giúp ND ta thổi hồn vào những ngọn núi, dòng sông.
+ Từ truyền thuyết về người anh hùng Thánh Gióng nhổ tre đánh đuổi giặc Ân và
sự nghiệp dựng nước đầy gian lao của Vua Hùng, tác giả có cảm nhận độc đáo
về trăm ao đầm để lại và cảnh đồi núi trập trùng xung quanh đền Hùng:
+ Những hình ảnh thân thuộc của non sông đất nước gợi lên một quá khứ hào hùng
với truyền thống đánh giặc ngoại xâm oanh liệt của cha ông. LS giữ nước gian lao
đã đwocj lưu lại ơởnúi sông cây cỏ. Chiêm ngưỡng sự kì thú của núi Bút, non
Nghiên tác giả nhận ra trong đó cả một truyền thống hiếu học của dân tộc ta từ bao
đời nay. Thiên nhiên đang phô bày vẻ mĩ lệ hay đó là hình tượng những người học
trò nghèo gửi gắm vào đấy bao quyết tâm, ước vọng của mình?
+ Như vậy cảnh quan thiên nhiên trên đất nước ta không chỉ là những thắng cảnh
thuần túy mà nó gắn liền với lịch sử dân tộc, cuộc sống của nhân dân và trở thành
biểu tượng cho số phận và mong muốn, tâm hồn lối sống của dân tộc. Nhân dân đã
thổi hồn vào sông núi đất đai, đã soi bóng và hiện diện ở bất cứ nơi nào trên bản đồ
Tổ quốc.
2.

Nhân dân làm nên lịch sử oai hùng của 4000 năm đất nước

– Nhưng với NKĐ, người xứng đáng được tôn vinh là những anh hùng vô danh,
bình dị. Chính họ đã làm nên lịch sử oai hùng của dân tộc. Nguyễn Khoa Điềm
hình dung đất nước này với 4000 năm, gắn liền với 4000 lớp người. Cho nên đất
nước Việt Nam được hình dung như là một cuộc chạy tiếp sức của 4000 lớp người
để gìn giữ ngọn lửa Việt.
– 4000 thế hệ đã được Nguyễn Khoa Điềm hình dung như là 4000 lớp người tuổi
trẻ. Họ là những con người như anh và em hôm nay. Họ là những người vô danh,
nhưng đã làm nên lịch sử văn hoá Việt Nam trong suốt 4000 năm qua.


– Lịch sử được Nguyễn Khoa Điềm hình dung bằng tất cả những gì giản dị, gần

gũi: hạt lúa, ngọn lửa, tên đất, tên làng trong mỗi quá trình di dân. 4000 lớp người
ấy thay nhau giữ và truyền lại cho thế hệ sau. Họ là những anh hùng lao động và
cũng là những anh hùng trong chiến đấu.
3.

Nhân dân làm nên văn hóa phong tục

Đất nước còn được cảm nhận trong chiều sâu của văn hóa, lối sống, phong tục, của
tâm hồn và tính cách dân tộc. Nhân dân không chỉ là người sáng tạo lịch sử, tạo
dựng nên các giá trị vật chất mà còn là người sáng tạo và lưu truyền các giá trị văn
hóa, tinh thần của dân tộc.
Những con người ấy đã xây dựng nên cả một nền văn minh lúa nước, đã
truyền lại cho thế hệ sau mọi giá trị vật chất, tinh thần: từ hạt lúa, ngọn lửa, tiếng
nói dân tộc, tên làng, tên xã, gìn giữ những phong tục tập quán. chính những người
vô danh bình dị ấy đã giữ gìn và truyền các giá trị văn hóa, văn minh tinh thần vật
chất của Đất nước, dân tộc. Trên ý nghĩa này, nhân dân chính là nnhững người anh
hùng văn hoá.
4.

Vậy chủ nhân của Đất Nước là ai?

Câu thơ với hai vế song song đồng đẳng như một định nghĩa về đất nước thật ngắn
gọn, giản dị mà độc đáo, sâu sắc, vừa giản dị vừa huyền ảo. Đất Nước của nhân
dân là lời khẳng định mạnh mẽ, còn Đất Nước của ca dao thần thoại thì lại là sự
cụ thể hóa một cách mềm mại.
Điều đặc sắc là trong kho tàng ca dao dân ca phong phú, Nguyễn Khoa Điềm đã
chọn được ba câu có ý nghĩa khái quát những truyền thống đẹp đẽ nhất của tâm
hồndân tộc: say đắm trong tình yêu Yêu em từ thuở trong nôi, quí trọng tình nghĩa,
trân trọng công sức lao động Biết quí công cầm vàng những ngày lặn lội và cũng
thật quyết liệt với kẻ thù Biết trồng tre đợi ngày thành gậy – Đi trả thù mà không

sợ dài lâu.
Chất liệu văn học dân gian đã được tác giả sử dụng vào đoạn thơ một cách linh
hoạt và sáng tạo. Không lặp lại hoàn toàn các câu ca dao, dân ca, nhà thơ thờng chỉ
dùng một hình ảnh hoặc một phần của các câu ca đó để đa vào tạo nên câu thơ của
mình. Các truyền thuyết và truyện cổ tích cũng đợc sử dụng theo cách gợi nhắc tới
bằng một hình ảnh hoặc tên gọi.
III.

Kết luận

Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm góp thêm một thành công trong dòng thơ về Đất
Nước thời chống Mỹ, làm sâu sắc thêm nhận thức về Nhân dân và Đất Nước.


Thành công của Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm còn là việc tạo ra một không
khí, một giọng điệu, một không gian nghệ thuật riêng. Đất Nước đưa ta vào thế
giới gần gũi, mỹ lệ và bay bổng của ca dao, truyền thuyết ,của văn hóa dân gian
nhưng lại mới mẻ, qua cảm nhận và tư duy hiện đại ,qua hình thức thơ tự do. Đó
chính là nét đặc sắc thẩm mỹ, thống nhất với tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân,
Đất Nước của ca dao thần thoại” của bài thơ.
Đoạn thơ thể hiện được chỗ mạnh của thơ Nguyễn Khoa Điềm: kết hợp cảm xúc và
suy nghĩ, chính luận và trữ tình. Tuy nhiên, nhược điểm của đoạn thơ này cũng khá
rõ: chính luận có chỗ còn nặng nề, lấn áp cảm xúc, nhiều ý triển khai còn trùng lặp,
dàn trải trong mỗi đoạn chưa thật cô đọng để gây ấn tượng tập trung, thêm nữa nội
dung chính luận không phải chỗ nào cũng mới mẻ và sâu sắc.
TÍNH DÂN TỘC TRONG 20 CÂU ĐẦU ”VIỆT BẮC”
“Việt Bắc” được coi là đỉnh cao của thơ ca kháng chiến chống Pháp, nhưng
trước hết là một trong những đỉnh cao của thơ Tố Hữu. Bởi nó không chỉ thể hiện
những tình cảm lớn lao của nhà thơ đối với kháng chiến, cách mạng mà nó còn kết
tinh trong đó những đặc sắc trong thế giới nghệ thuật của Tố Hữu. Đó là những đặc

trưng về chất trữ tình chính trị của thơ THữu, là đặc trưng về tính dân tộc, về màu
sắc dân gian trong ngôn ngữ thơ của Tố Hữu.
THữu đã sáng tạo nên một cấu tứ rất độc đáo, cấu tứ từ khúc hát đối đáp trong
cuộc chia tay giữa người ở và người về xuôi để từ những khúc hát đối đáp ấy khơi
gợi những kniệm về những ngày kháng chiến gian khổ mà vẻ vang, rồi từ những
kniệm kia mà dựng lại quá trình trưởng thành của cuộc kháng chiến, dựng lên hình
ảnh của nhân dân, của những người chiến sĩ, hình ảnh của Bác, của Đảng. Vì thế
ngay từ những câu thơ mở đầu ta đã thấy cuộc trò chuyện tâm tình, những câu hát
đối đáp giữa “mình” và “ta” vô cùng tha thiết, mặn nồng. THữu đã sử dụng những
cặp từ đối đáp rất quen thuộc trong ca dao, dân ca để cuộc chia tay trở nên đằm
thắm như của đôi lứa yêu nhau. Những chữ “mình”, “ta” từ câu thơ mở đầu cho tới
những dòng thơ cuối cùng luôn luôn khơi gợi những tình cảm mặn nồng, không
bao giờ phai nhạt giữa V Bắc và cách mạng, kháng chiến.
1.

a) 4 CÂU ĐẦU: LỜI NGƯỜI Ở LẠI

Một câu hỏi nhấn vào thời gian (Có nhớ 15 năm ấy), một câu hỏi nhấn vào không
gian (có nhớ núi, nhớ nguồn Việt Bắc). Chỉ với hai câu hỏi mà tác giả đã gợi lên
được một thời Cách mạng, một vùng Cách mạng. Việt Bắc k chỉ găn với 9 năm
đánh Pháp, mà còn gắn với quãng thời gian 15 năm, từ những ngày xuân 1941 khi
Bác Hồ chọn Cao Bằng, Việt Bắc làm chiến khu CM. VB k chỉ găn với k gian núi


rừng, sông suối, mà còn gắn với không gian nghĩa tình sâu nặng…VB là quê
hương, là cội nguồn CM. Nơi đó đã chở che, đùm bọc, cưu mang cho Đảng, Chính
phủ và bộ đội trong suốt những năm k/c chống Pháp gian khổ.
Bởi thế, 4 câu đầu đã diễn tả thật xúc động những quyến luyến thiết tha, những băn
khoăn trăn trở của người ở lại. Trong cuộc chia tay đặc biệt này, họ chưa chia xa
mà đã nhớ thương vời vợi, chưa cách biệt mà đã khao khát mong chờ.

1.

b) LỜI NGƯỜI RA ĐI: 4 CÂU TIẾP

Câu hỏi của trái tim đã nhận được sự đồng vọng của trái tim Những từ láy “bâng
khuâng, bồn chồn, tha thiết” không chỉ tạo nên nhạc điệu câu thơ mà còn cho thấy
những xao đọng trong tâm tư của người ra đi. Những lời lẽ thiết tha của người ở lại
chi phối cả tâm tư và hành động của người ra đi. Những bước chân đi bồn chồn,
những nỗi lòng bâng khuâng xao xuyến cho thấy người đi vẫn đang hướng về
người ở lại, chẳng nỡ rời xa.
+Cách ngắt nhịp câu thơ cũng góp phần diễn tả tâm trạng. Câu thơ “Áo chàm đưa
buổi phân li” ngắt nhịp 2/4 đã diễn tả được tâm trạng bâng khuâng ngập ngừng khó
nói nên lời.
+ Đặc biệt, hình ảnh chiếc áo chàm chia li vừa cổ điển vừa hiện đại, gắn với bản
sắc của đồng bào VB. Màu chàm là màu sắc bình dị, đơn sơ, nhưng bền chặt khó
phai, như tấm lòng người Việt Bắc vừa chân thành mộc mạc, vừa son sắt, thuỷ
chung. Do đó, cuộc chia tay giữa người dân Việt Bắc ở lại và người cán bộ kháng
chiến về xuôi cũng bịn rịn nhớ thương nhưng không buồn thương, đẫm lệ, phảng
phất phong vị dân gian, cổ điển, nhưng lại mang không khí của thời đại.
Tóm lại, 8 câu thơ đầu tiên, nhà thơ thực sự đi vào lòng người không phải bằng
ngôn từ chính trị, mà bằng lời tâm tình dịu êm, đằm thắm, với âm hưởng của
những câu ca dao, dân ca ngọt ngào, tha thiết. 8 câu thơ là tâm trạng bịn rịn nhớ
thương của ngưòi đi, kẻ ở, lời nhắn gửi thiết tha về ân tình kháng chiến, đồng thời
in đậm dấu ấn phong cách nghệ thuật thơ Tố Hữu – người thi sĩ đã « nâng thơ
chính trị lên một trình độ là thơ rất đỗi trữ tình ».

1.

12 CÂU TIẾP : LỜI NGƯỜI Ở LẠI


Mỗi câu của người ở lại đều là những tâm tình da diết, để người ra đi mang theo
hành trang trĩu nặng ân tình, chất chứa bao nỗi nhớ niềm thương. 12 câu lục bát
cấu tạo thành 6 câu hỏi khơi sâu vào kỉ niệm:


– Nhìn thoáng qua, các câu thơ đều sử dụng phép điệp cấu trúc với cụm từ: Mình
đi, mình về đứng đầu mỗi cặp câu thơ. Hai từ đi về, vốn ngược chiều trái hướng,
tưởng như chia đều cho người đi kẻ ở. Nhưng đọc kĩ, hoá ra “Đi”, “Về” đều đồng
nhất một phương, và chỉ để nói người ra đi…Phải chăng niềm tin yêu của người ở
lại đã thổi vào câu chữ, tạo nên ý ở ngoài lời: khi nói họ đi, nghĩa là thủ đô gió
ngàn là quê hương, thì khi nói họ về, thủ đô hoa vàng nắng Ba Đình lại là quê
hương của họ. Nói cách khác, Việt Bắc đã trở thành quê hương thứ hai của người
cán bộ CM.
– 12 câu thơ là 6 câu hỏi tu từ, mỗi câu hỏi đều gợi lại những gì tiêu biểu nhất của
Việt Bắc. Đó là những hình ảnh dữ dội mà gợi cảm: Mưa nguồn, suối lũ, mây mù,
…; chân thực mà thơ mộng; “Hắt hiu lau xám đậm đà lòng son”; những câu thơ có
khả năng diễn tả những khái niệm trừu tượng thành hình ảnh đầy cảm giác sống
động: “miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai”….
– Nếu sa vào cái gọi là “liệt kê kỉ niệm” câu thơ sẽ trôi tuột đi, không thể lưu đọng
lại trong lòng người đọc. Cái làm nên chất thơ của đoạn thơ này chính là nghệ
thuật tiểu đối được sử dụng với tần số cao trong các câu thơ. Nó không chỉ có khả
năng biểu đạt nỗi lòng sâu kín bồi hồi của người đi kẻ ở, mà còn tạo ra sự tương
xứng về cấu trúc, vẻ đẹp nhịp nhàng, ngân nga, trầm bổng réo rắt của ngôn từ.
– Đặc biệt câu cuối với điệp từ “mình” và nghệ thuật tách từ, đảo từ để lại ấn
tượng riêng bởi sự tinh tế, hàm súc:
“Mình đi mình có nhớ mình
Tân Trào Hồng Thái mái đình cây đa”
+ Đại từ “mình”, “ta” vốn được sử dụng trong đối đáp thơ ca dân gian nay được Tố
Hữu sử dụng đầy biến ảo: Khi mình là Ta, khi “ta” là “mình”, cái ngầm ý hai ta là
một đã rõ. Nhưng ở đây một câu lục mà tới ba lần lặp lại chữ mình: “Mình đi,

mình có” là chỉ người về, “nhớ mình” là chỉ người ở. Câu hỏi đầy ý nhị mà sâu
kín: Mình quên “ta” cũng là quên chính “mình” đó.
+ Câu thơ còn có sự tổ chức ngôn từ đặc biệt: “Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân
Trào” được viết thành: “Tân Trào Hồng Thái mái đình cây đa”. “Mái đình cây đa”
là hình ảnh chung nhất về quê hương bản quán của người Vịêt, trong khi Tân Trào,
Hồng Thái là những địa danh LS, gắn với núi rừng VB. Phải chăng, với cách tách
từ độc đáo, nhà thơ đã khéo léo chuyển hoá nỗi nhớ chiến khu thành nỗi nhớ quê
hương, gia đình, gắn tình cảm cách mạng của thời đại với tình cảm yêu quê hương
đất nước truyền thống của con người VN. Có người nói, “trong thơ Tố Hữu, cái
riêng, cái chung như không còn ranh giới, cái cũ cái mới lồng vào nhau”, có thể
nói đây là câu thơ tiêu biểu nhất.


ĐÁNH GIÁ CHUNG
Tố Hữu được mệnh danh là “Ngọn cờ đầu của thơ ca cách mạng, nhà thơ của lý
tưởng cộng sản”. Bài thơ “Việt Bắc” được coi là khúc hát ân tình của người kháng
chiến đối với quê hương cách mạng, trong đó, nhà thơ đã « nâng thơ chính trị lên
một trình độ là thơ rất đỗi trữ tình ».
Tiếng thơ trữ tình chính trị của Tố Hữu đã mượn được hình thức cấu tứ giã bạn, kết
cấu theo lối đối đáp giao duyên và thể loại lục bát đậm đà tính dân tộc. Nhờ vậy Tố
Hữu đã thơ hoá sự kiện chính trị lớn lao, hệ trọng. Những câu thơ cân xứng trầm
bổng, ngọt ngào vừa thể hiện được tình cảm đối với cách mạng, vừa khơi rất sâu
vào cội nguồn dân tộc: truyền thống ân nghĩa, thủy chung. Việt Bắc đã đạt tới tính
dân tộc, tính đại chúng. Đó là sức sống trường tồn của bài thơ



×