Tải bản đầy đủ (.doc) (58 trang)

Thực trạng công cuộc xoá đói giảm nghèo của việt nam từ năm 1986 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (837.93 KB, 58 trang )

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
- ADB: Ngân hàng phát triển Châu Á (Asian Development Bank)
- AFTA: Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN (ASEAN Free Trade Area)
- APEC: Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (Asia-Pacific
Economic Cooperation)
- ASEAN: Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (Association of Southeast Asian
Nations)
- CEPT: chương trình thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung của AFTA (Common
Effective Preferential Tariff)
- CNXH: Chủ nghĩa xã hội
- CNTB: Chủ nghĩa Tư bản
- CPRGS: Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo
(Comprehensive Poverty Reduction and Growth Strategy)
- DN: Doanh nghiệp
- EU: Liên minh Châu Âu (European Union)
- FDI: Đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment)
- FPI: Đầu tư gián tiếp nước ngoài (Foreign Portfolio Investment)
- HDI: Chỉ số phát triển con người (Human Development Index)
- IMF: Quỹ tiền tệ quốc tế (International Moneytary Fund)
- MDGs: Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ (Millennium Development Goals)
- NGO: Tổ chức phi chính phủ (Non-Governmental Organization)
- ODA: Hỗ trợ phát triển chính thức (Official Development Assistance)
- SEV: Hội đồng Tương trợ Kinh tế (tiếng Nga: Совет экономической
взаимопомощи Sovyet Ekonomičeskoy Vzaimopomošči, SEV (СЭВ, SEW); tiếng Anh:
Council of Mutual Economic Assistance, COMECON hoặc CMEA)
- TNC: Công ty xuyên quốc gia (Transnational corporation)
- VDG: Mục tiêu phát triển Việt Nam (Vietnam Development Goals)
- VNĐ: Việt Nam Đồng
1



MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT............................................................................................................1
MỞ ĐẦU..............................................................................................................................................3

1. Sự cần thiết của đề tài.....................................................................................................................................
a. Thực trạng công cuộc xoá đói giảm nghèo của Việt Nam..............................................................................
- Việt Nam bắt đầu công cuộc Đổi Mới với quá trình mở cửa nền kinh tế và tự do hoá dần nền
kinh tế, thủ tiêu dân cơ chế kinh tế cũ từ năm 1986. Những thành quả và sự tăng trưởng kinh tế
của Việt Nam trong những năm sau Đổi Mới đã đem lại những tiến bộ trong thu nhập của đại
bộ phận nền kinh tế - xã hội nhưng bên cạnh đó còn tồn tại vấn đề mang tính cấp thiết đó là
một bộ phận không nhỏ người dân vẫn phải sống trong điều kiện nghèo đói....................................................
2.Tình hình nghiên cứu.......................................................................................................................................
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.................................................................................................................
4.Đối tượng và phạm vi phạm nghiên cứu.........................................................................................................
5. Đóng góp của đề tài........................................................................................................................................
6. Bố cục của đề tài............................................................................................................................................
CHƯƠNG 1:........................................................................................................................................5
THỰC TRẠNG ĐÓI NGHÈO VÀ CÔNG CUỘC XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO CỦA VIỆT
NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY..................................................................................................................5

1.1. TÌNH TRẠNG NGHÈO ĐÓI Ở VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY............................................................
1.2. NGUYÊN NHÂN........................................................................................................................................
1.2.1. Nguyên nhân chủ quan.........................................................................................................................
1.2.2. Nguyên nhân khách quan.....................................................................................................................
1.3. CÔNG CUỘC XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO CỦA VIỆT NAM....................................................................
1.3.1. Những chính sách của Nhà nước trong công tác xoá đói giảm nghèo.................................................
1.3.2. Những thành tựu của công cuộc xoá đói giảm nghèo của Việt Nam từ năm 1986 đến
nay..................................................................................................................................................................
1.3.3. Những hạn chế của công cuộc xoá đói giảm nghèo của Việt Nam từ 1986 đến nay...........................
KẾT LUẬN........................................................................................................................................44


CHƯƠNG 2:...................................................................................................................................................
Bảo đảm ngày càng tốt hơn an sinh xã hội và phúc lợi xã hội là một nội dung chủ yếu của
Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020.............................................................................................

2


MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài
a. Thực trạng công cuộc xoá đói giảm nghèo của Việt Nam
- Việt Nam bắt đầu công cuộc Đổi Mới với quá trình mở cửa nền kinh tế và tự do hoá
dần nền kinh tế, thủ tiêu dân cơ chế kinh tế cũ từ năm 1986. Những thành quả và sự tăng
trưởng kinh tế của Việt Nam trong những năm sau Đổi Mới đã đem lại những tiến bộ
trong thu nhập của đại bộ phận nền kinh tế - xã hội nhưng bên cạnh đó còn tồn tại vấn đề
mang tính cấp thiết đó là một bộ phận không nhỏ người dân vẫn phải sống trong điều kiện
nghèo đói.
- Nghèo đói và khoảng cách chênh lệch thu nhập giữa các nhóm dân cư ngày càng gia
tăng là một trong những nguyên nhân gây ra tình trạng bất ổn về chính trị - kinh tế - xã
hội trong tương lai gần nếu không có chính sách đúng đắn và biện pháp kịp thời.
- Xoá đói giảm nghèo là một công cuộc lâu dài, cần có sự nhìn nhận đánh giá tổng
quát để nhìn nhận rõ những thành tựu để phát huy và những khuyết điểm để có biện pháp
khắc phục.
b. các chính sách phúc lợi xã hội ở Việt Nam hiện nay
An sinh xã hội và phúc lợi xã hội là hệ thống các chính sách và giải pháp nhằm
vừa bảo vệ mức sống tối thiểu của người dân trước những rủi ro và tác động bất
thường về kinh tế, xã hội và môi trường; vừa góp phần không ngừng nâng cao
-

đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân

. Bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội không chỉ là bảo vệ quyền của mỗi
người dân như đã nêu trong Tuyên ngôn thế giới về quyền con người, mà còn là
một nhiệm vụ quan trọng của mỗi quốc gia trong quá trình phát triển

2.Tình hình nghiên cứu
Trong những năm gần đây đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về tình trạng đói
nghèo và đánh giá về công cuộc xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam, như:
*. Giảm đói nghèo ở Việt nam: Những con số nói lên điều gì? - Litchfield, J. và
Justino, P. (2002), PRUS Tài liệu nghiên cứu no. 8. Đại học Sussex, Brighton.
3


*. Khảo sát về mức sống tại Việt nam1992-93: Thông tin cơ bản, Đói nghèo và sự
Phân chia các nguồn nhân lực. - Ngân hàng thế giới (World bank, 12/ 1994, cập nhật năm
2000
*. Khảo sát về mức sống tại Việt nam 1997-98: Thông tin cơ bản, Đói nghèo và Sự
phân chia các nguồn nhân lực. - Ngân hàng thế giới (World bank, 4/ 2001)
*. Các vấn đề được lựa chọn của Việt nam, Báo cáo của cán bộ khu vực số 99/55,
Quỹ Tiền tệ quốc tế (1999) Washington D.C.
*.Toàn cầu hoá và tình trạng đói nghèo ở Việt nam. - Bản tổng kết 10 tài liệu về
Chương trình nghiên cứu Toàn cầu hoá và tình trạng đói nghèo của Cơ quan Phát triển
Quốc tế của Vương quốc Anh (DFID), do John Thoburn and Richard Jones thực hiện.
*. Báo cáo của UNDP về tốc độ xoá đói giảm nghèo của Việt Nam và các thành tựu
trong mục tiêu Thiên Niên Kỷ (MDG) (tháng 9 năm 2003)
*. Xóa đói, giảm nghèo ở nước ta - thành tựu, thách thức và giải pháp – Phạm Gia
Khiêm - Tạp chí Cộng sản (số 2+3 – 2006).
*. Khảo sát mức sống ở Việt Nam 1997-98 – phân tích, Hà Nội 1999/VN Vũ Tuấn
Anh, Tổng Cục Thống kê Việt Nam.
Các công trình trên đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau của vấn đề đói nghèo ở Việt
Nam và các thành tựu cũng như hạn chế của Chính Phủ. Nhưng chưa có công trình nào đi

sâu phân tích, tổng kết, nghiên cứu về thực trạng của công cuộc xoá đói giảm nghèo của
Việt Nam từ năm 1986 - bắt đầu thời kỳ Đổi Mới, mở cửa nền kinh tế. Do đó, đề tài này
sẽ đi sâu phân tích thực trạng công cuộc xoá đói giảm nghèo của Việt Nam từ năm 1986
đến nay.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Trên cơ sở phân tích lý luận chung, đề tài đánh giá thực trạng công cuộc xoá đói
giảm nghèo của Việt Nam từ năm 1986, đưa ra một cái nhìn tổng quan để từ đó gợi mở
một số giải pháp nhằm củng cố và phát huy những thành tựu đã đạt được, đồng thời
khắc phục những tồn tại và thiếu sót trong hơn 20 năm qua.
- Bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội không chỉ là bảo vệ quyền của mỗi người
dân như đã nêu trong Tuyên ngôn thế giới về quyền con người, mà còn là một nhiệm
vụ quan trọng của mỗi quốc gia trong quá trình phát triển. Tuy nhiên, mức độ, quy mô,

4


phạm vi an sinh xã hội và phúc lợi xã hội của các nước có sự khác nhau, tùy thuộc vào
quan niệm, chế độ chính trị - xã hội, trình độ phát triển và chính sách của mỗi quốc gia.

4.Đối tượng và phạm vi phạm nghiên cứu
- Đối tượng: công cuộc xoá đói giảm nghèo và các chính sách phúc lợi xã hội ở Việt
Nam
- Phạm vi nghiên cứu: công cuộc xoá đói giảm nghèo của Việt Nam từ năm 1986 trở
lại đây. Bảo đảm ngày càng tốt hơn an sinh xã hội và phúc lợi xã hội là một nội dung chủ
yếu của Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020

5. Đóng góp của đề tài
- Đánh giá, phân tích thực trạng công cuộc xoá đói giảm nghèo của Việt nam
- Gợi mở một số giải pháp nhằm phát huy các thành tựu cũng như khắc phục các hạn

chế của công cuộc xoá đói giảm nghèo của Việt Nam.
- Bảo đảm phúc lợi và An sinh xã hội cho tất cả mọi người. Các chính sách An sinh xã
hội và phúc lợi xã hội .

6. Bố cục của đề tài
Đề tài có cấu trúc gồm ba chương:
Chương 1: Thực trạng công cuộc xoá đói giảm nghèo của Việt Nam từ năm 1986
đến nay

Chương 2 : Bảo đảm ngày càng tốt hơn an sinh xã hội và phúc lợi xã hội là một
nội dung chủ yếu của Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020

CHƯƠNG 1:
THỰC TRẠNG ĐÓI NGHÈO VÀ CÔNG CUỘC XOÁ ĐÓI GIẢM
NGHÈO CỦA VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY.

5


Việt Nam tiến hành công cuộc Đổi Mới nền kinh tế xã hội từ năm 1986 với dấu
mốc là Đại hội Đảng VI (12/1986). Từ đó cho đến nay, nền kinh tế Việt nam liên tục tăng
trưởng và gặt hái được nhiều thành tựu trong cả kinh tế lẫn xã hội. Sự phát triển kinh tế
cùng với chính sách tạo lập công bằng của Nhà nước cũng làm thay đổi diện mạo tình
hình đói nghèo tại Việt Nam. Thu nhập của người dân đã tăng lên đáng kể, cho tới nay,
năm 2009 đã vượt hơn 1000 USD/người. Công tác xoá đói giảm nghèo được tiến hành và
duy trì đều đặn hàng năm, đạt được nhiều thành tựu to lớn, nhưng chúng ta cũng cần nhìn
nhận lại tình trạng đói nghèo của Việt Nam từ khi bắt đầu công cuộc Đổi Mới đến nay để
thấy được quá trình biến đổi và các vấn đề đối với tình trạng đói nghèo hiện nay.

1.1. TÌNH TRẠNG NGHÈO ĐÓI Ở VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY

Trong những năm 1986 – 1990, Việt Nam đang lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế
- xã hội nghiêm trọng chưa từng có trong lịch sử do sai lầm trong các chính sách kinh tế
vĩ mô duy ý chí. Quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất không phù hợp gây nên lực cản
đối với sự phát triển kinh tế. Kinh tế phát triển chậm và không ổn định, tốc độ tăng trưởng
thu nhập quốc dân bình quân thời kỳ 1986 – 1990 là 3.9%/năm, GDP tăng 4,4%/năm,
nhưng lạm phát vẫn còn rất cao, tuy đã được đẩy lùi, từ 774,7% năm 1986 xuống còn
67,5% năm 1990. Thu nhập bình quân đầu người rất thấp, tỷ lệ tiết kiệm nội địa hầu như
không đáng kể (2,9% GDP, GDP Việt Nam 1986 là hơn 4 tỷ USD). Thâm hụt ngân sách
lớn, chiếm trên 8% GDP. Hàng hoá thiết yếu khan hiếm, thị trường nhỏ hẹp, đời sống
nhân dân toàn quóc nói chung là rất khó khăn. Cơ sở vật chất kỹ thuật của phần lớn các
ngành nghề kinh tế, xã hội bị xuống cấp nghiêm trọng cả về lượng lẫn về chất, năng suất
lao động sụt giảm nghiêm trọng.
Nhưng trong giai đoạn 1986 – 1990, nhờ thực hiện tốt Chương trình lương thực,
thực phẩm nên sản xuất lương thực đã có bước phát triển đáng kể từ 18 triệu tấn quy thóc
mỗi năm (1984 – 1987) đã tăng lên đạt 21,5 triệu tấn (1989 – 1990). Sản lượng lương
thực bình quân đầu người 1986 – 1990 đạt 310kg/người, riêng năm 1989 đạt 332,4
kg/người, năm 1990 đạt 324,4 kg/người. Nhưng vấn đề lớn ảnh hưởng tơi mức thu nhập

6


bình quân đầu người chung của cả nước giai đoạn này là tốc độ gia tăng dân số còn khá
cao, trung bình trên 2%/năm (Bảng 2.1).

Bảng 1.1. Tăng trưởng kinh tế và gia tăng dân số việt nam 1976-2002
Đơn vị tính: %
Giai đoạn

Tỷ lệ gia tăng GDP Tỷ lệ tăng dân số Tỷ lệ tăng GDP/người


1976 - 1980

0,4

2,47

- 2,07

1981 - 1985

6,4

2,52

3,88

1986 - 1990

3,9

2,1

1,8

1991 - 2000

7,56

1,7


5,86

2001

6,89

1,4

5,49

2002

7,04

1,3

5,74

(Nguồn: - Việt Nam dân số và phát triển. NXB Thống kê, Hà Nội, 1996
- Tình hình kinh tế xã hội Việt Nam 10 năm 1991-2000. Tổng cục Thống kê, Hà Nội, 22001
- Tổng quan kinh tế - xã hội 2001-2001. Tổng cục Thống kê)
Trong giai đoạn 1991-2000, tổng sản phẩm trong nước tăng liên tục qua các năm,
nền kinh tế dần khắc phục được tình trạng trì trệ, suy thoái, đạt tốc độ tăng trưởng tương
đối cao, liên tục và toàn diện, GDP bình quân hàng năm trong thời kỳ 1991 – 1995 tăng
8,2%/năm và cả giai đoạn 1991 – 2000 là 7,56%/năm. Đến năm 2000 tổng sản phẩm
trong nước đã gấp 2,07 lần năm 1990, đạt và vượt mức mục tiêu tổng quát đề ra cho
Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội 1991-2000 là tổng sản phẩm trong
nước gấp 2 lần. Đồng thời, tỷ lệ tăng dân số đã giảm rất nhanh và đạt mức tăng 1,7%
mỗi năm. Do đó, tỷ lệ tăng GDP bình quân đầu người cao nhất trong 3 thập kỷ qua là
5,86% bình quân mỗi năm.


Sự đổi mới trong cơ chế quản lý và vận hành nền kinh tế cùng chủ trương xây
dựng công bằng xã hội gắn với phát triển kinh tế của Việt Nam những năm sau mở cửa đã
7


làm đổi thay sâu sắc diện mạo kinh tế - xã hội. Nhìn tổng thế, tỷ lệ người nghèo theo
chiều hướng giảm dần. Chỉ trong 5 năm, giai đoạn từ 1992 – 1993 đến 1997 – 1998, tỷ lệ
người nghèo ở Việt Nam đã giảm gần một nửa, đây thực sự là một tốc độ giảm nghèo
đáng kinh ngạc. Tỷ lệ người nghèo giảm mạnh ở khu vực thành thị (- 63,1%). Khu vực
nông thôn, tỷ lệ người nghèo giảm đáng kể nhưng vẫn ở mức cao so với tỷ lệ dân số. Về
khu vực địa lý thì vùng Đông Nam Bộ có mức độ giảm nghèo nhanh nhất (-76,8%) và
chiếm tỷ lệ nghèo thấp nhất cả nước (7,6%), nguyên nhân do đây là vùng kinh tế trọng
điểm, tập trung các trung tâm kinh tế và công nghiệp lớn của cả nước, giải quyết công ăn
việc làm và tăng thu nhập cho người dân. Vùng Miền núi phía Bắc thời kỳ này tuy đã có
bước tiến đáng kể trong việc giảm số hộ nghèo tới một phần tư (-25,4%) nhưng vẫn là
vùng có tỷ lệ người nghèo cao nhất cả nước (58,6%). (Bảng 2.2).

Bảng 1.2. Những thay đổi trong tình trạng đói nghèo, chia theo đặc điểm kinh
tế xã hội
(Liệt kê theo đầu người) Tỷ lệ
người nghèo (0%)
1992-93 1997-98 %
đổi
Khắp Việt nam
Theo hộ gia đình
Thành thị
Nông thôn
Theo khu vực
Vùng núi phía Bắc

Đồng bằng sông
Hồng
Bắc Trung bộ
Duyên hải Trung bộ
Tây nguyên Trung bộ
Đông Nam bộ
Đồng bằng sông Cửu

58.1

37.4

-35.1

24.9
66.4

9.2
45.5

-63.1
-31.5

78.6
62.8

58.6
28.7

-25.4

-54.3

74.5
49.6
70.0
32.7
47.1

48.1
35.2
52.4
7.6
36.9

-35.4
-29.0
-25.1
-76.8
-21.7

Long
Theo dân tộc
8

thay


Người Việt (Kinh)
Hoa kiều
Các dân tộc khác

Theo ngành nghề
Văn phòng
Buôn bán
Nông nghiệp
Sản xuất
Ngành
khác/thất

55.1
11.8
86.4

31.7
8.4
75.2

-42.5
-28.8
-13.0

23.6
27.7
69.0
45.9
44.4

9.9
13.0
48.2
28.0

25.5

-58.1
-53.1
-30.1
-39.0
-42.6

nghiệp

Nguồn: Justino and Litchfield, 2002
Theo thành phần dân tộc thì các dân tộc thiểu số vẫn chiếm tỷ lệ nghèo đói cao
nhất cả nước khi so sánh với cộng đồng người Kinh và người Hoa. Tốc độ giảm nghèo
của các cộng đồng dân tộc thiểu số cũng chậm nhất. Điều này được lý giải là do sự chênh
lệch về trình độ sản xuất, tri thức và hạn chế về không gian cư trú của các cộng đồng dân
tộc thiểu số với người Kinh và người Hoa. Họ sống xa các trung tâm văn hoá – kinh tế chính trị nên rất khó có điều kiện học hỏi tiếp thu các tri thức kinh nghiệm đồng thời cơ
sở hạ tầng và giao thông liên lạc thời điểm này vẫn là rất khó khăn.
Theo kết quả điều tra mức sống hộ gia đình do Tổng cục thống kê thực hiện cho
thấy tỷ lệ nghèo chung của Việt Nam theo chuẩn quốc tế (gồm cả nghèo về lương thực,
thực phẩm và nghèo về phi lương thực, thực phẩm) đã giảm mạnh trong hơn một thập kỷ
qua, từ 58% năm 1993 xuống 37,4% vào năm 1998; 28,9% năm 2002 và 24.1% năm
2004.Theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới (World Bank – WB),trong vòng 15 năm từ
1992 đến 2007, tỉ lệ nghèo đói của Việt Nam đã giảm từ 60% xuống còn dưới 20%. Tỉ lệ
thu nhập thực sự đã tăng lên 7.3%/năm trong vòng 10 năm từ 1997 đến 2007. Nhưng bên
cạnh đó, báo cáo của Ngân hàng Thế giới cũng đưa ra một sự thật là tình trạng nghèo đói
ở Việt Nam xảy ra chủ yếu ở khu vực nông thôn và tiến độ xoá đói giảm nghèo cho các
dân tộc thiểu số diễn ra còn chậm. Các dân tộc thiểu số chỉ chiếm 13% số dân nhưng họ
chiếm đến 39% số người nghèo.

Biểu đồ 1.3. Mức độ nghèo của Việt Nam giai đoạn 1993 – 2004

9


Đơn vị: %

Qua biểu đồ 2.3, ta thấy từ năm 1993 đến 2004, tỷ lệ nghèo chung tại khu vực
nông thôn tuy giảm dần theo từng năm nhưng vẫn thường cao hơn tỷ lệ nghèo tại khu vực
thành thị, cao nhất là gấp gần 5 lần và thấp nhất là cao gấp 2 lần, cao hơn so với tỷ lệ
nghèo chung của cả nước. Còn xét theo tỷ lệ nghèo lương thực thì ta lại thấy mốt diện
mạo đói nghèo hoàn toàn khác, đó là tỷ lệ nghèo lương thực nói chung toàn quốc là thấp,
do các chương trình về lương thực thực phẩm và chính sách bảo đảm an ninh lương thực
của chính phủ được thực hiện tốt. Sản xuất nông nghiệp có những bước phát triển nhanh,
tổng khối lượng lương thực gia tăng dần và có sự tích luỹ theo từng năm cùng với tốc độ
gia tăng dân số tự nhiên đã được hạn chế khiến lượng lương thực bình quân đầu người
tăng đều, kéo theo tỷ lệ nghèo về lương thực giảm nhanh chóng.
Bảng 2.4 cho ta thấy, theo tỷ lệ nghèo của các khu vực địa lý giai đoạn 1993 –
2004, thì khu vực miền núi phía Bắc, khu vực Tây Nguyên và khu vực ven biển Bắc
Trung Bộ vẫn là những khu vực có tỷ lệ nghèo đói cao nhất. Đó là do những khu vực này
bị hạn chế bởi yếu tố địa lý và khí hậu khắc nghiệt, xa các trung tâm kinh tế - văn hoá,
cản trở quá trình phát triển kinh tế và cơ hội tiếp cận thị trường của người dân địa

10


phương. Các khu vực có tỷ lệ nghèo thấp nhất cũng là những khu vực có các vùng kinh tế
trọng điểm, các nguồn lực chủ yếu được đầu tư vào phát triển công nghiệp và các ngành
công nghiệp là mũi nhọn của kinh tế, đó là vùng Đông Nam Bộ và Đồng bằng Châu thổ
Sông Hồng.

Bảng 1.4. Tỷ lệ nghèo tại Việt Nam theo khu vực giai đoạn 1993 – 2004

Đơn vị: % (dân số)

Tổng cục Thống kê (TCTK) đã tính toán dựa vào số liệu thu nhập bình quân đầu
người của hộ gia đình và chỉ số giá tiêu dùng của từng khu vực thành thị/nông thôn qua
các năm loại trừ yếu tố biến động giá để đưa ra một báo cáo về tình hình nghèo đói ở Việt
Nam. Số liệu căn cứ kết quả chính thức Điều tra mức sống hộ gia đình Việt Nam 2002 và
kết quả sơ bộ Khảo sát mức sống hộ gia đình Việt Nam năm 2004, Tổng cục Thống kê
tính toán tỷ lệ (%) hộ nghèo cho năm 2002 và 2004 theo chuẩn nghèo được Thủ tướng
Chính phủ ban hành áp dụng cho giai đoạn 2006 - 2010. Chuẩn nghèo mới áp dụng cho
giai đoạn 2006 - 2010 quy định: Hộ nghèo là những hộ ở khu vực nông thôn có thu nhập
bình quân 200.000 đồng/người/tháng trở xuống, đối với những hộ ở khu vực thành thị có
thu nhập bình quân từ 260.000 đồng/người/tháng trở xuống. Theo quy định này, ước tính

11


năm 2005 cả nước ta có khoảng 3,9 triệu hộ nghèo, chiếm 22% số hộ trong toàn quốc;
Các vùng có tỷ lệ hộ nghèo cao là vùng Tây Bắc (44%) và Tây Nguyên (40%); vùng có tỉ
lệ hộ nghèo thấp nhất là vùng Đông Nam Bộ (9%).

Bảng 1.5. Tỷ lệ hộ nghèo 2002 và 2004 theo chuẩn nghèo áp dụng cho
2006 – 2010
Đơn vị: %

Cả nước
Chia theo khu vực
Thành thị
Nông thôn
Chia theo vùng
Đồng bằng sông Hồng

Đông Bắc
Tây Bắc
Bắc Trung Bộ
Duyên hải Nam Trung Bộ
Tây Nguyên
Đông Nam Bộ
Đồng bằng sông Cửu Long

Năm 2002
23,0

Năm 2004
18,1

10,6
26,9

8,6
21,2

18,2
28,5
54,5
37,1
23,3
43,7
8,9
17,5

12,9

23,2
46,1
29,4
21,3
29,2
6,1
15,3

(Nguồn: Tổng cục Thống kê tháng 7 năm 2005 “Thông cáo báo chí về tỷ lệ hộ
nghèo 2002 và 2004 theo chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2006 – 2010”)
Theo Tổng cục Thống kê ước tính, đến đầu năm 2006, Việt Nam không còn tình
trạng nghèo cùng cực nữa và toàn quốc còn khoảng 4,6 triệu hộ nghèo (chiếm 26-27%
tổng số hộ trong cả nước), trong đó ở thành thị có 500.000 hộ (chiếm 12% số hộ ở thành
thị) và ở nông thôn có 4,1 triệu hộ (chiếm 31% số hộ). Trong Chương trình mục tiêu quốc
gia về giảm nghèo giai đoạn 2006 – 2010, Chính phủ đã đề ra các chỉ tiêu chủ yếu hướng
đến trong giai đoạn 2006 – 2010 về tình hình đói nghèo là:


Thu nhập của nhóm nghèo tăng 1,45 lần so với 2005
12




Các xã đặc biệt khó khăn, xã nghèo có đủ cơ sở hạ tầng thiết yếu



6 triệu lượt hộ nghèo được vay tín dụng ưu đãi




4,2 triệu lượt hộ nghèo tập huấn về khuyến nông lâm ngư



1,5 triệu người được miễn giảm phí học nghề



15 triệu người được khám chữa bệnh miễn phí khi đau ốm



19 triệu lượt học sinh nghèo được miễn, giảm học phí, tiền xây dựng trường



500 nghìn hộ nghèo được hỗ trợ xóa nhà tạm
Trong 5 năm 2001 – 2005, GDP tăng bình quân 7,5%/năm, GDP bình quân đầu

người đạt khoảng 10 triệu đồng (khoảng 640 USD), vượt mức bình quân của các nước
đang phát triển có thu nhập thấp (500 USD), và cho tới hết năm 2008, GDP bình quân đầu
người của Việt Nam đã vượt ngưỡng 1000 USD/người/năm, đạt mức của nước có thu
nhập trung bình và tỷ lệ hộ nghèo cả nước còn khoảng 13% (tương đương 2,4 triệu hộ),
giảm gần 2% so với năm 2007, tạo việc làm được cho 1,7 triệu lao động, tỷ lệ thất nghiệp
thành thị giảm còn dưới 5,1%. Tuy nhiên, vẫn còn khoảng trên 50 huyện có tỷ lệ nghèo
trên 50%, gần 30 huyện trên 60%, 10 huyện trên 70% và 1 huyện trên 80% tỷ lệ nghèo.

1.2. NGUYÊN NHÂN


Mặc dù có sự tiến triển tích cực trong số liệu về số người nghèo kể từ khi Việt
Nam tiến hành Đổi Mới, tỷ lệ người bị đói hầu như không còn và tỷ lệ người nghèo đã
giảm đáng kể theo đà phát triển của nền kinh tế nhưng khoảng cách giữa tiêu chuẩn nghèo
và khá giá của đa số người dân vẫn còn là bấp bênh, khả năng tái nghèo vẫn còn cao khi
có các tác động tiêu cực từ khách quan bên ngoài. Đói nghèo vẫn chưa bị xoá hẳn hoàn
toàn mà luôn thường trực cận kề đối với đa số người dân vừa thoát khỏi mức sống nghèo
và cận nghèo. Đó là do những nguyên nhân chủ quan và khách quan tác động tới tình hình
nghèo đói ở Việt Nam.

13


1.2.1. Nguyên nhân chủ quan
1.2.1.1. Cơ cấu kinh tế chủ yếu là nông nghiệp lạc hậu
Việt Nam là nước nông nghiệp đến năm 2004 vẫn còn 74,1% dân sống ở nông thôn
trong khi tỷ lệ đóng góp của nông nghiệp trong tổng sản phẩm quốc gia thấp. Đất nước ta
là đất nước có hơn 70% là nông dân sản xuất nông nghiệp (đóng góp nông nghiệp trong
tổng GDP chỉ 20%), chủ yếu vẫn theo kiểu thủ công, chưa cơ giới hoá được toàn diện, đời
sống nông dân còn thấp, dân trí không đồng đều, nhìn chung trình độ văn hoá và nhận
thức xã hội có nhiều hạn chế.

Bảng 1.6. Cơ cấu nền kinh tế Việt Nam (1995-2007)
Đơn vị: %
Chỉ số

1995

1996


1997

1999

2000

2003

2004

2007

GDP

100

100

100

100

100

100

100

100


27,2

27,2

25,8

25,4

25,4

21,8

21,7

20,0

28,8

28,8

32,1

34,5

34,5

40,0

40,1


42.0

Dịch vụ 44,0

44,0

42,1

40,1

40,1

38,2

38,2

38,0

Nông
nghiệp
Công
nghiêp

( Nguồn: Nguyễn Anh Tuấn, Giáo trình Kinh tế đối ngoại Việt Nam, NXB Chính trị quốc
gia, Hà Nôi 2005; Thời báo kinh tế Việt Nam các số năm 2006, 2007, 2008 )

Bảng 1.7. Số lượng lao động nông nghiệp hàng năm (2001 – 2006)
Đơn vị: nghìn người
Năm


Số lao động nông Năm
14

Số lao động nông


2001
2002
2003

nghiệp (nghìn)
24468,4
24455,8
2443,4

2004
2005
2006

nghiệp (nghìn)
24430,7
24342,4
24122,8 (ước tính)

(Nguồn:Tổng cục Thống kê)
Một đặc điểm của nông nghiệp Việt Nam là cơ cấu tiểu nông (bình quân mỗi hộ
chỉ có 0,8 ha), sức sản xuất kém, chất lượng sản phẩm thấp. Nông dân hầu như không tiếp
cận được các thông tin thị trường, họ hầu như không biết ý nghĩa của việc gia nhập các tổ
chức thương mại và thị trường tự do khu vực như WTO hay AFTA, ..v.v.. đối với họ là gì,
sản xuất thiếu định hướng chiến lược, canh tác theo phong trào khiến nông dân gặp phải

tình trạng được mùa mất giá hay được giá lại bị mất mùa. Người nông dân không nắm
được các thông tin về tiêu chuẩn sản phẩm tại các thị trường xuất khẩu khiến nhiều vụ
việc sản phẩm nông nghiệp Việt Nam bị nước ngoài trả lại hoặc cấm nhập khẩu do vi
phạm các tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm của các nước đó.
Canh tác nông nghiệp thiếu các hỗ trợ mang tính kỹ thuật kiểm định chất lượng nông sản,
khiến sức cạnh tranh nông sản Việt Nam thấp, thu nhập người nông dân bấp bênh, lãng
phí nguồn lực lớn. Việc ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ và kiến thức kỹ thuật
canh tác mới vào sản xuất nông nghiệp còn thấp. Sản xuất nông nghiệp vẫn dựa chủ yếu
vào sức kéo, kinh nghiệm cổ truyền, thiếu các công cụ cơ giới nông nghiệp hỗ trợ từ khâu
sản xuất cho đến khâu bảo quản, nên năng suất lao động nông nghiệp vẫn thấp hơn so với
các nước sản xuất nông nghiệp tiên tiến trong khu vực như Trung Quốc, Thái Lan. Hiện
có tới 75,21% lao động chưa qua đào đào tạo nghề., trong đó phần lớn là lao động nông
nghiệp. Dịch vụ tài chính cung ứng cho quá trình sản xuất nông nghiệp chưa hoàn chỉnh,
trong khi nhu cầu về vốn sản xuất của người nông dân là rất lớn. Bên cạnh đó là sự thiếu
quan tâm chú trọng đầu tư và chính sách thu hút đầu tư xã hội vào nông nghiệp, nông
thôn và các ngành công nghiệp phục vụ nông nghiệp nhằm nâng cao chất lượng sản xuất
trong ngành nông nghiệp, khiến sức cạnh tranh của nông sản Việt Nam không được cải
thiện (hiện chỉ có từ 6 – 7 % nhà đầu tư nước ngoài đầu tư trực tiếp vào nông nghiệp và
15


các ngành công nghiệp phục vụ nông nghiệp). Cơ sở hạ tầng nông nghiệp nông thôn chất
lượng thấp xuống cấp cũng là một trở lực đối với sự phát triển của nông nghiệp Việt Nam.

Biểu đồ 1.8. Cơ cấu lao động nông nghiệp 2001 - 2006

(Nguồn: Tổng cục Thống kê)
Bảng 1.8. Tốc độ tăng trưởng GDP và các khu vực kinh tế của Việt Nam (19952007)
Đơn vị: %


Năm

Tốc độ tăng Tốc độ tăng Tốc độ tăng Tốc độ tăng
trưởng GDP

trưởng

của trưởng
16

của trưởng

của


NN

CN

DV

1995

9,5

4,8

13,6

9,8


1997

8,1

4,3

12,6

7,1

1999

4,8

5,2

7,7

2,3

2000

6,5

4,0

10,1

5,6


2001

6,8

4,2

14,2

6,8

2002

7,1

4,1

9,4

6,5

2003

7,2

3,2

10,3

6,6


2004

7,69

5,4

16,0

8,2

2005

8,4

5,0

10,7

8,5

2006

8,2

4,4

10,4

8,3


2007

8,5

3,3

10,6

8,7

(Nguồn: Nguyễn Anh Tuấn, Giáo trình Kinh tế đối ngoại Việt Nam, NXB Chính trị quốc
gia, Hà Nôi 2005; Thời báo kinh tế Việt Nam các số năm 2006, 2007, 2008 )
Qua bảng 2.8 ta thấy trong vòng 12 năm (1995 – 2007) tốc độ tăng trưởng trong
ngành nông nghiệp luôn thấp nhất trong cơ cấu GDP. Trong khi ngành công nghiệp và
dịch vụ luôn có sự tăng trưởng nhanh và đều đặn thì ngành nông nghiệp phát triển với tốc
độ không ổn định (dao động từ 3 – trên 5%/năm) và đóng góp cho sự tăng trưởng GDP là
rất nhỏ so với hai ngành còn lại.

1.2.1.2. Nền kinh tế phát triển không bền vững
Nền kinh tế phát triển không bền vững, tăng trưởng tuy khá nhưng chủ yếu là do
nguồn vốn đầu tư trực tiếp, vốn ODA, kiều hối, thu nhập từ dầu mỏ trong khi nguồn vốn
đầu tư trong nước còn thấp. Tín dụng chưa thay đổi kịp thời, vẫn còn ưu tiên cho vay các
doanh nghiệp nhà nước có hiệu quả thấp, không thế chấp, môi trường sớm bị hủy hoại,
17


đầu tư vào con người ở mức cao nhưng hiệu quả còn hạn chế, số lượng lao động được đào
tạo đáp ứng nhu cầu thị trường còn thấp, nông dân khó tiếp cận tín dụng ngân hàng nhà
nước.

Trong thời kỳ từ sau khi Việt Nam thực hiện chinh sách Đổi Mới, việc huy động và
sử dụng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội được đa dạng hoá. Đầu tư nước ngoài và đầu tư
tư nhân bắt đầu được thu hút mạnh hơn và chỉ trong vòng một thập kỷ đã chiếm gần 50%
trong tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội. Nhưng đầu tư lại dần có xu hướng chạy theo số
lượng. Các ngành, các địa phương, thậm chí ở cả cấp cao coi đầu tư là nhân tố cơ bản tạo
ra tăng trưởng. Từ đó, bằng mọi cách tăng vốn đầu tư để đạt được tốc độ tăng GDp đã đề
ra, ít quan tâm đến hiệu quả, chất lượng phát triển, đến khả năng của nền kinh tế, nhất là
khả năng cân đối của ngân sách nhà nước. Năm 1995, hệ số hiệu quả vốn đầu tư phát triển
toàn xã hội ICOR (Incremental Capital Output Ratio, tức tỷ lệ vốn đầu tư đã bỏ ra để tạo
ra một đơn vị giă tăng GDP) là 3,39 thì đến những năm 2000 – 2004 là 5, tức là hiệu quả
đầu tư so với năm 1995 đã giảm gần một nửa. Hiệu quả vốn đầu tư nhà nước còn thấp hơn
hiệu quả vốn đầu tư phát triển toàn xã hội, trong đó đầu tư nhà nước có hệ sô ICOR cao
nhất, sau đó là đầu tư nước ngoài, đầu tư tư nhân có hiệu quả hơn cả .

1.2.1.3. Nền kinh tế dễ bị tổn thương và rủi ro
Người dân còn chịu nhiều rủi ro trong cuộc sống, sản xuất mà chưa có các thiết chế
phòng ngừa hữu hiệu, dễ tái nghèo trở lại như: thiên tai, dịch bệnh, sâu hại, tai nạn lao
động, tai nạn giao thông, thất nghiệp, rủi ro về giá sản phẩm đầu vào và đầu ra do biến
động của thị trường thế giới và khu vực như khủng hoảng về dầu mỏ làm tăng giá đầu
vào, rủi ro về chính sách thay đổi không lường trước được, rủi ro do hệ thống hành chính
kém minh bạch, quan liêu, tham nhũng.

1.2.1.4. Sự chênh lệch về các điều kiện phát triển và thu nhập giữa các
vùng miền và các nhóm dân cư trên cả nước

18


Nhờ có quá trình Đổi Mới và các thành tựu trong phát triển kinh tế những năm
qua, ở Việt Nam đã có khoảng 30 triệu người, tương đương một phần ba dân số, đã thoát

khỏi cảnh nghèo đói. Tuy nhiên, kèm theo đó là sự chênh lệch lớn về thu nhập giữa các
vùng miền, thành thị và nông thôn, giữa các dân tộc ở Việt Nam đang ngày càng cao, bất
bình đẳng xã hội gia tăng. Một thực tế trái ngược là Việt Nam càng có thêm nhiều người
giàu, nhưng người nghèo lại cũng nghèo đi vì bị gạt ra ngoài rìa công cuộc phát triển kinh
tế. UNDP nhận định, người nghèo ở Việt Nam hưởng lợi từ tăng trưởng kinh tế chỉ bằng
76,6% so với mức bình quân của xã hội, trong khi người giàu hưởng lợi tới 115%. Năm
1990, thu nhập của những hộ nghèo nhất VN chiếm 8% tổng thu nhập quốc dân. Năm
2006, tỷ lệ này sụt xuống chỉ còn 5,6%. Ngược lại, năm 1990, thu nhập của những hộ khá
giả nhất chiếm 42,7% tổng thu nhập quốc dân thì đến năm 2006, tỷ lệ này đã chiếm gần
nửa, lên 49,3%. Các thành phố là nơi tập trung số người giàu có nhiều nhất cả nước
(chiếm 20% dân số). Theo số liệu thống kê năm 2004, thu nhập bình quân đầu người một
tháng (theo giá thực tế) của dân thành thị là 815.400 đồng, còn của dân nông thôn là
378.100 đồng; riêng vùng Tây Bắc là thấp nhất, chỉ có 265.700 đồng. Chi tiêu cho đời
sống bình quân đầu người một tháng (theo giá thực tế) của thành thị là 594.500 đồng, còn
của nông thôn là 283.500 đồng. Cũng có nghĩa là về thu nhập cũng như chi tiêu, thành thị
đều gấp hơn hai lần so với nông thôn.
Một thực tế nữa là 10% dân số nghèo nhất chỉ chiếm 4,2% thu nhập và chi tiêu
quốc gia; và 10% dân số giàu nhất chiếm 28,8% thu nhập và chi tiêu quốc gia; 20% dân
số nghèo nhất chiếm 9% thu nhập và chi tiêu quốc gia, còn 20% dân số giàu nhất chiếm
44,3% thu nhập và chi tiêu quốc gia. Chênh lệch giữa 10% dân số giàu nhất với 10% dân
số nghèo nhất là 6,9 lần. Theo xếp hạng một cách không chính thức những người giàu
nhất nước Việt Nam năm 2007 dựa trên ước đoán về giá trị số cổ phiếu cũng như bất động
sản của họ thì tổng giá trị tài sản của 10 người giàu nhất Việt Nam là tương đương 14 000
tỷ đồng, tức khoảng 900 triệu USD (thời giá 2007).
Giữa các nhóm dân cư thì những người ở các vùng nông thôn, vùng miền núi hẻo
lánh, nhất là người thuộc các nhóm dân tộc thiểu số là có thu nhập thấp nhất. Nó biểu hiện
19


sự bất bình đẳng về thu nhập: giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng nông thôn với

nhau, giữa người Kinh và người các dân tộc khác. Trong đó, bất bình đẳng giữa người
Kinh và người dân tộc thiểu số là lớn nhất. Năm 2004, có 14% người Kinh thuộc diện
nghèo đói. Con số này ở cộng đồng dân tộc thiểu số là trên 60%. Chỉ có 4% người Kinh
sống dưới mức nhu cầu dinh dưỡng cơ bản, trong khi đó, có tới hơn 30% người dân tộc
không được cung cấp đủ lương thực ở mức tối thiểu. Thống kê của Ủy ban Dân tộc Miền
núi cũng cho thấy, trong 10 năm (1994-2004), tỷ lệ người nghèo đói có xuất thân từ các
nhóm dân tộc thiểu số đã tăng lên gần gấp đôi. Hiện nay, người dân tộc chiếm 14% dân
số, và chiếm tới 39% tổng số người nghèo trong cả nước. Sự bất bình đẳng thu nhập đó là
do năng suất, tốc độ phát triển trong lĩnh vực nông nghiệp luôn thấp hơn trong công
nghiệp và dịch vụ. Từ đó dẫn đến hệ quả thu nhập của cư dân nông thôn và miền núi thấp
hơn cư dân thành phố. Còn tồn tại khoảng cách lớn về tri thức, kỹ năng chuyên môn giữa
người được tiếp cận với giáo dục tốt và người không có cơ hội đó. Do yếu tố địa lý, người
dân tộc thiểu số chủ yếu quần cư ở vùng nông thôn hoặc miền núi. Nguồn thu nhập của
họ phụ thuộc nặng nề vào nông nghiệp, đặc biệt vào tài nguyên rừng. Trong khi đó, sở
hữu đất rừng của họ bị hạn chế, và phần lớn đất đai cũng đã không còn cây rừng do bị
khai thác trong nhiều năm. Và do yếu tố xã hội. Cho tới gần đây, người dân tộc thiểu số
vẫn không được tiếp cận rộng rãi với y tế và giáo dục cơ bản. Ở tất cả các nhóm tuổi, tỷ lệ
trẻ em dân tộc đến trường đều thấp hơn nhiều so với trẻ em dân tộc Kinh. Chênh lệch này
lớn hơn ở trẻ em gái. Không đầy 30% người trưởng thành ở các cộng đồng dân tộc thiểu
số tốt nghiệp THCS, so với con số 50% ở người Kinh.

1.2.1.5. Khả năng quản lý thiếu hiệu quả của Nhà nước
Bộ máy Nhà nước cồng kềnh, chi tiêu cho hành chính quá lớn, trình độ quản lý và
hoạch định chiến lược yếu kém. Sức ỳ của cơ chế quản lý hành chính quan liêu kiểu cũ
vẫn còn là trở lực đối với công tác quản lý, giám sát, thanh kiểm tra các chương trình kinh
tế - xã hội. Thất thoát và lãng phí là những tiêu cực thường thấy trong các công trình có
vốn Nhà nước. Khả năng dự báo các diễn biến trên thị trường của các cơ quan chuyên
môn còn yếu. Cán bộ công chức tham gia công tác quản lý và hoạch định không được tạo
20



đầy đủ điều kiện tốt nhất như lương, chế độ, .v.v… khiến họ không nhiệt tình với công
việc và dễ nảy sinh tham nhũng tiêu cực trong bộ máy Nhà nước. Một lượng lớn các cán
bộ có trình độ cao ở các cơ quan nhà nước nhưng chuyển sang làm việc cho khu vực tư
nhân do chế độ lương bổng thấp không thoả mãn được nhu cầu sống của họ.

1.2.2. Nguyên nhân khách quan
1.2.2.1. Chiến tranh lâu dài
Việt Nam là một nước nông nghiệp lạc hậu vừa trải qua một cuộc chiến tranh lâu
dài và gian khổ, cơ sở hạ tầng bị tàn phá, ruộng đồng bị bỏ hoang, bom mìn, nguồn nhân
lực chính của các hộ gia đình bị sút giảm do mất mát trong chiến tranh, bị thương tật,
hoặc phải xa gia đình để tham gia chiến tranh, đi tản cư trong một thời gian dài. Theo
đánh giá, đã có khoảng 3 triệu người Việt Nam bị chết trong 30 năm chiến tranh (1945 –
1975) và hiện nay vẫn còn khoảng 350 000 đến 850 000 tấn bom mìn, vật nổ chưa nổ còn
sót lại ở Việt Nam bao gồm các loại bom, đạn pháo, cối, tên lửa, nằm rải rác trên khắp 64
tỉnh thành trong cả nước. Cho tới thời điểm này, ước tính mới chỉ xử lý được 20 - 25% số
lượng bom mìn, vật nổ và khoảng 9 - 12% tổng diện tích đất đai bị ô nhiễm. Tàn dư nặng
nề nhất của các cuộc chiến tranh vừa qua đó chính là hậu quả của chất độc đioxin (hay
còn gọi là “Chất độc màu da cam”). Trong chiến tranh Việt Nam, quân đội Mỹ đã rải
khoảng hơn 80 triệu lít chất diệt cỏ và phát quang xuống một diện tích khoảng 24,67%
tổng diện tích lãnh thổ Nam Việt Nam, trong đó phần lớn là chất độc da cam, là chất có
chứa tạp chất độc điôxin. Các chất diệt cỏ và phát quang thông thường được phân huỷ sau
một tháng đến dưới một năm, riêng hợp chất điôxin có trong chất da cam rất bền vững,
với thời gian bán phân huỷ được ước tính khoảng 15 đến 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Với
số lượng rất lớn chất độc hoá học đã rải, lặp đi lặp lại nhiều lần trong quãng thời gian dài
với nồng độ cao, không những đã làm chết cây cối, động vật mà còn gây ô nhiễm môi
trường trong một thời gian dài và làm đảo lộn các hệ sinh thái tự nhiên. Cho tới nay, có
trên 3 triệu người Việt Nam là nạn nhân của chất độc da cam/điôxin và số lượng nạn nhân
còn tiếp tục tăng lên. Bên cạnh những hậu quả đối với con người, chất độc da cam/điôxin


21


còn gây thiệt hại cho hệ sinh thái, do môi trường và đất đai tại nhiều khu vực vẫn còn bị
nhiễm chất độc này. Hiện nay, khu vực có lượng chất độc da cam/điôxin cao nhất là ở sân
bay Đà Nẵng khi lượng độc tố ở đây cao gấp 365 lần mức cho phép. Và Việt Nam tuy còn
nghèo nhưng cũng phải chi phí một lượng tài chính khá lớn hàng năm để thực hiện công
tác làm sạch môi trường những nơi bị nhiễm dioxin, chi phí cho việc khám chữa bệnh và
nuôi dưỡng những người chịu hậu quả do chất độc màu da cam. Tức là nguồn lực xã hội
phải san xẻ cho các hoạt động bù đắp thiệt hại chiến tranh, đó là chưa kể đến chi phí phải
bỏ ra để xây dựng mới lại hầu như hoàn toàn các cơ sở hạ tầng bị tàn phá trong chiến
tranh.

1.2.2.2. Thất bại về chính sách kinh tế trong thời gian dài
Chính sách nhà nước thất bại: sau khi thống nhất đất nước, từ 1975 – 1986, việc áp
dụng chính sách tập thể hóa nông nghiệp, cải tạo công thương nghiệp và chính sách giá,
lương, tiền đã đem lại kết quả xấu cho nền kinh tế vốn đã ốm yếu của Việt Nam làm suy
kiệt toàn bộ nguồn lực của đất nước và hộ gia đình ở nông thôn cũng như thành thị, lạm
phát tăng cao có lúc lên đến 700% năm. Việc huy động nguồn lực nông dân quá mức,
ngăn sông cấm chợ đã làm cắt rời sản xuất với thị trường, sản xuất nông nghiệp đơn điệu,
công nghiệp thiếu hiệu quả, thương nghiệp tư nhân lụi tàn, thương nghiệp quốc doanh
thiếu hàng hàng hóa làm thu nhập đa số bộ phận giảm sút trong khi dân số tăng cao. Đây
là giai đoạn mà hầu hết sinh hoạt kinh tế diễn ra dưới nền kinh tế kế hoạch hóa. Hàng hóa
được nhà nước phân phối theo chế độ tem phiếu, hàng hóa không được mua bán tự do
trên thị trường, không được phép vận chuyển tự do hàng hoá từ địa phương này sang địa
phương khác. Phân phối hàng hóa, hạn chế trao đổi bằng tiền mặt. Chế độ hộ khẩu được
thiết lập trong thời kỳ này để phân phối lương thực, thực phẩm theo đầu người. Lương đôi
khi cũng được trả bằng hiện vật. Vì vậy, đây được coi như một giai đoạn thất bại và tù
đọng nhất của nền kinh tế Việt Nam trong thế kỷ XX. Nguyên nhân là do nền kinh tế lạc
hậu, áp dụng nền kinh tế một thành phần, không có tính cạnh tranh. Các công ty nhà nước

làm việc không hiệu quả, do cách thức phát lương cho công nhân viên mang tính bình
quân. Nạn tham ô, tham nhũng làm nhà nước thất thoát tiền rất lớn, để lại hậu quả nặng nề
22


nghiêm trọng, đất nước kém phát triển, tụt hậu rất xa so với nước ngoài, đời sống nhân
dân đói khổ, thiếu thốn. Số lượng hàng hoá phân bổ theo đầu người mỗi năm càng giảm,
chất lượng càng thấp, tất yếu dẫn tới sự triệt tiêu động lực phấn đấu sản xuất của người
lao động. Các quy luật thị trường không được coi trọng.

1.2.2.3. Vốn Nhà nước được sử dụng thiếu hiệu quả làm gia tăng tỷ lệ
thất nghiệp và nghèo đói
Thất nghiệp tăng cao trong một thời gian dài trước thời kỳ đổi mới do nguồn vốn
đầu tư thấp và thiếu hệu quả vào các công trình thâm dụng vốn của Nhà nước. Đến thời
kỳ đổi mới, do quá trình chuyển đổi nền kinh tế còn nhiều vấn đề bộn bề, cùng với trình
độ, ý thức sử dụng vốn nhà nước của các cán bộ cơ quan quản lý và sử dụng vốn thấp nên
tình trạng vốn bị sử dụng lãng phí và thiếu hiệu quả trong các dự án đầu tư là khá phổ
biến. Chưa kể tới tình trạng tham nhũng do mặt trái của thời kỳ mở cửa kinh tế mang lại.
Các chương trình đầu tư cho an sinh – phúc lợi xã hội do bị thất thoát, rút ruột, tham
nhũng đã không bảo đảm được tiến độ, chất lượng, không tạo được lực đẩy cho sự phát
triển kinh tế, làm suy yếu sức cạnh tranh nền kinh tế, tình trạng nghèo đói không được
giải quyết, công tác xoá đói giảm nghèo gặp trở ngại.

1.2.2.4. Lao động không được đào tạo trong quá trình chuyển đổi nền
kinh tế
Lao động dư thừa ở nông thôn không được khuyến khích ra thành thị lao động,
không được đào tạo để chuyển sang khu vực công nghiệp, chính sách quản lý bằng hộ
khẩu đã dùng biện pháp hành chính để ngăn cản nông dân di cư, nhập cư vào thành phố.
Do vậy, một lượng lớn lao động nông thôn bị dư thừa do không kiếm được việc làm khác,
khó khăn khi kiếm môi trường làm việc khác. Theo thống kê của Bộ Lao động – Thương

binh và Xã hội có khoảng trên 70% lao động chưa qua đào tạo, tỷ lệ mù chữ của lao động
Việt Nam là 4%. Trong tỷ lệ mù chữ này lại có sự cách biệt quá cao giữa các vùng miền
và khu vực. Trong 8 vùng lãnh thổ thì vùng có tỷ lệ lao động mù chữ cao nhất là Tây Bắc

23


(17%) và Tây Nguyên (10%), thấp nhất là Đồng bằng sông Hồng (0,6%) và Bắc Trung Bộ
(1,9%). Sự cách biệt này càng trở nên kéo dãn khi so sánh nông thôn - thành thị, đồng
bằng - miền núi, vùng sâu, vùng xa...Lực lượng lao động Việt Nam dồi dào nhưng chất
lượng thấp, không đáp ứng được nhu cầu của quá trình phát triển kinh tế. Tỷ lệ lao động
qua đào tạo mới chỉ là trên 24%; trong đó, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo nghề nói chung
mới chiếm hơn 15%.

1.3. CÔNG CUỘC XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO CỦA VIỆT NAM
1.3.1. Những chính sách của Nhà nước trong công tác xoá đói giảm
nghèo
1.3.1.1. Mục tiêu của chính sách
Để thực hiện thành công chiến lược dài hạn xoá đối giảm nghèo, Nhà nước Việt
Nam mà cụ thể là chính phủ đã đề ra các mục tiêu phát triển kinh tế, xoá đói giảm nghèo,
nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, và mức sống cũng như thu nhập của người dân,
đó là Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo – CPRGS, gồm các mục
tiêu sau:
+ Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững trong khi đảm bảo các tiến bộ
và công bằng xã hội, tập trung vào phát triển nông nghiệp và các vùng nông thôn, đảm
bảo an ninh lương thực, tạo công ăn việc làm, tăng hỗ trợ cho các vùng kém phát triển, và
hạn chế khoảng cách chênh lệch về phát triển giữa các vùng và các dân tộc thiểu số.
+ Tạo một môi trường kinh doanh bình đẳng cho các doanh nghiệp thuộc mọi khu
vực kinh tế bao gồm cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI),
và khuyến khích phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ.

+ Tiếp tục cải cách cơ cấu gồm: cải cách doanh nghiệp nhà nước; ngân sách nhà
nước, ngân hàng thương mại; các tổ chức tín dụng và tài chính; tự do hóa thương mại -

24


song phương, các cam kết thông qua việc gia nhập AFTA, và Tổ chức Thương mại Thế
giới (WTO); thúc đẩy tăng thu nhập, phát triển thị trường để phân phối hàng tiêu dùng...
+ Thực hiện cải cách hành chính công gồm: cải cách thể chế, cải cách hành chính,
cải cách khu vực công chức, và cải cách tài chính công để tăng trách nhiệm giải trình
trong khu vực công chức và hành chính, cải thiện khả năng tiếp cận các dịch vụ công
cộng và đảm bảo sự công bằng xã hội.
+ Khuyến khích phát triển nguồn nhân lực và giảm sự bất bình đẳng; ưu tiên cho
chất lượng và khả năng tiếp cận của người dân tới các dịch vụ y tế, giáo dục và phát triển;
bảo vệ môi trường, kiềm chế lây nhiễm HIV/AIDS; bình đẳng giới và cải thiện cuộc sống
của các dân tộc thiểu số. Tập trung vào dân nghèo thành thị - đặc biệt về vấn đề việc làm,
thu nhập và nhà ở, và đảm bảo sự tiếp cận công bằng tới các dịch vụ.
+ Giảm mức độ dễ bị tổn thương và cải thiện năng lực của các nhóm dễ bị tổn
thương nhằm phòng chống rủi ro tốt hơn bằng cách phát triển và mở rộng mạng lưới bảo
trợ và an sinh xã hội cho người nghèo và đưa ra một phương thức toàn diện hơn trong
phòng chống thiên tai.
+ Thiết lập một hệ thống các chỉ số định lượng và định tính về phát triển kinh tế xã
hội và giảm nghèo (tính đến các yếu tố giới và nhóm xã hội) để giám sát và đánh giá việc
thực hiện Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo – CPRGS.
Ngoài ra, Chính phủ cũng vạch ra 12 Mục tiêu phát triển về xã hội và giảm nghèo
– VDG cho Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 – 2010 như sau:

1. Giảm tỷ lệ hộ nghèo:
+ Đến năm 2010, giảm 1/2 tỷ lệ nghèo theo chuẩn quốc tế so với năm 2000, có
nghĩa là giảm từ 32% năm 2000 xuống còn 15 – 16% vào năm 2010.


25


×