Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

tác phẩm kinh điển - di chúc của chủ tịch hồ chí minh tiểu luận cao học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (280.16 KB, 39 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Chủ tịch HỒ CHÍ MINH kính yêu đã để lại cho toàn Đảng ,toàn
dân ta một bản di chúc vô cùng quý báu. Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người
sáng lập và rèn luyện Đảng ta chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là
nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai
cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Trước lúc đi xa, Người chỉ
tiếc một điều là “không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa" 1.Trong
bốn năm cuối cuộc đời mặc dù bận nhiều việc nhưng người vẫn chọn những
khoảng thời gian thư thái nhất viết Di chúc để lại cho hậu thế, phòng khi “đi
gặp cụ Các Mác, cụ Lênin và các vị cách mạng đàn anh khác, thì đồng bào cả
nước, đồng chí trong Đảng và bầu bạn khắp nơi đều khỏi cảm thấy đột
ngột"2.Thời gian càng lùi xa, chúng ta càng nhận thấy tầm nhìn xa, trông rộng
của Người. Đọc Di chúc, mỗi chúng ta đều cảm nhận được tình cảm gần gũi
của một người Ông, người Bác, người Cha và thấy mình phải có trách nhiệm
cao hơn, quyết tâm cao hơn để thực hiện Di chúc.
Bằng lời lẽ mộc mạc nhưng vô cùng súc tích, Di chúc tuy ngắn gọn
nhưng bao chứa toàn bộ tình cảm và tư tưởng của Người đối với sự nghiệp
cách mạng Việt Nam, với các thế hệ Việt Nam. Trong Di chúc, ngoài 79 chữ
nói “Về việc riêng” tương ứng với 79 mùa xuân của mình, Người dành trọn
tình cảm cho dân, cho Đảng. “Trước hết nói về Đảng”, thể hiện sự quan tâm
đặc biệt của Người đến vấn đề xây dựng Đảng và xuyên suốt là tư tưởng về
tăng cường, củng cố, giữ vững sự đoàn kết thống nhất cội nguồn sức mạnh
của Đảng. Người viết: “Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai
cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay,
Đảng đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ
thắng lợi này đến thắng lợi khác”. Người khẳng định sự đoàn kết, thống nhất
trong Đảng phải được xây dựng, củng cố trên cơ sở vì mục đích cao cả “một
lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc”. Chỉ trên
1



cơ sở đó trong Đảng mới có sự thống nhất về ý chí và hành động “triệu người
như một” để chiến thắng bất cứ kẻ thù nào, vượt qua bất cứ khó khăn trở ngại
nào.
Di Chúc được công bố ngay sau khi bác qua đời và đã trở thành một
nguồn cổ vũ lớn đối với toàn Đảng, toàn Quân, toàn Dân ta tiến lên giành
thắng lợi trong sự nghiệp giải phóng tổ quốc, thống nhất đất nước và đưa
nước nhà vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Song, do hoàn cảnh lúc bấy
giờ mà có một số điều chưa được công bố. Nhân dịp 20 năm ngày bác qua đời
và chuẩn bị 100 năm ngày mất của Bác, Bộ Chính Trị ban chấp hành trung
ương Đảng (khóa VI) thấy có trách nhiệm thông báo đến toàn Đảng toàn dân
một số vấn đề liên quan đến di chúc của Bác và ngày Bác qua đời. Từ khi bản
di chúc của người được công bố một cách đầy đủ thì đã có rất nhiều bài báo
cáo nghiên cứu về nội dung và giá trị di chúc của người. Ngày naysau hơn
bốn mươi năm thực hiện di của HỒ CHÍ MINH, chúng ta càng thấy rõ những
giá trị quý báu mà bản di chúc để lai cho toàn thể dân tộc Việt Nam. Bản di
chúc đã được mọi người mọi tầng lớp trong xã hội coi nó là tài sản vô giá của
dân tộc, của Quốc gia. Chúng em những người thuộc thế hệ trẻ Việt Nam
cũng muốn bầy tỏ những hiểu biết về nội dung,giá trị và ý nghĩa của bản di
chúc để từ đó phấn đấu làm theo bản di chúc để lao động xây dựng Đất nước
ngay càng giàu mạnh, ấm no, hạnh phúc như Bác hằng mong muốn.
Thông qua đề tài nay em rất muốn tìm hiểu, làm rõ nội dung,giá trị và
ý nghĩa của bản di chúc HỒ CHÍ MINH để lĩnh hội và làm theo ý nguyện của
người, góp phần vào công cuộc đổi mới của đất nước. Trước khi bắt đầu đề tài
của mình, em xin bày tỏ lòng cảm ơn tới các thầy cô trong khoa xây dựng
đảng và chính quyền nhà nước,các thầy cô khoa tư tưởng HÔ CHÍ MNH đã
hết lòng hết sức giảng dạy cho sinh viên chúng em trong suốt thời gian qua và
đặc biệt, qua đây em xin chân thành cảm ơn thầy Lê Trọng Hanh là người trực
tiếp giảng dạy bộ môn “Tác phẩm kinh điển” và hướng dẫn em thực hiện đề
tài này.
2



NỘI DUNG VÀ Ý NGHĨA

CHƯƠNG 1: NỘI DUNG BẢN DI CHÚC CỦA CHỦ TỊCH
HỒ CHÍ MINH
1.1Sơ lược về nội dung của bản di chúc.
1.1.1Về tài liệu gốc di chúc của chủ tịch HỒ CHÍ MINH.
-Năm 1965 bác viết di chúc gồm ba trang do chính bác đánh máy, ở
cuối đề ngày 15/5/1965. Đây là bản di chúc hoàn chỉnh có chữ ký của bác và
bên cạnh có chữ ký của đồng chí Lê Duẩn, bí thư thứ nhất BCH TW Đảng hồi
bấy giờ.
-Năm 1968 Bác viết bổ sung thêm một số đoạn, gôm sáu trang viết tay.
Trong đó Bác viết lại đoạn mở đầu và đoạn “nói về việc riêng” đã viết trong
bản năm 1965 và viết thêm một số đoạn. Đó là những đoạn nói về những công
việc cần làm sau khi cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta hoàn toàn
thắng lợi, như: Chỉnh đốn Đảng, chăm sóc đời sông của các tầng lớp nhân
dân, miễn thuế nông nghiệp một năm cho các hợp tác xã nông nghiệp, xây
dựng lại thành phố và làng mạc khôi phục và phát triển kinh tế, văn hóa, củng
cố quốc phòng,chuẩn bị thống nhất Đất nước. Trong đó đoạn viết về chỉnh
đốn lại Đảng và chăm sóc đối với thương binh, Bác viết rồi gạch chéo. Đoạn
nói về xây dựng lại đất nước, phát triển kinh tế, văn hóa, chuẩn bị thống nhất
nước nhà. Bác gạch dọc ở bên trái ngoài lề.
-10-5-1969 Bác viết lại toàn bộ đoạn mở đầu Di Chúc gồm một trang
viết tay.
-Các năm 1966-1967 Bác không có những bản viết riêng.
1.1.2. Về bản di chúc đã được công bố chính thức tháng 9 năm 1969
sau khi Chủ Tịch HỒ CHÍ MINH qua đời.
-Hội nghị bất thường của BCH (khóa III) họp chiều ngày 3/9/1969 đã
giao cho bộ chính trị trách nhiệm công bố di chúc của chủ tịch HỒ CHÍ


3


MINH. Bản di chúc được công bố chính thức chủ yếu dựa vào bản di cúc Bác
viết năm 1965, trong đó có một số đoạn được bổ sung hoặc thay thế bằng
những đoạn tương ứng Bác viết năm 1968 và 1969 cụ thể cơ cấu của bản di
chúc đã công bố chính thức như sau:
- Đoạn mở đầu lấy nguyên văn toàn bộ đoạn mở đầu Bác viết năm
1969, thay cho đoạn mở đầu bác viết năm 1965. Bút tích đoạn này đã được
chụp lại và công bố đây đủ năm 1969.
-Phần giữa , từ đoạn nói về Đảng đến hết đoạn nói về phong trào cộng
sản thế giới và nguyên văn bản Bác viết năm 1965.
-Đoạn “ Về việc riêng” năm 1965 Bác dặn dò về việc tang và viết về
việc hỏa táng, dặn để lại một phần tro, xương cho Miền Nam, năm 1968 Bác
viết lại đoạn này dặn để tro vào ba hộp sành, cho Bắc, Trung, Nam mỗi miền
một hộp. Ngoài ra còn viết bổ sung một đoạn nói về cuộc đời của bản thân
như sau:
“Suốt đời tôi hết lòng hết sức phục vụ Tổ Quốc, phục vụ cách mạng,
phục vụ nhân dân. Nay dù phải từ biệt thế giới này, tôi không còn điều gì phải
hối hận, chỉ tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”. Bản
di chúc đã công bố lấy nguyên văn đoạn Bác viết về bản thân năm 1968, trừ
đoạn nói về hỏa táng.
-Đoạn cuối từ chữ “cuối cùng tôi để lại muôn vàn tình thương yêu…”
cho đến hêt đoạn nguyên văn đoạn Bác viết năm 1965. Về đoạn này Bác viết
năm 1968 và năm 1969 Bác không sửa lại hoặc viết thêm.
- Trong bản di chúc đã được công bố, có đoạn đều lấy nguyên văn bản
gốc, chỉ có một có sửa lại. Bản năm 1965 Bác viết: “Cuộc kháng chiến chống
Mỹ có thể sẽ kéo dài mấy năm nữa” ;bản công bố chính thức sửa lại là: ‘ cuộc
kháng chiến chống Mỹ có thể kéo dài.”


4


1.1.3: Bộ chính trị BCH TW khóa VI khẳng định bản di chúc đã
công bố bảo đảm trung thành với bản gốc của Chủ Tịch HỒ CHÍ MINH.
-Việc chọn bản di chúc viết năm 1965 công bố chính thức là đúng đắn,
vì đây là bản duy nhất được viết hoàn chỉnh, có chữ ký của Bác và bên cạnh
có chữ ký chứng kiên của đồng chí Lê Duẩn, bí thư thứ nhất BCH TW Đảng
lúc đó.
- Lấy đoạn mở đầu năm 1969 thay cho đoạn mở đầu Bác viết năm
1965 là hoàn toàn hợp lý vì Bác qua đời năm 1969, và nội dung bản viết năm
1969 cũng phong phú hơn.
-Đoạn “Về việc riêng” bổ sung thêm phần Bác viết năm 1968 vào bản
Bác viết năm 1965 là rất cần thiết, để phản ánh được cuộc đời đẹp đẽ trong
sáng, vì dân vì nước của Bác. Sở dĩ trước đây chưa công bố đoạn Bác viết về
yêu cầu hỏa táng là vì thể theo nguyện vọng và tinh cảm của nhân dân, BCH
TW Đang khóa III thấy cần thiết giữa gìn lâu dài thi hài của Bác để sau này
đồng bảo cả nước, nhất là đồng bào Miền Nam, bè bạn quốc tế có điều kiện
đến viếng Bác, thể hiện tình cảm sâu đậm đối với Bác. Chính vì lẽ đó mà
chúng ta đã xin phép Bác về điểm này được làm khác với lời Bác dặn.
-Việc chưa công bố một số đoạn viết thêm năm 1968 về những việc
cần làm sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước giành được thắng lợi
hoàn toàn. Đó là vì năm 1969 khi Bác qua đời, cuộc kháng chiến chống Mỹ
cứu nước còn đang gay go ác liệt, chúng ta chưa giành được thắng lợi cuối
cung nên việc công bố những đoạn văn nói trên lúc ấy là chưa thích hợp. Mặt
khác có một số câu Bác viết rồi lại xóa, hình như Bác đang cân nhắc, chưa coi
là đã xong hẳn, chưa thật rõ ý Bác là thế nào. Vì vậy sau khi Bác qua đời chưa
thể đưa vào bản di chúc công bố chính thức bấy giờ.
-Khi Bác mất, cuộc kháng chiến còn đang diễn ra rất khó khăn và ác

liệt, vì vậy bộ Chính trị đã quyết định sửa lại mấy chữ trong câu sau đây của
Bác: “cuộc kháng chiến chống Mỹ có thể kéo dài mấy năm nữa” thành “cuộc
khang chiến chống Mỹ có thể còn kéo dài”.
5


-Về việc miễn thuế nông nghiệp một năm cho các hợp tác xã nông
nghiệp,trước đây chưa có điều kiện thực hiện. Nay mặc dù tình hình kinh tếxã hội nước ta vẫn còn nhiều khó khăn, Bộ Chính Trị BCH TW Đảng khoa VI
thấy cần có kế hoạch thực hiện điều mong muốn ấy của Bác. Bộ Chính Trị
giao cho hội đồng bộ trưởng trình Quốc Hội thực hiện việc này.
- Bộ chính trị BCH TW Đang khóa III dự định đến một thời điểm thich
hợp sẽ công bố những điềuchưa được công bố trong các bản viết di chúc của
Bác. Nay nhân dịp kỉ niệm 100 năm ngày sinh của Chủ Tịch HỒ CHÍ MINH.
Bộ Chính Trị BCH TW Đảng khóa VI quyêt định công bố toàn bộ các bản
viết Di Chuc của Chủ Tịch HỒ CHÍ MINH.
1.2. Nội dung của bản di chúc.
- Di chuc của Chủ Tịch HỒ CHÍ MINH viết ngày 15-5-1965 có chữ ký
của tông Bí Thư Lê Duẩn.
VIỆT NAM DÂN CHỦ CÔNG HOÀ
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
------------------------Tuyệt đối bí mật Nhân dịp mừng 75 tuổi
Người làm thơ rất nổi tiếng, ở Trung Quốc đời nhà Đường là cụ Đỗ Phủ
có câu thơ rằng “nhân sinh thất thập cổ lai hy”. Nghĩa là: Người thọ 70, xưa
nay hiếm.
Nǎm nay, tôi đã 75 tuổi. Tinh thần vẫn sáng suốt, thân thể vẫn mạnh
khỏe. Tuy vậy, tôi cũng đã là lớp người “xưa nay hiếm”.
Ai đoán biết tôi sẽ sống và phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng mấy
năm mấy tháng nữa?
Vì vậy, tôi để lại mấy lời này, chỉ nói tóm tắt vài việc thôi. Phòng khi
tôi sẽ đi gặp cụ Các Mác, cụ Lênin và các vị cách mạng đàn anh khác, thì

đồng bào cả nước và đồng chí trong Đảng khỏi cảm thấy đột ngột.
Trước hết nói về Đảng - Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục
6


vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập
đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hǎng hái đấu
tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta.
Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần giữ gìn sự đoàn kết nhất trí
của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình.
Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh
tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết
và thống nhất của Đảng. Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau.
Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thực sự
thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư.
Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là
người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.
Đoàn viên thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hằng hái xung
phong, không ngại khó khǎn, có chí tiến thủ. Đảng cần phải chǎm lo giáo dục
đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng
chủ nghĩa xã hội vừa "hồng" vừa "chuyên".
Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và
rất cần thiết.
Nhân dân lao động ta ở miền xuôi cũng như ở miền núi, đã bao đời chịu
đựng gian khổ, bị chế độ phong kiến và thực dân áp bức bóc lột, lại kinh qua
nhiều nǎm chiến tranh.
Tuy vậy, nhân dân ta rất anh hùng, dũng cảm, hǎng hái, cần cù. Từ ngày
có Đảng, nhân dân ta luôn luôn đi theo Đảng, rất trung thành với Đảng.
Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và vǎn hóa,

nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ có thể kéo dài mấy năm nữa. Đồng bào ta
có thể phải hy sinh nhiều của nhiều người. Dù sao, chúng ta phải quyết tâm
đánh giặc Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn.
7


Còn non, còn nước, còn người,
Thắng giặc Mỹ, ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay!
Dù khó khǎn gian khổ đến mấy, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn
thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định
sẽ thống nhất. Đồng bào Nam, Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà. Nước ta sẽ
có vinh dự lớn là một nước nhỏ mà đã anh dũng đánh thắng hai đế quốc to - là
Pháp và Mỹ; và đã góp phần xứng đáng vào phong trào giải phóng dân tộc.
Về phong trào cộng sản thế giới - là một người suốt đời phục vụ cách
mạng, tôi càng tự hào với sự lớn mạnh của phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế bao nhiêu, thì tôi càng đau lòng bấy nhiêu vì sự bất hoà hiện nay giữa
các đảng anh em!
Tôi mong rằng Đảng ta sẽ ra sức hoạt động, góp phần đắc lực vào việc
khôi phục lại khối đoàn kết giữa các đảng anh em trên nền tảng chủ nghĩa
Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, có lý có tình.
Tôi tin chắc rằng các đảng anh em và các nước anh em nhất định sẽ
phải đoàn kết lại.
*
*

*

Về việc riêng - Sau khi tôi đã qua đời, chớ nên tổ chức đám đình, lãng
phí ngày giờ và tiền bạc của nhân dân.

Tôi yêu cầu thi hài tôi được đốt đi, nói chữ là “hỏa táng”. Tôi mong
rằng cách “hỏa táng” dần dần sẽ được phổ biến. Vì như thế đối với người sống
đã tốt về mặt vệ sinh, lại không tốn đất. Bao giờ ta có nhiều điện, thì “điện
táng” càng tốt hơn.
Tro xương thì tìm một quả đồi mà chôn. Gần Tam Đảo và Ba Vì như
hình có nhiều đồi tốt. Trên mộ, nên xây 1 cái nhà giản đơn, rộng rãi, chắc
chắn, mát mẻ để những người đến thăm viếng có chỗ nghỉ ngơi.
Nên có kế hoạch trồng cây trên đồi. Ai đến thăm thì trồng một cây làm
kỷ niệm. Trồng cây nào phải tốt câu ấy. Lâu ngày, cây nhiều thành rừng, sẽ tốt
8


cho phong cảnh và lợi cho nông nghiệp.
Nếu tôi qua đời trước ngày nước ta được thống nhất, thì nên gửi một ít
tro xương cho đồng bào miền Nam.
Cuối cùng, tôi để lại muôn vàn tình thân yêu cho toàn dân, toàn Đảng,
cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh niên và nhi đồng.
Tôi cũng gửi lời chào thân ái đến các đồng chí, các bầu bạn, và các
cháu thanh niên, nhi đồng quốc tế.
Điều mong muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết
phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân
chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới.
Hà nội, ngày 15 tháng 5 nǎm 1965
Hồ Chí Minh

9


CHƯƠNG 2: GIÁ TRỊ VÀ Ý NGHĨA CỦA BẢN DI CHÚC
CỦA NGƯỜI

2.1Những tư tưởng trong di chúc và nội dung bao trùm ,khẳng
định và dự báo đề xuất.
-Tư tưởng chủ đạo và bao trùm trong di chúc vẫ là tư tưởng : Không có
gì quý hơn dộc lập tự do hòa bình thống nhất , dân chủ và dân giàu nước
mạnh, tất cả vì sự nghiệp giải phóng dân tộc giải phóng xã hội, giải phóng con
người vì hạnh phúc của con người. Nghĩa là di chúc thấm đượm tư tưởng và
triết lý của HỒ CHÍ MINH về chủ nghĩa nhân văn Việt Nam – HỒ CHÍ
MINH, nhưng được thể hiện bằng văn bản có tính di chúc và nói về những
việc cụ thể chung cho Đảng, cho dân và cho mỗi người Việt Nam ta và cả đời
riêng của người.
Có thể tóm tắt những ý chính từ di chúc (Qua các bản viết từ năm 1965
đến 1968)như sau:
-Vấn đề quyết tâm giành thắng lợi hoàn toàn trong thời kỳ cuois cùng
của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, để đạt được mục tiêu độc lập dân
tộc, hòa bình ,thống nhất đất nước.
-Vấn đề phải có kế hoạch chu đáo chủ động: (“ tránh bị động, thiếu
sót, sai lầm”) khắc phục hậu quả chiến tranh trên các lĩnh vực kinh tế xã hội:
Tình thương và trách nhiệm con người và các tầng lớp xã hội (thư tháng
5/1968).
- Vấn đề kế hoạch phát triển về kinh tế - xã hội , sinh thái xây dựng lại
quê hương đất nước, nhằm pục vụ con người, nâng cao đời sống vật chất tinh
thần cho nhân dân.
-Vấn đề mục tiêu và động lực cách mạng và phát triển: Độc lâp-tự do,
hòa bình-thống nhất, dân chủ và giàu mạnh.
-Vấn đề cải cách chống trì chệ, bảo thủ hư hỏng và mở rộng dân chủ.

10


-Vấn đề Đảng cầm quyền (chỉnh đốn lại Đảng) đạo đức cách mạng của

người cán bộ đảng viên.
-Vấn đề đoàn kết trong Đảng trong nhân dân và đoàn kết quốc tế, niềm
tin ở sức mạnh của nhân dân.
-Vấn đề xây dựng lực lượng cách mạng cho đời sau.
-Vấn đề phong trao cộng sản thế giới và việc cảm ơn các nước giúp đỡ
cuộc kháng chiến của Việt Nam. Vấn đề đền ơn đáp nghĩa đối với những
người đã hi sinh, thương binh, gia đình có công với cách mạng.
-Vấn đề quan niệm về cái sống và cái chết, với việc ứng xử với chính
thi hài của người và việc riêng, vấn văn hóa đối với người đa khuất.
Như vậy là có mười vấn đề mà HỒ CHÍ MINH đề cập trong di chúc,
toát lên tinh thần duy vật nhân văn và tinh thần đổi mới phát triển.
Những nội dung quan trọng ấy là hết sức căn bản thể hiện tinh thần
nhân văn và sự phát triển lạc quan tới số phận và sự nghiệp của Đảng và mỗi
người Việt Nam ta. HỒ CHÍ MINH quan tâm dến những vấn đề mà người
trăn trở nhiều và cốt yếu đối với cách mạng và gắn với thời điểm lịch sử cuối
cuộc chiến tranh và chiến tranh những vấn đề có ý nghĩa chiến lược lâu dài.
Trong những nội dung ấy có nội dung mang tính khẳng định có nội
dung mang tính dư báo.
Như, khẳng định cuộc kháng chiến nhất định sẽ giành thắng lợi hoàn
toàn và dự báo chỉ mấy năm nữa. Hoặc có những dự báo và đề suất như về
trước hết phải chỉnh đốn Đảng, hoặc vấn đề miễn thuế nông nghiệp cho nông
dân-khoan thu sức dân, vấn đề cải cách giáo dục, vấn đề chống bảo tủ hư
hỏng , dự cảm về đổi mới…
2.2 Những trăn trở.
Trăn trở thứ nhất là tại sao HỒ CHÍ MINH không nhắc đến nhà nước,
cải cách nhà nước mà chỉ nói chỉnh đốn Đảng cầm quyền thì liên quan đến
nhà nước, chỉnh đốn Đảng cầm quyền là tiền đề chỉnh đốn nhà nước, nhưng

11



thật ra chưa phải trực tiếp là vấn đề nhà nước, hoặc lúc ấy vấn đề cải cách nhà
nước chưa đặt ra.
Trăn trở thứ hai là nói phát triển kinh tế, nhưng theo mô hình và hướng
như thế nào ? vẫn như mô hình thời tập trung bao cấp chăng? Đúng là lúc này
người chưa thể thấy được những vấn đề mà đến thời đổi mới, Đảng và nhân
dân ta với nhận thức ra, cái gì lạc hậu và cái gì phải thay đổi và vươn tới trong
lĩnh vực kinh tế, lĩnh vực nhà nước.
Trăn trở thứ ba là ta thây Bác nêu lên vấn đề điện táng, hỏa táng và tự
mình muốn thực hiện điều đó sau khi mất, phải chăng ngoài ý nghĩa sinh thái
và tiết kiệm tiền của, phải chăng còn là người muốn nêu gương, trong khi tập
quán này còn hạn chế ở nước ta. Nhưng chúng ta không theo ý Bác mà lại
thực hiện hình thức ướp thi hài và làm lăng, với lý do riêng và ý nghĩa riêng
của nó. Thế thì hiện nay chúng ta thực hiện chủ trương mở rộng hình thức hỏa
táng, điện táng như thế nào?
Trăn trở thứ tư trong khi nói về xây dưng nước Việt Nam mới, ngoài
mục tiêu hòa bình, thống nhất HỒ CHÍ MINH chỉ nhấn mạnh xây dựng dân
chủ và giàu mạnh. Còn các mục tiêu khác như tự do-hạnh phúc thì không thấy
di chúc nhắc tới. Vậy dân chủ và tự do phải chăng là đồng nhất? Ta hay nói tự
do dân chủ trong trường hợp này, tự do như quyền công dân thì nó phải gắn
liền với dân chủ. Nhưng quyền tự do độc lập của dân tộc và tự do cá nhân
trong bản thân họ thì nó là tự do chư không đơn giản chỉ thuộc phạm trù dân
chủ là quyền công dân. Do vậy không chỉ là quyền dân tộc, quyền công dân
mà là quyền làm người, như quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh
phúc. Cho nên không chỉ là dân chủ, công bằng mà còn là tự do hạnh phúc là
những mục tiêu lớn của cách mạng XHCN của chế độ mới do cách mạng ý
tạo ra và phát triển
Về hạnh phúc thì trong tư tưởng HỒ CHÍ MINH thường đề cập tới. Nó
là một mục tiêu lớn không chỉ là hạnh phúc cá nhân, gia đình như trong văn
kiện Đảng đại hội X khi nói về con người, mà ngày nay còn có phạm trù hạh

12


phúc xã hội, hạnh phúc quốc gia, như xây dựng nền kinh tế hạnh phúc, xây
dựng xã hội hạnh phúc. Giàu mạnh là cần nhưng chưa đủ mà còn là tự do và
hạnh phúc.
Về dân chủ, ngày nay người ta hay nói phát huy dân chủ XHCN,
nhưng HỒ CHÍ MINH rất mạnh thực hành dân chủ rộng rãi, hoặc mở rộng
dân chủ.
Về những “hạn chế” nói trên, có thể giải thích rằng, Hồ Chí Minh chỉ
nhấn mạnh những mục tiêu cốt lõi nhất chăng?
Cần nêu thêm một vấn đề nữa là so với bản di chúc của BCH TW công
bố chính thức với bản bổ sung của Hồ Chí Minh thì thấy còn sót vấn đề gi
quan trọng nhất phải nói rằng bản di chúc công bố chính thức đã bổ sung và
sắp xếp theo lô gisch và đảm bảo các ý tứ chính của Hồ Chí Minh rất thuyết
phục. Nhưng có bốn ý quan trọng đang bị bỏ sót hay chưa chú ý :
1) Là vấn đề chỉnh đốn lại Đảng (đây là vấn đề quan trọng nhất)
2) Bỏ thuế nông nghiệp cho nông dân.
3) Vấn đề đấu tranh chông lại nhưng gi cũ kỹ, hư hỏng. Trong đó chú ý
đến, hư hỏng. Trong đó chú ý đến vấn đề sửa đổi chế độ giáo dục, tạo ra
những cái mới tốt tươi, và dựa vào sức mạnh nhân dân mới có thể giải quyết
được.
4) Vấn đề HỒ CHÍ MINH nói về hỏa táng và chôn cất như thế nào ?
Có thể lúc ấy những vấn đề này công bố chưa thích hợp, hoặc chúng ta chưa
thấy hết ý nghĩa thực tiễn của nó, hoặc có nhận thức khác nhau. Dẫu sao thì
tất cả những vấn đề đó đã được công khai trong thời kỳ đổi mới (HỒ CHÍ
MINH toàn tập 12) và được trung ương Đảng giải thích.
2.3 Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh và tư tưởng Vì con người.
Góc nhìn chủ nghĩa duy vật nhân văn và ý nghĩa lý luân
Chủ nghĩa duy vật nhân văn là lý luận triết học tổng quát, hoàn chỉnh

Nghiên cứu nguồn gốc, bản chất , cơ cấu hành động của con người và
sự nghiệp giải phóng, phát triển con người, khắc phục những quan niệm duy
13


tâm, phiến diện siêu hình và duy vật tầm thường, phản nhân văn về con người
và sự nghiệp giải phóng phát triển con người tự do toàn diện. Tư tưởng HỒ
CHÍ MINH hay nội dung trong di chúc là sự quan tâm tới con người, tư tưởng
ở con, cá nhân, tầng lớp, giai cấp mà cả dân tộc, toàn dân với tình thương, lẽ
phải và trách nhiệm, nhất là vấn đề dân sinh sau thời kỳ chiến tranh với nhiều
hậu quả nặng nề… Của một Đảng cầm quyền của những người cộng sản.
Muốn vậy phải phát triển kinh tế và văn hóa xã hội, nâng cao đời sống
của nhân dân cả về vật chất lẫn tinh thần. Nghĩa là độc lập dân tộc phai vươn
tới nội dung mới: Tự do, dân chủ, giàu mạnh, công bằng và hạnh phúc cho
mọi người.
Để thực hiện nhiệm vụ đó phải đoàn kết từ trong Đảng ra ngoài xã hội,
đoàn kết quốc tế, phải dựa vào sức mạnh nhân dân, thực hiện (thực hành)dân
chủ rộng rãi, phải cải cách, đổi mới chống sự trì trệ, bảo thủ, hư hỏng và mở
rộng tự do và dân chủ, phải xây dựng con người mới, lực lượng cách mạng
nhất là thế hệ trẻ, phát triển và phát huy con người. Đó là một sự thay đổi có
tính cách mạng lâu dài, sau khi hoàn thành cách mạng giải phóng dân tộc,
phải tiếp tục cách mạng dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa,
vừa đổi mới, cải cách và phát triển,quá độ và rút ngắn, từng bước tiến lên xã
hội chủ nghĩa.
Mỗi người chủ động phát huy năng lực của mình vừa cải tạo xã hội
chủ nghĩa vừa cải tạo bản thân mình, vừa qua thực tiễn vừa qua giáo dục và tự
giao dục. Sống là cống hiến, hiến dâng, phấn đấu vì sự nghiệp độc lập, thống
nhất của dan tộc, dân chủ và giàu mạnh của quốc gia và hạnh phúc của đồng
bào. Chết là thanh thản trở về với thiên nhiên, với ông bà tổ tiên và các vị tiền
bối cách mạng, và để lại tình thương yêu cho thế hệ trẻ và tinh thần, trí tuệ,

đạo đức cho dân, cho nước, tạo lên nguyên khí quốc gia, hồn thiêng sông núi,
tiếp tục sống mãi với non sông đất nước góp phần thúc đẩy sự nghiệp cách
mạng tiến lên.

14


Quan điểm vì con người và giải
phóng con người
Trong Di chúc của Người, cái làm
nên giá trị tinh thần lớn lao và mang ý
nghĩa cải tạo thực tiễn sâu sắc là quan điểm
vì con người và giải phóng con người thấm
đượm chủ nghĩa nhân đạo cao cả, một triết lý nhân sinh mà Người đã dày
công xác lập.
Vấn đề con người trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh được thể hiện
trong Di chúc là tình yêu thương đối với tất cả mọi tầng lớp người trong xã
hội. Trong Di chúc, Người đã căn dặn phải có một chính sách đặc biệt đối với
mọi tầng lớp nhân dân đã vì Tổ Quốc mà hy sinh: Theo người, đó là công việc
nhất thiết phải làm, dẫu khó khăn, phức tạp đến mấy cũng phải ra sức làm.
Người chỉ rõ: Đối với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương
máu của mình trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, tự do cho dân tộc,
chúng ta phải tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn chốn ở yên ổn, phải mở
những lớp dạy nghề thích hợp cho họ, để họ có được hành trang cần thiết
bước vào cuộc sống tự lập, tự lực cánh sinh..
Thấm nhuần đạo lý truyền thống của người Việt Nam “Uống nước nhớ
nguồn”, “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, Người đề nghị miễn thuế nông nghiệp
một năm cho nông dân để đồng bào thêm niềm phấn khởi, đẩy mạnh sản xuất,
sau nhiều năm liên tục đã ra sức góp của, góp người, vui lòng chịu đựng mọi
khó khăn gian khổ vì sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, giành độc lập,

tự do cho Tổ Quốc.
Người không chỉ quan tâm đến đời sống nhân dân, mà trên hết là chăm
lo giáo dục, đào tạo họ, làm cho họ trở thành lực lượng nòng cốt xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Người yêu cầu chúng ta sửa đổi chế
độ giáo dục cho phù hợp với hoàn cảnh mới, đặc biệt là chăm lo giáo dục đạo
đức cách mạng, giáo dục tinh thần yêu nước cho đoàn viên và thanh niên, đào
15


tạo họ trở thành những người kế thừa xây dựng xã hội chủ nghĩa vừa “hồng”
vừa “chuyên”.

Đạo đức là một trong những vấn đề quan tâm hàng đầu của Hồ Chí
Minh đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam, chúng ta phải đem hết tinh thần
và lực lượng ra phấn đấu, phải tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng.
Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến vấn đề đạo đức và giáo dục đạo đức cách
mạng cho cán bộ, đảng viên. Đảng phải chăm lo giáo dục đạo đức cho thanh
niên, đào tạo họ thành những người kế thừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa
“hồng” vừa “chuyên”.
Đạo đức được xem xét trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn. Vai
trò của đạo đức cách mạng là to lớn, Hồ Chí Minh coi đạo đức là nền tảng của
người cách mạng, cũng giống như gốc của cây, ngọn nguồn của sông, của
suối. Như đối với con người, sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa.
Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng mới hoàn thành được nhiệm vụ
cách mạng. Bởi lẽ con đường đi đến độc lập dân tộc và CNXH là con đường
dài, đòi hỏi sự phấn đấu không ngừng của mỗi người, mỗi thế hệ và nhiều thế
hệ nối tiếp nhau. Chăm lo cái gốc, cái nguồn, cái nền tảng ấy là công việc
thường xuyên của toàn Đảng, toàn dân, của mỗi gia đình và mỗi người trong
xã hội ta.


16


Đạo đức là gốc, là nền tảng vì nó liên quan tới Đảng cầm quyền. Nguy
cơ của đảng cầm quyền đó là sự sai lầm về đường lối, suy thoái về đạo đức
cách mạng của cán bộ, đảng viên. Đảng cầm quyền lãnh đạo xã hội, nếu cán
bộ đảng viên không tu dưỡng đạo đức thì mặt trái của quyền lực có thể làm
tha hoá con người. Vì thế, Hồ Chí Minh cho rằng “Đảng là đạo đức, là văn
minh”.
Vai trò của đạo đức còn thể hiện là lòng cao thượng của con người. Mỗi
người có công việc, tài năng, vị trí khác nhau… nhưng ai giữ được đạo đức
cách mạng thì là người cao thượng.
- Các thế hệ người Việt Nam phấn đấu cho độc lập dân tộc đến với Hồ
Chí Minh trước hết là đến với tư tưởng đạo đức của Người. “Sống, chiến đấu,
lao động, học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại” là khẩu hiệu chung của người
Việt Nam
- Tư tưởng đạo đức và bản thân đạo đức của Hồ Chí Minh là kết tinh
đạo đức của dân tộc, của nhân loại. Hồ Chí Minh là điểm rực sáng về đạo đức
đối với thế giới và đối với Việt Nam. Bác nói: “Đối với phương Đông một
tấm gương sống còn có giá trị hơn 100 bài diễn văn tuyên truyền”.
Theo Lênin, “đạo đức là những gì góp phần phá huỷ xã hội cũ của bọn
bóc lột và góp phần đoàn kết tất cả những người lao động chung quanh giai
cấp vô sản đang sáng tạo ra xã hội mới của những người cộng sản.”
Hồ Chí Minh cho rằng, Đảng “là đạo đức, là văn minh”, thì mới hoàn
thành sứ mệnh lịch sử vẻ vang của mình. Đảng Cộng sản phải tiêu biểu cho trí
tuệ, danh dự, lương tâm của dân tộc mình và của thời đại. Trí tuệ là sự hiểu
biết đúng đắn về CNMLN, tri thức hiện đại của nhân loại, thực tiễn Việt Nam
và thế giới, những quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, những hiểu
biết để đưa sự nghiệp cách mạng đến thắng lợi. Đạo đức là những phẩm chất
mà con người cần có để tham gia vào cuộc đấu tranh cho độc lập dân tộc và

CNXH. Muốn làm cách mạng thì con người cần có tâm trong sáng, đạo đức
cao đẹp đối với giai cấp công nhân, nhân dân lao động, với cả dân tộc. Cái
17


tâm ấy phải thể hiện trong các mối quan hệ xã hội hằng ngày với dân, với
nước, với đồng chí, đồng nghiệp, với mọi người chung quanh mình. Phải có
tâm, có đức mới giữ được CNMLN và đưa chủ nghĩa MLN vào trong cuộc
sống.
Hồ Chí Minh cũng quan tâm giáo dục đạo đức cho cán bộ, đảng viên,
các tầng lớp nhân dân lao động. Tuỳ theo từng thời kỳ cách mạng mà Người
đề ra những yêu cầu đạo đức sát hợp để mọi người cùng phấn đấu. Trong
cuốn Đường Kách mệnh, bài đầu tiên nói về tư cách người cách mệnh, Hồ
Chí Minh đã nêu một quan điểm lớn: phải có cái đức để đi đến cái trí, và khi
có trí thì cái đức đảm bảo cho người cách mạng giữ vững được chủ nghĩa mà
mình đã giác ngộ, chấp nhận, đi theo. Có đức nhưng phải có tài, đức và tài
quan hệ mật thiết với nhau. Có đức nhưng phải có tài,hồng và chuyên phải kết
hợp, tài càng lớn thì đức càng phải cao, vì đức – tài nhằm phục vụ nhân dân.
Đạo đức là gốc, là vũ khí mạnh mẽ trong cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc và
CNXH.
Triết lý nhân sinh của Người là sự gắn kết giữa chủ nghĩa nhân đạo cao
cả với tư tưởng nhân văn sâu sắc. Cội nguồn của chủ nghĩa nhân đạo và tư
tưởng nhân văn ấy là truyền thống nhân ái của dân tộc Việt Nam kết hợp với
truyền thống nhân ái của nhân loại. Nội dung cốt lõi của chủ nghĩa nhân đạo
và tư tưởng nhân văn ấy là lòng thương yêu, quý trọng con người gắn với
lòng yêu nước, yêu dân nồng nàn. Mục tiêu cao cả của chủ nghĩa nhân đạo và
tư tưởng nhân văn ấy là giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con
người.
Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh thể hiện trong Di chúc là chủ nghĩa
nhân văn cách mạng sáng ngời lý tưởng cộng sản

2.4 Bao trùm nhất, quan trọng nhất trong tư tưởng nhân văn Hồ
Chí Minh được thể hiện trong Di chúc là sự quan tâm đến người cộng
sản, đến công tác xây dựng Đảng.

18


Tư tưởng về xây dựng Đảng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Di chúc
Trong Di chúc gửi lại đồng bào cả nước, đồng chí trong Đảng, dòng
đầu tiên Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Trước hết nói về Đảng”.
Là người sáng lập, rèn luyện Đảng ta, suốt đời Bác chăm lo cho
công tác xây dựng Đảng. Bài học đầu tiên Người huấn luyện cho lớp
thanh niên yêu nước giác ngộ cách mạng, chuẩn bị cho việc thành lập
Đảng, Người viết rằng:
“Cách mệnh trước hết phải có cái gì? Trước hết phải có đảng cách
mệnh… Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm
lái có vững thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm
cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng
mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tầu không có
bàn chỉ nam”(1).
Trong cuộc đời hoạt động thực tiễn cách mạng, Người đã vận dụng,
phát triển hết sức sáng tạo và nhuần nhuyễn lý luận của chủ nghĩa Mác-Lê
Nin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, trên nhiều vấn đề, đặc biệt là công
tác xây dựng Đảng, cho đến những giờ phút cuối cùng Người vẫn luôn
quan tâm đến công tác xây dựng Đảng. Điều đó, là minh chứng cho thấy
vị trí vai trò và tầm quan trọng của công tác xây dựng Đảng trong hệ
thống tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Trong Di chúc Người viết: “Trước hết nói về Đảng – Nhờ đoàn kết
chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ
Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức

và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng
lợi khác”.
Đây là sự đánh giá, tổng kết bài học kinh nghiệm sâu sắc cả về lý
luận và thực tiễn của cách mạng được Người rút ra, đòi hỏi các thế hệ
cách mạng đời sau cần nghiêm túc suy nghĩ và thực hiên.

19


Trong công tác xây dựng Đảng, Người đặt lên hàng đầu vấn đề
đoàn kết. Đoàn kết là một nội dung quan trọng trong hệ giá trị truyền
thống của dân tộc Việt Nam được hình thành, củng cố và phát triển lâu dài
trong công cuộc dựng nước và giữ nước đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh
kế thừa và phát triển lên tầm cao mới. Bản thân Người là mẫu mực tuyệt
vời trong việc thực hiện truyền thống đoàn kết.
Người khẳng định: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu
của Đảng và của dân tộc ta”.
Người yêu cầu và mong muốn “Các đồng chí từ Trung ương đến
các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con
ngươi của mắt mình”;
Đồng thời, Người chỉ ra những nguyên tắc quan trọng để thực hiện
sự đoàn kết nhất trí : “Trong Đảng phải thực hành dân chủ rộng rãi,
thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để
củng cố và phát triển sự đoàn kết nhất trí trong Đảng. Phải có tình đồng
chí thương yêu lẫn nhau”.
Đạo đức là cái gốc của người cách mạng, không có đạo đức thì dù
tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Điều này được Bác
thường xuyên nhắc nhở, bản thân Người là tấm gương trong sáng, một
mẫu mực tuyệt vời về đạo đức cách mạng. Lường trước những nguy cơ
của một đảng cầm quyền dễ mắc phải những sai lầm, khuyết điểm, nhất là

về phẩm chất đạo đức cách mạng, trong Di chúc Người căn dặn: “Đảng ta
là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần
đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ
gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy
tớ thật trung thành của nhân dân”.
Chỉ trong một đoạn văn ngắn nói về đạo đức, Người đã bốn lần
dùng chữ thật và thật sự, chắc chắn đây là điều Bác đã cân nhắc rất kỹ.

20


Đồng thời, Người đưa ra giải pháp rất quan trọng để khắc phục tình trạng
sa sút về phẩm chất đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên: “Theo ý
tôi, việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi đảng
viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao
phó cho mình”. Điều căn dặn đầy tâm huyết của Người mãi mãi có ý
nghĩa sâu sắc với công tác xây dựng Đảng cũng như đối với việc rèn
luyện, tu dưỡng đạo đức của đội ngũ đảng viên, cán bộ.
Xây dựng chỉnh đốn Đảng theo tư tưởng của người
Trong bản Di chúc thiêng liêng, Bác Hồ đã dặn lại toàn Đảng, toàn
quân và toàn dân ta những công việc phải làm khi Tổ quốc đã thống nhất,
trong đó có nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng. Bác viết: ''Công việc trên
đây là rất to lớn, nặng nề và phức tạp, và cũng là rất vẻ vang. Đây là một cuộc
chiến đấu chống lại những cái gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới
mẻ, tốt hơn''. Người còn chỉ rõ: “Theo ý tôi, việc cần phải làm trước tiên là
chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra
sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, toàn tâm, toàn ý phục vụ
nhân dân. Làm được như vậy, thì dù công việc to lớn mấy, khó khăn mấy,
chúng ta cũng nhất định thắng lợi”.
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 6 (khoá VIII) đã đề

ra nhiệm vụ: ''Toàn Đảng tiến hành cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng,
thực hiện tự phê bình và phê bình”.
Xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo Tư tưởng Hồ Chi Minh trên cả ba mặt
tư tưởng, chính trị và tổ chức làm cho Đảng trong sạch, vững mạnh đang là
một yêu cầu bức xúc của toàn Đảng, toàn dân ta.
Xây dựng, chỉnh đốn Đảng về tư tưởng là làm cho hệ thống lý luận của
Chủ nghĩa Mác - Lê nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh thật sự trở thành nền tảng tư
tưởng và kim chỉ nam cho hành động của toàn Đảng, toàn dân ta, giữ vững và
tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng. Tại lớp huấn luyện đảng
viên mới của Thành uỷ Hà Nội, ngày 14-5-1966. Bác Hồ nói: ''Để lãnh đạo
21


cách mạng, Đảng phải mạnh. Đảng mạnh là do chi bộ tốt, chi bộ tốt là do các
đảng viên đều tốt. Muốn xây dựng chi bộ "bốn tốt'' thì phải bồi dưỡng lập
trường vô sản cho đảng viên. Muốn có lập trường vô sản vững chắc thì đảng
viên phải có ý thức giai cấp, đồng thời phải có lý luận cách mạng. Không có
lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học thì không thể có lập trường giai cấp
vững vàng.
Xây dựng, chỉnh đốn Đảng về chính trị là kiên định con đường mà
Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn, giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội. Trong những bài học mà Đại hội VIII của Đảng đã tổng kết sau mười
năm đổi mới, bài học về giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội được đưa lên hàng đầu. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là
bài học xuyên suốt trong lịch sử lãnh đạo cách mạng của Đảng ta.
Xây dựng và chỉnh đốn Đảng về tổ chức là tăng cường sức chiến đấu
của Đảng từ Trung ương đến cơ sở. Đại hội VIII của Đảng nhận định: ''Tổ
chức cơ sở Đảng ở nhiều nơi yếu kém, phương thức lãnh đạo và sinh hoạt
lúng túng, có trình trạng vừa kém dân chủ, vừa thiếu kỷ luật, kỷ cương. Một
số cán bộ và cấp uỷ chưa tôn trọng và thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ,

bệnh quan liêu, độc đoán, cục bộ, địa phương, kèn cựa, địa vị, cá nhân chủ
nghĩa rất nặng. Không ít nơi nội bộ mất đoàn kết nghiêm trọng''.
Công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng muốn có hiệu quả thiết thực,
trước hết, phải gắn liền với phong trào quần chúng và phải dựa vào quần
chúng.
Thông qua phong trào quần chúng, Đảng kiểm nghiệm, hoàn chỉnh và
cụ thể hoá đường lối chính trị. Và cũng từ phong trào cách mạng của quần
chúng, Đảng lựa chọn những người ưu tú kết nạp vào Đảng. Thực tiễn cách
mạng cho thấy nơi nào có phong trào quần chúng mạnh mẽ thực hiện thắng
lợi các nhiệm vụ chính trị thì ở đó, tổ chức Đảng được phát triển và củng cố,
cán bộ, Đảng viên được rèn luyện và thử thách. Trái lại, công tác xây dựng và
chỉnh đốn Đảng làm tốt thì phong trào quần chúng càng lớn mạnh. Quá trình
22


phát triển và lớn mạnh của Đảng gắn liền với sự phát triển của xã hội và sự
lớn mạnh của phong trào quần chúng. Phong trào quần chúng là cơ sở, là
nguồn sống của Đảng, là mảnh đất tốt, từ đó, Đảng lớn lên không ngừng.
Sức mạnh của Đảng và sự thắng lợi của cách mạng bắt nguồn từ chỗ
Đảng luôn luôn gắn bó mật thiết với quần chúng nhân dân. Nhân dân ta vốn
rất cách mạng, hết mực tin yêu và kính trọng Đảng. Mọi hành động của cán
bộ, đảng viên đều có ảnh hưởng đến lợi ích của nhân dân. Vì vậy, quần chúng
rất mong muốn và đòi hỏi được góp phần tham gia xây dựng và chỉnh đốn
Đảng. Hàng ngày, tiếp xúc với cán bộ, đảng viên, quần chúng hiểu được và
đánh giá đúng hoạt động của các tổ chức Đảng, cán bộ và đảng viên. Dựa vào
quần chúng và vận động quần chúng tham gia xây dựng và chỉnh đốn Đảng,
nhất định sẽ nâng cao được sức chiến đấu của các tổ chức Đảng, củng cố sự
liên hệ giữa Đảng và quần chúng, nâng cao uy tín của Đảng. Tham gia xây
dựng và chỉnh đốn Đảng, quần chúng đấu tranh loại bỏ dần tệ quan liêu, mệnh
lệnh, xa rời quần chúng, tệ cường hào, gia trưởng, tệ tham nhũng, buôn lậu

cùng những biểu hiện tiêu cực khác của một số cán bộ, đảng viên, ngăn chặn
việc kết nạp những người không đủ tiêu chuẩn vào Đảng và phát hiện những
phần tử cơ hội đang thao túng trong một số tổ chức Đảng và bộ máy Nhà
nước. Cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng nhất định sẽ khẳng định
vai trò và tác dụng tích cực của quần chúng nhân dân, của Mặt trận và các
đoàn thể như Công đoàn, Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ...
Nét đặc sắc trong Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng và chỉnh đốn
Đảng chính là mối liên hệ máu thịt giữa Đảng và nhân dân. Bác Hồ nói:
''Nhân dân giúp đỡ xây dựng Đảng bằng cách: hiểu rõ Đảng, ủng hộ Đảng,
hưởng ứng những lời kêu gọi của Đảng, ra sức cho Đảng rõ tình hình trong
nhân dân, đối với công tác của Đảng thì thật thà phê bình và nêu ý kiến của
mình''.
Để bảo đảm và phát huy kết quả của việc quần chúng tham gia chỉnh
đốn Đảng, các cấp uỷ Đảng thực hiện tốt, có nền nếp - không làm chiếu lệ và
23


hình thức - việc tự phê bình của các tổ chức Đảng trước quần chúng và mở
rộng chế độ quần chúng phê bình các tổ chức Đảng, cán bộ và đảng viên.
Đối với những ý kiến phê bình đúng của quần chúng thì các tổ chức
Đảng tiếp thu nghiêm túc và có biện pháp sửa chữa. Đối với những ý kiến
không đúng thì phân tích và giải thích đầy đủ với thái độ thực sự “trọng dân”
và có ý thức trách nhiệm.
Nhấn mạnh vai trò và tác dụng của quần chúng không có nghĩa là coi
nhẹ sự hoạt động và sinh hoạt của các tổ chức Đảng và cũng không thể lấy
phê bình của quần chúng thay thế cho tự phê bình và phê bình trong Đảng.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng và chỉnh đốn Đảng luôn luôn là một di
sản vô giá để làm cho Đảng trong sạch, vững mạnh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là ngọn cờ dẫn dắt sự nghiệp cách mạng của
Đảng và nhân dân ta, trong đó tư tưởng của Người về chủ nghĩa xã hội là một

bộ phận hết sức quan trọng.
Nhất quán với các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí
Minh quan niệm chủ nghĩa xã hội là một học thuyết khoa học và cách mạng
của giai cấp vô sản nhằm xoá bỏ ách thống trị tư bản chủ nghĩa, thực hiện lý
tưởng giải phóng giai cấp và giải phóng toàn thể xã hội loài người.
Chủ nghĩa xã hội còn được hiểu với tư cách là một chế độ xã hội thuộc
hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa mà việc xây dựng và hoàn thiện
nó như một quá trình lịch sử lâu dài để từng bước đạt tới mục tiêu.
Cái mới và là sự sáng tạo của Hồ Chí Minh khi nói về bản chất của chủ
nghĩa xã hội là ở chỗ Người phát hiện thấy lý tưởng xã hội chủ nghĩa đã
chung đúc tất cả lý tưởng, giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải
phóng xã hội.
Hồ Chí Minh còn thấy một điểm rất quan trọng thuộc về bản chất của
chủ nghĩa xã hội là muốn đạt tới lý tưởng, mục tiêu xã hội chủ nghĩa phải
thường xuyên chống lại chủ nghĩa cá nhân. Người nhìn nhận chủ nghĩa xã hội

24


là một chế độ xã hội bảo đảm sự phát triển hài hoà giữa cá nhân và xã hội. Hồ
Chí Minh làm phong phú thêm hướng tiếp cận chủ nghĩa xã hội.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã làm sáng tỏ bản chất
chủ nghĩa xã hội từ những kiến giải về kinh tế, chính trị và xã hội. Ngoài
những kiến giải ấy, Hồ Chí Minh còn nhìn nhận bản chất chủ nghĩa xã hội từ
phương diện đạo đức, văn hoá. Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội đối lập,
xa lạ với chủ nghĩa cá nhân, nhưng không hề phủ nhận cá nhân, trái lại, tôn
trọng con người, phát triển mọi năng lực cá nhân vì phát triển xã hội và hạnh
phúc của con người. Đây là chiều sâu trong tư duy biện chứng, trong nhãn
quan văn hoá, đạo đức của Hồ Chí Minh.
Theo Hồ Chí Minh, người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm

nền tảng mới mong hoàn thành được nhiệm vụ vẻ vang của sự nghiệp xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Để có đạo đức cách mạng thì phải loại trừ
mặt trái của nó là chủ nghĩa cá nhân. Đó là một kẻ thù nguy hiểm ngăn cản
chúng ta đấu tranh cho sự nghiệp cách mạng, tự mình phá huỷ sự nghiệp của
mình. Đây chính 1à nỗi lo toan thường trực của Người.
Từ tác phẩm “Đường Kách mệnh” (1927) cho đến Di chúc để lại cho
toàn Đảng, toàn dân (1969), Hồ Chí Minh không lúc nào xa rời điều quan tâm
lớn lao đó. Qua các tác phẩm “Tư cách của người Kách mệnh”, “Nâng cao
đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân” Người nhấn mạnh rằng:
“Không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân.
Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho loài người là một công việc
to tát mà tự mình không có đạo đức, không có căn bản, tự mình đã hủ hoá,
xấu xa thì còn làm nổi việc gì”1.
Từ đó, Người đưa ra lời khẳng định: “tư tưởng xã hội chủ nghĩa là
chống tư tưởng cá nhân chủ nghĩa”. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, cần phải
chống chủ nghĩa cá nhân, thực hiện sự tôn trọng và đề cao nhân cách, bảo
đảm cho mỗi cá nhân phát triển lành mạnh nhân cách của mình trong sự hài
hoà giữa cá nhân và xã hội. Nhìn nhận mặt bản chất quan trọng này, Hồ Chí
25


×