Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

Đầu tư là yếu tố quyết định tới sự phát triển và là chìa khóa cho sự tăng trưởng của mọi quốc gia

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (327.45 KB, 36 trang )

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1.1. Lí do chọn đề tài

Việt Nam là một nền kinh tế chuyển đổi và đang phát triển, thuộc nhóm nước có tốc độ
tăng trưởng khá trên thế giới. Trong 10 năm trở lại đây, chúng ta đã tranh thủ thời cơ, thuận
lợi, vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, nhất là những tác động tiêu cực của hai cuộc khủng
hoảng tài chính - kinh tế khu vực và toàn cầu, đạt được những thành tựu to lớn và rất quan
trọng, đất nước đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát triển. Để
có được những sự tăng trưởng đó không thể không nhắc tới vai trò quan trọng của đầu tư phát
triển. Đầu tư là nhân tố không thể thiếu để phát triển và xây dựng kinh tế, là chìa khóa của sự
tăng trưởng kinh tế. Các nguồn lực được sử dụng để đầu tư có thể là tiền, tài nguyên thiên
nhiên, sức lao động, trí tuệ. Trong cơ chế thị trường, hoạt động đầu tư có thể do Nhà nước và
những chủ thể khác nhau (cá nhân, tổ chức) tiến hành và ngày càng phong phú, đa dạng cả về
tính chất và mục đích. Tuy vậy, mọi hoạt động đầu tư suy cho cùng đều nhằm mang lại những
lợi ích xác định. Những lợi ích đạt được của đầu tư có thể là sự tăng thêm tài sản vật chất, tài
sản trí tuệ hay nguồn nhân lực cho xã hội. Kết quả đầu tư không chỉ là lợi ích trực tiếp cho
nhà đầu tư mà còn mang lại lợi ích cho nền kinh tế và toàn xã hội.
Thời gian qua, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam luôn chú trọng gắn kết
chặt chẽ tăng trưởng kinh tế với phát triển bền vững. Kết quả gần đây nhất chính là sự tăng
mạnh trong tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2015, ước tăng 6,68% so với năm 2014.
Trong đó, riêng GDP quý 4 tăng tới 7,01%, cao hơn mức tăng 6,12% của quý 1, 6,47% của
quý 2 và 6,87% trong quý 3, vượt mục tiêu 6,2% đề ra đầu năm và đạt cao nhất trong 5 năm
qua (năm 2011 tăng 6,25%, năm 2012 tăng 5,25%, năm 2013 tăng 5,42%, năm 2014 tăng
5,98%). Ngoài ra, việc nước ta chính thức trở thành thành viên của tổ chức kinh tế thế giới
WTO vào năm 2007, kí kết Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương TPP vào năm 2016
vừa là những cơ hội, vừa là những thách thức lớn đối với nền kinh tế Việt Nam. Bối cảnh
phát triển mới, cùng với các mục tiêu, nhiệm vụ của Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội
2011-2020 đã được Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI thông qua đòi hỏi nước ta phải có
nhiều đổi mới về đầu tư phát triển, giải quyết tốt mối quan hệ giữa đầu tư và tăng trưởng, góp
phần hoàn thành tốt nhất mục tiêu, nhiệm vụ đề ra. Chính vì vậy, Chính phủ, doanh nghiệp và
cá nhân cần có cái nhìn đúng đắn về đầu tư để nền kinh tế Việt Nam luôn tăng trưởng bền


vững trước những biến động không ngừng của thị trường.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu

Nghiên cứu tổng quan về đầu tư, đầu tư phát triển với các đặc điểm và nhân tố ảnh hưởng
tới đầu tư
Nghiên cứu về tăng trưởng kinh tế và tác động của đầu tư tới quy mô tăng trưởng
Nghiên cứu thực trạng của đầu tư tới tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong những năm
gần đây
1.3. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Bởi vai trò quan trọng cũng như vị trí đóng góp to lớn của đầu tư với phát triển và tăng
trưởng quốc gia, đã có rất nhiều cuộc hội thảo, công trình nghiên cứu về tác động của đầu tư
với nền kinh tế .Các công trình nghiên cứu tiêu biểu như:
1


-

-

-

Luận án tiến sĩ: Đầu tư trực tiếp nước ngoài và tăng trưởng các vùng kinh tế của Việt Nam
(2014) của tác giả Nguyễn Minh Tiến, Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh. Luận án
đánh giá tác động của dòng vốn FDI đến tăng trưởng kinh tế ở tổng thể vùng của Việt Nam.
Đồng thời kiểm định tác động của dòng vốn FDI đối với tăng trưởng trong trường hợp nghiên
cứu riêng từng vùng và lien kết vùng của Việt Nam. Luận án đưa ra các khuyến nghị để hoàn
thiện chính sách nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế vùng và gợi ý chính sách thu hút dòng
vốn FDI góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam
Luận án tiến sĩ: Đầu tư phát triển theo hướng tăng trưởng nhanh tại Việt Nam trong thời kì

tới năm 2020 ( 2012) của tác giả Nguyễn Đăng Bình, Viện Chiến lược phát triển. Luận văn đã
làm rõ cơ sở lí luận và thực tiễn về đầu tư phát triển và tăng trưởng kinh tế, trong đó có quan
sát từ kinh nghiệm của một số nước. Làm rõ hiện trạng, những mặt được, chưa được, nguyên
nhân và bài học với mối quan hệ giữa đầu tư và tăng trưởng nhanh trong thời gian qua. Đề
xuất định hướng và giải pháp đầu tư phát triển tại Việt Nam tới năm 2020.
Luận văn thạc sĩ : Dựa vào các lí thuyết kinh tế về đầu tư giải thích vai trò của đầu tư đối với
tăng trưởng và phát triển kinh tế (2009) của tác giả Nguyễn Thị Lan Anh, Đại học Kinh tế
Quốc dân. Dựa trên các lí thuyết về đầu tư của các nhà kinh tế (lí thuyết tân cổ điển, lí thuyết
về quỹ nội bộ đầu tư,…), luận văn đi đánh giá vai trò, tác động của đầu tư lên tăng trưởng và
phát triển kinh tế giai đoạn 2001-2009. Từ đó đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư
nhằm thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Các đề tài nghiên cứu, các luận văn, luận án về đầu tư tăng trưởng được triển khai theo
những nội dung khác nhau như: Tác động qua lại giữa đầu tư và tăng trưởng kinh tế, Tác
động của đầu tư tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế, Các giải pháp đầu tư hiệu quả để phát triển
kinh tế….. Tuy nhiên cho đến nay chưa có công trình nghiên cứu về tác động riêng rẽ của đầu
tư lên tăng trưởng kinh tế Việt Nam.
1.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
a. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là: Đầu tư với vai trò quan trọng của nó tới sự phát triển
và tăng trưởng của các quốc gia
b. Phạm vi nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu tổng quát về đầu tư và tăng trưởng và các tác động của đầu tư lên kinh
tế nói chung ở mọi quốc gia, trong đó có liên hệ thực tiễn tới Việt Nam
1.5. Phương pháp nghiên cứu

Đề tài sử dụng phương pháp đi từ trừu tượng tới cụ thể, tức là đi từ phân tích lí luận cơ
bản về đầu tư, đầu tư phát triển, tăng trưởng kinh tế đến thực trạng về sự tác động của đầu tư
tới tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam

Trong phân tích thực trạng đầu tư trong nước, đề tài sử dụng phương pháp thu thập số
liệu, xử lí để rút ra mặt tích cực, những hạn chế của đầu tư trong thời gian qua, từ đó nêu lên
giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
1.6. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài

Kết quả nghiên cứu của đề tài là đánh giá tác động của đầu tư tới tăng trưởng kinh tế các
quốc gia, dựa trên số liệu thu thập được về hai biến đang nghiên cứu là đầu tư và tăng trưởng
2


kinh tế, cùng với việc áp dụng các phương pháp phân tích định lượng. Qua đó nhận thấy tầm
quan trọng cũng như những mặt hạn chế của việc thực hiện đầu tư thời gian qua.
Kết quả nghiên cứu của đề tài còn có thể được dùng để định hướng đưa ra những giải
pháp nâng cao hiệu quả đầu tư nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong các năm tiếp theo.
1.7. Kết cấu đề tài

Đề tài gồm 4 chương
Chương 1: Tổng quan về đề tài nghiên cứu
Chương 2: Những vấn đề lí cơ bản về tác động của đầu tư với tăng trưởng kinh tế
Chương 3: Thực trạng về sự tác động của đầu tư tới tăng trưởng kinh tế
Chương 4: Giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế

3


CHƯƠNG 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CƠ BẢN VỀ TÁC ĐỘNG
CỦA ĐẦU TƯ VỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
2.1. Tổng quan về đầu tư và phát triển
2.1.1. Khái niệm đầu tư phát triển


Xuất phát từ phạm vi phát huy tác dụng của các kết quả đầu tư chúng ta có thể có những
cách hiểu khác nhau về đầu tư. Theo nghĩa rộng, đầu tư nói chung là sự hy sinh các nguồn lực
ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về cho nhà đầu tư các kết quả nhất
định trong tương lai mà nó lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra.
Như vậy, mục đích của việc đầu tư là thu được cái gì đó lớn hơn những gì mình đã bỏ ra.
Từ đó, người ta biết đến 1 định nghĩa hẹp hơn về đầu tư hay chính là định nghĩa đầu tư phát
triển.
Đầu tư phát triển là bộ phận cơ bản của đầu tư, là hoạt động sử dụng vốn trong hiện tại,
nhằm tạo ra tài sản vật chất và trí tuệ mới, năng lực sản xuất mới và duy trì những tài sản hiện
có, nhằm tạo thêm việc làm và mục tiêu phát triển.
2.1.2. Đặc điểm của đầu tư phát triển
- Quy mô tiền vốn, vật tư, lao động cho hoạt động đầu tư phát triển thường rất lớn

Vốn đầu tư phát triển là bộ phận cơ bản của vốn nói chung. Vốn đầu tư phát triển là biểu
hiện bằng tiền toàn bộ những chi phí đã chi ra để tạo ra năng lực sản xuất (tăng thêm tài sản
cố định và tài sản lưu động) và các khoản đầu tư phát trỉển khác. Quy mô các dự án đầu tư có
lớn hay không thể hiện ở nguồn vốn đầu tư. Mặt khác, các dự án đầu tư cũng cần một số
lượng lao động rất lớn, đặc biệt là các dự án trọng điểm quốc gia.
-

Thời kỳ đầu tư kéo dài

Thời kỳ đầu tư được tính từ khi khởi công thực hiện dự án cho đến khi dự án hoàn thành
và đưa vào hoạt động. Do quy mô các dự án đầu tư thường rất lớn nên thời gian hoàn thành
các dự án thường tốn rất nhiều thời gian, có khi tới hàng chục năm như các công trình thuỷ
điện, xây dựng cầu đường... Hiện nay tại khu vực Hà Nội, chúng ta có thể kể đến dự án Tòa
nhà trung tâm ĐH KTQD hay dự án đường sắt trên cao Cát Linh- Hà Đông.
Ảnh hưởng tiêu cực : Thời gian thực hiện các dự án đầu tư dài kéo theo sự ảnh hưởng
đến tiến độ nghiệm thu công trình và đưa vào sử dụng, do đó có thể làm giảm hiệu quả đầu
tư, thời gian thu hồi vốn chậm. Thời gian đầu tư càng dài thì rủi ro cũng như chi phí đầu tư lại

càng lớn, hơn nữa, nó còn ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
-

Thời gian vận hành các kết quả đầu tư kéo dài

Thời gian vận hành các kết quả đầu tư được tính từ khi đưa vào hoạt động cho đến khi hết
hạn sử dụng và đào thải công trình. Trong quá trình vận hành các kết quả của đầu tư phát
triển chịu tác động cả hai mặt, tích cực và tiêu cực của nhiêù yếu tố tự nhiên, chính trị, kinh
tế, xã hội... Do đó, yêu cầu đặt ra đối với công tác đầu tư là rất lớn, nhất là về công tác dự báo
về cung cầu thị trường sản phẩm đầu tư trong tương lai, quản lý tốt quá trình vận hành, nhanh
chóng đưa thành quả đầu tư đưa vào sử dụng, hoạt động tối đa công suất để nhanh chóng thu
hồi vốn, tránh hao mòn vô hình, chú ý đến cả độ trễ thời gian trong đầu tư. Đây là đặc điểm
có ảnh hưởng rất lớn đến công tác quản lý hoạt động đầu tư.
4


-

Thành quả của hoạt động đầu tư phát triển

Các công trình xây dựng thường phát huy tác dụng ngay tại nơi nó được tạo dựng nên, do
đó, quá trình thực hiện đầu tư cũng chịu ảnh hưởng rất lớn của các nhân tố về tự nhiên, kinh
tế, xã hội vùng. Các thành quả của hoạt động đầu tư có thể kéo dài hàng chục năm hoặc lâu
hơn thế.
Các điều kiện tự nhiên của vùng như khí hậu, đất đai... có tác động rất lớn trong việc thi
công, khai thác và vận hành các kết quả đầu tư. Đối với các công trình xây dựng, điều kiện về
địa chất ảnh hưởng rất lớn không chỉ trong thi công mà cả trong giai đoạn đưa công trình vào
sử dụng, nếu nó không ổn định sẽ làm giảm tuổi thọ cũng như chất lượng công trình. Tình
hình phát triển kinh tế của vùng ảnh hưởng trực tiếp tới việc ra quyết định và quy mô vốn đầu
tư. Ngoài ra môi trường xã hội cũng ảnh hưởng rất lớn đến việc thực hiện các dự án đầu tư

như phong tục tập quán, trình độ văn hóa.
-

Độ rủi ro cao

Mọi kết quả và hiệu quả của quá trình thực hiện đầu tư chịu nhiều ảnh hưởng của các yếu
tố không ổn định theo thời gian và điều kiện địa lý của không gian. Do quy mô vốn đầu tư
lớn, thời kỳ đầu tư kéo dài và thời gian vận hành các kết quả đầu tư cũng kéo dài...nên mức
độ rủi ro của hoạt động đầu tư phát triển thường rất cao, nhiều vấn đề phát sinh ngoài dự kiến
buộc các nhà quản lý và chủ đầu tư cần phải có khả năng nhận diện rủi ro cũng như biện pháp
khắc phục kịp thời. Để quản lý hoạt động đầu tư có hiệu quả trươc hết cần nhận diện rủi ro.
Có rất nhiều rủi ro trong hoạt động đầu gồm rủi ro do nguyên nhân khách quan và rủi ro do
nguyên nhân chủ quan
2.2. Lí luận chung về tăng trưởng kinh tế và tác động của đầu tư đến tăng trưởng kinh tế
2.2.1. Các khái niệm

Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc tổng sản
lượng quốc gia (GNP) hoặc quy mô sản lượng quốc gia tính bình quân trên đầu người (PCI)
trong một thời gian nhất định.
Quy mô của một nền kinh tế thể hiện bằng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc tổng sản
phẩm quốc gia (GNP), hoặc tổng sản phẩm bình quân đầu người hoặc thu nhập bình quân đầu
người (Per Capita Income, PCI).
Tổng sản phẩm quốc nội (Gross Domestic Products, GDP) hay tổng sản sản phậm trong
nước là giá trị tính bằng tiền của tất cả sản phẩm và dịch vụ cuối cùng được sản xuất, tạo ra
trong phạm vi một nền kinh tế trong một thời gian nhất định (thường là một năm tài chính).
Tổng sản phẩm quốc gia (Gross National Products, GNP) là giá trị tính bằng tiền của tất
cả sản phẩm và dịch vụ cuối cùng được tạo ra bởi công dân một nước trong một thời gian
nhất định (thường là một năm). Tổng sản phẩm quốc dân bằng tổng sản phẩm quốc nội cộng
với thu nhập ròng.
Tổng sản phẩm bình quân đầu người là tổng sản phẩm quốc nội chia cho dân số. Tổng thu

nhập bình quân đầu người là tổng sản phẩm quốc gia chia cho dân số.
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng của GDP hoặc GNP hoặc thu nhập bình quân đầu
người trong một thời gian nhất định. Tăng trưởng kinh tế thể hiện sự thay đổi về lượng của
nền kinh tế. Tuy vậy ở một số quốc gia, mức độ bất bình đẳng kinh tế tương đối cao nên mặc
5


dù thu nhập bình quân đầu người cao nhưng nhiều người dân vẫn sống trong tình trạng nghèo
khổ.
2.2.2. Các chỉ tiêu về tăng trưởng kinh tế

Tổng sản phẩm trong nước (GDP) và tổng sản phẩm quốc dân (GNP)
Các chỉ tiêu GDP và GNP thông qua sử dụng thước đo tiền tệ có thể tổng hợp được kết
quả đầu ra hết sức phong phú và đa dạng về chủng loại, mục đích sử dụng về chất lượng của
nền kinh tế. Nhờ đó cung cấp một công cụ hữu hiệu cho việc đánh giá sự tăng trưởng, phát
triển kinh tế của một quốc gia.
Tổng sản phẩm trong nước (GDP)
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) là giá trị thị trường của tất cả các hàng hoá và dịch vụ
cuối cùng được sản xuất ra bởi các yếu tố sản xuất trong lãnh thổ kinh tế của một nước trong
một thời kỳ nhất định.
Ba phương pháp đo lường tổng sản phẩm thu nhập trong nước:
-

-

Thứ nhất, phương pháp sản xuất còn gọi là phương pháp giá trị gia tăng. Theo phương pháp
này GDP tổng hợp giá trị gia tăng của mọi doanh nghiệp trong nền kinh tế. Giá trị gia tăng
được tính bằng cách lấy giá trị tổng sản lượng trừ đi giá trị của tất cả các hàng hoá và dịch vụ
mua ngoài đã được sử dụng hết trong quá trình sản xuất của doanh nghiệp.
Thứ hai, phương pháp thu nhập đo lường GDP trên cơ sở thu nhập tạo ra trong quá trình sản

xuất hàng hoá chứ không phải là giá trị của bản thân hàng hoá.
GDP= w + i + R +Pr +Te
Trong đó: w là thu nhập từ tiền công, tiền lương
i là tiền lãi nhận được từ cho doanh nghiệp vay tiền
R là thuê đất đai, tài sản
Pr là lợi nhuận
Te là thuế gián thu mà chính phủ nhận được

-

Thứ ba, phương pháp chi tiêu sử dụng các thông tin từ luồng chi tiêu để mua hàng hoá và
dịch vụ cuối cùng. Vì tổng giá trị hàng hoá bán ra phải bằng tổng số tiền được chi ra để mua
chúng, nên tổng chi tiêu để mua hàng hoá và dịch vụ cuối cùng phải bằng GDP
GDP= C +I +G +X - M
Trong đó: C là các khoản chi tiêu của các hộ gia đình về hàng hoá và dịch vụ
I là tổng đầu tư của khu vực tư nhân
G là chi tiêu của chính phủ về hàng hoá và dịch vụ
X – M là xuất khẩu ròng
Tổng sản phẩm quốc dân (GNP)

6


Tổng sản phẩm quốc dân đo lường toàn bộ thu nhập hay giá trị sản xuất mà các công dân
của một quốc gia tạo ra trong một thời kỳ nhất định, không kể trong hay ngoài phạm vi lãnh
thổ quốc gia.
GNP= GDP + thu nhập ròng nhận được từ nước ngoài
Các chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế
Mức tăng trưởng kinh tế tuyệt đối:
ΔGDPn = GDPn - GDP0

Tốc độ tăng trưởng kinh tế:
g = x 100%
Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm của một giai đoạn:

2.3. Đầu tư vừa tác động đến tốc độ tăng trưởng vừa tác động đến chất lượng tăng

trưởng
2.3.1. Đầu tư tác động đến quy mô của tăng trưởng
• Đầu tư tác động đến tổng cung và tổng cầu
Đầu tư tác động đến tổng cầu của nền kinh tế
Theo số liệu World Bank, đầu tư thường chiếm từ 24 – 28% trong cơ cấu tổng cầu của tất
cả các nước trên thế giới.
Đối với tổng cầu, tác động của đầu tư thể hiện rõ trong ngắn hạn:
AD = C + I + G + X - M
Với tổng cung chưa kịp thay đổi, sự tăng lên của đầu tư làm cho tổng cầu tăng (đường D
dịch chuyển sang D’) kéo sản lượng cân bằng tăng theo từ Q0 -Q1 và giá cả của các đầu vào
của đầu tư tăng từ P0-P1. Điểm cân bằng dịch chuyển từ E0-E1. ( Hình 3.1)

Hình 3.1. Tác động của đầu tư đến tổng cung và tổng cầu.
7


Đầu tư tác động đến tổng cung của nền kinh tế
Tổng cung của nền kinh tế gồm hai nguồn chính là cung trong nước và cung từ nước
ngoài. Cung trong nước là một hàm của các yếu tố sản xuất : vốn ( K ) , lao động ( L ), tài
nguyên ( R ), công nghệ ( T ),… thể hiện qua phương trình:
Q = F ( K, L, T, R… )
Như vậy, tăng quy mô của vốn đầu tư là nguyên nhân trực tiếp làm tăng tổng cung, nếu
các yếu tố khác không đổi. Mặt khác, tác động của vốn fđầu tư còn được thể hiện qua hoạt
động đầu tư nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đổi mới công nghệ… do đó gián tiếp làm

tăng tổng cầu của nền kinh tế.
Khi thành quả của đầu tư phát huy tác dụng, các năng lực mới đi vào hoạt động làm cho
tổng cung, đặc biệt là tổng cung dài hạn tăng. ( hình 3.1)
Sự gia tăng sản lượng được phản ánh qua lý thuyết về số nhân đầu tư và lý thuyết gia tốc
đầu tư :
ΔY = k * ΔI

Trong đó : ΔY là mức gia tăng sản lượng
k là số nhân đầu tư
ΔI là mức gia tăng đầu tư

Như vậy, việc gia tăng đầu tư có tác dụng khuếch đại sản lượng tăng lên ssos nhân lần.
Theo lý thuyết gia tốc đầu tư: Y = K / x
( x là hệ số gia tốc đầu tư )
Nếu x không đổi thì nhu cầu vốn đầu tư tăng dẫn đến quy mô sản lượng tăng và ngược
lại.


Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng kinh tế

Hệ số ICOR
Biểu hiện tập trung của mối quan hệ giữa đầu tư phát triển với tăng trưởng kinh tế thể
hiện ở công thức tính hệ số ICOR.
ICOR ( Incremental Capital Output Radio – tỷ số gia tăng của vốn so với sản lượng) là tỷ
số giữa quy mô đầu tư tăng thêm với mức gia tăng sản lượng (GDP) tăng thêm.
Về tổng quát, hệ số ICOR được tính như sau:
ICOR =
Hay ICOR =
Hệ số ICOR cao hay thấp chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố : sự thay đổi của cơ cấu đầu
tư ngành, sự phát triển của khoa học công nghệ, sự thay đổi cơ chế chính sách và phương

pháp quản lý.
2.3.2. Đầu tư tác động đến chất lượng tăng trưởng kinh tế

8


Đầu tư có ảnh hưởng quan trọng không chỉ đến tốc độ tăng trưởng cao hay thấp mà còn
đến chất lượng tăng trưởng kinh tế. Trên góc độ phân tích đa nhân tố, vai trò của đầu tư đối
với TTKT thường được phân tích theo biểu thức sau:
g = Di + Dl + TFP
Trong đó : g : tốc độ tăng trưởng kinh tế
Di : phần đóng góp của vốn đầu tư vào tăng trưởng kinh tế
Dl : phần đóng góp của lao động vào TTKT
TFP : phần đóng góp của tổng các yếu tố năng suất vào tăng trưởng GDP. TFP là chỉ tiêu
phản ánh kết quả sản xuất do sử dụng hiệu quả nhân tố vốn và lao động (các nhân tố hữu hình
- được xác định bằng số lượng), nhờ vào tác động của các nhân tố vô hình như cải tiến quản
lý, đổi mới công nghệ, hợp lý hóa sản xuất, nâng cao trình độ lao động của công nhân...
Hiện nay, chất lượng tăng trưởng kinh tế do yếu tố bề rộng, đặc biệt do yếu tố vốn – nhân
tố mà VN còn thiếu và sử dụng hiệu quả không cao, trong khi yếu tố lao động, được coi là
nguồn lực nội sinh, lợi thế chi phí thấp thì mức đóng góp cho tăng trưởng kinh tế lại chưa
tương xứng.
Tác động của đầu tư đến chất lượng TTKT được thể hiện qua một số lĩnh vực sau:
a. ĐTPT tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế

Cơ cấu kinh tế là cơ cấu tổng thể các yếu tố cấu thành nền kinh tế, có quan hệ chặt chẽ
với nhau, được biểu hiện cả về mặt chất và mặt lượng, tùy theo mục tiêu của nền kinh tế.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế được hiểu là sự thay đổi tỷ trọng của các bộ phận cấu thành nền
kinh tế. Sự chuyển dịch kinh tế xảy ra khi có sự phát triển không đồng đều về quy mô tốc độ
giữa các ngành, vùng. Những cơ cấu kinh tế chủ yếu trong nền kinh tế quốc dân bao gồm
kinh tế ngành, lãnh thổ, theo thành phần kinh tế.

Đầu tư góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp quy luật và chiến lược phát
triển kinh tế xã hội của quốc gia trong từng thời kỳ, tạo ra sự cân đối trên phạm vi nền kinh tế
quốc dân và giữa các ngành, vùng, phát huy nội lực của nền kinh tế, trong khi vẫn coi trọng
yếu tố ngoại lực. Đối với cơ cấu ngành, vốn đầu tư vào ngành nào, quy mô vốn đầu tư từng
ngành nhiều hay ít, việc sử dụng vốn hiệu quả thấp hay cao… đều ảnh hưởng đến tốc độ phát
triển, đến khả năng tăng cường cơ sở vật chất của từng ngành, tạo tiền đề vật chất để phát
triển các ngành mới… do đó, làm dịch chuyển cơ cấu kinh tế ngành. Đối với cơ cấu lãnh thổ,
đầu tư có tác dụng giải quyết những mất mát cân đối về phát triển giữa các vũng lãnh thổ,
đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng đói nghèo, phát huy tối đa những lợi thế
so sánh về tài nguyên, địa thế, kinh tế, chính trị… của những vùng có khả năng phát triển
nhanh hơn, làm bàn đạp thúc đẩy những vùng khác cùng phát triển.
b. Tác động của ĐTPT đến KH&CN

Đầu tư là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến quyết định đổi mới và phát triển khoa
học, công nghệ của một doanh nghiệp và quốc gia. Công nghệ bao gồm các yếu tố cơ bản:
phần cứng (máy móc thiết bị), phần mềm (các văn bản, tài liệu. các bí quyết…), các yếu tố
con người (các kỹ năng quản lý, kinh nghiệm), yếu tố tổ chức… Muốn có công nghệ cần phải
đầu tư vào các yếu tố cấu thành.
9


Trong mỗi thời kỳ các nước có bước đi khác nhau để đầu tư phát triển công nghệ. Ban
đầu sử dụng các lọai công nghệ sử dụng nhiều lao động và nguyên liệu sau đó giảm dần
thông qua việc tăng dần hàm lượng đầu tư vào công nghệ. Đến giai đoạn phát triển, xu hướng
đầu tư mạnh vốn thiết bị và gia tăng hàm lượng tri thức chiếm ưu thế tuyệt đối. Tuy nhiên quá
trình chuyển từ giai đoạn một sang giai đoạn ba là quá trình chuyển từ đầu tư ít sang đầu tư
lớn, thay đổi cơ cấu đầu tư. Không có vốn đầu tư đủ lớn sẽ không đảm bảo sự thành công của
quá trình chuyển đổi và sự phát triển của khoa học công nghệ.
Công nghệ là do doanh nghiệp nhập khẩu từ bên ngoài hoặc do tự nghiên cứu và ứng
dụng. Công nghệ được nhập khẩu qua nhiều đường như mua thiết bị, linh kiện rồi lắp đặt,

mua bằng chế, thực hiện liên doanh… Công nghệ do tự nghiên cứu và triển khai được thực
hiện qua nhiều giai đoạn và từ nghiên cứu đến thí nghiệm sản xuất thử sản xuất thường mất
nhiều thời gian rủi ro cao. Dù vậy nhập hay tự nghiên cứu để có công nghệ đều đòi lượng vốn
đầu tư lớn. mỗi doanh nghiệp, mỗi nước khác nhau cần có bước đi phù hợp để lựa chọn công
nghệ thích hợp. Trên cơ sở đó đầu tư có hiệu quả để phát huy lợi thế so sánh của từng đơn vị
cũng như toàn ngành kinh tế quốc dân.
Để phản ánh sự tác động của đầu tư đến trình độ phát triển của KHCN, có thể sử dụng các
chỉ tiêu sau:
-

-

-

-

-

Tỷ trọng vốn đầu tư đổi mới công nghệ / tổng vốn đầu tư. Chỉ tiêu này cho thấy mức độ đầu
tư đổi mới công nghệ nhiều hay ít trong mỗi thời kì.
Tỷ trọng chi phí mua sắm máy móc thiết bị / tổng vốn đầu tư thực hiện. Chỉ tiêu này cho thấy
tỷ lệ vốn là máy móc thiết bị chiếm bao nhiêu. Đối với các doanh nghiệp khai khoáng, chế
tạo, lắp ráp, tỷ lệ này phải lớn.
Tỷ trọng vốn đầu tư theo chiều sâu / tổng vốn đầu tư thực hiện. Đầu tư chiều sâu thường gắn
liền với đổi mới công nghệ. Do đó, chỉ tiêu này càng lớn phản ánh mức độ đầu tư đổi mới
KHCN cao.
Tỷ trọng vốn đầu tư cho các công trình mũi nhọn, trọng điểm. Các công trình trọng điểm, mũi
nhọn thường là các công trình đầu tư lớn, công nghệ hiện đại, mang tính chất đầu tư mới, tạo
tiền đề để ĐTPT các công trình khác. Chỉ tiêu này càng lớn cho thấy mức độ tập trung của
công nghệ và gián tiếp phản ánh mức độ hiện đại của công nghệ.

c. ĐTPT góp phần giải quyết các vấn đề xã hội
Đầu tư làm xuất hiện những ngành sản xuất mới gắn liền với chuyên môn hóa và phân công
lao động xã hội mới, làm cho nền kinh tế phát triển năng động và hiệu quả hơn. Hàng triệu
việc làm mới được tạo ra, góp phần xoá đói giảm nghèo và giảm tỷ lệ thất nghiệp.
Đầu tư tác động đến phát triển nguồn nhân lực: nâng cao dân trí, trình độ hiểu biết, ý thức của
người dân.
Đầu tư góp phần bảo tồn, tôn tạo, trùng tu những giá trị lịch sử, thiên nhiên, văn hóa,… xây
dựng hình ảnh của đất nước.

10


CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG VỀ SỰ TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ TỚI
TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM
3.1

Tổng quan về hoạt động đầu tư và tình hình tăng trưởng Việt Nam thời gian qua

3.1.1. Tình hình huy động và sử dụng vốn đầu tư

Năm 2015 tiếp tục thực hiện đề án tổng thể tái cơ cấu nền kinh tế trong đó có tái cơ cấu
đầu tư đi đôi với việc tiếp tục giảm dần đầu tư công, giảm tỷ trọng và nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn nhà nước, hoàn thiện thể chế về đầu tư nhằm huy động mạnh mẽ các nguồn lực xã
hội cho đầu tư phát triển. Việc triển khai, thực hiện có hiệu quả các văn bản pháp quy quan
trọng trong hoạt động đầu tư: Luật đầu tư công, Luật đầu tư (sửa đổi), Luật doanh nghiệp
(sửa đổi), Luật đấu thầu, Nghị định về đầu tư theo hình thức đối tác công tư (PPP)... đã góp
phần tăng cường quản lý và nâng cao hiệu quả đầu tư.
Bên cạnh đó, các ngành và cơ quan chức năng thực hiện đẩy mạnh huy động các nguồn
lực và đa dạng hóa hình thức đầu tư, đồng thời tập trung chỉ đạo tháo gỡ vướng mắc, khó
khăn để đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư phát triển theo kế hoạch được giao, đặc biệt

là các chương trình dự án sử dụng nguồn vốn ODA và vốn vay ưu đãi. Môi trường pháp lý
đầu tư được đổi mới và từng bước hoàn thiện góp phần thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
FDI theo hướng nâng cao chất lượng nguồn vốn, khuyến khích các dự án sử dụng công nghệ
cao, thân thiện với môi trường, sản xuất các sản phẩm có khả năng cạnh tranh và tham gia
chuỗi sản xuất toàn cầu, ưu tiên các dự án phát triển công nghệ phụ trợ, góp phần thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế.
Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội thực hiện năm 2015 theo giá hiện hành ước tính đạt
1367,2 nghìn tỷ đồng, tăng 12% so với năm 2014 và bằng 32,6% GDP, bao gồm: Vốn khu
vực Nhà nước đạt 519,5 nghìn tỷ đồng, chiếm 38% tổng vốn và tăng 6,7% so với năm trước;
vốn khu vực ngoài Nhà nước đạt 529,6 nghìn tỷ đồng, chiếm 38,7% và tăng 13%; vốn khu
vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 318,1 nghìn tỷ đồng, chiếm 23,3% và tăng 19,9%.
Tốc độ phát triển vốn đầu tư phát triển toàn xã hội các năm 2013, 2014 và 2015 so với
năm trước (Theo giá hiện hành)
Đơn vị tính: %
Năm 2013

Năm 2014

Năm 2015

Tổng số

108,4

111,5

112,0

Khu vực Nhà nước


108,7

110,2

106,7

Khu vực ngoài Nhà nước

107,1

113,6

113,0

Khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài

109,9

110,5

119,9

Trong vốn đầu tư của khu vực Nhà nước, vốn từ ngân sách Nhà nước thực hiện năm 2015
ước tính đạt 220,4 nghìn tỷ đồng, bằng 100,6% kế hoạch năm và tăng 6,1% so với năm 2014,
gồm có:
-

Vốn trung ương quản lý đạt 43 nghìn tỷ đồng, bằng 105,6% kế hoạch năm và tăng 4,5% so
với năm trước, trong đó vốn thực hiện của Bộ Giao thông Vận tải là 7299 tỷ đồng, bằng
106,2% và tăng 19%; Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn 3008 tỷ đồng, bằng 105,2% và

11


-

giảm 7,5%; Bộ Xây dựng 1761 tỷ đồng, bằng 113,7% và giảm 6,3%; Bộ Y tế 1682 tỷ đồng,
bằng 106,3% và tăng 63,5%; Bộ Giáo dục và Đào tạo 862 tỷ đồng, bằng 101,3% và tăng
25,1%; Bộ Tài nguyên và Môi trường 700 tỷ đồng, bằng 102% và giảm 1,5%; Bộ Văn hoá,
Thể thao và Du lịch 584 tỷ đồng, bằng 99,6% và tăng 16,2%; Bộ Công thương 430 tỷ đồng,
bằng 99,7% và tăng 21,5%; Bộ Khoa học và Công nghệ 330 tỷ đồng, bằng 111,5% và tăng
15,2%; Bộ Thông tin và Truyền thông 191 tỷ đồng, bằng 105,5% và giảm 9,9%.
Vốn địa phương quản lý đạt 177,4 nghìn tỷ đồng, bằng 99,5% kế hoạch năm và tăng 6,5% so
với năm 2014. Trong đó, vốn ngân sách Nhà nước cấp tỉnh đạt 121,8 nghìn tỷ đồng, bằng
94,5% và tăng 6,1%; vốn ngân sách Nhà nước cấp huyện đạt 45,3 nghìn tỷ đồng, bằng 110%
và tăng 9,1%; vốn ngân sách Nhà nước cấp xã đạt 10,3 nghìn tỷ đồng, bằng 124,1% và tăng
0,5%. Một số địa phương có số vốn thực hiện lớn là: Hà Nội đạt 21,7 nghìn tỷ đồng, bằng
107,7% kế hoạch năm và giảm 9,3% so với năm trước; thành phố Hồ Chí Minh 18,8 nghìn tỷ
đồng, bằng 86,2% và tăng 8,3%; Quảng Ninh 6,2 nghìn tỷ đồng, bằng 87,3% và tăng 57,2%;
Bình Dương 5,2 nghìn tỷ đồng, bằng 104,9% và tăng 16,7%; Vĩnh Phúc 5 nghìn tỷ đồng,
bằng 96,2% và tăng 35,1%; Nghệ An 4,9 nghìn tỷ đồng, bằng 103,6% và tăng 7,1%; Hải
Phòng 4,4 nghìn tỷ đồng, bằng 183,6% và tăng 25,1%.
Đầu tư trực tiếp của nước ngoài từ đầu năm đến thời điểm 15/12/2015 thu hút 2013 dự án
được cấp phép mới với số vốn đăng ký đạt 15,58 tỷ USD, tăng 26,8% về số dự án và giảm
0,4% về số vốn so với cùng kỳ năm 2014. Đồng thời có 814 lượt dự án đã cấp phép từ các
năm trước được cấp vốn bổ sung với 7,18 tỷ USD. Như vậy tổng vốn đăng ký của các dự án
cấp mới và vốn cấp bổ sung đạt 22,76 tỷ USD, tăng 12,5% so với năm 2014. Vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài thực hiện năm 2015 ước tính đạt 14,5 tỷ USD, tăng 17,4% so với năm trước.
Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo thu hút đầu tư nước ngoài lớn nhất với số vốn đăng
ký đạt 15,23 tỷUSD, chiếm 66,9% tổng vốn đăng ký; ngành sản xuất và phân phối điện, khí
đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí đạt 2809,3 triệu USD, chiếm 12,4%; ngành

kinh doanh bất động sản đạt 2394,7 triệu USD, chiếm 10,5%; các ngành còn lại đạt 2320,1
triệu USD, chiếm 10,2%.
Cả nước có 48 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có dự án đầu tư trực tiếp nước
ngoài được cấp phép mới trong năm 2015, trong đó thành phố Hồ Chí Minh dẫn đầu với số
vốn đăng ký đạt 2811,7 triệu USD, chiếm 18% tổng vốn đăng ký cấp mới; tiếp đến là Trà
Vinh 2526,8 triệu USD, chiếm 16,2%; Bình Dương 2465,8 triệu USD, chiếm 15,8%; Đồng
Nai 1471,9 triệu USD, chiếm 9,4%; Hà Nội 910,7 triệu USD, chiếm 5,8%; Hải Phòng 573,1
triệu USD, chiếm 3,7%; Tây Ninh 502,9 triệu USD, chiếm 3,2%; Quảng Ninh 373,9 triệu
USD, chiếm 2,4%.
Trong số 58 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư cấp mới tại Việt Nam năm 2015,
Hàn Quốc là nhà đầu tư lớn nhất với 2678,5 triệu USD, chiếm 17,2% tổng vốn đăng ký cấp
mới; tiếp đến là Ma-lai-xi-a 2447,5 triệu USD, chiếm 15,7%; Xa-moa 1314 triệu USD, chiếm
8,4%; Nhật Bản 1285 triệu USD, chiếm 8,2%; Vương quốc Anh 1265,7 triệu USD, chiếm
8,1%; Xin-ga-po 1035 triệu USD, chiếm 6,6%; Đài Loan 940,4 triệu USD, chiếm 6%
3.1.2. Tình hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam

Với việc gia nhập tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) năm 2007, tốc độ tăng trưởng
GDP lên tới gần 8,5%. Từ khi khủng hoảng kinh tế toàn cầu nổ ra năm 2008, Việt Nam chìm
12


trong vòng xoáy tăng trưởng chậm khi các thị trường xuất khẩu lớn bị ảnh hưởng, sức mua
trong nước giảm. Cả giai đoạn này, tăng GDP luôn thấp hơn 7% và ngày càng đi xuống.
Trong khoảng 5 năm trở lại đây (2011-2015), nền kinh tế thế giới đang bước vào giai đoạn
phục hồi, cùng với đó là nỗ lực của Nhà nước, chính phủ trong việc đưa đất nước ra khỏi giai
đoạn tăng trưởng chậm đã đạt được một số kết quả rõ rệt, tốc độ tăng trưởng kinh tế liên tục
tăng từ năm 2013 (5,42%), năm 2014 (5,98%) và năm 2015 đạt con số 6,68% -cao hơn mục
tiêu 6,2% đề ra và cao hơn mức tăng của các năm từ 2011-2014 cho thấy nền kinh tế Việt
Nam đang phục hồi rõ rệt.
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2015 ước tính tăng 6,68% so với năm 2014, trong

đó quý I tăng 6,12%; quý II tăng 6,47%; quý III tăng 6,87%; quý IV tăng 7,01%. Mức tăng
trưởng năm nay cao hơn mục tiêu 6,2% đề ra và cao hơn mức tăng của các năm từ 20112014[1], cho thấy nền kinh tế phục hồi rõ nét. Trong mức tăng 6,68% của toàn nền kinh tế,
khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,41%, thấp hơn mức 3,44% của năm 2014, đóng
góp 0,4 điểm phần trăm vào mức tăng chung; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 9,64%,
cao hơn nhiều mức tăng 6,42% của năm trước, đóng góp 3,2 điểm phần trăm; khu vực dịch
vụ tăng 6,33%, đóng góp 2,43 điểm phần trăm.
Trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, ngành lâm nghiệp có mức tăng cao nhất với
7,69%, nhưng do chiếm tỷ trọng thấp nên chỉ đóng góp 0,05 điểm phần trăm vào mức tăng
chung; ngành nông nghiệp mặc dù tăng thấp ở mức 2,03% do ảnh hưởng của thiên tai, hạn
hán, nhưng quy mô trong khu vực lớn nhất (chiếm khoảng 75%) nên đóng góp 0,26 điểm
phần trăm; ngành thủy sản tăng 2,80%, đóng góp 0,09 điểm phần trăm, là mức tăng trưởng
thấp nhất của ngành này trong 5 năm qua[2] do đối mặt với nhiều khó khăn về thời tiết, dịch
bệnh, giá cả và thị trường tiêu thụ sản phẩm.
Trong khu vực công nghiệp và xây dựng, ngành công nghiệp tăng 9,39% so với năm trước,
trong đó côngnghiệp chế biến, chế tạo tăng 10,60%, cao hơn nhiều mức tăng của một số năm
trước[3], đóng góp đáng kể vào tốc độ tăng của khu vực II và góp phần quan trọng trong mức
tăng trưởng chung. Ngành khai khoáng tăng 6,50%. Ngành xây dựng đạt mức tăng 10,82% so
với năm trước, đây là mức tăng cao nhất kể từ năm 2010[4].
Trong khu vực dịch vụ, đóng góp của một số ngành có tỷ trọng lớn vào mức tăng trưởng
chung như sau: Bán buôn và bán lẻ chiếm tỷ trọng lớn nhất, đạt mức tăng 9,06% so với năm
2014, đóng góp 0,82 điểm phần trăm vào mức tăng chung; hoạt động tài chính, ngân hàng và
bảo hiểm tăng 7,38%, đóng góp 0,41 điểm phần trăm; hoạt động kinh doanh bất động sản
được cải thiện hơn với mức tăng 2,96%, cao hơn mức tăng 2,80% của năm trước và chủ yếu
tập trung vào mua nhà ở, đóng góp 0,16 điểm phần trăm.
Quy mô nền kinh tế năm nay theo giá hiện hành đạt 4192,9 nghìn tỷ đồng; GDP bình
quân đầu người năm 2015 ước tính đạt 45,7 triệu đồng, tương đương 2109 USD, tăng 57
USD so với năm 2014. Cơ cấu nền kinh tế năm nay tiếp tục có sự chuyển dịch nhưng tốc độ
chậm, trong đó khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 17,00%; khu vực công
nghiệp và xây dựng chiếm 33,25%; khu vực dịch vụ chiếm 39,73% (thuế sản phẩm trừ trợ
cấp sản phẩm là 10,02%). Cơ cấu tương ứng của năm 2014 là: 17,70%; 33,21%; 39,04%

(thuế là 10,05%).
Xét về góc độ sử dụng GDP năm 2015, tiêu dùng cuối cùng tăng 9,12% so với năm 2014,
đóng góp 10,66 điểm phần trăm vào mức tăng chung; tích lũy tài sản tăng 9,04%, đóng góp
13


4,64 điểm phần trăm; chênh lệch xuất, nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ làm giảm 8,62 điểm
phần trăm của mức tăng trưởng chung
3.2. Tác động của đầu tư tới tăng trưởng và phát triển của Việt Nam
3.2.1. Tác động của đầu tư tới tốc độ, quy mô tăng trưởng kinh tế

Tăng trưởng kinh tế xét ở đầu vào, có ba yếu tố đóng góp. Đó là sự đóng góp của yếu tố
số lượng vốn đầu tư, đóng góp của số lượng lao động và đóng góp của yếu tố năng suất các
nhân tố tổng hợp (TFP). Theo tính toán ban đầu, yếu tố số lượng vốn đầu tư đã đóng góp
khoảng 57%, yếu tố số lượng lao động đóng góp khoảng 20%, yếu tố TFP đóng góp 23%. Từ
sự đóng góp như trên, có thể rút ra một số nhận xét đáng lưu ý.
Một là, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam dựa chủ yếu vào sự đóng góp của yếu tố số
lượng vốn đầu tư. Tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP luôn giữ ở mức cao, vốn đầu tư phát triển
toàn xã hội có tốc độ tăng trưởng được duy trì và là nguồn lực quan trọng cho tăng trưởng
kinh tế. Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội trên GDP của 10 năm (2007-2016) đạt tương
ứng là 46,5%, 41,5%, 42,7%, 41,1%, 33,3%, 31,1%, 30,5%, 31,0%, 30,5% cho các năm
2007, 2008, 2009, 2010, 2011, 2012, 2013, 2014, 2015, đạt 31,0% theo kế hoạch năm 2016.
Năm 2007, tổng vốn đầu tư chỉ đạt 532,1 nghìn tỷ đồng thì đến năm 2016 dự kiến đạt 1.588
nghìn tỷ đồng, bằng 31,0% GD. Vốn FDI trong 10 năm (2007-2016), thực hiện được khoảng
112,23 tỷ USD. FDI thực hiện bình quân mỗi năm từ khi gia nhập WTO đạt là 11,22 tỷ
USD.Tuy nhiên, tỉ trọng vốn trên GDP khá cao so với các nước trong khu vực cũng đặt ra
nhiều vấn đề đối với Việt Nam, gây ra tình trạng “nóng” của nền kinh tế, do lượng tiền lưu
thông và tín dụng đầu tư gia tăng nhanh hơn so với cung ứng hàng hóa và dịch vụ.
Hai là, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam hiện còn dựa một phần quan trọng vào yếu tố số
lượng lao động. Thống kê cho thấy tỉ trọng của yếu tố lao động tác động tới GDP từ năm

2011 tới nay vào khoảng 19,1%, sự quan trọng này được xét trên hai mặt. Một mặt, do nguồn
lao động hàng năm vẫn còn tăng khoảng 2%, tức là trên 1 triệu người mỗi năm. Mặt khác, do
tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và tỷ lệ thiếu việc làm ở nông thôn còn cao.
Ba là, nếu tính cả sự đóng góp của yếu tố số lượng vốn đầu tư và sự đóng góp của yếu tố
số lượng lao động, thì hai yếu tố này đã đóng góp trên ba phần tư tổng tốc độ tăng trưởng
kinh tế của Việt Nam. Điều đó chứng tỏ, sự đóng góp của yếu tố TFP đối với tổng tốc độ tăng
trưởng kinh tế còn nhỏ, chưa được một phần tư, thấp chỉ bằng hai phần ba tỷ trọng đóng góp
của yếu tố này của các nước trong khu vực hiện nay.
Không chỉ tốc độ tăng trưởng, hiệu quả đầu tư đã có bước cải thiện, với ICOR giai đoạn
2011-2015 đạt 6,91, giảm so với giai đoạn 2006-2010 (là 6,96). Cũng rất đáng ghi nhận khi
trong bối cảnh tổng vốn đầu tư toàn xã hội so với GDP giảm mạnh (còn khoảng 32,6% GDP
vào năm 2015) thì tốc độ tăng trưởng vẫn duy trì ở mức hợp lý. Tuy nhiên ICOR của Việt
Nam còn cao, hiệu quả đầu tư còn thấp so với nhiều nền kinh tế trong khu vực. Nguyên nhân
một phần là do nền kinh tế đang trong giai đoạn tập trung đầu tư cho hạ tầng, bao gồm cả hạ
tầng ở vùng sâu, vùng xa và đầu tư cho xóa đói, giảm nghèo, đảm bảo an sinh xã hội, nhưng
nếu so với các quốc gia khác đã trải qua giai đoạn phát triển tương đồng, thì hệ số ICOR của
Việt Nam hiện vẫn cao.Điều này được lí giải là do việc sử dụng vốn vay ở một số dự án còn
kém hiệu, còn thất thoát, lãng phí. Các dự án đầu tư công dù thời gian qua đã được cải thiện
đáng kể, song tình trạng đầu tư dàn trải, thất thoát, lãng phí cũng còn nhiều.
3.2.2. Đầu tư tác động làm tăng năng lực khoa học công nghê của đất nước
14


Trong những năm gần đây, nhận thức vai trò của phát triển khoa học công nghệ đã được
nâng cao tại Việt Nam, thể hiện ở một số mặt như:
Nhà nước bảo đảm chi cho khoa học và công nghệ (KHCN) từ 2% trở lên trong tổng chi
ngân sách nhà nước hàng năm - là nội dung quan trọng được ghi nhận trong Luật KHCN
2013. Chi 2% ngân sách nhà nước cho hoạt động KHCN đã thể hiện sự quan tâm rất lớn của
Nhà nước tới lĩnh vực này. Mặc dù chi ngân sách nhà nước đã ưu tiên nhiều hơn cho hoạt
động KHCN nhưng so với nhiều nước trên thế giới và trong khu vực thì nguồn lực đầu tư cho

KHCN ở nước ta vẫn còn khiêm tốn. Tổng đầu tư cho KHCN bình quân đầu người của Việt
Nam thấp hơn nhiều lần so với các nước trên thế giới. Tỉ lệ chi cho khoa học công nghệ tuy
tương đương với mức trung bình của các nước trên thế giới nhưng về số tuyệt đối thì thấp
hơn khá nhiều. Một ví dụ là nguồn tài chính cho KH-CN ở nước ta năm 2012 chỉ là 700 triệu
USD trong khi chỉ riêng Tập đoàn Samsung của Hàn Quốc đã chi hơn 1 tỷ USD cho công
nghệ. Tuy nhiên cũng không thể phủ nhận một số thành tựu đã đạt được trong thời gian qua
như: Giàn khoan tự nâng 90m nước, Lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt tái hoạt động, Dây chuyền
sản xuất thiết bị điện tử viễn thông tân tiến nhất ở khu vực Đông Nam Á được xây dựng và
đưa vào hoạt động bởi “Trung tâm sản xuất thiết bị điện tử Viettel”,….
Lĩnh vực KH-CN thời gian qua đạt được nhiều thành tựu, đóng góp thiết thực cho phát
triển kinh tế - xã hội. Đặc biệt, việc đầu tư vào KH-CN đã giúp cho nhiều doanh nghiệp nâng
cao chất lượng sản phẩm, tăng tính cạnh tranh trên thị trường. Điển hình như Tập đoàn Viễn
thông Quân đội (Viettel) năm 2010 đã thành lập Viện nghiên cứu riêng, theo mô hình của các
tập đoàn lớn trên thế giới. Viettel đã trích 10% lợi nhuận trước thuế cho Quỹ Phát triển KHCN, tương đương với 2.500 tỷ đồng. Với mức đầu tư như vậy, chỉ sau một thời gian ngắn, các
sản phẩm quan trọng bậc nhất phục vụ cho ngành công nghệ thông tin và viễn thông mà viện
nghiên cứu nói trên của Viettel làm ra đã đáp ứng được nhu cầu của sự phát triển doanh
nghiệp và giá chỉ bằng 1/3 so với giá thị trường. Tuy nhiên nhìn chung phát triển khoa học kĩ
thuật ở nước ta còn nhiều hạn chế. trên 95% doanh nghiệp hiện nay thuộc loại nhỏ và siêu
nhỏ, do nguồn lực hạn chế nên chỉ tập trung vào đổi mới công nghệ hơn là triển khai nghiên
cứu. Ngoài ra, 30% doanh nghiệp chưa nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của hoạt động
KHCN trong doanh nghiệp. Ngay cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng chưa
quan tâm tới nghiên cứu.
3.2.3. Đầu tư tác động tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là sự thay đổi tỷ trọng của các bộ phận cấu thành của nền
kinh tế. Đầu tư có tác động quan trọng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đầu tư góp phần làm
chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với quy luật và chiến lược phát triển kinh tế xã hội của
quốc gia trong từng thời kỳ, tạo sự cân đối mới trên phạm vi nền kinh tế quốc dân và giữa các
ngành, vùng, nhằm phát huy nội lực của nền kinh tế trong khi vẫn coi trọng yếu tố ngoại lực
Tác động của đầu tư tới chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế

Đối với cơ cấu ngành, đầu tư vốn vào ngành nào, quy mô vốn đầu tư vào từng ngành
nhiều hay ít, việc sử dụng vốn có hiệu quả cao hay thấp… đều ảnh hưởng đến tốc độ phát
triển, đến khả năng tăng cường cơ sở vật chất của từng ngành, tạo điều kiện tiền đề vật chất
cho sự phát triển các ngành mới… do đó làm dịch chuyển cơ cấu kinh tế ngành
Bảng 1.1. Đầu tư theo ngành kinh tế ( tỷ đồng )
( Nguồn: Tính toán dựa trên số liệu của Tổng cục thống kê)
15


Năm

2011

2012

2013

2014

Nông nghiệp

55.284

52.930

63658

73667

Khai khoáng


67.950

70.405

68.299

75.021

CN chế biến, chế tạo

186.008

222.528

262.846

292.015

SX, PP điện, khí
đốt,nước nóng,….

75.347

79.294

66.175

74.829


Xây dựng

43.914

47.273

59.975

76.416

Dịch vụ

339.939

388.087

446.180

495.089

Việc đầu tư như trên đã tác động đến chuyển dịch cơ cấu ngành theo hướng tích cực phù
hợp với tiến trình CNH, HĐH đất nước.
Tỷ trọng GDP của ngành nông nghiệp từ năm 2011 là 19,57% giảm xuống còn 17,7%
năm 2014. Tỷ trọng công nghiệp trong GDP đã tăng nhanh, năm 2014 ltăng 7,6 % so với năm
2013. Tỷ trọng của dịch vụ trong GDP cũng ngày càng tăng cao và dần chiếm ưu thế.
Việc chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế cũng phụ thuộc vào đầu tư nước ngoài. Các dự án
đầu tư trực tiếp nước ngoài chủ yếu tập trung vào lĩnh vực công nghiệp và xâydựng với 2885
dự án, vốn đăng ký 23213,71 triệu USD (chiếm 66,7% số dự án, 56,9% tổng số vốn đăng ký);
nông nghiệp có 596 dự án với vốn đăng ký 2893,34 triệu USD (chiếm 13,8% dự án; 7,1%
vốn đăng ký); ngành dịch vụ có 843 dự án với vốn đăng ký 14682,7 triệu USD (chiếm

20,41% số dự án; 36% vốn đăng ký. ( Nguồn: Bộ kế hoạch và đầu tư, giai đoạn 1988 – 2003 )
Một số tồn tại khi tập trung đầu tư vào công nghiệp, dịch vụ là: việc môi trường quanh
các khu công nghiệp ngày càng ô nhiễm ( VD: Vụ việc Vedan xả thải ra sông Thị Vải), các tệ
nạn xã hội quanh các khu CN, sự mất phương hướng của người nông dân hay các vấn đề nan
giải của ngành dịch vụ…
Tác động của đầu tư phát triển tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng lãnh thổ
Đối với cơ cấu kinh tế vùng lãnh thổ, đầu tư có tác dụng giải quyết những mất cân đối về
phát triển giữa các vùng lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng đói
nghèo, phát huy tối đa những lợi thế so sánh về tài nguyên, địa thế, kinh tế, chính trị…của
những vùng có khả năng phát triển nhanh hơn.
Cơ cấu vốn đầu tư tập trung vào 2 vùng kinh tế lớn là vùng Đồng bằng sông Hồng và
vùng Đông Nam Bộ. Vùng miền núi phía Bắc và Tây nguyên là 2 vùng có tỷ trọng đầu tư nhỏ
nhất.

16


Nguồn vốn đầu tư thường được tập trung tại những vùng kinh tế trọng điểm của đất nước.
Các vùng kinh tế trọng điểm được đầu tư phát huy thế mạnh của mình, góp phần lớn vào sự
phát triển chung của cả nước, làm đầu tàu kéo kinh tế chung của đất nước đi lên. Ba vùng
kinh tế trọng điểm phía Bắc, miền Trung và phía Nam luôn đóng góp gần một nửa GDP vào
nền kinh tế.
Bảng 1.2. Đầu tư trực tiếp của nước ngoài được cấp giấy phép năm 2014
Vùng lãnh thổ
Đồng bằng sông Hồng
Trung du và miền núi phía Bắc
Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền trung
Đông Nam Bộ
Đồng bằng sông Cửu Long


Số dự án
757
76
114
738
142

Về đầu tư bằng nguồn vốn nước ngoài, vốn FDI thường đầu tư vào các vùng kinh tế phát
triển, do đó các vùng kinh tế trọng điểm đã chiếm tới 80% vốn FDI. Ngược lại, vốn ODA lại
thường được ưu tiên hỗ trợ các vùng kinh tế kém phát triển hơn.
Tuy nhiên, việc đầu tư chỉ tập trung vào một số khu vực gây ra nhiều bất cập. Sự phát
triển chênh lệch quá lớn giữa các vùng cũng gây ra những khó khăn lớn trong nền kinh tế,
gây mất cân đối trong sự phát triển giữa các vùng, gia tăng khoảng cách phát triển giữa các
vùng kinh tế. Đồng thời tạo ra các vấn đề nan giải về môi trường, các vấn đề an ninh, tệ nạn,
di dân, bỏ đất hoang,….
Tác động của đầu tư tới chuyển dịch cơ cấu theo thành phần kinh tế
Đối với mỗi quốc gia, việc tổ chức các thành phần kinh tế chủ yếu phụ thuộc vào chiến
lược phát triển của chính phủ. Các chính sách kinh tế sẽ quyết định thành phần nào là chủ
đạo, thành phần nào là được ưu tiên phát triển, vai trò, nhiệm vụ của các thành phần trong
nền kinh tế. Ở đây, đầu tư đóng vai trò nhân tố thực hiện.
Đầu tư tạo ra sự phong phú, đa dạng về nguồn vốn đầu tư. Cùng với sự xuất hiện của các
thành phần kinh tế mới là sự bổ sung một lượng vốn không nhỏ vào tổng vốn đầu tư của toàn
xã hội, tạo nên nguồn lực mạnh mẽ hơn trước để nâng cao tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Việc có thêm các thành phần kinh tế đã huy động và tận dụng được các nguồn lực trong xã
hội một cách hiệu quả hơn, khuyến khích mọi các nhân tham gia đầu tư vào kinh tế.
Bảng 1.3. Cơ cấu đầu tư theo thành phần kinh tế
Cơ cấu vốn đầu tư ( % )
2011
2012
2013

2014
Kinh tế Nhà Nước
37
40,3
40,4
39,9
KT ngoài Nhà nước
38,5
38,1
37,7
38,4
Khu vực vốn nước
24,5
21,6
21,9
21,7
ngoài
( Nguồn: Tổng cục thống kê )
Bảng 1.4. Cơ cấu GDP theo thành phần kinh tế ( % )
2011
2012
17

2013

2014


Kinh tế Nhà nước
29,01

29,39
29,01
28,73
Kinh tế ngoài nhà nước
43,87
44,62
43,52
43,33
Kinh tế tập thể
3,98
4
4,03
4,04
Kinh tế tư nhân
7,34
7,97
7,78
7,79
Kinh tế cá thể
32,55
32,65
31,71
31,5
( Nguồn: Tổng cục thống kê )
Từ bảng trên, ta thấy, trong giai đoạn trước khu vực kinh tế Nhà nước luôn chiếm lượng
đầu tư lớn nhất nhưng đến những năm gần đây đã giảm đi đáng kể, lượng đầu tư đã tập trung
nhiều hơn vào 2 khu vực còn lại. Vì thế GDP các khu vực cũng có sự thay đổi cùng chiều với
đầu tư. Hiện nay, khu vực kinh tế ngoài Nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đang
vươn lên mạnh mẽ bởi sự năng động, sáng tạo và ngày càng thu hút nhiều nguồn lực.
3.2.4. Đầu tư tác động tới năng suất lao động


Đầu tư vào các lĩnh vực đào tạo, dạy nghề và khoa học công nghệ đã tác động đến chất
lượng lao động ở nước ta mà chỉ số phản ánh chất lượng này chính là năng suất lao động.
Năng suất lao động của một quốc gia trước hết phụ thuộc vào mức độ hiệu quả sử dụng
lao động kết hợp với các yếu tố sản xuất khác, như máy móc và công nghệ, và lượng máy
móc và công nghệ mà một người lao động của quốc gia đó được sử dụng

Qua biểu đồ ta có thể thấy trong 10 năm qua, năng suất lao động đã có sự tăng trưởng khá
mạnh, từ mức hơn 22 triệu đồng/người thì sau 10 năm đã lên gần 80 triệu đồng/người. Năng
suất lao động người Việt đã có sự cải thiện đáng kể theo hướng tăng đều, bình quân giai đoạn
2006-2015 tăng 3,9% mỗi năm. So với năm 2010, năng suất lao động đã tăng 23,6%, song
vẫn thấp hơn so với mục tiêu đề ra là 29-32%.
Mức chi cho đầu tư phát triển, giáo dục đào tạo phát triển nguồn nhân lực ngày càng gia
tăng. Cụ thể Mức đầu tư phát triển năm 2015 đã tăng 12% so với năm trước, đạt hơn
1.367.000 tỉ đồng, giúp cho tổng sản phẩm quốc nội (GDP) tăng 6,68%, là mức cao nhất
trong bảy năm qua. Tổng mức đầu tư phát triển năm nay tương đương với 32,6% GDP.
Những năm trước, tỉ lệ này khoảng 31% GDP. Ngoài mức đầu tư phát triển năm 2015 đã tăng
12% so với năm trước, vốn FDI năm nay giải ngân cũng tăng mạnh, ước khoảng 14,5 tỉ đô la,
tăng 17,4% so với năm trước.
18


Quốc hội cũng thông qua dự toán NSNN năm 2016 với tổng thu NSNN là 1.014,5 nghìn
tỷ đồng, tổng chi NSNN là 1.273,2 nghìn tỷ đồng, bội chi NSNN là 254 nghìn tỷ đồng
(4,95% GDP). Trong đó, chi NSNN đã từng bước cơ cấu lại, tỷ trọng chi thường xuyên giảm
từ 66,9% năm 2015 xuống còn 64,7% năm 2016; nâng tỷ trọng chi đầu tư phát triển từ mức
17% năm 2015 lên 20% năm 2016
Chất lượng nguồn nhân lực cùng với trình độ khoa học công nghệ kỹ thuật là yếu tố quan
trọng góp phần tăng tỷ trọng của yếu tố năng suất tổng hợp TFP trong GDP, một trong ba
nhân tố tác động trực tiếp đến tăng trưởng và phát triển kinh tế,

Trong ba yếu tố tác động tới tăng trưởng kinh tế là tốc độ tăng của vốn, lao động và TFP,
vốn có tốc độ tăng cao nhất với tốc độ tăng bình quân giai đoạn 2006 - 2010 là 11,67%; giai
đoạn 2011 - 2014 là 7,52%. Tốc độ tăng của lao động 2006 - 2010, 2011 - 2014 lần lượt là
2,78% và 1,97%. TFP có tốc độ tăng chậm nhất, giai đoạn 2006 - 2010 là -0,27%, giai đoạn
2011 - 2014 là 1,44%.
Xét về xu hướng đóng góp của các yếu tố vào tăng trưởng kinh tế, giai đoạn 2006 - 2010,
tăng vốn đóng góp vào tăng trưởng kinh tế lên tới 80%, đóng góp của tăng lao động là 26%,
đóng góp của tăng TFP là - 5,8%. Tuy nhiên, giai đoạn 2011 - 2013 đã có sự thay đổi rõ rệt,
đóng góp của vốn chỉ còn 55,6%, đóng góp của lao động là 22,3% và đóng góp của tăng TFP
lên tới 22,2%. Giai đoạn 2011- 2014, đóng góp của tăng TFP vào tăng trưởng kinh tế là
25,8%.
3.2.5. Đầu tư tác động đến tiến bộ xã hội và môi trường

Đầu tư giữ vai trò quan trọng, quyết định tới tăng trưởng kinh tế cũng đồng thời là một
nhân tố gián tiếp góp phần xây dựng một xã hội tiến bộ. Có thể thấy trong những năm qua,
đầu tư đã góp phần cải thiện cuộc sống người dân, thu nhập bình quân đầu người tăng liên tục
qua các năm như năm 2015 thu nhập bình quân đầu người đạt mức 45,7 triệu đồng (tương
đương 2.109 USD) năm 2015 tăng 3,8% so với năm 2014 và tăng gấp 1,6 lần so với con số
1300 USD của năm 2011. Cùng với đó là việc đầu tư xây dựng các công trình giao thông then
chốt của nền kinh tế như đường bộ, sân bay, bến cảng, đường sắt, công trình thủy lợi được
nâng cấp và làm mới; các công trình điện, thông tin liên lạc, các khu đô thị, khu công nghiệp,
các bệnh viện, trường học, công trình văn hóa thể thao được cải tạo và xây dựng đã giúp cải
thiện, nâng cao mức sống của nhân dân làm thay đổi diện mạo cả đô thị và nông thôn.
Cùng với việc chú trọng vào phát triển, tăng trưởng kinh tế, những năm gần đây, một cụm
từ rất được quan tâm là “ Phát triển bền vững”. Nhờ những cố gắng của toàn Đảng, toàn dân,
Việt Nam đã bước đầu kiềm chế được tốc độ gia tăng ô nhiễm thông qua việc đẩy mạnh các
hoạt động phòng ngừa, kiểm soát và xử lý các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.
Kết quả rõ nét nhất là trong 10 năm qua, với tốc độ GDP của nước ta tăng lên 2 lần thì mức
độ ô nhiễm môi trường bình quân theo đánh giá của Ngân hàng thế giới sẽ phải tăng lên 4
lần, nhưng thực tế chỉ tăng khoảng 2,5 lần.

Bên cạnh những kết quả đạt được, thời gian qua, cũng có không ít các vụ việc liên quan
đến các dự án đầu tư ảnh hưởng lâu dài đến môi trường sống bị đưa ra trước công chúng.
Tháng 4/2016, hiện tượng cá chết hàng loạt tại vùng biển các tỉnh miền trung được cho là do
chất thải của nhà máy Formosa làm dư luận không khỏi bàng hoàng. Đại diện công ty đã đưa
ra câu hỏi: “Việt Nam chọn cá hay nhà máy thép công nghệ cao?” đặt ra câu hỏi về những bất

19


cập trong công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường, về vấn đề đầu tư và phát triển bền
vững.
3.3. Những tồn tại và nguyên nhân
3.3.1. Hiệu quả đầu tư tới tăng trưởng kinh tế

Tuy hiệu quả đầu tư đã được cải thiện trong thời gian qua ,hệ số ICOR của Việt Nam
2011-2013 (6,99), cao hơn của Indonesia (4,64), Lào (2,59), Malaysia (5,40), Philippines
(4,10), Trung Quốc (6,40), nghĩa là đầu tư của Việt Nam kém hiệu quả nhất so với các nước
này. Nguyên nhân chủ yếu là do đầu tư dàn trải và kém hiệu quả, đặc biệt là khu vực đầu tư
công, khu vực luôn chiếm tỉ trọng vốn cao nhất trong tổng đầu tư.

Hệ số ICOR khu vực công luôn giữ ở mức cao cho thấy hiệu quả sử dụng vốn của khu
vực này còn thấp. Tuy mục đích chính của nguồn vốn này không phải để tạo ra lợi nhuận
nhưng cũng phải thẳng thắn thừa nhận hiệu quả đầu tư ở khu vực này còn thấp, cần có những
thay đổi để có thể sử dụng hiệu quả nguồn vốn này cho xứng với số vốn bỏ ra. Một số
nguyên nhân chính của hiện tượng này:
1. Tốc độ chuyển dịch cơ cấu đầu tư còn chậm và bất hợp lý

Trong giai đoạn 2000-2012, đầu tư cho lĩnh vực kinh tế luôn chiếm trên 77% vốn đầu tư
của Nhà nước, đầu tư vào các ngành thuộc lĩnh vực xã hội liên quan đến phát triển con người,
đào tạo nguồn lực còn rất hạn chế. Cơ cấu đầu tư công chưa thể hiện rõ được vai trò “bà đỡ”

cho nền kinh tế. Bởi lĩnh vực kinh tế cũng là lĩnh vực mà tư nhân có tiềm lực và sẵn sàng đầu
tư, trong khi đầu tư vào phát triển nguồn lực con người chưa được quan tâm tương xứng.
Trong suốt giai đoạn từ 1995 – 2013, hai ngành luôn chiếm vị thế đi đầu trong đầu tư nhà
nước đó là vận tải, kho bãi, thông tin truyền thông và sản xuất, phân phối điện, khí đốt. Trong
khi đó, giáo dục, đào tạo và nông nghiệp lâm nghiệp, thủy sản là các ngành lẽ ra phải được
tăng cường đầu tư nhưng lại bị sao nhãng. Trong thời kỳ đổi mới kinh tế và hội nhập quốc tế,
nâng cao chất lượng nguồn lực và phát huy thế mạnh nông-lâm-nghiệp được coi là ưu tiên
hàng đầu của Việt Nam. Song cơ cấu đầu tư nhà nước chưa thể hiện được điều này.
Trong điều kiện một quốc gia đang phát triển với nguồn lực hạn chế như Việt nam, cơ cấu
đầu tư nhà nước cần thể hiện rõ tính tập trung và ưu tiên vào các lĩnh vực mũi nhọn. Tuy
nhiên thực tế, Việt Nam đang thực hiện cơ chế phân bổ vốn đầu tư dàn trải cho nhiều ngành,
nhiều lĩnh vực nhằm ... đảm bảo sự đồng đều. Đầu tư nhà nước vào các ngành công nghiệp,
công nghệ cao, các ngành có khả năng dẫn dắt chuyển đối cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại
hóa còn chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Hệ quả tất yếu sẽ dẫn tới tình trạng không đủ vốn,
trì trệ, ì ạch và nhiều dự án đầu tư nhà nước “đắp chiếu” vài tháng, thậm chí vài năm.
20


2. Công tác quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch xây dựng còn nhiều bất cập,

thiếu sự đồng bộ gây ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư các dự án công ở Việt Nam
Hiện nay, công tác quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội còn yếu kém, phương pháp quy
hoạch chưa bài bản và sự phối hợp thiếu chặt chẽ, không ăn khớp giữa các cấp, các ngành và
mức độ tham gia hạn chế của các tổ chức xã hội, các nhà khoa học và cộng đồng dân cư trong
việc lập quy hoạch đã làm giảm tính khả thi của quy hoạch, gây ra tình trạng sử dụng lãng phí
các nguồn lực của xã hội xảy ra khá phổ biến.
Điển hình như ở ngành giao thông vận tải, việc bố trí nhiều sân bay, bến cảng gần nhau,
mà chưa tính hết sự gắn kết trong việc khai thác hiệu quả tổng hợp, kết cấu hạ tầng hiện có
chưa phù hợp với khả năng phát triển kinh tế và nguồn vốn đầu tư của thời điểm đầu tư, dẫn
đến nhiều đoạn đường, cảng biển, cảng sông, sân bay khai thác chưa hiệu quả.

3. Việc phân bổ vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước còn dàn trải, số vốn bình quân phân bổ

cho các dự án hàng năm thấp
Việc phân bổ dàn trải, nguồn vốn chung có ít, trong lúc phải đầu tư cho rất nhiều các dự
án, chương trình dẫn tới tình trạng chậm tiến độ kéo dài, chậm đưa vào sử dụng, làm gia tăng
chi phí đầu tư. Nguyên nhân một phần cũng là do việc phân cấp quá triệt để cho các địa
phương, trong khi Bộ Kế hoạch và Đầu tư lại không giám sát được hết.
Thực tế đó cộng hưởng với chủ nghĩa thành tích, hội chứng nhiệm kỳ, xin - cho, ban phát
và địa phương chủ nghĩa… đã làm chệch mục tiêu tốt đẹp, mà chủ trương phân cấp đã kỳ
vọng. Từ 2006 đến nay, phần lớn dự án đầu tư công đều được phân cấp cho ngành và địa
phương, nhưng nguồn vốn đều được ghi là “xin vốn từ ngân sách trung ương”.
Hệ quả là các dự án do các địa phương quyết định quá nhiều, nhưng nguồn vốn đầu tư từ
ngân sách lại hạn hẹp và bị dàn trải. Năm 2000 vốn đầu tư phân cho Trung ương và địa
phương theo tỷ lệ 60/40. Nhưng, tỷ lệ này đang có xu hướng giảm dần tỷ trọng vốn cấp Trung
ương, tăng tỷ trọng vốn cấp địa phương, năm 2011, tỷ trọng vốn trung ương/địa phương là
43,5/56,5.
Hơn nữa, cơ cấu đầu tư theo vùng, miền còn chưa hợp lý. Nhiều địa phương có xu hướng
muốn hướng đến một cơ cấu đầu tư tương tự nhau, hơn là hình thành một cơ cấu đầu tư nhằm
phát huy lợi thế so sánh của từng địa phương.
4. Quan niệm về đầu tư công vẫn có sự lệch lạc

Đầu tư công được xác định là đầu tư từ nguồn vốn nhà nước cho cả các hoạt động kinh
doanh và hoạt động không vì lợi nhuận. Chưa tách biệt rõ ràng giữa mục tiêu kinh doanh và
mục tiêu xã hội của hoạt động đầu tư tại các doanh nghiệp nhà nước. Vì vậy, dẫn đến đánh
giá hiệu quả đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước, các tổng công ty, các tập đoàn kinh tế
nhà nước vẫn còn mập mờ, thiếu minh bạch và không có tính thuyết phục.
5. Cơ chế giám sát, kiểm tra thực hiện đầu tư công chưa được chú trọng đúng mức

Tuy đã thực hiện phân cấp mạnh trong cơ chế quản lý vốn đầu tư, song chế độ thông tin
báo cáo, kiểm tra, giám sát trong một số khâu chưa được điều chỉnh tương xứng, nên công tác

thống kê, tổng hợp, đánh giá gặp nhiều khó khăn. Công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán của
các cơ quan nhà nước chưa thường xuyên, chưa liên tục, hiệu quả công tác giám sát còn thấp.

21


Tại một số nước tiên tiến như Vương quốc Anh, Hàn Quốc, Chile, việc kiểm tra, đánh giá
hoàn thành dự án được thực hiện thông qua chính sách hậu kiểm. Ở Chile và Hàn Quốc, quan
chức giữ vai trò lớn trong việc kiểm tra tài sản hoàn thành so với kế hoạch dự án. Tại Ireland
và Vương quốc Anh, việc đánh giá hoàn thành dự án là đánh giá tác động của dự án đầu tư
dựa trên kết quả đầu ra. Tại các quốc gia này, các dự án đầu tư đều phải được kiểm toán.
Ở Trung Quốc, việc tổ chức giám sát các dự án đầu tư công được thực hiện thông qua
nhiều cấp, nhiều vòng giám sát khác nhau. Mục đích giám sát đầu tư của cơ quan chính phủ
là đảm bảo đầu tư đúng mục đích, đúng dự án, đúng quy định và có hiệu quả. Cơ quan có dự
án phải bố trí người thực hiện giám sát dự án thường xuyên theo quy định của pháp luật.
6. Quá trình quản lý dự án đầu tư công, từ giai đoạn chuẩn bị đầu tư cho đến giai đoạn kết

thúc xây dựng, đưa dự án vào vận hành thực sự chưa hiệu quả
Cụ thể, quá trình phê duyệt quyết định dự án gắn liền với việc bố trí vốn cho dự án,
nhưng thực tế hiện nay các ngành và địa phương quyết định về dự án đầu tư còn vốn, thì ghi
là vốn ngân sách và xin từ Trung ương. Tình trạng này dẫn đến các dự án đều được phê
duyệt, nhưng không có vốn hoặc thiếu vốn để triển khai.
Tại các nước khác, như Trung Quốc, tất cả các dự án đầu tư công đều phải nằm trong quy
hoạch đã dược duyệt mới được chuẩn bị đầu tư. Các bộ, ngành, địa phương căn cứ vào các
quy hoạch phát triển đã được duyệt để đề xuất, xây dựng kế hoạch đầu tư và danh mục các dự
án đầu tư (bằng vốn của ngân sách nhà nước và vốn đầu tư của xã hội). Trung Quốc rất coi
trọng khâu chủ trương đầu tư dự án. Tất cả các dự án đầu tư công đều phải lập báo cáo đề
xuất dự án, kể cả các dự án đã có trong quy hoạch đã được phê duyệt. Việc điều chỉnh dự án
(điều chỉnh mục tiêu đầu tư, quy mô đầu tư dự án, tổng mức đầu tư) nằm trong quy hoạch đã
được phê duyệt phải được sự chấp thuận của cơ quan phê duyệt quy hoạch đó.

Trong khi đó, khâu chủ trương đầu tư lại rất nhạy cảm với những hành vi đưa và nhận hối
lộ, làm chệch hướng dẫn đến hậu quả lâu dài, nặng nề… vẫn chưa được hóa giải ở Việt Nam.
7. Bất cập trong lập và quản lý chi phí đầu tư xây dựng công trình

Các quy định chi phí tư vấn đầu tư xây dựng, trong đó gồm cả chi phí thẩm tra tính hiệu
quả, tính khả thi của dự án và chi phí thẩm tra tổng mức đầu tư là không hợp lý. Điều này dẫn
đến hậu quả là:
-

-

Công trình xây dựng xong đưa vào sử dụng không đạt hiệu quả kinh tế xã hội, thậm chí
không có hiệu quả (nhà máy không có đủ nguyên liệu, chợ không có người họp, cảng không
khai thác hết công suất...).
Công trình xây dựng với chi phí quá cao dẫn đến giá thành sản phẩm cao, không đủ sức cạnh
tranh, hoạt động cầm chừng càng sản xuất càng lỗ
3.3.2. Tiến bộ xã hội và môi trường
Tuy GDP bình quân đầu người tăng nhưng đời sống người dân cải thiện không đáng kể do
chênh lệch giàu nghèo ở nước ta còn lớn. Khu vực thành thị, nơi có lượng đầu tư lớn, thu
nhập cao lại đi cùng với chi phí sinh hoạt lớn, khu vực nông thôn tỉ lệ thất nghiệp còn nhiều,
thu nhập thấp, đời sống nhân dân còn khó khăn. Đặc biệt chúng ta có thể kể đến hai vùng
Đông Bắc và Tây Nguyên. Hai vùng này có hố ngăn cách về giàu – nghèo ngày càng bị khoét
rộng hơn, sự phân hóa giàu nghèo ngày một sâu sắc hơn. Nếu như năm 2002 thu nhập của

22


nhóm giàu gấp hơn 6 lần thu nhập của nhóm nghèo thì đến năm 2014 con số này đã đạt đến
8,5 và 8,6 lần.
Trong những năm qua, cùng với sự phát triển kinh tế, môi trường đã bị phá hủy một cách

nghiêm trọng. Các dự án thủy điện, các dự án vốn đầu tư nước ngoài đã nâng cao đời sống
người dân, thay đổi bộ mặt cả nước nhưng đi cùng với đó là những tác động không nhỏ tới
môi trường. Trong những tháng đầu năm nay, đất nước đã phải đối mặt với rất nhiều vụ việc
liên quan đến môi trường. Điển hình chúng ta có thể nhắc tới thủy điện An Khê – Kanak,
được coi là một “sai lầm thế kỉ” . Việc chặn dòng trái với tự nhiên đã gây ra những hiệu quả
nghiêm trọng: Hạn hán đang lên đỉnh điểm gay gắt nhất trong lịch sử ở các tỉnh Tây Nguyên.
Hàng trăm ngàn hecta cây trồng bị hư hại, hàng ngàn người dân bị thiếu nước; ảnh hưởng
kinh tế rất lớn. Đối với người dân sinh sống hai bên sông Ba, khốn khổ càng khốn khổ hơn.
Ước tính thiệt hại do hạn hán gây ra khoảng 2,5 tỉ đồng.
Nguyên nhân của vấn đề này là do sự quản lí của nhà nước đối với các dự án đầu tư còn
kém hiệu quả, các tiêu chuẩn về môi trường đối với các dự án FDI còn thấp, Công tác kiểm
tra, giám sát việc chấp hành các quy định về bảo vệ môi trường đối với các doanh nghiệp ở
địa phương, đặc biệt là việc quản lý, giám sát các hoạt động khai thác tài nguyên thiên nhiên
còn nhiều bất cập. Ở nhiều nơi, lãnh đạo các cấp, ngành và chính quyền địa phương còn
buông lỏng quản lý, chưa chặt chẽ và quyết liệt.
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay đang tạo nên một nhu cầu rất lớn về tài
nguyên thiên nhiên, đặc biệt là nguyên liệu cho các ngành kinh tế. Việc khai thác, tận dụng
tối đa mọi nguồn lực tài nguyên thiên nhiên sẵn có làm cho các chủ thể, trong đó có doanh
nghiệp thu về lợi nhuận lớn. Ngược lại, chi phí cho vấn đề bảo vệ, tái tạo và cải thiện môi
trường tự nhiên làm suy giảm lợi nhuận của doanh nghiệp. Chính vì vậy, nhiều doanh nghiệp
không tuân thủ nghiêm pháp luật về bảo vệ môi trường, làm cho môi trường tự nhiên ngày
càng suy kiệt.
Đối với người dân, nhận thức và ý thức bảo vệ môi trường tự nhiên của các chủ thể và
người dân còn rất thấp, chưa có thói quen tự giác bảo vệ môi trường. Tình trạng vứt rác bừa
bãi làm mất vệ sinh nơi công cộng; sử dụng các biện pháp hủy diệt trong khai thác thủy sản,
đánh bắt động vật quý hiếm ;… còn khá phổ biến. Đó là chưa kể lối sống của người sản xuất
nhỏ, tự do, tùy tiện, thái độ bàng quan với tài nguyên môi trường. Nhiều vấn đề môi trường
của ngày hôm nay là kết quả từ những hạn chế trong nhận thức và thái độ của con người.
Nhiều quyết định hàng ngày của con người ngày hôm nay có ảnh hưởng lớn đến môi trường
trong tương lai, chẳng hạn như nên sử dụng túi nilong hay thay thế bằng làn, bằng túi giấy đi

chợ; nên đi xe máy hay xe đạp khi đi làm hay đi chơi (quyết định cá nhân); nên sử dụng giấy
tái sinh hay mua nguyên liệu mới (quyết định của doanh nghiệp); nên phát triển năng lượng
hạt nhân hay sử dụng năng lượng truyền thống (quyết định Nhà nước). Tập hợp nhiều quyết
định sẽ tạo nên một chuỗi hành vi của con người có ảnh hưởng xấu hoặc tốt đến môi trường
tự nhiên.
Mâu thuẫn giữa yêu cầu phải bảo vệ môi trường tự nhiên trong quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa với cơ sở vật chất - kỹ thuật, tiềm lực khoa học - công nghệ và nhân lực cho bảo
vệ môi trường tự nhiên còn nhiều hạn chế.
3.3.3. Về năng suất lao động

23


Thời gian qua, đầu tư phát triển công nghệ ở Việt Nam đã có bước phát triển quan trọng
song tiến độ còn chậm, tác động của sự phát triển khoa học công nghệ đối với tăng trưởng
kinh tế còn chưa cao.Sự tăng lên của kết quả sản xuất do tăng TFP ở Việt nam còn ở mức
thấp. So với 1 số nước trong khu vực cho thấy, trong giai đoạn 2001-2010, Việt Nam đạt mức
rất thấp 4,3%, trong khi Hàn Quốc đạt 51,3%, Thái Lan đạt 36,1%, Trung Quốc 35,2%..Tỷ lệ
đóng góp của TFP trong tăng trưởng GDP phản ánh trình độ, ý thức tổ chức và quản lý trong
sản xuất kinh doanh của lao động Việt Nam còn ở mức thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu của
nền sản xuất hiện đại
Như vậy những năm qua đầu tư phát triển công nghệ, khoa học kĩ thuật, giáo dục đào tạo
có những bước phát triển quan trọng nhưng tiến độ còn chậm, tác động của việc phát triển đó
đối với tăng trưởng còn chưa cao. Sự tăng trưởng kinh tế do yếu tố TFP còn thấp có thể nói
rằng sự tăng trưởng kinh tế còn chưa bền vững.
Mặc dù năng suất lao động của toàn nền kinh tế năm 2015 tính theo giá hiện hành đạt
79,3 triệu VND, tương đương 3.657 USD/lao động, tăng 6,42% so với năm 2014, đưa bình
quân giai đoạn 2005 – 2015 tăng 3,9%/năm, tuy nhiên, nghiên cứu của Viện nghiên cứu và
quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) về năng suất lao động chỉ ra từ năm 2005, tốc độ tăng
năng suất lao động của Việt Nam có xu hướng đi xuống đến mức thấp nhất là 2,57% vào năm

2009. Kể cả trong giai đoạn 1992 – 2014, tốc độ tăng năng suất của Việt Nam ở mức khá cao
là 4,64%/năm, thì tốc độ này ở Trung Quốc là 9,07%/năm. Thu nhập bình quân người Việt
năm 2015 ở mức 2.109 USD, chỉ tương đương 1/6 thu nhập của người Malaysia và 1/16
Singapore.
Về chất lượng lao động của nước ta thời gian qua thật sự đáng lo ngại bởi con số có đến
50% lao động chưa qua đào tạo, năng suất lao động của Việt Nam thuộc nhóm thấp nhất châu
Á - Thái Bình Dương, thấp hơn Singapore 15 lần, thấp hơn Nhật Bản 11 lần và Hàn Quốc 10
lần. So với các nước láng giềng ASEAN có mức thu nhập trung bình năng suất lao động của
Việt Nam cũng chỉ bằng 1/5 Malaysia và 2/5 so với Thái Lan. Theo tổ chức lao động quốc tế
IPO, năng suất lao động của Việt Nam đã thua Lào, hiện chỉ hơn Myanmar và Campuchia
Nguyên nhân chủ yếu là cơ cấu kinh tế chậm chuyển dịch, lao động trong nông nghiệp
chiếm tỷ lệ cao, trong khi năng suất ngành này lại thấp. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
của Việt Nam tuy theo hướng tích cực nhưng vẫn còn chậm và có khoảng cách khá xa so với
yêu cầu của một nước công nghiệp. Tỷ trọng lao động trong khu vực nông, lâm nghiệp và
thủy sản đã giảm liên tục từ 55,1% năm 2005 xuống 49,5% năm 2010 và còn 44,3% năm
2015. Tuy nhiên do tốc độ tăng lực lượng lao động khá nhanh, bình quân 1,9%/ năm trong
giai đoạn trên nên số lao động trong khu vực này chỉ giảm được 112,3 nghìn người, đến năm
2015 vẫn còn 23,5 triệu người đang làm việc trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản. So
với các nước trong khu vực tỷ trọng này còn khá cao. Mặt khác phần lớn lao động trong khu
vực này là lao động giản đơn, có tính thời vụ, việc làm không ổn định, nên giá trị gia tăng tạo
ra không cao dẫn đến NSLĐ thấp. Có tới 44,3% lao động cả nước nhưng chỉ tạo ra 17,4%
GDP. Lao động đang làm việc ở nước ta chủ yếu là lao động tự làm và lao động gia đình có
thu nhập thấp, bấp bênh, không ổn định đang có xu hướng tăng lên.
Một nguyên nhân khác là do công nghệ lạc hậu. Trình độ công nghệ hiện nay đang sử
dụng ở Việt Nam thấp hơn tương đối nhiều so với các nước trong khu vực. Hàm lượng công
nghệ các ngành xuất khẩu của Việt Nam hầu như không thay đổi sau 10 năm. Tỷ trọng sử
dụng các ngành công nghệ cao chỉ chiếm 12% đến 13%, công nghệ trung bình khoảng 10%,
24



công nghệ thấp chiếm trên 60%. Trong khi các quốc gia trong khu vực đều có ngành công
nghệ trung cao chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu xuất khẩu. Điều này phản ánh sự tụt hậu khá
xa của Việt Nam về năng lực cạnh tranh công nghệ. Bên cạnh đó hiệu quả sử dụng vốn đầu tư
có xu hướng giảm thấp, đáng lo ngại cho khoảng 10 năm trở lại đây. Nguyên nhân chủ yếu do
đầu tư dàn trải, thiếu trọng tâm, trọng điểm, thất thoát lãng phí.
Trình độ công nghệ thấp và lạc hậu là do tỷ lệ đầu tư cho khoa học, công nghệ còn chưa
tương xứng. Thực tế kinh phí sự nghiệp khoa học, công nghệ năm 2014 là 7.680 tỷ đồng,
bằng 56% so với tổng chi ngân sách cho khoa học, công nghệ. Tỷ lệ chi ngân sách dành cho
khoa học, công nghệ không đạt 20% theo quy định và có hướng giảm dần. Năm 2014 giảm
xuống còn 1,36% so với 1,42% năm 2013. Cơ chế chi tiêu cho khoa học có những vấn đề,
vấn đề về tài chính chưa phù hợp với thực tiễn của việc hoạt động khoa học, công nghệ. Vì
vậy, việc đầu tư cho khoa học, công nghệ cần phải được làm mạnh hơn và quan tâm nhiều
hơn.
Năng suất lao động thấp một phần vì khả năng tự tích lũy của nền kinh tế còn thấp. Để
sản xuất không chỉ cần lao động mà phải có thiết bị công nghệ. Quá trình tăng năng suất lao
động của loài người luôn đi đôi với điều kiện tăng mức trang bị thiết bị kỹ thuật công nghệ
cho lao động. Như vậy phải có vốn đầu tư, tăng vốn đầu tư để cơ khí hóa, tự động hóa, tin
học hóa sản xuất. Một nước nghèo thì khả năng tự tiết kiệm để đầu tư hạn chế. Do vậy, phải
có một quá trình tích lũy vốn và đầu tư hàng chục năm mới thực hiện được cơ khí hóa, tự
động hóa và tin học hóa nền kinh tế.
3.3.4. Những khó khăn và nguyên nhân trong việc phát triển KH-CN tại Việt Nam

Khung hành lang pháp lý, việc hoàn thiện thể chế, hệ thống chính sách để bảo đảm Luật
KH&CN được triển khai sâu rộng vào cuộc sống, tạo đà cho phát triển kinh tế - xã hội, đưa
KH&CN thực sự trở thành lực lượng sản xuất quan trọng để phát triển kinh tế vẫn còn nhiều
bất cập. Việc ban hành các văn bản dưới Luật như Nghị định, Thông tư hướng chậm chạp,
khiến cho quá trình thực hiện Luật KH&CN gặp nhiều khó khăn. Thủ tục xét duyệt, thẩm
định các dự án đầu tư đổi mới công nghệ trong doanh nghiệp Nhà nước kéo dài, khiến nhiều
đơn vị không hào hứng tham gia hoặc khó khuyến khích họ có chiến lược đầu tư dài hạn.
Hiệu quả đầu tư vào khoa học công nghệ chưa cao. Chi ngân sách nhà nước cho khoa học

công nghệ là 2% là một con số khá khiêm tốn, bởi vì gần như 90% của con số là chi thường
xuyên và chi mua sắm trang thiết bị, trả lương, sửa chữa nhà cửa…, còn lại khoảng 10% đầu
tư nghiên cứu cho cho cấp nhà nước hoặc cấp bộ, tỉnh, cơ sở. Như vậy, một năm chúng ta chỉ
có khoảng hơn 2.000 tỷ đồng cho hoạt động nghiên cứu, chia ra mỗi viện nghiên cứu được
vài tỷ đồng tiền ngân sách, mỗi đầu nhà khoa học nghiên cứu được vài chục triệu đồng, như
thế là quá thấp.
Tổng đầu tư xã hội cho KH-CN rất thấp do chưa huy động được sự đầu tư của xã hội,
nhất là của doanh nghiệp. Hiện đầu tư cho KH-CN của khối doanh nghiệp chỉ bằng 50% đầu
tư từ ngân sách nhà nước. Các doanh nghiệp nước ta có đến 95% là doanh nghiệp vừa và nhỏ,
mức độ quan tâm đến phát triển khoa học công nghệ còn thấp. Luật khoa học công nghệ
2013 bắt buộc doanh nghiệp phải dành tối thiểu 3%, tối đa 10% để đầu tư cho khoa học công
nghệ. Nhưng trên thực tế, các doanh nghiệp của chúng ta vẫn chưa thực hiện được điều này.
Lý do là cơ chế chính sách của chúng ta khuyến khích doanh nghiệp thành lập Quỹ phát triển
khoa học công nghệ cũng như dành một phần lợi nhuận để đầu tư cho khoa học công nghệ
còn bất cập.
25


×