Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

tìm hiểu về quản lý ngân sách chu trình ngân sách và cân đối ngân sách nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (238.07 KB, 34 trang )

Mục lục


A.

MỞ ĐẦU
Ngân sách nhà nước là một phạm trù kinh tế mang tính lịch sử, nó phản ánh
những mặt nhất định của các quan hệ kinh tế thuộc lĩnh vực phân phối sản
phẩm xã hội trong điều kiện còn tồn tại quan hệ hàng hoá - tiền tệ và được
sử dụng như một công cụ thực hiện các chức năng của nhà nước. Trong nền
kinh tế thị trường, ngân sách nhà nước là công cụ huy động nguồn tài chính
để đảm bảo các nhu cầu chi tiêu cùa Nhà nước, đồng thời là một trong
những công cụ quan trọng của Nhà nước trong việc quản lý và điều hành vĩ
mô nền kinh tế - xã hội. Ngân sách nhà nước được tạo lập từ nhiều nguồn
khác nhau như: thuế, phí, lệ phí, các khoản đóng góp tự nguyện, viện trợ
trong nước, viện trợ không hoàn lại của nước ngoài. Ở Việt Nam, kể từ khi
nền kinh tế chuyển sang vận hành theo cơ chế thị trường, đặc biệt là trong
bối cảnh hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, đã dần dần làm biến đổi các
yếu tố cấu thành của nền kinh tế, có yếu tố cũ mất đi, có yếu tố mới ra đời,
có yếu tố vẫn giữ nguyên hình thái cũ nhưng nội dung của nó đã bo hàm
nhiều điều mới hoặc chỉ được biểu hiện trong những khoảng không gian và
thời gian nhất định. Trong lĩnh vực tài chính-tiền tệ, ngân sách nhà nước
được xem là một trong những mắt xích quan trọng của tiến trình đổi mới,
lĩnh vực ngân sách nhà nước đã đạt được những thàng tựu đáng kể. Cùng với
việc mở cửa kinh tế, khai thác quản lý tình hình thu – chi ngân sách là rất
quan trọng.


B. NỘI DUNG
I. Tổng quan về Ngân sách Nhà nước
1. Khái niệm







Có nhiều quan niệm về Ngân sách Nhà nước (NSNN) xuất phát từ các cách
tiếp cận khác nhau. Theo điều 1 của Luật Ngân sách Nhà nước được Quốc
hội khóa XI nước CHXHCN Việt Nam thông qua tại kì họp thứ 2 năm
2002, “Ngân sách Nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã
được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong
một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước.”
NSNN bao gồm các khoản thu chi của Nhà nước nên quản lí NSNN là quản
lí việc thu chi ngân sách sao cho hiệu quả.
NSNN bao gồm Ngân sách Trung ương (NSTW) và Ngân sách địa phương
(NSĐP)
- NSTW là ngân sách của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc chính
phủ và các cơ quan khác ở trung ương.
- NSĐP bao gồm ngân sách của đơn vị hành chính các cấp có Hội đồng
nhân dân và Ủy ban nhân dân.


2. Đặc điểm
NSNN là một khâu quan trọng trong hệ thống tài chính quốc gia, biểu hiện các mối
quan hệ kinh tế của Nhà nước với các chủ thể khác
 Các quan hệ tài chính thuộc NSNN có những đặc điểm chung sau đây:
-

-

-


Việc tạo lập và sử dụng NSNN luôn gắn liền với quyền lực Nhà nước và
việc thực hiện các chức năng của Nhà nước được Nhà nước tiến hành
trên cơ sở những luật lệ nhất định.
NSNN luôn gắn chặt với sở hữu Nhà nước và chứa đựng những lợi ích
chung, lợi ích công cộng.
NSNN là một quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước và được chia thành
nhiều quỹ nhỏ, có tác dụng riêng và chỉ sau đó NSNN mới được dung để
thực hiện các mục đích đã định trước. Đây là nét riêng có của NSNN so
với các quỹ tiền tệ khác
Hoạt động thu chi NSNN theo nguyên tắc không hoàn trả trực tiếp là chủ
yếu.

3. Thu- chi NSNN
a. Thu NSNN
-

-

Khái niệm: Thu NSNN là việc Nhà nước dùng quyền lực của mình để
tập trung một phần nguồn tài chính quốc gia hình thành quỹ ngân sách
nhà nước nhằm thỏa mãn các nhu cầu của nhà nước.
Phân loại:
+ Thông thường: cân đối và thâm hụt.
+ Phạm vi: trong nước và nước ngoài.
+ Tính chất: thường xuyên và không thường xuyên.
+ Hình thức động viên: bắt buộc và tự nguyện.

b. Chi NSNN
-


Khái niệm: Chi NSNN là việc phân phối và sử dụng quỹ Ngân sách Nhà
nước nhằm đảm bảo thực hiện chức năng của Nhà nước theo những
nguyên tắc nhất định, là quá trình phân phối lại các nguồn tài chính đã


-

được tập trung vào Ngân sách Nhà nước và đưa chúng đến mục đích sử
dụng.
Phân loại: chi thường xuyên và chi đầu tư phát triển.

II. Quản lý Ngân sách Nhà nước
1. Khái niệm quản lý ngân sách
Quản lý ngân sách Nhà nước là việc xây dựng kế hoạch tạo lập, sử dụng ngân
sách Nhà nước tập trung các khoản thu, tổ chức và điều hòa vốn tiền mặt đảm
bảo thực hiện chi tả tiền ngân sách Nhà nước
2. Đặc điểm của quản lý ngân sách Nhà nước
- Là hoạt động do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện
- Thực hiện trong quá trình tổ chức thu, cấp phát, thanh toán các khoản chi và
kiểm soát các khoản chi
- Mục đích của quản lý NSNN là nhằm đảm bảo khả năng thanh toán, chi trả
và sử dụng có hiệu quả ngân sách
3. Nguyên tác quản lý ngân sách nhà nước
Nguyên tắc thống nhất, tập trung dân chủ: Tất cả các khoản thu NSNN
đều được tập trung vào kho bạc nhà nước,và tất cả các khoản chi của NSNN
qua hệ thống kho bạc nhà nước, được kho bạc nhà nước cấp phát, chi trả cho
các đối tượng được thụ hưởng.Kho bạc nhà nước tiếp nhận, tập trung các
khoản thu cho NSNN theo lệnh của người chuẩn thu và thực hiện chi trả
theo lệnh của cơ quan tài chính hoặc thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách

hoặc người được ủy quyền chuẩn chi dưới hai hình thức lệnh chi tiền và cấp
phát hạn mức kinh phí
Nguyên tắc công khai, minh bạch: Quản lý ngân sách đòi hỏi phải công
khai, minh bạch xuất phát từ đòi hỏi chính đáng của người dân với tư cách là
người nộp thuế cho Nhà nước. Việc Nhà nước có đảm bảo trách nhiệm trước
dân về huy động và sử dụng các nguồn thu hay không phụ thuộc nhiều vào
tính minh bạch của ngân sách. Điều này cũng rất quan trọng đối với nhà tài
trợ. Những nhà đầu tư cũng cần có sự minh bạch về ngân sách để có thể đưa
ra các quyết định đầu tư, cho vay...
Nguyên tắc đảm bảo trách nhiệm: Với tư cách là người được nhân dân "uỷ
thác" trong việc sử dụng nguồn lực, Nhà nước phải đảm bảo trách nhiệm
trước nhân dân về toàn bộ quá trình quản lý ngân sách, về kết quả thu, chi
ngân sách.Tính chịu trách nhiệm bao gồm chịu trách nhiệm có tính chất nội
bộ vàchịu trách nhiệm ra bên ngoài. Điều này cũng được thể hiện rõ trong
luật ngân sách của Việt Nam. Quốc hội, Hội đồng nhân dân được bầu theo


nhiệm kỳ và chịu trách nhiệm giải trình trước toàn bộ cử tri về ngân sách.
Cơ quan hành pháp chịu trách nhiệm giải trình trước cơ quan lập pháp.
Nguyên tắc đảm bảo cân đối ngân sách nhà nước: Đảm bảo cân đối ngân
sách từ một đòi hỏi có tính chất khách quan xuất phát từ vai trò nhà nước
trong can thiệp vào nền kinh tế thị trường với mục tiêu ổn định, hiệu quả và
công bằng. Thông thường, khi thực hiện ngân sách các khoản thu dự kiến sẽ
không đủ để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà nước. Vì vậy, tính toán nhu
cầu chi sát với khả năng thu trong khi lập ngân sách là rất quan trọng. Các
khoản chi chỉ được phép thực hiện khi đã có đủ các nguồn thu
bù đắp.
4.Nội dung quản lý Ngân sách Nhà nước
- Tổ chức hệ thống ngân sách nhà nước
- Phân cấp quản lý ngân sách

Phân cấp quản lý ngân sách là quá trình Nhà nước trung ương phân giao
nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm nhất định cho chính quyền địa phương
trong hoạt động quản lý ngân sách.
-

Quản lý chu trình NSNN
Xây dụng kế hoạch tạo lập và sử dụng quỹ NSNN , lập và cụ thể hóa thu chi
NSNN cả năm và theo định kì kế hoạch

-

Quản lý thu chi NSNN
Tập trung các nguồn thu là việc sử dụng hệ thống pháp luật thu hiện hành,
các nghiệp vụ và kế hoạch thu được phân bổ để tạo lập quỹ NSNN, kể cả
việc thực hiện các nghiệp vụ này
Tổ chức điều tiết nguồn thu cho từng cấp NSNN trên cơ sở kế hoạch đã
được phân bổ, đảm bảo nguồn kinh phí kịp thời các các cấp NSNN
Thực hiện chi trả, cấp phát cho các đối tượng, kiểm tra việc sử dụng kinh phí
theo chế độ chi tiêu của NN


4. Thực trạng quản lý ngân sách ở Việt Nam

a. Hệ thống NSNN lồng ghép dẫn đến nhiều hệ lụy trong quản lý điều hành và sử
dụng NSNN
Hệ thống NSNN mang tính lồng ghép ở nhiều tầng nấc (NS cấp trên bao gồm cả
NS cấp dưới) nên thẩm quyền quyết định NSNN chồng chéo, không rõ ràng (Quốc
hội quyết định NSNN tức là quyết định cả NSTW và NSĐP, trong khi HĐND lại
quyết định NSĐP. Đối với địa phương thì HĐND cấp trên quyết định NSĐP lại bao
gồm cả NSĐP cấp dưới. Tức là với một cấp NSĐP có nhiều cấp cùng quyết định

NS, đối với NS cấp xã có đến 4 cấp cùng quyết định). Quy trình NS về dự toán và
quyết toán cũng vì vậy mà kéo dài về thời gian, phức tạp về quản lý (dự toán
NSNN được lập từ dưới lên và quyết định, giao dự toán lại từ trên xuống. Quyết
toán NS được lập, phê chuẩn từ dưới lên).
b.Phạm vi NSNN không đầy đủ, rõ ràng
Phạm vi thu, chi NSNN được quy định khá đầy đủ và rõ ràng trong luật NSNN
(luật ban hành năm 2002). Tuy nhiên vì nhiều lí do khác nhau, trong thực hiện
nhiều khoản thu, chi thuộc NSNN không được thể hiện đầy đủ vào NSNN như:
- Một số khoản thu từ phí, lệ phí và chi từ nguồn thu này (như phí sử dụng đường
bộ theo đầu phương tiện).
- Chi đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng KTXH từ nguồn phát hành trái phiếu chính
phủ.
Do NSNN bị phản ánh sai lệch, không đầy đủ, rõ ràng và minh bạch nên việc quản
lý NSNN khó khăn, phức tạp. Việc đánh giá và phân tích NSNN vì vậy nhiều khi
thiếu chính xác, không đúng với bản chất (như bội chi NSNN phải bao gồm cả chi
từ nguồn phát hành trái phiếu chính phủ. Thu NSNN phải bao gồm cả nguồn thu xổ
số kiến thiết …). Cũng do NSNN phản ánh không đầy đủ nên một số khoản thu,
chi đã “trốn” được sự quản lý chặt chẽ của luật NSNN.
c. NSNN vốn đã nhỏ bé về quy mô nhưng một số nguồn thu và nhiệm vụ chi
lại phân tán và không được quản lý chặt chẽ do có nhiều quỹ tài chính nhà nước ngoài
NS
Trong điều kiện NSNN còn hạn hẹp thì việc thành lập các quỹ tài chính nhà nước
ngoài ngân sách nhằm huy động thêm các nguồn lực từ xã hội để thực hiện một số
mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể về phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo… là
cần thiết. Thời gian vừa qua nhiều quỹ tài chính nhà nước ngoài NS đã được thành
lập, trong đó có những quỹ được thành lập theo quy định của các luật chuyên


ngành. Tuy nhiên điều đáng quan tâm là thay vì nguồn hình thành quỹ được đóng
góp từ các đối tượng hưởng lợi hoặc của xã hội thì nhiều quỹ lại dựa vào nguồn

NSNN là chủ yếu. Có những nguồn thu, nhiệm vụ chi đang thuộc NSNN lại được
chuyển thành nguồn thu, nhiệm vụ chi của quỹ (như quỹ bảo trì đường bộ) và
nhiều quỹ được NSNN cấp vốn điều lệ và hỗ trợ hoạt động hàng năm (như quỹ
phát triển khoa học và công nghệ quốc gia, quỹ bảo vệ môi trường …). Có quỹ
không được NSNN hỗ trợ trực tiếp nhưng lại được tập trung một số nguồn thu của
NSNN để thực hiện hoạt động (như quỹ hỗ trợ sắp xếp và phát triển doanh nghiệp
… ).

d. Phân cấp quản lý NS cho địa phương còn có mặt hạn chế, chưa phát huy được
tính chủ động của chính quyền địa phương
- Địa phương được giao quyền tự chủ về NS nhưng một số khoản thu lại quy định
tỷ lệ phần trăm tối thiểu mà NS xã, thị trấn được hưởng (thuế chuyển quyền sử
dụng đất, thuế nhà đất, thuế sử dụng đất nông nghiệp …) đã gây khó khăn cho địa
phương trong điều hành NS do không điều chuyển được NS từ nơi thừa sang nơi
thiếu. Hoặc biên chế hành chính của địa phương lại do TW duyệt trong khi NSĐP
có nhiệm vụ đảm bảo NS cho bộ máy này.


III. Chu trình Ngân sách Nhà nước
1.

Khái niệm

Năm ngân sách được hiểu là khoảng thời gian mà hoạt động thu chi ngân sách
nhà nước được thực hiện.
Mỗi quốc gia lại quy định thời điểm bắt đầu và kết thúc năm ngân sách là khác
nhau.
Ví dụ:
+ Mỹ và Thái Lan quy định năm ngân sách bắt đầu từ ngày 01/10 đến ngày
30/9 năm sau

+ Nhật Bản quy định năm ngân sách bắt đầu từ ngày 01/4 đến ngày 31/3 năm
sau
+ Việt Nam, Malaysia, Hàn Quốc, năm ngân sách bắt đầu từ ngày 01/01 đến
31/12 của năm sau.
Quy trình ngân sách là toàn bộ quá trình từ khi hình thành dự toán cho tới khi
quyết toán xong ngân sách
Quyết định dự toán ngân sách tại Quốc hội là điểm nhấn quan trọng trong quá
trình ngân sách.
2.

Quy trình ngân sách

Một quy trình quyết định dự toán ngân sách tại Quốc hội gồm 3 bước chính:
Bước 1: Lập dự toán ngân sách nhà nước
Bước 2: Xét duyệt và tổng hợp dự toán ngân sách nhà nước
Bước 3: Trình và quyết định dự toán ngân sách tại Quốc hội.
2.1 Lập dự toán ngân sách nhà nước.
2.1.1 Khái niệm


Lập dự toán ngân sách nhà nước là quá trình xây dựng và quyết định dự toán
thu, chi ngân sách của nhà nước trong thời hạn một năm.
Đây là khâu quan trọng của quá trình ngân sách, tạo tiền đề, cơ sở cho các khâu
tiếp theo. Nếu việc lập dự toán ngân sách nhà nước được tiến hành trên cơ sở có
đầy đủ căn cứ khoa học và phù hợp với thực tiễn, bảo đảm đúng tiến độ, thời
gian quy định thì việc tổ chức thực hiện và quyết toán ngân sách nhà nước sẽ có
chất lượng hiệu quả hơn.
Ngược lại nếu quá trình lập dự toán ngân sách nhà nước không được thực hiện
tốt thì không những việc thực hiện ngân sách nhà nước thiếu minh bạch, kém
hiệu quả mà còn làm cho quá trình quyết toán ngân sách nhà nước gặp nhiều

khó khăn, phức tạp.
Chính vì vậy việc nghiên cứu và áp dụng pháp luật trong hoạt động lập dự toán
ngân sách nhất thiết phải được đặt trong mối quan hệ thống nhất, biện chứng
với các giai đoạn sau của toàn bộ quá trình ngân sách.
2.1.2 Nội dung
Quá trình lập dự toán ngân sách nhằm 3 mục tiêu chính:
+ Đảm bảo ngân sách phù hợp với các chính sách phù hợp với các chính sách
kinh tế vĩ mô và giới hạn về nguồn lực
+ Phân bổ nguồn lực phù hợp với chính sách chính Phủ
+ Tạo điều kiện để quản lý quá trình hoạt động của các cơ quan hành chính
Việc dự toán ngân sách gồm 2 quy trình
-

Quy trình từ trên xuống
Bao gồm :
+ Xác định tổng nguồn lực có thể chi tiêu trong kỳ ngân sách(dựa trên khuôn
khổ kinh tế vĩ mô hợp lý)
+ Xác định các hạn mức chi tiêu cho các ngành và địa phương tương ứng
với thứ tự ưu tiên của Chính Phủ
Nhược điểm : mang tính áp đặt , các cấp dưới mất tính chủ động


Quốc Hội

Chính Phủ

Cấp Bộ

Đơn vị Trực thuộc


Đơn vị Trực thuộc

-

Bộ Tài Chính

UBND cấp tỉnh

UBND cấp huyện

UBND cấp xã

Quy trình từ cơ sở lên
Bao gồm việc các ngành và địa phương hoạch định và dự trù kinh phí cho
chương trình chi tiêu của mình trong kỳ ngân sách và trong khuôn khổ hạn
mức chi tiêu đã được phân bổ
Nhược điểm : Mang tính chất 1 chiều  cấp trên không bao giờ đáp ứng đủ,
Ns nhỏ lẻ , không có tính chiến lược tổng thể
Ưu điểm: Phát huy tính tự chủ về Ngân sách
Sơ đồ minh họa cho lập ngân sách tử dưới lên


NS cấp Xã

NS Cấp Huyện

NS Địa Phương

VPUB cấp xã


VPUB Cấp Huyện

VPUB cấp tỉnh

CQ cấp Xã

CQCN cấp huyện

CQCN cấp tỉnh

Đảng , đoàn thể cấp xã

Đảng , đoàn thể cấp
huyện

Đảng, đoàn thể cấp tỉnh

MTEF ( Khung chi tiêu trung hạn)
-

-

-

Khái niệm: Là một quy trình soạn lập và xây dựng kế hoạch Ngân sách minh
bạch , trong đó đề ra giới hạn nguồn lực trung hạn , được phân bổ từ trên
xuống nhằm đảm bảo kỷ luật tài khóa tổng thể và đòi hỏi xây dựng dự toán
chi từ dưới lên , thống nhất với với các chính sách chi tiêu theo các ưu tiên
chiến lược.
Về bản chất, MTEF là một phương pháp soạn lập ngân sách nhà nước

(NSNN), trong đó kinh phí phân bổ cho các hoạt động của Chính phủ phải
phù hợp với những ưu tiên chiến lược của mỗi quốc gia, nhằm đạt được các
mục tiêu đề ra cho khoảng thời gian từ 3 đến 5 năm, theo phương thức cuốn
chiếu.
MTEF có những ưu điểm sau đây:
+ Một là, phân bổ hiệu quả các nguồn lực công. MTEF tạo điều kiện sử
dụng ngân sách một cách hợp lý trong phạm vi trần chi tiêu, phân bổ hiệu
quả nguồn lực tài chính công phù hợp với các chính sách và ưu tiên chiến
lược của Chính phủ trong một không gian tài khóa nhiều năm. Từ đó, tăng
tính hiệu quả trong quản lý ngân sách về mặt kỹ thuật, đặc biệt là hiệu quả
của chi phí đầu tư và chi tiêu.
+ Hai là, tăng cường kỷ luật tài khóa. Lập ngân sách theo MTEF góp phần
tăng cường kỷ luật tài khóa tổng thể thông qua việc ước tính nguồn lực khả


dụng trong trung hạn, qua đó xác định mức trần chi tiêu cho từng ngành, lĩnh
vực. Do đó, chính sách tài khóa theo MTEF có thể khắc phục được những
tồn tại, hạn chế của chính sách tài khóa truyền thống hay lập ngân sách hàng
năm 3 .
+ Ba là, MTEF góp phần tăng cường công khai, minh bạch và trách nhiệm
giải trình trong quản lý và sử dụng NSNN.
+ Bốn là, MTEF góp phần phân tích, đánh giá và cải thiện những vấn đề tồn
tại trong việc huy động và phân bổ nguồn lực, điều chỉnh chính sách chiến
lược ưu tiên và những mất cân đối giữa nguồn lực và đề xuất chi tiêu công
của các ngành, các lĩnh vực, qua đó xác định rõ nhu cầu chi tiêu công.
MTEF giúp cho việc lập kế hoạch và thực hiện chính sách tài khóa thuận lợi
hơn và có sự gắn kết tốt hơn với các mục tiêu tài khóa trung hạn 4 , gắn kết
kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội với việc phân bổ nguồn lực NSNN thực
hiện các nhiệm vụ của các bộ chi tiêu ngân sách.
Ở nước ta, giai đoạn lập dự toán ngân sách nhà nước có thời gian khoảng 6

tháng, thường bắt đầu vào cuối tháng 5 và kết thúc vào trước ngày 31 tháng
12 hàng năm, khi toàn bộ dự toán ngân sách và dự án phân bổ ngân sách ở
các cấp ngân sách đã được cơ quan có thẩm quyền quyết định và phân bổ.
Ở nước ta, quá trình lập dự toán ngân sách nhà nước được tiến hành theo
trình tự, thủ tục khá chặt chẽ, cụ thể gồm các bước sau: Hướng dẫn lập dự
toán ngân sách và thông báo số kiểm tra lập dự toán ngân sách hàng năm;
Lập và xét duyệt, tổng hợp dự toán ngân sách nhà nước; Quyết định, phân
bổ và giao dự toán ngân sách nhà nước.
Hàng năm, trước ngày 31 tháng 5, Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết
định hoặc chỉ thỉ về việc lập kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán
ngân sách nhà nước năm sau.
Theo dự toán NSNN vừa được Quốc hội thông qua, Ngày 11/11/2015
- Tổng số thu cân đối ngân sách nhà nước là 1.014.500 tỷ đồng; nếu tính cả
4.700 tỷ đồng thu chuyển nguồn ngân sách địa phương từ năm 2015 sang năm
2016 thì tổng số thu ngân sách nhà nước là 1.019.200 tỷ đồng.
- Tổng số chi cân đối ngân sách nhà nước là 1.273.200 tỷ đồng.
- Mức bội chi ngân sách năm 2016 dự kiến là 254.000 tỷ đồng, tương đương
4,95% GDP.


2.2.

Thực hiện dự toán Ngân sách nhà nước

2.2.1 Khái niệm
Chấp hành ngân sách là việc thực hiện hiện các quyết định phân bổ ngân sách
đã được phê chuẩn. Tuy nhiên châp hành ngân sách không chỉ đơn thuần là
tuân thủ ngân sách ban đầu mà phải có sự thích nghi với những thay ổi trong
chính sách và được thực hiện một cách hiệu quả.
2.2.2 Nội dung

Muốn đảm bảo tiêu chuẩn hiệu quả phân bổ và hiệu quả hoạt đọng , quá trình
thực hiện ngân sách phải tôn trọng các nguyên tắc sau
+ Ngân quỹ phải được giải ngân kịp thời , đúng lúc
+ Việc thực hiện ngân sách và kế hoạch tiền mặt phải được xây dựng từ trước
cưn cứ theo dự toán ngân sách và những cam kết hiện có, tránh trường hợp
thiếu tiền mặt dẫn đến việc cấp ngân sách lúc nhỏ giọt , lúc cấp tập.
+ Việc điều chinh ngân sách phải được giám sát chặt chẽ
+ Việc hoán đổi giữa các mục chi có lý do chính đáng và không được làm thay
đổi mục chi ưu tiên của Chính Phủ.Nguyên tắc hoán chuyển phải được xấy
dựng sao cho vừa đảm bảo tính linh hoạt trong quản lý vừa kiểm sót được các
mục chi tiêu chính.
+ Khuyến khích tăng cường kiểm soát nội bộ đối với việc thực hiện ngân sách
đẻ tránh sự can thiệp quá sâu của các cơ quan trung ương trong việc quản lý
Ngân sách. Tuy nhiên nếu như vậy thì phải có hệ thống giám sát và kiểm soát
rất hữu hiệu
+ Có thể cho phép chuyển phần Ngân sách chưa dùng hết sang năm sau , ít nhất
là đối với chi tiêu đàu tư nhưng phải có giám sát chặt chẽ

2.3 Trình và quyết định dự toán ngân sách tại Quốc hội.


2.3.1 Khái niệm
Quyết toán NSNN là khâu cuối cùng trong một chu trình ngân sách nhằm
tổng kết, đánh giá việc thực hiện ngân sách cũng như các chính sách ngân
sách của năm ngân sách đã qua. Với hàm nghĩa đó, quyết toán NSNN trở
thành một khâu quan trọng, là nhiệm vụ của nhiều cơ quan, đơn vị từ đơn vị
sử dụng ngân sách, các cấp ngân sách đến các cơ quan quản lý ngân sách, cơ
quan kiểm tra kiểm soát ngân sách cho đến cơ quan quyền lực tối cao của
mỗi quốc gia là Quốc hội (hay Nghị viện).
2.3.2 Nội dung

Có thể nói rằng, từ trước đến nay vấn đề quyết toán NSNN ít được quan tâm
nhất. Điều này xuất phát từ quan niệm cho rằng, xem xét quyết toán NSNN
chỉ là xem xét lại các vấn đề ngân sách đã diễn ra, vấn đề đã trở thành quá
khứ (thậm chí thời gian đã qua tương đối lâu). Nếu như các tranh luận mang
tính chính trị thường diễn ra khá gay gắt khi xem xét quyết định dự toán
ngân sách thì xu hướng ngược lại là ít thấy cuộc tranh luận nào căng thẳng
khi xem xét, phê chuẩn quyết toán NSNN. Tuy một thực tế là hầu như luật
pháp của các nước nói chung và Việt Nam nói riêng lại đề cao vai trò của
quyết toán NSNN. Đại đa số các nước đều quy định quyết toán NSNN phải
được cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất (Quốc hội hay nghị viện) xem
xét phê chuẩn. Và điều này đã khẳng định rằng, quyết toán NSNN cũng là
vấn đề quan trọng của mỗi quốc gia, cần được nghiên cứu, xem xét kỹ
lưỡng.
Quyết định dự toán ngân sách nhà nước là công việc thuộc thẩm quyền của
hệ thống cơ quan quyền lực nhà nước, bao gồm Quốc hội và hội đồng nhân
dân các cấp. Theo pháp luật hiện hành, Quốc hội quyết định dự toán ngân
sách nhà nước và dự án phân bổ ngân sách trung ương do Chính phủ trình
còn hội đồng nhân dân các cấp quyết định dự toán ngân sách và phương án
phân bổ ngân sách cấp mình, địa phương mình trên cơ sở những định hướng
lớn được Quốc hội quyết định.
Xét về khía cạnh nội dung, quyết định dự toán ngân sách nhà nước chính là
việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành xem xét, đánh giá, thẩm
định và biểu quyết thông qua bản dự toán ngân sách nhà nước.
Về hình thức, quyết định dự toán ngân sách là việc cơ quan có thẩm quyền
ban hành nghị quyết thông qua bản dự toán ngân sách và phương án phân bổ


3.

ngân sách do Chính phủ, ủy ban nhân dân các cấp soạn thảo và trình trong

kỳ họp quốc hội và kỳ họp hội đồng nhân dân.
Kết quả của việc quyết định dự toán ngân sách nhà nước chính là việc tạo ra
tính pháp lý cho kế hoạch tài chính năm. Đó chính là sự thừa nhận giá trị
pháp lý của bản dự toán ngân sách nhà nước bằng nghị quyết của cơ quan
quyền lực để trên cơ sở pháp lý đó cho phép cơ quan quản lý nhà nước thi
hành trên thực tế. Uỷ ban thường vụ Quốc hội cho ý kiến trước ngày 18
tháng 10 đối với các báo cáo của Chính phủ về dự toán ngân sách nhà nước,
phương án phân bổ ngân sách trung ương theo những nội dung sau: đánh giá
tình hình thực hiện ngân sách nhà nước năm hiện hành, việc thực hiện các
giải pháp tài chính - ngân sách theo nghị quyết của Quốc hội, những giải
pháp bổ sung để thực hi
ện ngân sách nhà nước năm hiện hành; mục tiêu, nhiệm vụ dự toán ngân
sách nhà nước, phương án phân bổ ngân sách trung ương và các giải pháp
thực hiện dự toán ngân sách nhà nước năm sau
Thông thường, để có thể thực thi, cần phải trải qua một chu trình ngân sách
(Budget Process) để một ngân sách từ dự toán trở thành hiện thực.
So sánh quy trình ngân sách Việt Nam và Mỹ
3.1 Chu trình Ngân sách ở Mỹ
Chu trình ngân sách ở Mỹ để thông qua một ngân sách tự định tiến hành qua
năm bước như sau:

Bước

1:

Tổng

thống

trình


dự

thảo

ngân

sách

Tổng thống trình một dự thảo ngân sách lên Quốc hội vào tháng 2 hằng năm cho
năm tài khóa tiếp theo, sẽ bắt đầu vào ngày 1 tháng 10. Ví dụ, Tổng thống Obama
đã trình dự thảo ngân sách của mình cho năm tài khóa 2013 vào tháng 2 năm 2012.
Năm tài khóa 2013 bắt đầu vào ngày 1, tháng 10 năm 2012, và kết thúc vào ngày
30
tháng
9
năm
2013.
Dự thảo ngân sách của tổng thống chỉ là một đề xuất. Quốc hội sau đó sẽ xem xét
dự thảo này, và thông qua các luật phân bổ của riêng mình, chỉ sau khi tổng thống
đã ký các dự luật phân bổ ngân sách quốc gia cho năm tài khóa mới.
Bước 2: Hạ viện và Thượng viện thông qua các nghị quyết ngân sách của riêng
mình


Một khi dự thảo ngân sách của tổng thống đã được trình lên, Quốc hội bắt đầu
những tháng dài để xem xét lại dự thảo này. Sau khi tổng thống trình dự thảo ngân
sách, và các nhà làm luật đã xem xét cẩn thận, Ủy ban Hạ viện về ngân sách và Ủy
ban Thượng viện về ngân sách sẽ soạn cho riêng mình một nghị quyết ngân sách.
Một nghị quyết ngân sách không phải là một văn bản bắt buộc, nhưng nó giống

như một kế hoạch chi tiêu. Nó cung cấp khuôn khổ để Quốc hội ra quyết định ngân
sách về chi tiêu và thuế. Nghị quyết này còn quy định giới hạn chi tiêu hằng năm
tổng thể của các cơ quan liên bang, nhưng không quy định mức các mức cụ thể chi
tiêu cho các chương trình riêng biệt. Sau khi Hạ và Thượng viện thông qua nghị
quyết ngân sách của riêng mình, một ủy ban chung sẽ được thành lập để rà soát và
thống nhất các điểm khác biệt giữa hai nghị quyết, sau đó sẽ trình lại Hạ và
Thượng viện để bỏ phiếu cho nghị quyết ngân sách chung đã được sửa chữa.
Bước 3: Các tiểu ủy ban Hạ viện và Thượng viện sửa các dự luật phân bổ
Các ủy ban phân bổ của cả Hạ và Thượng viện đều có trách nhiệm quyết định
chính xác mức chi tiêu thẩm quyền cho tất cả các chương trình chi tiêu tự quyết.
Các ủy ban phân bổ này sẽ chia thành các tiểu ủy ban nhỏ hơn, để rà xét dự thảo
ngân sách trình bởi tổng thống liên quan đến các cơ quan liên bang thuộc thẩm
quyền khu vực pháp lý của họ. (Các tiểu ủy ban phụ trách các khu vực khác nhau
của chính quyền liên quan, ví dụ sẽ có tiểu ủy ban phụ trách xem xét chi tiêu quốc
phòng, tiểu ủy ban xem xét chi tiêu dành cho năng lượng và nước.) Sau khi các
tiểu ủy ban xem xét dự thảo của tổng thống, Quốc hội sẽ tiến hành các buổi điều
trần và chất vấn các lãnh đạo liên quan đến các cơ quan liên bang mà ngân sách sẽ
rót tiền cho chúng.

Dựa trên tất cả các thông tin này, chủ tịch của mỗi tiểu ban sẽ soạn một dự thảo
đầu tiên về dự luật phân bổ do tiểu ủy ban mình phụ trách, trong đó quy định giới
hạn chi tiêu. Tất các các thành viên tiểu ủy ban sau đó sẽ xem xét, sửa chữa, và
cuối cùng bỏ phiếu thông qua dự thảo của riêng mình. Một khi dự thảo đã được
tiểu ủy ban thông qua, dự thảo sau đó sẽ được trình lên Ủy ban phân bổ. Toàn thể
ủy ban sẽ xem xét lại một lần nữa, sau đó sẽ trình lên Hạ hoặc Thượng viện để xem


xét.
Bước 4: Hạ và Thượng viện thông qua các dự luật phân bổ và hợp nhất những
điểm khác biệt Hạ viện và Thượng viện sẽ thảo luận và bỏ phiếu cho từng dự luật

phân bổ được trình lên từ 12 tiểu ủy ban phân bổ. Sau khi cả Hạ và Thượng viện đã
thông qua tất cả các dự luật này, một ủy ban chung sẽ được lập ra để giải quyết
những điểm còn khác biệt giữa các dự thảo riêng của Hạ viện và Thượng viện. Sau
khi ủy ban chung thống nhất một dự luật chung, Hạ viện và Thượng viện sẽ bỏ
phiếu lại một lần nữa, nhưng lần này, dự luật này đứng tên cả Hạ viện và Thượng
viện. Sau khi dự luật chung này được thông qua bởi Hạ và Thượng viện, mỗi dự
luật phân bổ sẽ được trình lên Tổng thống.
Bước 5: Tổng thống ký thông qua các dự luật phân bổ và Ngân sách trở thành luật
Tổng thống phải ký thông qua cho từng dự luật phân bổ mà Quốc hội đã phê duyệt,
để dự luật trở thành luật. Khi tổng thống ký thông qua tất cả 12 dự luật, quy trình
xây dựng ngân sách coi như hoàn tất. Tuy nhiên, hiếm khi cả 12 dự luật này sẽ
được ký thông qua trước ngày 1 tháng 10, ngày bắt đầu của năm tài khóa mới.
3.2 Chu trình ngân sách tại Nhật Bản
Năm ngân sách Nhật bắt đầu từ ngày 1/4 và kết thúc vào ngày 31/3 năm đó.Quy
trình ngân sách Nhật Bản được bắt đầu ngay năm ngân sách hiện hành với vai trò
đầu mối của Bộ Tài Chính.
Quy trình Ngân sách chia thành các bước
-

-

Lập dự toán thu chi ngân sách ( từ tháng 4 -8 ) : Các bộ chuẩn bị yêu cầu
ngân sách ( dự toán thu chi ngân sach của bộ mình).Hội đồng chính sách
kinh tế và tài chính kiểm tra hướng dẫn chuẩn bị yêu cầu ngân sách và Chính
phủ ban hành hướng dẫn chuẩn bị yêu cầu Ngân sách.Các Bộ gửi dự toán
Ngân sách về Bộ tài chính trên cơ sở trần ngân sách do Bộ tài chính ban
hành sau khi thống nhất với thủ tướng và Chánh văn phòng nội các.
Từ tháng 9 đến tháng 12 , bộ tài chính làm việc với các Bộ chi tiêu để thống
nhất và hoàn thiện dự toán Ngân sách trình Chính phủ.ở giai đoạn này ., mọi
vướng mắc chưa thống nhất , chủ yếu những vấn đề mang tính chính trị, sẽ

được Chính Phủ quyết định


-

Chậm nhất đàu tháng 1 Chính phủ Dự toán Ngân sách mới ra Quốc Hội,
Quốc Hội sẽ thảo luận và quyết định ngân sách vào tháng 3 hằng năm.

3.3. Chu trình ngân sách Việt Nam
Ở Việt Nam, một chu trình ngân sách được hiểu là một quá trình hoàn thiện bao
gồm ba khâu:
Bước 1 :Lập ngân sách
Bước 2 :Chấp hành ngân sách
Bước 3 :Quyết toán ngân sách
Mốc thời gian chu trình NSNN ở Việt Nam
Thời gian
Tháng 6

Sự kiện
Thủ tướng ra chỉ thị xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế xã hội và
dự toán NSNN năm sau
Tháng 6
Bộ tài chính ra thông tư hướng dẫn lập dự toán NSNN
Tháng 10 Dự toán NSNN và Phương án phân bổ ngân sách trung ương được
gửi đến đại biểu Quốc Hội
Trước
Quốc hội quyết định dự toán NSNN và phương án phân bổ ngân
15/11
sách trung ương
Trước

HĐND cấp tỉnh quyết định dự toán ngân sách địa phương và
10/12
phương án phân bổ Ngân sách cấp tỉnh
31/12
Hoàn thành phân bổ và giao dự án
1/1-31/12 Thực hiện Ngân sách
6
tháng HĐND cấp huyện , xã phê chuẩn quyết toán ngân sách huyện xã
sau
12 tháng HĐND cấp tỉnh phê duyệt quyết toán Ngân sách địa phương
sau
18 tháng Quốc Hội phê chuẩn NSNN
sau
Nhận xét :


Như vậy, nếu bạn làm một sự so sánh, có thể thấy ở Mỹ, chu trình ngân sách chỉ
nhấn mạnh vào giai đoạn lập dự toán ngân sách, còn ở Việt Nam, chu trình ngân
sách được phân bổ cho ba giai đoạn: trước, trong, và sau khi ngân sách được thực
hiện.
Niên độ ngân sách tại Mỹ hiện tại bắt đầu từ 1/10 đến 30/9 năm sau. Còn Việt
Nam bắt đầu từ ngày 1/1- 31/12
Về thời gian thực hiện chu trình ngân sách:
Tại Mỹ: Do mô hình tổ chức Nghị viện gồm hai viện và rất coi trọng chất lượng
của việc lập dự toán ngân sách nên thời gian lập dự toán dài để có điều kiện xem
xét lựa chọn mục tiêu sử dụng ngân sách, thẩm tra và chuẩn thuận của lưỡng viện.
Quá trình lập dự toán ngân sách Liên bang của bộ máy hành pháp cho năm ngân
sách N được bắt đầu khoảng 18 tháng trước khi bắt đầu năm ngân sách N (khoảng
giữa năm ngân sách N-2), kéo dài khoảng 10 tháng.
Theo quy định của Luật NSNN Việt Nam, dự toán NSNN và ngân sách trung ương

được chuẩn bị trong vòng 04 tháng, bắt đầu từ đầu tháng 05 đến tháng 09, Ủy ban
thường vụ Quốc hội có 01 tháng để xem xét, cho ý kiến và Quốc hội có khoảng 01
tháng nữa để xem xét, thông qua ở kỳ họp cuối năm (thông qua trước 15/11). Như
vậy thời gian lập dự toán NSNN ở Việt Nam ngắn hơn nhiều so với Mỹ.
Trong bước lập dự toán ngân sách Mỹ, theo mô hình chung, ở giai đoạn thứ nhất,
chính quyền Tổng thống xây dựng và đệ trình dự toán ngân sách lên lưỡng viện, ở
giai đoạn thứ hai, lưỡng viện xem xét và thông qua dự toán ngân sách.
Về mức độ tổng hợp, khác với ngân sách Việt Nam được tổng hợp từ dưới lên trên,
ngân sách Mỹ, do tính chất độc lập giữa các cấp ngân sách, chỉ tổng hợp dự toán
của các Bộ, ngành cấp Liên bang, ngân sách của các bang và chính quyền địa
phương cũng tương tự.
Về mức độ chi tiết, khác với dự toán được Quốc hội thông qua ở Việt Nam (chỉ bao
gồm những chỉ tiêu tổng hợp cơ bản), dự toán ngân sách của chính quyền Mỹ được
phân chi tiết theo từng chương trình, từng Bộ, nguồn vốn và khoản chi, kèm theo
bản thuyết minh chi tiết đến từng hạng mục chi cụ thể
Việc quyết toán trong hệ thống ngân sách Hoa Kỳ được thực hiện khá đơn giản, do
dự toán ngân sách được lập kỹ càng, dự toán được đưa thành Luật và việc chi tiêu


được kiểm soát khá chặt chẽ. Chu trình ngân sách ở Hoa Kỳ kết thúc sau khi việc
kiểm toán kết thúc..
Tương tự như thế, Nhật bản cũng có quy trình Ngân sách Nhà nước tương đối
giống Việt Nam nhưng thời gian các bước trong quy trình khác nhau và không
phức tạp và rắc rối như quy trình ngân sách tại Mỹ, Nhật bản chú trọng cho nhiều
cho việc lập dự toán ngân sách và quy trình ngân sách diễn ra tương đối nhanh ,
quyết định nhanh không dài như Việt nam.

Kết luận : Do đó mỗi một quốc gia đều có một cách tổ chức quy trình Ngân sách
Nhà Nước riêng sao cho phù hợp với tình hình kinh tế xã hội cũng như chính trị
của mỗi nước không nước nào giống nước nào.

IV. Cân đối Ngân sách Nhà nước
1.

Khái niệm cân đối ngân sách nhà nước

Ngân sách nhà nước là một bảng kế hoạch tài chính của một quốc gia trong đó dự
trù các khoản thu và chi được thực hiện trong một năm. Trên thực tế quá trình thu
chi ngân sách nhà nước luôn trong trạng thái biến đổi không ngừng, nó bị ảnh
hưởng bởi sự vận động của nền kinh tế quốc gia, có khi những khoản thu dự kiến
không đủ đáp ứng nhu cầu chi tiêu trong năm đó, hoặc có khi mức thu lại vượt xa
những khoản chi. Do vậy các khoản chi tiêu và thu ngân sách nhà nước phải được
tính toán chính xác và phù hợp với thực tế để đảm bảo cho ngân sách nhà nước
trong trạng thái cân bằng, ổn định. Thu và chi ngân sách là hai vấn đề quan trọng
để đảm bảo cho ngân sách nhà nước được cân đối, hai vấn đề này lại nằm trong
mối tương quan giữa tài chính và kinh tế, vì kinh tế có phát triển thì Nhà nước mới
huy động được nguồn thu vào ngân sách nhà nước, còn kinh tế không ổn định, kém
phát triển thì nguồn thu vào ngân sách nhà nước giảm và còn phải chi nhiều để hổ
trợ. Điều đó dể dẫn đến ngân sách nhà nước bị mất cân đối.
-

Xét về bản chất, cân đối ngân sách nhà nước là cân đối giữa các nguồn thu
mà Nhà nước huy động được tập trung vào ngân sách nhà nước trong một
năm và sự phân phối, sử dụng nguồn thu đó thỏa mãn nhu cầu chi tiêu của
Nhà nước trong năm đó


-

Xét về góc độ tổng thể, cân đối ngân sách nhà nước phản ánh mối tương
quan giữa thu và chi trong một tài khóa. Nó không chỉ là sự tương quan giữa

tổng thu và tổng chi mà còn thể hiện sự phân bổ hợp lý giữa cơ cấu các
khoản thu và cơ cấu các khoản chi của ngân sách nhà nước

-

Xét trên phương diện phân cấp quản lý nhà nước, cân đối ngân sách nhà
nước là cân đối về phân bổ và chuyển giao nguồn thu giữa các cấp ngân
sách, giữa trung ương và địa phương và giữa các địa phương với nhau để
thực hiện chức năng và nhiệm vụ được giao.

Cân đối ngân sách nhà nước không chỉ đơn thuần là sự cân bằng về số lượng biểu
hiện qua các con số giữa tổng thu và tổng chi, mà nó còn biểu hiện qua các khía
cạnh khác nhau. Tựu trung lại ta có thể hiểu: Cân đối ngân sách nhà nước là một
bộ phận quan trọng của chính sách tài khóa, phản ánh sự điều chỉnh mối quan hệ
tương tác giữa thu và chi ngân sách nhà nước nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế
xã hội mà Nhà nước đã đề ra trong từng lĩnh vực và địa bàn cụ thể.
2.

Vai trò của cân đối ngân sách nhà nước trong nền kinh tế thị trường

Cân đối ngân sách nhà nước là một công cụ quan trọng để Nhà nước can thiệp vào
hoạt động kinh tế- xã hội của đất nước, với vai trò quyết định đó thì cân đối ngân
sách nhà nước trong nền kinh tế thị trường có các vai trò sau:
- Cân đối ngân sách nhà nước góp phần ổn định kinh tế vĩ mô. Nhà
nước thực hiện cân đối ngân sách nhà nước thông qua chính sách thuế, chính sách
chi tiêu hàng năm và quyết định mức bội chi cụ thể nên có nhiều tác động đến hoạt
động kinh tế cũng như cán cân thương mại quốc tế. Từ đó góp phần ổn định việc
thực các mục tiêu của chính sách kinh tế vĩ mô như: Tăng trưởng mức thu nhập
bình quân trong nền kinh tế, giảm tỷ lệ thất nghiệp, lạm phát được duy trì ở mức ổn
định và có thể dự toán được,…

- Cân đối ngân sách nhà nước góp phần phân bổ, sử dụng nguồn lực tài
chính có hiệu quả, để đảm bảo được vai trò này ngay từ khi lập dự toán Nhà nước
đã lựa chọn trình tự ưu tiên hợp lý trong phân bổ ngân sách nhà nước và sự gắn kết
chặt chẽ giữa chiến lược phát triển kinh tế- xã hội với công tác lập kế hoạch ngân
sách. Trong phân cấp quản lý ngân sách, nếu cân đối ngân sách nhà nước phân
định nguồn thu một cách hợp lý giữa trung ương với địa phương và giữa các địa


phương với nhau thì sẽ đảm bảo thực hiện được các mục tiêu kinh tế- xã hội đã đề
ra.
- Cân đối ngân sách nhà nước góp phần đảm bảo công bằng xã hội,
giảm thiểu sự bất bình đẳng giữa các địa phương. Nước ta với mỗi một vùng lại có
một điều kiện kinh tế- xã hội khác nhau, có những vùng điều kiện kinh tế- xã hội
rất khó khăn làm ảnh hưởng đến thu nhập và chất lượng cuộc sống của người dân,
có những vùng điều kiện kinh tế- xã hội thuận lợi, phát triển làm cho thu nhập và
cuộc sống của người dân được nâng lên. Vì vậy cân đối ngân sách nhà nước sẽ
đảm được sự công bằng, giảm thiểu sự bất bình đẳng giữa người dân và các vùng
miền. Nhà nước có thể huy động nguồn lực từ những người có thu nhập cao, những
vùng có kinh tế phát triển để hổ trợ, giúp đỡ những người nghèo có thu nhập thấp
và những vùng kinh tế kém phát triển. Bên cạnh đó, cân đối ngân sách nhà nước
góp phần phát huy lợi thế của từng địa phương, tạo nên thế mạnh kinh tế cho địa
phương đó dựa trên tiềm năng có sẳn của địa phương.
Tóm lại, Ngân sách nhà nước vừa là công cụ tài chính quan trọng, vừa là đạo luật
của một quốc gia. Nó được thiết lập và vận hành cùng với sự tồn tại và phát triển
của quốc gia đó. Đặc biệt trong thời kỳ chuyển đổi và hội nhập như hiện nay, ngân
sách nhà nước và vấn đề cân đối ngân sách càng đóng vai trò quan trọng hơn vào
sự phát triển đất nước, bình ổn xã hội. Hiểu và vận dụng tốt các học thuyết về cân
đối ngân sách nhà nước sẽ giúp nước ta có thể giải quyết những vấn đề còn tồn
đọng về ngân sách nhà nước trong thời gian vừa qua. Ngân sách nhà nước được
cân đối, ổn định sẽ giúp Nhà nước thực hiện tốt chức năng và nhiệm vụ của mình

đối với toàn dân, toàn xã hội.
3. Tình hình cân đối ngân sách của Việt Nam
3.1. Cân đối ngân sách giai đoạn 2011-2015

qua các năm

Trong những năm 2011-2015, tỉ lệ thâm hụt ngân sách ở Việt Nam luôn nằm ở
ngưỡng trên dưới 5.5% GDP và có xu hướng không ổn định. Đây là một tỉ lệ rất
cao. Theo kinh nghiệm quốc tế thì trong điều kiện bình thường, thâm hụt ngân
sách ở mức 3% GDP được coi là đáng lo ngại, còn ở mức 5.5% GDP thì bị xem là
đáng báo động.
Tình hình bội chi NSNN Việt Nam giai đoạn 2011 – 2015
Đơn vị: tỷ đồng


Năm

Tổng thu cân
đối ngân sách
nhà nước

Tổng chi cân
đối ngân sách
nhà nước

2011
2012
2013
2014
2015


962.982
1.038.451
1.084.064
782.7
911.1

1.034.244
1.170.924
1.277.710
1.006.700
1.147.100

Thâm hụt
ngân sách nhà
nước

Tỷ lệ bội chi
ngân sách nhà
nước so với
GDP
112.034
4,4%
173.815
5,36%
236.769
6,6%
224
5,3%
226

5,0%
(Nguồn: Tổng hợp từ cổng TTĐT

Bộ Tài chính)

(Nguồn: Tổng hợp từ cổng TTĐT
Bộ Tài chính)
Năm 2011 được xem là năm nhà nước thay đổi công tác điều hành, ngay từ đầu
năm Chính phủ đã ban hành và triển khai quyết liệt Nghị quyết 11 nên kết quả thu
ngân sách năm 2011 vượt kế hoạch 21,3%. Về chi, theo báo cáo của Chính phủ,
tổng số chi 1.034.244 tỷ đồng. Nhờ tăng thu NSNN nên đã giảm bội chi từ 5,3%
GDP theo Nghị quyết của Quốc hội xuống còn 4,4%, đây là một động thái tích cực.
Tuy nhiên, mặc dù giảm bội chi song các khoản chi ứng trước, nợ tạm ứng, thiếu


hụt nguồn hoàn thuế đã làm cho kết quả giảm bội chi không có nhiều ý nghĩa về tài
khoá.
Bội chi ngân sách nhà nước (NSNN) năm 2012 theo báo cáo quyết toán là 173.815
tỷ đồng (5,36% GDP). Theo đó, tổng thu NSNN năm 2012 là 1.038.451 tỷ đồng,
tăng 1,9% so với dự toán, Tổng chi NSNN năm 2012 là 1.170.924 tỷ đồng, tăng
8,3% so với dự toán. Chi thường xuyên vẫn còn lãng phí, chi sai chế độ quy định,
không đúng mục đích đang có dấu hiệu gia tăng tại các địa phương.
Nguyên nhân là do thâm hụt ngân sách và nợ công tăng ở nhiều nước EU, Mỹ,
Nhật Bản, đe dọa đến sự ổn định của nền kinh tế thế giới. Tăng trưởng kinh tế chưa
thực sự được cải thiện nhiều sau khủng hoảng. Đồng thời những bất ổn về chính trị
xung đột khu vực, tranh chấp lãnh thổ sẽ gây nhiều khó khăn cho sự phát triển. Các
chính sách và biện pháp bảo hộ mậu dịch hàng rào thuế quan và phi thuế quan gia
tăng.
Ở trong nước, bên cạnh các giải pháp, chính sách về kiềm chế lạm phát, ổn định
kinh tế vĩ mô đã bước đầu phát huy hiệu quả. Bội chi NSNN giảm dần, xuất khẩu

tăng nhanh cũng góp phần làm giảm nhập siêu, cân bằng cán cân thanh toán quốc
tế và tăng dự trữ ngoại hối, tuy nhiên, kinh tế vĩ mô ở nước ta chưa thực sự ổn
định; lạm phát và lãi suất đang còn ở mức cao, ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất và
đời sống nhân dân; Hoạt động đầu tư kinh doanh của các doanh nghiệp nhỏ và vừa
đang gặp nhiều khó khăn; Thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản hoạt
động trì trệ. Thiên tai, bão lũ, dịch bệnh vẫn là những yếu tố phức tạp, khó lường.
Mức bội chi ngân sách năm 2013 là 236.769 tỷ đồng, bằng 6,6% tổng sản phẩm
trong nước (GDP). Tổng số thu cân đối ngân sách nhà nước là 1.084.064 tỷ đồng,
bao gồm cả số thu chuyển nguồn từ năm 2012 sang năm 2013, thu kết dư ngân
sách địa phương năm 2012, thu huy động đầu tư của ngân sách địa phương và thu
từ quỹ dự trữ tài chính theo quy định của Luật ngân sách nhà nước. Tổng số chi
cân đối ngân sách nhà nước là 1.277.710 tỷ đồng, bao gồm cả số chi chuyển nguồn
từ năm 2013 sang năm 2014. Đây được gọi là sự vỡ kế hoạch. Nguyên nhân là do
thế giới có sự suy giảm nguồn vốn FDI; suy thoái kinh tế toàn cầu vẫn diễn ra; thị
trường tài chính vẫn tiềm ẩn những tác động tiêu cực đối với các nền kinh tế đang
phát triển do việc các nền kinh tế phát triển sẽ rút bỏ dần các biện pháp nới lỏng
định lượng. Ở trong nước, bên cạnh việc cơ bản đã kiềm chế được lạm phát; các


×