ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA KHOA HỌC QUẢN LÝ
***
NGUYỄN THỊ HƯƠNG GIANG
Tác Động của chính sách khoa học và công nghệ đến hiệu quả quản lý
tài sản trí tuệ được tạo ra bằng nguồn kinh phí nhà nước
(nghiên cứu trường hợp Đại Học bách khoa hà nội)
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
MÃ SỐ 60.34.72
Khóa 2005 – 2008
Hà Nội, 2009
1
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT 3
PHẦN MỞ ĐẦU 4
1. Lý do chọn đề tài 4
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu 6
3. Mục tiêu nghiên cứu 9
4. Phạm vi nghiên cứu 9
5. Mẫu khảo sát 9
6. Câu hỏi nghiên cứu 10
7. Giả thuyết nghiên cứu 10
8. Phƣơng pháp chứng minh giả thuyết 10
9. Kết cấu của Luận văn 11
CHƢƠNG 1. 12
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA LUẬN VĂN 12
1.1. Đại cƣơng về chính sách 12
1.1.1. Khái niệm chính sách 12
1.1.2. Phân loại chính sách theo chủ thể ban hành 15
1.1.3. Phân loại theo mục tiêu tác động của chính sách 16
1.1.4. Phân loại theo tầm hạn của chính sách 17
1.1.5. Phân loại theo thời hạn 18
1.2. Chính sách khoa học và công nghệ 19
1.2.1. Khái luận về chính sách KH&CN 19
1.2.2. Một số văn bản quy phạm pháp luật về KH&CN 21
1.3. Tài sản trí tuệ 25
1.3.1. Khái niệm quyền sở hữu trí tuệ 25
1.3.2. Tác giả tài sản trí tuệ 27
1.3.3. Chủ sở hữu tài sản trí tuệ 28
1.3.4. Tác giả và chủ sở hữu tài sản trí tuệ được tạo ra từ nguồn kinh phí nhà
nước 29
1.4. Chính sách KH&CN để quản lý tài sản trí tuệ trong hệ thống giáo dục và đào
tạo 33
1.4.1. Quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo 33
1.4.2. Quy định của Trường Đại học Bách khoa Hà Nội 34
1.5. Hiệu quả quản lý tài sản trí tuệ 35
1.5.1. Hiệu quả thông tin và hiệu quả khoa học 36
1.5.2. Hiệu quả đào tạo 36
1.5.3. Hiệu quả kỹ thuật 36
1.5.4. Hiệu quả kinh tế 37
CHƢƠNG 2. 40
THỰC TRẠNG VIỆC QUẢN LÝ TÀI SẢN TRÍ TUỆ 40
ĐƢỢC TẠO RA TỪ NGUỒN KINH PHÍ NHÀ NƢỚC 40
TẠI TRƢỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI 40
2.1. Chính sách đầu tƣ cho hoạt động KH&CN của Trƣờng Đại học Bách Khoa Hà
Nội 40
2
2.1.1. Khái quát về lịch sử phát triển của Trường ĐHBKHN 40
2.1.2. Cơ cấu tổ chức của Trường ĐHBKHN 43
2.1.3. Nhân lực KH&CN chủ yếu của Nhà trường: đội ngũ cán bộ, giảng viên 46
2.1.4. Nhân lực KH&CN của Nhà trường là sinh viên, học viên cao học, nghiên
cứu sinh 48
2.1.5. Trang thiết bị phục vụ hoạt động KH&CN 50
2.1.6. Kinh phí đầu tư cho hoạt động KH&CN 53
2.2. Chính sách KH&CN đối với hiệu quả quản lý TSTT đƣợc tạo ra bằng nguồn
ngân sách nhà nƣớc 54
2.2.1 Quy trình xét duyệt đề tài NCKH được tạo ra bằng NSNN 54
2.2.2. Khái quát hoạt động quản lý TSTT được tạo ra từ kinh phí nhà nước 59
2.2.3. Hiệu quả quản lý giáo trình, bài giảng 64
2.2.4. Hiệu quả quản lý công trình nghiên cứu khoa học 69
2.2.5. Hiệu quả quản lý chuyển giao công nghệ 80
CHƢƠNG 3. 86
CÁC GIẢI PHÁP THÔNG QUA CHÍNH SÁCH KH&CN 86
ĐỂ QUẢN LÝ TÀI SẢN TRÍ TUỆ ĐƢỢC TẠO RA 86
TỪ NGUỒN KINH PHÍ NHÀ NƢỚC 86
3.1. Chính sách quy định việc xác định quyền của tác giả và quyền của chủ sở hữu
kết quả nghiên cứu 86
3.1.1. Quản lý TSTT thông qua việc xác định quyền của tác giả kết quả nghiên
cứu 86
3.1.2. Quản lý TSTT thông qua việc xác định quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu
kết quả nghiên cứu 91
3.2.3. Giải quyết mối quan hệ về lợi nhuận giữa tác giả và chủ sở hữu kết quả
nghiên cứu 93
3.2. Chính sách thƣơng mại hóa kết quả nghiên cứu 95
3.2.1. Tình trạng làm chậm việc thương mại hóa kết quả nghiên cứu 95
3.2.2. Đăng ký bảo hộ quyền SHTT đối với kết quả nghiên cứu 97
3.2.3. Giải pháp cho việc thương mại hóa kết quả nghiên cứu 98
3.3. Chính sách đảm bảo hiệu quả quản lý TSTT 100
3.3.1. Đảm bảo quyền nhân thân và quyền tài sản đối với kết quả nghiên cứu100
3.3.2. Những đề xuất khác liên quan đến chính sách về SHTT 104
3.3.3. Thành lập cơ quan chuyên quản lý TSTT trong các trường đại học 106
KẾT LUẬN 109
KHUYẾN NGHỊ 110
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 111
3
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
KH&CN khoa học và công nghệ
NCKH nghiên cứu khoa học
SHTT sở hữu trí tuệ
Trƣờng ĐHBK Trƣờng Đại học Bách khoa Hà Nội
TSTT tài sản trí tuệ
4
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong bối cảnh kết cấu giá trị của các sản phẩm và dịch vụ truyền thống
đang ngày càng chuyển biến mạnh mẽ theo hƣớng tăng hàm lƣợng trí tuệ so
với hàm lƣợng tài nguyên và lao động giản đơn, nền kinh tế của nhiều quốc gia
trên thế giới chuyển dần thành nền kinh tế dựa trên tri thức, vai trò của tài sản
trí tuệ cũng ngày càng đƣợc thừa nhận nhƣ một công cụ quan trọng thúc đẩy
hoạt động sáng tạo, đầu tƣ, sản xuất và thƣơng mại trên bình diện quốc gia
cũng nhƣ trong quan hệ quốc tế. SHTT đƣợc coi là một trong những tiêu chí
đánh giá mức độ phát triển của nền kinh tế quốc dân, đặc biệt là thƣớc đo đánh
giá tiềm lực và năng lực phát triển KH&CN - yếu tố then chốt quyết định sự
phát triển kinh tế, xã hội của đất nƣớc.
Trong những năm qua, Nhà nƣớc đã thực hiện chính sách ƣu tiên đầu tƣ
phát triển KH&CN, trong đó có lĩnh vực SHTT. Hiến pháp 1992 đã chỉ rõ:
“Phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu. Khoa học và công
nghệ giữ vai trò then chốt trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước”.
Chiến lược phát triển KH&CN Việt Nam đến năm 2010 (ban hành kèm
theo Quyết định số 272/2003/QĐ-TTg ngày 31.12.2003 của Thủ tƣớng Chính
phủ) cũng khẳng định việc bảo đảm tốc độ tăng tỷ lệ đầu tƣ cho khoa học và
công nghệ từ ngân sách nhà nƣớc phải lớn hơn tốc độ tăng chi ngân sách nhà
nƣớc, đồng thời phải xây dựng và phát triển thị trƣờng khoa học và công nghệ.
Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Kết luận của Hội nghị lần
thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khoá IX về khoa học và công nghệ
(ban hành theo Quyết định số 188/2002/QĐ-TTg ngày 31.12.2002 của Thủ
tƣớng Chính phủ) cũng khẳng định nhiệm vụ hoàn thiện và xây dựng mới các
5
cơ chế, chính sách để hỗ trợ và thúc đẩy phát triển thị trƣờng khoa học và công
nghệ; hoàn thiện pháp luật về sở hữu trí tuệ.
Nhà nƣớc có vai trò to lớn trong công cuộc phát triển hệ thống sở hữu trí
tuệ phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nƣớc thông qua việc
thiết lập một hệ thống sở hữu trí tuệ phù hợp với điều kiện thực tiễn nội tại của
nƣớc ta đồng thời phù hợp với đòi hỏi của quá trình hội nhập quốc tế.
Cùng với việc ban hành các chính sách KH&CN để tạo đà thúc đẩy sự
phát triển kinh tế - xã hội, Nhà nƣớc cũng đầu tƣ một khoản kinh phí không
nhỏ cho nghiên cứu và triển khai, trong đó có đầu tƣ kinh phí nghiên cứu cho
các trƣờng đại học và cao đẳng, chỉ tính riêng trong giai đoạn 2001-2006, Nhà
nƣớc đã đầu tƣ 1.212 tỷ đồng dành cho hoạt động nghiên cứu khoa học và
triển khai công nghệ của các trƣờng đại học và cao đẳng, đặc biệt, những năm
qua, các trƣờng đại học đã ký hợp đồng và chuyển giao công nghệ với các
doanh nghiệp địa phƣơng và cơ sở sản xuất với tổng doanh thu lên tới hơn 577
tỷ đồng.
1
Những thành tựu vừa nêu là đáng khích lệ, nhƣng bên cạnh đó chính
sách KH&CN đã bộc lộ nhiều bất cập, có thể điểm qua, ví dụ vốn cho
KH&CN dùng không hết, phải trả lại do cơ chế quản lý tài chính, Báo cáo
quyết toán ngân sách năm 2006 trình Quốc hội cho thấy chỉ giải ngân đƣợc
hơn 80% kinh phí ngân sách dành cho KH&CN. Một số quy định về tài chính
hiện nay rất khuôn cứng, mang nặng tính quan liêu, bao cấp, muốn thay đổi
các nội dung trong dự toán kinh phí nghiên cứu cho phù hợp phải làm thủ tục
qua nhiều cấp, rất phức tạp
Những bất cập trên đã ảnh hƣởng tới việc quản lý tài sản trí tuệ đƣợc tạo
ra bằng nguồn kinh phí nhà nƣớc. Do đó việc nghiên cứu cơ sở lý luận và thực
tiễn đánh giá sự tác động của chính sách khoa học và công nghệ đến hiệu quả
quản lý tài sản trí tuệ đƣợc tạo ra bằng nguồn kinh phí nhà nƣớc là cần thiết.
1
Báo cáo tại Hội nghị Chuyên đề về Hợp tác quốc tế và Nghiên cứu khoa học trong các trƣờng đại học và cao
đẳng giai đoạn 2001-2006 và định hƣớng giai đoạn 2007-2015 tổ chức ngày 08.6.2007 tại Hà Nội.
6
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả chọn Tác động của chính sách
khoa học và công nghệ đến hiệu quả quản lý tài sản trí tuệ được tạo ra bằng
nguồn kinh phí nhà nước (Nghiên cứu trường hợp Đại học Bách khoa Hà Nội)
làm đề tài Luận văn thạc sĩ khoa học chuyên ngành Quản lý KH&CN của
mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Việc quản lý TSTT đƣợc tạo ra bằng nguồn kinh phí nhà nƣớc đã đƣợc
nhiều nhà khoa học và quản lý quan tâm.
Tại Hội nghị tổng kết các chƣơng trình KH&CN trọng điểm cấp nhà
nƣớc giai đoạn 2001 – 2005 do Bộ KH&CN chủ trì tháng 12.2006, các nhà
quản lý khẳng định bƣớc đầu công khai, bình đẳng trong hoạt động KH&CN,
điểm nổi bật của công tác quản lý các chƣơng trình giai đoạn này là hệ thống
văn bản quản lý đƣợc đổi mới và hoàn thiện một cách đồng bộ, rõ ràng, thống
nhất từ khâu xác định nhiệm vụ (đầu vào) đến khâu đánh giá kết quả (đầu ra).
Phƣơng thức về xác định nhiệm vụ và tuyển chọn tổ chức, cá nhân chủ trì
nhiệm vụ KH&CN đã đƣợc công khai, dân chủ, bình đẳng, bƣớc đầu tạo môi
trƣờng cạnh tranh lành mạnh và phát huy đƣợc tiềm năng sáng tạo trong hoạt
động KH&CN. Hầu hết các đề tài, dự án đều nhằm giải quyết mục tiêu rõ
ràng, tạo đƣợc sản phẩm cụ thể và dự kiến địa chỉ áp dụng ngay từ khi xác
định đầu vào, đã gắn nhiều hơn với nhu cầu sản xuất và đời sống, khắc phục
dần tình trạng ghép cơ học nhiều nội dung không có sự liên kết trong một đề
tài.
Tại Hội nghị Chuyên đề về Hợp tác quốc tế và Nghiên cứu khoa học
trong các trƣờng đại học và cao đẳng giai đoạn 2001-2006 và định hƣớng giai
đoạn 2007-2015 tổ chức ngày 08.6.2007 tại Hà Nội, các nhà quản lý, các nhà
khoa học đã chỉ ra những bất cập trong công tác quản lý tài sản trí tuệ do kinh
phí nhà nƣớc đầu tƣ.
7
Tại hội nghị khoa học cán bộ, giảng viên trẻ các trƣờng đại học khối
kinh tế toàn quốc 2008 do Đại học Kinh tế quốc dân tổ chức ngày 20.3.2008,
Thứ trƣởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Trần Văn Nhƣng khẳng định: “Nghiên
cứu khoa học trong trường đại học còn yếu”. Các nhà khoa học cũng chỉ ra
các bất cập của công tác quản lý nghiên cứu khoa học, trong đó có việc quản lý
kết quả nghiên cứu do ngân sách nhà nƣớc đầu tƣ.
Việc quản lý tài sản trí tuệ trong các trƣờng đại học là một chủ đề
“nóng” khi mà Việt Nam trở thành thành viên của Tổ chức Thƣơng mại thế
giới (WTO), ngày 20.11.2007 Hiệu trƣởng Trƣờng Đại học Nông nghiệp I ký
Quyết định ban hành Quy định về quản lý SHTT. Mới đây, ngày 02.01.2009
Bộ Giáo dục và Đào tạo, trong đó nêu rõ trách nhiệm của Thủ trƣởng cơ sở
giáo dục đại học là phải chỉ đạo xây dựng chiến lƣợc về sở hữu trí tuệ và kế
hoạch hoạt động sở hữu trí tuệ của cơ sở giáo dục đại học, tổ chức bộ phận
chuyên trách quản lý hoạt động sở hữu trí tuệ, quy định cụ thể việc thực hiên h
oạt động sở hữu trí tuệ trong cơ sở giáo dục đại học, chỉ đạo các bộ phận liên
quan trong cơ sở giáo dục đại học thực hiện và phối hợp với bộ phận chuyên
trách thực hiện kế hoạch hoạt động sở hữu trí tuệ của cơ sở giáo dục đại học…
Trong các nghiên cứu cá nhân về việc quản lý tài sản trí tuệ trong các
trƣờng đại học, phải kể đến nghiên cứu của TS Phan Quốc Nguyên (Trƣờng
Đại học Bách khoa Hà Nội) với bài Tăng cường chuyển giao công nghệ và
thương mại hóa công nghệ từ trường đại học. Trong nghiên cứu của mình, tác
giả đi từ kinh nghiệm thực tiễn của các nƣớc phát triển nhƣ Đại học Công nghệ
Zurich (Thuỵ Sĩ) trong việc quản lý hoạt động của doanh nghiệp KH&CN
trong trƣờng đại học. Đại học Leeds (Vƣơng quốc Anh) đã đầu tƣ tới 20 triệu
bảng Anh nhằm hỗ trợ việc thƣơng mại hóa các kết quả nghiên cứu… Quan
điểm của tác giả có thể tóm tắt là chỉ có thể quản lý tốt tài sản trí tuệ với tƣ
cách là các kết quả nghiên cứu ứng dụng trong các trƣờng đại học bằng cách
thƣơng mại hóa chúng.
8
Luận văn Thạc sĩ khoa học chuyên ngành Quản lý KH&CN của tác giả
Trần Văn Dũng với đề tài Điều kiện hình thành doanh nghiệp Spin-off trong
các trường đại học ở Việt Nam (Nghiên cứu trường hợp Đại học Khoa học Tự
nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội) cũng có quan điểm tƣơng tự, nghĩa là để
quản lý tốt tài sản trí tuệ là kết quả nghiên cứu ứng dụng trong các trƣờng đại
học thì nên hình thành đƣợc doanh nghiệp spin-off trong các trƣờng đại học
với 3 yếu tố cần có, đó là: công nghệ có bản quyền, đội ngũ nhà khoa học có
tinh thần kinh thƣơng và đƣợc đầu tƣ về vốn. Bỏ qua việc sử dụng thuật ngữ
“bản quyền công nghệ” có nhiều điểm phải bàn lại, thì đây là một công trình
khoa học công phu bàn về việc quản lý tài sản trí tuệ là kết quả nghiên cứu ứng
dụng trong các trƣờng đại học.
Tiếp cận ở một góc độ khác, quản lý TSTT trong các trƣờng đại học,
nhƣng đƣợc tạo ra bởi các nguồn kinh phí khác nhau, GS Naohiko Neshima có
một nghiên cứu Bảo hộ quyền SHTT trong các trường đại học (kinh nghiệm
của Nhật Bản) đƣợc trình bày tại Hội thảo về Bảo hộ quyền SHTT trong các
trường đại học và trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Hà Nội ngày
19.11.2008 do JPO và NOIP phối hợp đồng tổ chức, trong nghiên cứu của
mình GS Naohiko Neshima đƣa ra mô hình về phân chia lợi nhuận giữa tác giả
và chủ sở hữu kết quả nghiên cứu, đặc biệt thuật ngữ sáng chế công vụ
(Employee Invention) đƣợc tác giả đề cập dùng để chỉ các sáng chế đƣợc tạo
ra do tác giả - là ngƣời lao động - sử dụng trang thiết bị kỹ thuật của chủ sở
hữu kết quả nghiên cứu – đồng thời là ngƣời sử dung lao động.
Tuy nhiên, các kết quả nghiên cứu của các tác giả vừa điểm mới chỉ nêu
lên việc quản lý TSTT với tƣ cách là kết quả của các nghiên cứu ứng dụng,
còn không thấy đề cập đến việc quản lý TSTT nói chung, trong đó có việc
quản lý TSTT là kết quả của các nghiên cứu cơ bản. Xét về mặt lý luận của
khoa học về SHTT thì hai loại TSTT trên rất khác nhau, chúng đƣợc bảo hộ
theo các cơ chế khác nhau của quyền SHTT.
9
Đề cập đến việc quản lý TSTT là kết quả của nghiên cứu cơ bản và
nghiên cứu ứng dụng, tác giả Trần Văn Hải trong nghiên cứu Xác định chủ sở
hữu của kết quả nghiên cứu đăng trên Tạp chí Hoạt động khoa học số tháng
2.2009 đề cập đến việc quản lý TSTT đƣợc tạo ra bằng các nguồn kinh phí
khác nhau qua cách phân chia lợi nhuận giữa chủ sở hữu và tác giả, đồng thời
cũng đề cập đến việc bảo hộ kết quả nghiên cứu cơ bản đƣợc bảo hộ theo cơ
chế quyền tác giả, kết quả nghiên cứu ứng dụng có thể đƣợc bảo hộ theo cơ
chế quyền tác giả, theo sáng chế và cũng có thể bảo hộ theo bí mật kinh doanh.
Khác với các nghiên cứu đã điểm, Luận văn này đề cập đến việc quản lý
TSTT là kết quả của các nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng do kinh
phí nhà nƣớc đầu tƣ.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu cấp 1: Đề xuất các giải pháp để làm cho việc quản lý TSTT
đƣợc tạo ra bằng nguồn kinh phí nhà nƣớc có hiệu quả.
Mục tiêu cấp 2: Đánh giá tác động của chính sách KH&CN đến hiệu
quả quản lý TSTT đƣợc tạo ra bằng nguồn kinh phí nhà nƣớc.
Mục tiêu cấp 3: Nhận diện các điểm chƣa hợp lý trong các chính sách
KH&CN tác động không tích cực đến việc quản lý TSTT đƣợc tạo ra bằng
nguồn kinh phí nhà nƣớc, phân tích các nguyên nhân dẫn đến các hiện tƣợng
này và đề xuất giải pháp khắc phục chúng.
4. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nghiên cứu về thời gian: 2002-2006
- Thời gian tiến hành nghiên cứu: từ 01.2008 đến 10.2008
5. Mẫu khảo sát
Trƣờng Đại học Bách khoa Hà Nội
10
6. Câu hỏi nghiên cứu
Cần phải có những giải pháp gì để quản lý có hiệu quả tài sản trí tuệ
đƣợc tạo ra bằng nguồn kinh phí nhà nƣớc?
7. Giả thuyết nghiên cứu
Luận văn nhằm kiểm chứng các giả thuyết sau đây:
- Chính sách KH&CN có tác động đến hiệu quả quản lý tài sản trí tuệ
đƣợc tạo ra bằng nguồn kinh phí nhà nƣớc;
- Việc cân bằng lợi ích giữa tác giả và chủ sở hữu kết quả nghiên cứu có
tác động tích cực đến việc tạo ra nhiều TSTT có chất lƣợng;
- Thƣơng mại hóa các kết quả nghiên cứu có tác động tích cực đến việc
tạo ra nhiều TSTT có chất lƣợng;
- Cần chỉnh sửa những điểm bất cập trong chính sách KH&CN để có thể
quản lý có hiệu quả TSTT.
8. Phƣơng pháp chứng minh giả thuyết
- Phương pháp phân tích tài liệu: Luận văn đã phân tích và tổng kết các
tài liệu liên quan đến đề tài nghiên cứu do Phòng KH&CN Trƣờng Đại học
Bách khoa Hà Nội cung cấp;
- Phương pháp quan sát: khảo sát và tham dự với tƣ cách là tác giả và
đại diện chủ sở hữu kết quả nghiên cứu;
- Phương pháp phỏng vấn sâu: phỏng vấn một số nhà quản lý thuộc Cục
SHTT, Trƣờng Đại học Bách khoa Hà Nội và các cơ quan khác; phỏng vấn
một số giảng viên, chuyên viên là tác giả các công trình nghiên cứu thuộc
Trƣờng Đại học Bách khoa Hà Nội và các cơ sở đào tạo và nghiên cứu khác.
Kết quả phỏng vấn đƣợc phân tích và tổng hợp để đƣa vào trong Luận văn.
- Các phương pháp xử lý thông tin định tính và định lượng
11
9. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, danh mục tài liệu tham
khảo, phụ lục và các biểu số liệu, nội dung của Luận văn gồm có 3 chƣơng:
- Chƣơng 1. Cơ sở lý luận của Luận văn
- Chƣơng 2. Thực trạng việc quản lý tài sản trí tuệ đƣợc tạo ra từ nguồn
kinh phí nhà nƣớc tại Trƣờng Đại học Bách khoa Hà Nội
- Chƣơng 3. Các giải pháp thông qua chính sách KH&CN để quản lý tài
sản trí tuệ đƣợc tạo ra từ nguồn kinh phí nhà nƣớc
12
CHƢƠNG 1.
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA LUẬN VĂN
1.1. Đại cƣơng về chính sách
1.1.1. Khái niệm chính sách
2
Có nhiều cách tiếp cận để xem xét khái niệm chính sách, trong đó đáng
chú ý là James E. Anderson
3
đã đƣa ra định nghĩa: “Chính sách là quá trình
hành động có mục tiêu, mà một hoặc một số chủ thể theo đuổi để giải quyết
những vấn đề mà họ quan tâm”.
"Chính sách là những sách lƣợc và kế hoạch cụ thể nhằm đạt một mục đích
nhất định, dựa vào đƣờng lối chính trị chung và tình hình thực tế mà đề ra"
4
hoặc "Chính sách là các chủ trƣơng và các biện pháp của một đảng phái, một
chính phủ trong các lĩnh vực chính trị - xã hội"
5
Khái niệm chính sách đƣợc xem xét từ các cách tiếp cận: tiếp cận chính
trị học, tiếp cận xã hội học, tiếp cận tâm lý học, tiếp cận kinh tế học, tiếp cận
lý thuyết trò chơi, tiếp cận hệ thống, tiếp cận khoa học pháp lý, tiếp cận tổng
hợp.
Từ các cách tiếp cận trên đây, khi nói đến một chính sách, là nói đến
những yếu tố sau đây:
- Chính sách là tập hợp những biện pháp mà chủ thể quyền lực hoặc
chủ thể quản lý đƣa ra, đƣợc thể chể hoá thành những quy định có giá trị pháp
2
Trong mục này, tác giả Luận văn sử dụng lý thuyết Khoa học chính sách của Vũ Cao Đàm, Nhà xuất bản Đại
học Quốc gia Hà Nội, 2008
3
James E. Anderson: Public Policymaking, Thomson Learning (Dec. 1983)
4
Từ điển tiếng Việt, Nhà Xuất bản Đà Nẵng. 1988. Tr.157
5
Nguyễn Nhƣ Ý: Đại Từ điển tiếng Việt, Nhà Xuất bản Văn hoá – Thông tin.1999. tr.369.
13
lý, nhằm thực hiện chiến lƣợc phát triển của hệ thống theo mục đích mà chủ
thể quyền lực mong đợi.
- Chính sách bao giờ cũng tạo ra một sự phân biệt đối xử của chủ thể
quyền lực hoặc chủ thể quản lý đối với các nhóm xã hội khác nhau. Trong sự
phân biệt đối xử đó, chủ thể quyền lực có sự ƣu đãi đối với một (hoặc một số)
nhóm xã hội nào đó.
- Các biện pháp ƣu đãi phải có tác dụng kích thích động cơ hoạt động
của nhóm đƣợc ƣu đãi, là nhóm có vai trò then chốt trong việc thực hiện các
mục tiêu phát triển hệ thống, nhằm thực hiện mục tiêu phát triển của hệ thống
theo chiến lƣợc mà nhóm chủ thể quyền lực hoặc chủ thể quản lý đƣa ra.
- Và nhƣ vậy, chính sách luôn tạo ra một bất bình đẳng xã hội, rất có
thể, đồng thời khắc phục một bất bình đẳng xã hội đang tồn tại, rất có thể
khoét sâu thêm những bất bình đẳng vốn có, nhƣng cuối cùng phải nhằm mục
đích tối thƣợng, là thoả mãn những nhu cầu cơ bản của mục tiêu phát triển xã
hội.
- Toàn bộ những biện pháp đó phải đạt đến một kết quả là tạo ra một
đòn ứng phó với một tình huống của cuộc chơi, có khi là rất bất lợi cho chủ thể
quyền lực hoặc chủ thể quản lý.
Tổng hợp từ trên tất cả các cách tiếp cận trên, trong các bài giảng về
khoa học quản lý và khoa học chính sách, tác giả Vũ Cao Đàm đã đƣa ra định
nghĩa: “Chính sách là một tập hợp biện pháp được thể chế hoá, mà một chủ
thể quyền lực, hoặc chủ thể quản lý đưa ra, trong đó tạo sự ưu đãi một nhóm
xã hội, kích thích vào động cơ hoạt động của nhóm này, định hướng hoạt động
của họ nhằm thực hiện một mục tiêu ưu tiên nào đó trong chiến lược phát triển
của một hệ thống xã hội.”
Khái niệm “Hệ thống xã hội” ở đây đƣợc hiểu theo một ý nghĩa khái
quát. Đó có thể là một quốc gia, một khu vực hành chính, một doanh nghiệp,
một nhà trƣờng, v.v
14
Nhƣ vậy, nói về một quyết định chính sách, ngƣời quản lý có thể hiểu
nhƣ sau:
- Chính sách là một tập hợp biện pháp. Đó có thể là một biện pháp kích
thích kinh tế, biện pháp động viên tinh thần, một biện pháp mệnh lệnh hành
chính hoặc một biện pháp ƣu đãi đối với các cá nhân hoặc các nhóm xã hội.
- Chính sách là một tập hợp biện pháp đƣợc thể chế hoá dƣới dạng các
đạo luật, pháp lệnh, sắc lệnh; các văn bản dƣới luật, nhƣ nghị định, thông tƣ,
chỉ thị của chính phủ; hoặc các văn bản quy định nội bộ của các tổ chức
(doanh nghiệp, trƣờng học, v.v…)
- Chính sách phải tác động vào động cơ hoạt động của các cá nhân và
nhóm xã hội. Đây phải là nhóm đóng vai trò động lực trong việc thực hiện một
mục tiêu nào đó. Ví dụ, nhóm quân đội trong chính sách bảo vệ Tổ quốc,
nhóm giáo viên trong chính sách giáo dục, nhóm khoa học gia trong chính
sách khoa học, nhóm các nhà kinh doanh trong chính sách kinh tế, v.v… Mỗi
nhóm đƣợc đặc trƣng bởi những thang bậc giá trị khác nhau về nhu cầu. Đó là
cơ sở tâm lý học giúp chúng ta vận dụng các bậc thang nhu cầu trong việc tạo
động cơ cho đối tƣợng chính sách.
- Chính sách phải hƣớng động cơ của các cá nhân và nhóm xã hội nói
trên vào một mục tiêu nào đó của hệ thống xã hội. Chẳng hạn, mục tiêu kinh
doanh của doanh nghiệp, mục tiêu đào tạo của nhà trƣờng, mục tiêu phát triển
của một địa phƣơng, mục tiêu bảo vệ Tổ quốc của một quốc gia, v.v…
Trong quá trình chuẩn bị một quyết định chính sách, ngƣời quản lý cần
xác định rõ các đặc điểm sau:
- Cho ra đời một chính sách chính là chuẩn bị giải pháp ứng phó trong
một cuộc chơi. Giải pháp đó phải lựa chọn sao cho chủ thể quản lý luôn thắng
trong cuộc chơi, nhƣng với chú ý rằng luôn thắng trong điều kiện mà đối tác
cảm thấy đƣợc chia sẻ lợi ích thoả đáng, không dồn đối tác vào đƣờng cùng để
đón lấy những mối họa tiềm ẩn trong các vòng chơi tiếp theo.
15
- Cuối cùng, một chính sách đƣa ra chính nhằm khắc phục một yếu tố
bất đồng bộ nào đó trong hệ thống, nhƣng đến lƣợt mình chính sách lại làm
xuất hiện những yếu tố bất đồng bộ mới. Và nhƣ vậy, quá trình làm chính sách
thực chất là tạo ra những bƣớc phát triển hệ thống , từ những bất đồng bộ này
tới những bất đồng bộ khác. Trong quá trình phát triển hệ thống, không bao
giờ ảo tƣởng sự đồng bộ ổn định tuyệt đối. Ổn định, có nghĩa là không còn sự
phát triển.
- Kết quả cuối cùng cái mà chính sách phải đạt đƣợc là tạo ra những
biến đổi xã hội phù hợp ý đồ của chủ thể chính sách.
1.1.2. Phân loại chính sách theo chủ thể ban hành
Chủ thể nào cũng cần và có thể dƣa ra những chính sách phục vụ cho
mục tiêu tồn tại và phát triển của mình. Chủ thể ở đây có thể đƣợc hiểu là một
nhà nƣớc, một tỉnh/thành phố, một doanh nghiệp, một nhà trƣờng, một tổ chức
xã hội, v.v…
- Chính sách của một quốc gia: Từ khi hình thành quốc gia, nhu cầu
phát triển của quốc gia luôn đƣợc thể hiện thông qua những chính sách: chính
sách đối nội, chính sách đối ngoại, chính sách kinh tế, chính sách xã hội, v.v…
- Chính sách của một doanh nghiệp: Mỗi doanh nghiệp là một ct quyết
định chính sách phục vụ mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp: chính sách
đầu tƣ, chính sách phát triển sản phẩm, chính sách công nghệ, chính sách
R&D, chính sách thị trƣờng, chính sách khách hàng, chính sách hậu mãi, chính
sách cạnh tranh, v.v… Chính sách của doanh nghiệp có thể đẩy nhanh nhịp
điệu phát triển của doanh nghiệp, song cũng có thể dẫn doanh nghiệp đến thua
lỗ, thậm chí phá sản.
- Chính sách của một chính đảng: Bất kể trong thể chế chính trị một
đảng hay thể chế chính trị đa đảng, mỗi đảng chính trị đều cần đề ra chính
sách của mình. Chính sách có tầm quan trọng, thậm chí mang ý nghĩa quyết
16
định tới sự thành bại của một chính đảng, thậm chí của quốc gia, khi đảng trở
thành đảng cầm quyền.
1.1.3. Phân loại theo mục tiêu tác động của chính sách
Dù thuộc chủ thể nào, mỗi chính sách đều nhằm vào một hoặc một số
mục tiêu. Chọn mục tiêu nào là tuỳ yêu cầu của mỗi giai đoạn phát triển của hệ
thống xã hội.
- Chính sách đối ngoại của quốc gia
Không một quốc gia nào trong thế giới ngày nay có thể tồn tại một cách
cô lập với thế giới. Chính đó là lý do đồi hỏi các quốc gia phải có một chính
sách đối xử với các quốc gia khác nhau trong khuôn khổ một chính sách đối
ngoại nhất định, trong đó xác định những đồng minh, những liên minh, những
đối tác và những đối thủ phải canh chừng. Tất nhiên chính sách phải thƣờng
xuyên điều chỉnh, bởi vì không có kẻ thù vĩnh viễn, cũng nhƣ không có đồng
minh trong mọi quan hệ.
- Chính sách xoá đói giảm nghèo
Chính sách xoá đói giảm nghèo nhằm nâng cao mức sống tối thiểu của
dân chúng vƣợt trên ngƣỡng đói nghèo của thế giới. Chính sách này đƣợc thực
hiện có thể bằng cách dạy nghề và tạo việc làm cho ngƣời dân, hỗ trợ ngƣời
dân tìm kiếm việc làm, bao gồm cả chính sách xuất khẩu lao động ra nƣớc
ngoài.
Tuy nhiên chính sách xoá đói giảm nghèo cũng có thể có biện pháp
khuyến khích các nhà kinh doanh đầu tƣ vào khu vực đƣợc xem là đói nghèo
của đất nƣớc, tạo việc làm cho dân nghèo, nâng cao đời sống của họ.
Trong chính sách này, tuy nhắm vào mục tiêu “xoá đói, giảm nghèo”,
nhƣng đối tƣợng tác động không chỉ có dân nghèo, mà có cả dân giầu, gồm
các nhà kinh doanh.
- Chính sách công nghiệp hoá
17
Chính sách công nghiệp hoá nhằm thúc đẩy quá trình xây dựng
nền sản xuất công nghiệp của đất nƣớc, trong đó xác định những công nghiệp
ƣu tiên đi tiên phong, những công nghiệp nào cần thải loại, biện pháp để các
ngành công nghiệp tạo ra đƣợc những sản phẩm đủ sức chiến thắng trong cạnh
tranh trên thị trƣờng.
Tuy nhiên, nói chính sách công nghiệp là nói đến một chính sách công
cụ của sản phẩm. Vấn đề chính không phải là công nghiệp, mà là sản phẩm có
sức cạnh tranh trên thị trƣờng.
- Chính sách khoa học và công nghệ
Chính sách phát triển khoa học và công nghệ của một đất nƣớc, một địa
phƣơng, hoặc một hãng, trong đó có những lĩnh vực nghiên cứu và những
công nghệ đƣợc ƣu tiên phát triển.
1.1.4. Phân loại theo tầm hạn của chính sách
Mỗi tầm hạn quản lý có một hệ chính sách tƣơng ứng.
Theo tầm hạn quản lý, có thể phân loại chính sách thành chính sách vĩ
mô hoặc vi mô. Vĩ mô hoặc vi mô ở đây là một khái niệm gắn với các hệ
thống cụ thể.
Theo định nghĩa thông thƣờng, chính sách vĩ mô (chẳng hạn, chính sách
thuế) có tác động chi phối chính sách vi mô (chính sách sản xuất, kinh doanh
của doanh nghiệp). Tuy nhiên, cũng có trƣờng hợp không có ảnh hƣởng gì.
- Chính sách vĩ mô
Đây là chính sách ở tầm hệ thống lớn, chẳng hạn, chính sách của quốc
gia. Chính sách vĩ mô có tác dụng tới toàn hệ thống . Ví dụ chính sách thuế,
chính sách lƣơng.
Thật ra, khái niệm “vĩ mô” và “vi mô” mang ý nghĩa hết sức tƣơng đối.
Rất có thể, ta coi chính sách quốc gia là vĩ mô, chính sách của đơn vị cơ sở là
vi mô; với một công ty xuyên quốc gia, ví dụ với Công ty Ford, thì chính sách
18
thị trƣờng toàn cầu của Công ty Ford (mẹ) đƣợc xem là vĩ mô, còn chính sách
của Công ty Ford (con) ở Việt Nam là chính sách vi mô; trong một tỉnh, có thể
xem cấp tỉnh là vĩ mô, cấp cơ sở là vi mô.
- Chính sách vi mô
Đây là chính sách của các đơn vị cơ sở. Chẳng hạn, các doanh nghiệp đƣa
ra chính sách khuyến mại; một doanh nghiệp khác đƣa ra chính sách không
khuyến mại mà đề cao chất lƣợng với khẩu hiệu “Chúng tôi không khuyến
mại, Chúng tôi chỉ chất lƣợng”.
Các chính sách vi mô luôn phải đặt trong khuôn khổ của chính sách vĩ
mô. Ví dụ, chính sách trả lƣơng của doanh nghiệp (vi mô) phải dựa trên chính
sách tiền lƣơng của Nhà nƣớc (vĩ mô).
Tuy nhiên, chính sách vi mô cũng có tính độc lập tƣơng đối so với chính
sách vĩ mô. Ví dụ, trong khi Nhà nƣớc chƣa có quy định gì về việc một doanh
nghiệp có thể lựa chọn trƣớc những sinh viên giỏi để đào tạo cho doanh nghiệp
mình, thì một số doanh nghiệp đã làm công việc đó với các trƣờng đại học.
1.1.5. Phân loại theo thời hạn
Có thể phân loại chính sách theo thời hạn hiệu lực của chính sách, trong
đó, có chính sách dài hạn, chính sách ngắn hạn, chính sách trung hạn và chính
sách nhất thời, rất ngắn hạn để ứng phó với một tình huống đột xuất nào đó.
Thật ra, khái niệm dài hạn, trung hạn hoặc ngắn hạn cũng mang ý nghĩa
hết sức tƣơng đối, không có một ranh giới quá chặt chẽ.
- Chính sách dài hạn
Chính sách dài hạn là chính sách có hiệu lực trong một giai đoạn dài,
chẳng hạn, từ 10 năm trở lên. Chính sách dài hạn đảm bảo cho việc thực hiện
chiến lƣợc dài hạn của hệ thống .
- Chính sách ngắn hạn
19
Chính sách ngắn hạn chỉ giới hạn trong một khoảng thời gian đủ thực
hiện một nhiệm vụ cụ thể nào đó, thƣờng trong khoảng 5 năm.
- Chính sách trung hạn
Chính sách trung hạn có thời hạn hiệu lực giữa chính sách dài hạn và
chính sách ngắn hạn, là chính sách tạo bƣớc đệm giữa việc thực hiện các mục
tiêu dài hạn và mục tiêu ngắn hạn.
- Chính sách nhất thời
Đó là chính sách cho những tình huống phát sinh nhất thời. Chẳng hạn,
công nhân đình công. Một mặt phải xem lại những chính sách dài hạn đối với
công nhân, nhƣng nhất thời phải có chính sách ứng phó để làm dịu cơn sốt
đình công của công nhân. Nông dân khiếu kiện đông ngƣời trƣớc các cơ quan
công quyền đòi quyền lợi đƣợc đền bù thoả đáng đất đai, Nhà nƣớc cũng cần
đề ra chính sách nhất thời trƣớc khi đƣa ra một chính sách dài hạn để giải
quyết đúng đắn việc đền bù đất đai cho nông dân.
1.2. Chính sách khoa học và công nghệ
1.2.1. Khái luận về chính sách KH&CN
Chính sách KH&CN không tồn tại một cách chung chung, trƣớc hết nó
đƣợc thể hiện tại một số nguồn chính sách do các cấp khác nhau ban hành:
- Nghị quyết Đảng, Nghị quyết, ý kiến kết luận của Bộ Chính trị đƣa ra
định hƣớng chính sách phát triển KH&CN. Để thực hiện các định hƣớng này
cần phải nghiên cứu và ban hành hàng loạt các chính sách cụ thể có liên quan
nhƣ chính sách đầu tƣ cho nghiên cứu khoa học và triển khai công nghệ, chính
sách chuyển giao công nghệ, chính sách đối với sở hữu trí tuệ… Đây là một
đặc thù cần phải nhắc đến đối với thực tiễn ở Việt Nam.
- Hiến pháp năm 1992 đã chỉ rõ tại điều 37: “Phát triển KH&CN là
quốc sách hàng đầu. KH&CN giữ vai trò then chốt trong sự nghiệp phát
20
triển kinh tế - xã hội của đất nước. Nhà nước xây dựng và thực hiện
chính sách KH&CN quốc gia; xây dựng nền KH&CN tiên tiến; phát triển
đồng bộ các ngành khoa học, nghiên cứu, tiếp thu các thành tựu KH&CN
của thế giới nhằm xây dựng luận cứ khoa học cho việc định ra đường lối,
chính sách và pháp luật, đổi mới công nghệ, phát triển lực lượng sản
xuất, nâng cao trình độ quản lý, bảo đảm chất lượng và tốc độ phát triển
của nền kinh tế; góp phần bảo đảm quốc phòng, an ninh quốc gia.”
- Nghị quyết của Quốc hội đƣa ra những chính sách KH&CN mang tính
định hƣớng để các ngành, các cấp nghiên cứu xây dựng các chính sách
KH&CN cụ thể áp dụng trong từng ngành và lĩnh vực, phù hợp với từng thời
kỳ phát triển.
- Cam kết quốc tế: Các cam kết trong các điều ƣớc quốc tế song phƣơng,
đa phƣơng về KH&CN mà Việt Nam là thành viên là những chính sách mang
tính định hƣớng hoặc cụ thể. Điểm nổi bật nhất là cam kết gia nhập WTO của
Việt Nam, trong đó có việc thực hiện Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến
thƣơng mại của quyền SHTT (Hiệp định TRIPS).
- Chiến lƣợc, quy hoạch, kế hoạch, đề án phát triển KH&CN của từng
ngành và lĩnh vực.
Nhƣ vậy có thể thấy, chính sách KH&CN đƣợc thể hiện ở nhiều nguồn
và ở khía cạnh hình thức, nội hàm của khái niệm chính sách KH&CN rộng hơn
nội hàm của khái niệm pháp luật về KH&CN.
Chính sách phát triển KH&CN của một đất nƣớc, một địa phƣơng, hoặc
một đơn vị cụ thể, trong đó có những lĩnh vực nghiên cứu và những công nghệ
đƣợc ƣu tiên phát triển theo hai hƣớng:
- KH&CN phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế và xã hội, đặc biệt là
công nghệ phải phục vụ cho mục tiêu cạnh tranh của hệ thống sản xuất.
- KH&CN phải đƣợc phát triển đi trƣớc, có những lĩnh vực phải đáp ứng
21
tức thời nhu cầu cạnh tranh của sản xuất công nghiệp.
1.2.2. Một số văn bản quy phạm pháp luật về KH&CN
Đối với một quốc gia, chính sách không thể chỉ đƣợc tuyên bố bằng lời,
mà phải đƣợc thể hiện trên một loại văn bản của Nhà nƣớc, gọi chung là văn
bản quy phạm pháp luật. Có thể điểm chính sách KH&CN đƣợc thể hiện qua
các văn bản quy phạm pháp luật do các chủ thể ở trung ƣơng ban hành:
- Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội.
- Pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội.
- Nghị định của Chính phủ.
- Quyết định của Thủ tƣớng Chính phủ.
- Thông tƣ của Bộ KH&CN
Sau đây là một số văn bản quy phạm pháp luật về KH&CN quan trọng
do các cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền ban hành theo thứ tự thời gian:
- Nghị định số 263/CP ngày 27.6.1981 của Hội đồng Chính phủ quy
định về chế độ kế hoạch hoá khoa học và kỹ thuật, trong đó quy định rõ tổ
chức các hoạt động khoa học và kỹ thuật phải tuân theo sự quản lý tập trung
của Nhà nƣớc, mà đăc trƣng rõ nhất là chế độ kế hoạch hóa các hoạt động
khoa học và kỹ thuật.
- Nghị định số 122/HĐBT ngày 20.7.1982 của Hội đồng Bộ trƣởng quy
định về chế độ quản lý các chương trình tiến bộ khoa học kỹ thuật trọng điểm
của Nhà nước. Trong đó nhấn mạnh: chƣơng trình tiến bộ khoa học kỹ thuật
trọng điểm của Nhà nƣớc là hệ thống đồng bộ các nhiệm vụ khoa học kỹ thuật
(bao gồm các công việc: điều tra, nghiên cứu, thiết kế, thử nghiệm, sản xuất
thử, đƣa vào sản xuất, cải tiến tổ chức, hợp lý hoá sản xuất ) và các biện pháp
thực hiện (tổ chức, đầu tƣ, xây dựng cơ bản ) nhằm góp phần giải quyết một
hoặc một số mục tiêu trọng điểm của nền kinh tế quốc dân trên cơ sở áp dụng
22
các thành tựu khoa học và kỹ thuật. Các chƣơng trình tiến bộ khoa học kỹ
thuật trọng điểm phải đƣợc thể hiện vào kế hoạch 5 năm, hàng năm và đƣợc
quản lý theo chế độ thống nhất của Nhà nƣớc.
- Nghị định số 6/HĐBT ngày 06.01.1992 của Hội đồng Bộ trƣởng về
việc thành lập Hội đồng chính sách KH&CN quốc gia. Quy định việc thành
lập Hội đồng chính sách KH&CN quốc gia để tƣ vấn cho Chủ tịch Hội đồng
Bộ trƣởng về những vấn đề quan trọng liên quan đến phát triển KH&CN trong
cả nƣớc; cụ thể là phƣơng hƣớng, chiến lƣợc phát triển KH&CN, các lĩnh vực
KH&CN ƣu tiên từng thời kỳ; các chính sách lớn thúc đẩy phát triển KH&CN;
các dự án văn bản pháp quy của Nhà nƣớc về KH&CN; các chỉ tiêu lớn của kế
hoạch KH&CN 5 năm và hàng năm, bao gồm cả ngân sách dành cho KH&CN;
các chƣơng trình KH&CN cấp Nhà nƣớc;
- Nghị định số 35/HĐBT ngày 28.01.1992 của Hội đồng Bộ trƣởng quy
định về công tác quản lý KH&CN. Có thể coi năm 1992 là năm ban hành các
văn bản các văn bản quản lý nhà nƣớc quan trọng về KH&CN đầu tiên của
Việt Nam. Lần đầu tiên thuật ngữ KH&CN đƣợc xuất hiện chính thức, thay
cho các thuật ngữ khoa học và kỹ thuật, khoa học kỹ thuật, tiến bộ khoa học kỹ
thuật. Trong đó một số quy định về quản lý các hoạt động KH&CN có thể
đƣợc coi là “tuyên ngôn”, lần đầu tiên đƣợc công bố trong một văn bản quy
phạm pháp luật chính thức của Nhà nƣớc, đáng chú ý là:
+ Tất cả các cơ quan Nhà nƣớc, các đơn vị vũ trang, các tổ chức kinh tế,
tổ chức xã hội và mọi công dân đều đƣợc quyền tổ chức và thực hiện các hoạt
động KH&CN, áp dụng các thành tựu KH&CN mới vào sản xuất và đời sống;
đƣợc quyền bình đẳng trong việc dự tuyển để chủ trì hoặc tham gia thực hiện
các chƣơng trình, đề tài, đề án về nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ
của Nhà nƣớc đƣợc các cơ quan có thẩm quyền định kỳ công bố.
+ Các cơ sở sản xuất, kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế đƣợc
thành lập các đơn vị nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ trực thuộc.
23
+ Các tổ chức và cá nhân hoạt động trong lĩnh vực KH&CN có quyền tự
do và dân chủ trong nghiên cứu, sáng tạo, trong việc thực hiện các vấn đề
nghiên cứu; đƣợc khai thác và trao đổi các thông tin liên quan đến hoạt động
nghiên cứu của mình…
- Pháp lệnh ngày 05.12.1988 của Hội đồng Nhà nƣớc quy định về
chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam. Trong đó đáng chú ý là
quy định Nhà nƣớc khuyến khích các tổ chức, cá nhân ở nƣớc ngoài chuyển
giao công nghệ vào Việt Nam trên nguyên tắc bình đẳng và các bên cùng có
lợi và bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức và cá nhân ở
nƣớc ngoài chuyển giao công nghệ vào Việt Nam, tạo điều kiện thuận lợi cho
việc chuyển giao đó.
- Chính sách về khoa học và công nghệ đã đƣợc thể chế hoá trong nhiều
văn bản quy phạm pháp luật trƣớc khi ban hành Luật Khoa học và Công nghệ
năm 2000, đặc biệt đã đƣợc thể hiện một cách khái quát và hệ thống trong
Luật KH&CN năm 2000, quy định về tổ chức khoa học và công nghệ, cá nhân
hoạt động khoa học và công nghệ; việc tổ chức thực hiện các hoạt động khoa
học và công nghệ. Trong đó đáng chú ý là việc nêu mục tiêu của hoạt động
khoa học và công nghệ là xây dựng nền khoa học và công nghệ tiên tiến, hiện
đại để phát triển lực lƣợng sản xuất, nâng cao trình độ quản lý; sử dụng hợp lý
tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trƣờng; đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá; xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con
ngƣời mới Việt Nam; góp phần phát triển nhanh, bền vững kinh tế - xã hội,
nâng cao chất lƣợng cuộc sống của nhân dân, bảo đảm quốc phòng, an ninh.
Lần đầu tiên việc quản lý KH&CN đƣợc nêu trong một văn bản quy phạm
pháp luật có hiệu lực pháp luật cao nhất là Luật.
Trong các văn bản hƣớng dẫn thi hành Luật KH&CN và trong nhiều văn
bản pháp luật khác có liên quan, trong số đó có Quyết định của Thủ tƣớng
Chính phủ phê duyệt Chiến lƣợc phát triển khoa học và công nghệ Việt Nam
24
đến năm 2010 với mục tiêu "Tập trung xây dựng nền khoa học và công nghệ
nước ta theo hướng hiện đại và hội nhập, phấn đấu đạt trình độ trung bình
trong khu vực vào năm 2010, đưa khoa học và công nghệ thực sự trở thành
nền tảng và động lực đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước".
Để phấn đấu đạt đƣợc mục tiêu nêu trên của Chiến lƣợc phát triển
KH&CN nƣớc ta đến năm 2010, ngày 28 thng 9 năm 2004 Thủ tƣớng Chính
phủ đã ban hành Quyết định số 171/2004/QĐ-TTg phê duyệt Đề án đổi mới
cơ chế quản lý KH&CN.
Với Quyết định số 171/2004/QĐ -TTg, Chính phủ khẳng định quyết tâm
tạo ra sự thay đổi căn bản trong quản lý KH&CN, đẩy nhanh sự phát triển
KH&CN, giải quyết bằng đƣợc những nhiệm vụ cơ bản đã đƣợc khởi xƣớng
trong nhiều năm trƣớc, đặc biệt từ khi ban hành Luật Khoa học và Công nghệ
năm 2000. Cụ thể là những nhiệm vụ chủ yếu sau đây:
+ Hoàn thiện cơ chế xác định và tổ chức thực hiện nhiệm vụ KH&CN;
+ Đổi mới tổ chức và hoạt động của các tổ chức KH&CN;
+ Đổi mới cơ chế, chính sách đầu tƣ tài chính cho hoạt động KH&CN
+ Đổi mới cơ chế quản lý nhân lực KH&CN;
+ Phát triển thị trƣờng công nghệ;
+ Hoàn thiện cơ chế hoạt động của bộ máy quản lý nhà nƣớc về
KH&CN.
- Luật SHTT năm 2005, quy định về quyền tác giả, quyền liên quan đến
quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng và
việc bảo hộ các quyền đó. Trong đó nhấn mạnh chính sách của Nhà nƣớc về sở
hữu trí tuệ là:
+ Công nhận và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của tổ chức, cá nhân trên cơ
sở bảo đảm hài hoà lợi ích của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ với lợi ích công
cộng; không bảo hộ các đối tƣợng sở hữu trí tuệ trái với đạo đức xã hội, trật tự
công cộng, có hại cho quốc phòng, an ninh.