Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

vai trò của vốn fdi đối với sự phát triển kinh tế của việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (206.28 KB, 30 trang )

BỘ GÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ

BÀI TIỂU LUẬN

Đề tài: VAI TRÒ CỦA VỐN FDI ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN
KINH TẾ CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY
GVHD: Th.S. NGUYỄN THỊ QUỲNH TRANG
SVTH - NHÓM 4:

***
2016 - 2017

MỤC LỤC


LỜI MỞ ĐẦU
Hiện nay, với xu hướng toàn cầu hóa ngày càng sâu rộng, mục tiêu năm
2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp hiện đại đang cận kề. Việc phát
huy những tiềm năng có sẵn để phát huy nội lực và tranh thủ những điều kiện từ
bên ngoài để đẩy mạnh ngoại lực là hết sức quan trọng và cần thiết, không chỉ đối
với Việt Nam (nước đang phát triển) mà đối với cả những nước phát triển, APEC,
NICs.
Riêng với Việt Nam, sau 31 năm đổi mới và 30 năm thu hút vốn đầu tư
nước ngoài (tính từ 1987 sau khi ra Luật Đầu tư năm 1987), chúng ta đã đạt được
những thành tựu đáng kể trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, với
trình độ phát triển kinh tế chưa cao, tích lũy vốn trong nước còn thấp, nội lực
chưa được phát huy mạnh mẽ, xuất khẩu tăng cao nhưng chưa thật sự hiệu quả
trong khai thác và chế biến, có nguy cơ rơi vào “bẫy thu nhập thấp”. Cho thấy,
Việt Nam cần thu hút và sử dụng hiệu quả hơn nữa “cú huých” từ bên ngoài này.


Trước tình hình đó, việc nghiên cứu, tìm hiểu về vốn FDI, thực trạng hoạt
động đầu tư của nguồn vốn này ở Việt Nam; tổng kết, đánh giá kết quả đạt được
2|Page


cũng như một số hạn chế và từ đó đưa ra những giải pháp để hoạt động của kênh
này hiệu quả hơn là một vấn đề quan trọng để nhìn nhận lại và từ đó hướng về
tương lai với những bước đột phá hơn.

1. Cơ sở lý luận của FDI
1.1. Khái quát chung về FDI
1.1.1. Khái niệm FDI
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI: Foreign Direct Investment) ngày nay đã
trở thành hình thức đầu tư phổ biến và đã được định nghĩa bởi các tổ chức kinh tế
quốc tế cũng như luật pháp của các quốc gia.
FDI là một loại hình đầu tư quốc tế, trong đó chủ đầu tư của một nền kinh
tế đóng góp một số vốn hoặc tài sản đủ lớn vào một nền kinh tế khác để sở hữu
hoặc điều hành, kiểm soát đối tượng họ bỏ vốn đầu tư nhằm mục đích lợi nhuận
hoặc các lợi ích kinh tế khác
FDI là sự di chuyển vốn, tài sản, công nghệ hoặc bất kỳ tài sản nào từ nước
đi đầu tư sang nước tiếp nhận đầu tư để thành lập hoặc kiểm soát doanh nghiệp
nhằm mục đích kinh doanh có lãi

3|Page


Luật Đầu tư 2005 của Việt Nam cũng có định nghĩa về FDI như sau: “Đầu
tư nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền
hoặc bất kỳ tài sản nào để tiến hành các hoạt động đầu tư. Đầu tư trực tiếp là
hình thức đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu

tư.”
Như vậy, từ khái niệm trên, FDI, xét theo định nghĩa pháp lý của Việt
Nam, là hoạt động bỏ vốn đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài vào lãnh thổ Việt
Nam với điều kiện họ phải tham gia quản lý hoạt động đầu tư đó.

1.1.2. Nguồn gốc và bản chất của FDI
Thứ nhất, nguồn gốc:
FDI xuất hiện do những nguyên nhân sau:
- Sự chênh lệch của vốn giữa các nước: có những nước thì thừa vốn trong
khi đó một số nước khác lại thiếu vốn.
- Chu kỳ sản phẩm: đối với các doanh nghiệp tham gia kinh doanh quốc tế
thì chu kỳ sống của sản phẩm này gồm 3 giai đoạn chủ yếu là: giai đoạn sản phẩm
mới; giai đoạn sản phẩm chín muồi; giai đoạn sản phẩm chuẩn hóa. Có ý kiến cho
rằng sản phẩm mới được phát minh và sản xuất ở nước đầu tư, sau đó mới được
xuất khẩu ra thị trường nước ngoài. Tại nước nhập khẩu, ưu điểm của sản phẩm
mới làm nhu cầu thị trường trong nước tăng lên nên nước nhập chuyển sang sản
xuất để thay thế sản phẩm nhập khẩu này bằng cách chủ yếu dựa vào vốn, kỹ
thuật của nước ngoài. Khi nhu cầu thị trường của sản phẩm mới trên thị trường
trong nước bão hòa, nhu cầu lại xuất hiện. Hiện tượng này diễn ra theo chu kỳ và
do đó dẫn đến sự hình thành FDI.
- Lợi thế đặc biệt của các công ty đa quốc gia: các công ty đa quốc gia có
những lợi thế đặc thù (chẳng hạn năng lực cơ bản) cho phép công ty vượt qua
4|Page


những trở ngại về chi phí ở nước ngoài nên họ sẵn sàng đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài. Khi chọn địa điểm đầu tư, họ sẽ chọn nơi nào có các điều kiện về lao động,
đất đai, chính trị … cho phép họ phát huy hết các lợi thế đặc thù.
- Tiếp cận thị trường và giảm xung đột thương mại: trong thương mại
thường xuất hiện những xung đột thương mại song phương. Ví dụ: Nhật Bản

thường bị Mỹ và các nước Tây Âu phàn nàn do có thặng dư thương mại, còn các
nước kia bị thâm hụt thương mại trong quan hệ song phương. Vì thế Nhật Bản đã
đối phó bằng cách tăng cường đầu tư trực tiếp vào các thị trường đó. Họ sản xuất
ngay tại Mỹ và Châu Âu để giảm chi phí xuất khẩu. Họ còn đầu tư vào các nước
thứ ba, và từ đó xuất khẩu sang thị trường Bắc Mĩ và Châu Âu.
- Khai thác chuyên gia và công nghệ: Các nước kém phát triển nếu có điều
kiện về vốn họ sẽ đầu tư vào các nước có kinh tế phát triển hơn, để từ đó thu hút
được các chuyên gia công nghệ mới, khai thác được tiềm năng của chúng, thu về
những sản phẩm mang tính hiện đại, khoa học.
- Tiếp cận nguồn tài nguyên thiên nhiên: để có những nguồn nguyên liệu
cần thiết, nhiều công ty đa quốc gia đầu tư vào những nước có nguồn tài nguyên
phong phú mà đất nước đó khan hiếm về tài nguyên này.
Thứ hai, bản chất:
Trong điều kiện của nền kinh tế hiện đại, FDI là loại vốn có nhiều ưu điểm
hơn so với các loại vốn khác (VD: ODA,…) nhất là đối với các nước đang phát
triển, khi khả năng sản xuất đạt hiệu quả còn thấp thì hiệu quả càng rõ rệt.
Về bản chất, FDI là sự gặp nhau về nhu cầu của một bên là nhà đầu tư và
một bên khác là nước nhận đầu tư.
 Đối với nhà đầu tư

Khi quá trình tích tụ tập trung vốn đạt tới trình độ mà “mảnh đất” sản xuất
kinh doanh truyền thống của họ đã trở nên chật hẹp đến mức cản trở khả năng

5|Page


hiệu quả của đầu tư, nơi mà ở đó nếu đầu tư vào thì họ sẽ không thu được lợi
nhuận như mong muốn. Trong khi ở một số quốc gia khác lại xuất hiện nhiều lợi
thế mà họ có thể khai thác để thu lợi nhuận cao hơn nơi mà họ đang đầu tư. Có
thể nói đây chính là yếu tố cơ bản nhất thúc đẩy các nhà đầu tư chuyển vốn của

mình đầu tư vào nước khác. Hay nói cách khác, việc tìm kiếm, theo đuổi lợi
nhuận cao hơn và bảo toàn độc quyền hay lợi thế cạnh tranh là bản chất, là động
cơ, là mục tiêu cơ bản xuyên suốt của các nhà đầu tư. Đây là loại hình mà bản
thân nó rất có khả năng để thực hiện việc kéo dài “chu kỳ tuổi thọ sản phẩm”,
“chu kỳ tuổi thọ kĩ thuật” mà vẫn giữ được độc quyền kĩ thuật, dễ dàng xâm nhập
thị trường nước ngoài mà không bị cản trỏ bởi các rào chắn.
Khai thác được nguồn tài nguyên thiên nhiên cũng như giá nhân công rẻ
của nước nhận đầu tư. Phải nói rằng, đầu tư trực tiếp nước ngoài là “lối thoát lý
tưởng” trước sức ép xảy ra “sự bùng nổ phá sản” do những mâu thuẫn tất yếu của
quá trình phát triển. Ta nói nó là lý tưởng vì chính lối thoát này đã tạo cho các nhà
đầu tư tiếp tục thu lợi và phát triển, có khi còn phát triển với tốc độ cao hơn.
Thậm chí khi nước nhận đầu tư có sự thay đổi chính sách thay thế nhập khẩu sang
chính sách hướng sang xuất khẩu thì nhà đầu tư vẫn có thể tiếp tục đầu tư dưới
dạng mở các chi nhánh sản xuất các bộ phận, phụ kiện,… để xuất khẩu trở lại để
phục vụ cho công ty mẹ, cũng như các thị trường mới… Đối với các nước đang
phát triển, dưới con mắt của các hà đầu tư, trong những năm gần đây, các nước
này đã có sự cải thiện đáng kể cơ sở hạ tầng, điều kiện kinh tế, trình độ và khả
năng phát triển của người lao động, hệ thống pháp luật, dung lượng thị trường,
một số nguồn tài nguyên … cũng như sự ổn định về chính trị … những cải thiện
này đã tạo sự hấp dẫn nhất định đối với các nhà đầu tư.
Tóm lại, thực chất cơ bản bên trong của nhà đầu tư trong hoạt động đầu tư
trực tiếp nước ngoài bao gồm: duy trì và nâng cao hiệu quả sản xuất của chủ đầu
tư (vấn đề vốn, kỹ thuật, sản phẩm… khai thác các nguồn lực và xâm nhập thị
trường của các nước nhận đầu tư; tranh thủ lợi dụng chính sách khuyến khích của

6|Page


các nước nhận đầu tư; thông qua hoạt động đầu tư trực tiếp để thực hiện các ý đồ
kinh tế (hoặc phi kinh tế) mà các hoạt động khác không thực hiện được).

 Đối với các nước nhận đầu tư

Đây là những nước đang có một số lợi thế mà nó chưa có hoặc không có
điều kiện để khai thác. Các nước nhận đầu tư thuộc loại này thường là các nước
có nguồn tài nguyên tương đối phong phú, có nguồn lao động dồi dào và giá nhân
công rẻ, thiếu vốn, thiếu kĩ thuật, thiếu công nghệ tiên tiến và ít có khả năng tổ
chức sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao… Số này phần lớn thuộc các nước
đang phát triển.
Các nước nhận đầu tư dạng khác đó là các nước phát triển, đây là các nước
có tiềm lực kinh tế cao, phần lớn là các nước có vốn đầu tư ra nước ngoài. Các
nước này có đặc điểm là cơ sở hạ tầng kĩ thuật tốt, họ đã và đang tham gia có hiệu
quả vào quá trình phân công lao động quốc tế hoặc là thành viên của các tổ chức
kinh tế hoặc các tập đoàn kinh tế lớn. Họ nhận đầu tư trong mối liên kết để giữ
quyền chi phối kinh tế thế giới.
Nói chung, đối với nước tiếp nhận đầu tư, cho dù ở trình độ phát triển cao
hay thấp, số vốn đầu tư trực tiếp ra nước ngoài do sự khéo léo “mời chào” hay do
các nhà đầu tư tự tìm đến mà có, thì đầu tư nước ngoài cũng thường có sự đóng
góp nhất định đối với sự phát triển của họ. Đa phần, các dự án đầu tư trực tiếp
nước ngoài thực sự đóng vai trò là điều kiện, là cơ hội, là cửa ngõ giúp thoát khỏi
tình trạng một nước nghèo, bước vào quỹ đạo công nghiệp hóa.
Tóm lại, đồng vốn của các tập đoàn, các công ty xuyên quốc gia lớn xuất
ra và hoạt động ngày càng tinh vi và phức tạp hơn, nhưng hiệu quả đưa lại thường
đạt ở mức cao hơn. Quan hệ của nước tiếp nhận đầu tư với nhà đầu tư trong hoạt
động đầu tư trực tiếp nước ngoài của các tập đoàn, các công ty xuyên quốc gia
lớn thường tồn tại đan xen giữa hợp tác và đấu tranh ở mức độ ngày càng cao
hơn.

7|Page



1.1.3. Đặc điểm của FDI
Đầu tư trực tiếp nước ngoài có những đặc điểm chủ yếu sau:
Thứ nhất, gắn liền với việc di chuyển vốn đầu tư, tức là tiền và các loại tài
sản khác giữa các quốc gia, hệ quả là làm tăng lượng tiền và tài sản của nền kinh
tế nước tiếp nhận đầu tư và làm giảm lượng tiền và tài sản nước đi đầu tư.
Thứ hai, được tiến hành thông qua việc bỏ vốn thành lập các doanh nghiệp
mới (liên doanh hoặc sở hữu 100% vốn), hợp đồng hợp tác kinh doanh, mua lại
các chi nhánh hoặc doanh nghiệp hiện có, mua cổ phiếu ở mức khống chế hoặc
tiến hành các hoạt động hợp nhất và chuyển nhượng doanh nghiệp.
Thứ ba, nhà đầu tư nước ngoài là chủ sở hữu hoàn toàn vốn đầu tư hoặc
cùng sở hữu vốn đầu tư với một tỷ lệ nhất định đủ mức tham gia quản lý trực tiếp
hoạt động của doanh nghiệp.
Thứ tư, là hoạt động đầu tư của tư nhân, chịu sự điều tiết của các quan hệ
thị trường trên quy mô toàn cầu, ít bị ảnh hưởng của các mối quan hệ chính trị
giữa các nước, các chính phủ và mục tiêu cơ bản luôn là đạt lợi nhuận cao.
Thứ năm, nhà đầu tư trực tiếp kiểm soát và điều hành quá trình vận động
của dòng vốn đầu tư.
Thứ sáu, FDI bao gồm hoạt động đầu tư từ nước ngoài vào trong nước và
đầu tư từ trong nước ra nước ngoài, do vậy bao gồm cả vốn di chuyển vào một
nước và dòng vốn di chuyển ra khỏi nền kinh tế của nước đó.
Thứ bảy, FDI chủ yếu là do các công ty xuyên quốc gia thực hiện.
Các đặc điểm nêu trên mang tính chất chung cho tất cả các hoạt động FDI
trên toàn thế giới. Đối với Việt Nam, quá trình tiếp nhận FDI diễn ra đã được
khoảng 30 năm và những đặc điểm nêu trên cũng đã thể hiện rõ nét. Chính những
8|Page


đặc điểm này đòi hỏi thể chế pháp lý, môi trường và chính sách thu hút FDI phải
chú ý để vừa thực hiện mục tiêu thu hút đầu tư, vừa bảo đảm mối quan hệ cân đối
giữa kênh đầu tư FDI với các kênh đầu tư khác của nền kinh tế.


1.1.4. Phân loại FDI
Có rất nhiều tiêu chí để phân loại FDI như: theo hình thức xâm nhập, theo
mục đích đầu tư, theo định hướng của nước nhận đầu tư…vv. Tuy nhiên một
trong những tiêu chí mà chúng ta thường gặp nhất đó chính là phân loại theo hình
thức pháp lý.
Theo hình thức pháp lý, vốn FDI được phân thành ba loại: thứ nhất là
100% vốn đầu tư nước ngoài, thứ hai là liên doanh, thứ ba là hợp đồng hợp tác
kinh doanh.
Thứ nhất, hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là hình thức
truyền thống và phổ biến của FDI. Hiện nay, các công ty xuyên quốc gia thường
đầu tư theo hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài và họ thường thành lập
một công ty con của công ty mẹ xuyên quốc gia.
Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài thuộc sở hữu của nhà đầu tư
nước ngoài nhưng phải chịu sự kiểm soát của pháp luật nước sở tại (nước nhận
đầu tư). Là một pháp nhân kinh tế của nước sở tại, doanh nghiệp phải được đầu
tư, thành lập và chịu sự quản lý nhà nước của nước sở tại. Doanh nghiệp 100%
vốn nước ngoài là doanh nghiệp thuộc quyền sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài
tại nước chủ nhà, nhà đầu tư phải tự quản lý, tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh
doanh.
Ưu điểm của hình thức này là nước chủ nhà không cần bỏ vốn, tránh được
những rủi ro trong kinh doanh, thu ngay được tiền thuê đất, thuế, giải quyết việc
làm cho người lao động. Mặt khác, do độc lập về quyền sở hữu nên các nhà đầu

9|Page


tư nước ngoài chủ động đầu tư và để cạnh tranh, họ thường đầu tư công nghệ
mới, phương tiện kỹ thuật tiên tiến nhằm đạt hiệu quả kinh doanh cao, góp phần
nâng cao trình độ tay nghề người lao động. Tuy nhiên, nó có nhược điểm là nước

chủ nhà khó tiếp nhận được kinh nghiệm quản lý và công nghệ, khó kiểm soát
được đối tác đầu tư nước ngoài và không có lợi nhuận.
Thứ hai, thành lập doanh nghiệp liên doanh giữa các nhà đầu tư trong nước
và ngoài nước. Đây là hình thức được sử dụng rộng rãi trên thế giới từ trước đến
nay. Hình thức này cũng rất phát triển ở Việt Nam, nhất là giai đoạn đầu thu hút
FDI. Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp được thành lập tại nước sở tại trên
cơ sở hợp đồng liên doanh ký giữa Bên hoặc các Bên nước chủ nhà với Bên hoặc
các Bên nước ngoài để đầu tư kinh doanh tại nước sở tại.
Hình thức doanh nghiệp liên doanh có những ưu điểm là góp phần giải
quyết tình trạng thiếu vốn, nước sở tại tranh thủ được nguồn vốn lớn để phát triển
kinh tế nhưng lại được chia sẻ rủi ro; có cơ hội để đổi mới công nghệ, đa dạng
hóa sản phẩm; tạo cơ hội cho người lao động có việc làm và học tập kinh nghiệm
quản lý của nước ngoài; Nhà nước của nước sở tại dễ dàng hơn trong việc kiểm
soát được đối tác nước ngoài. Về phía nhà đầu tư, hình thức này là công cụ để
thâm nhập vào thị trường nước ngoài một cách hợp pháp và hiệu quả, tạo thị
trường mới, góp phần tạo điều kiện cho nước sở tại tham gia hội nhập vào nền
kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, hình thức này có nhược điểm là thường dễ xuất hiện
mâu thuẫn trong điều hành, quản lý doanh nghiệp do các bên có thể có sự khác
nhau về chế độ chính trị, phong tục tập quán, truyền thống, văn hóa, ngôn ngữ,
luật pháp. Nước sở tại thường rơi vào thế bất lợi do tỷ lệ góp vốn thấp, năng lực,
trình độ quản lý của cán bộ tham gia trong doanh nghiệp liên doanh yếu.
Thứ ba, đầu tư theo hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh. Hợp đồng hợp
tác kinh doanh là hình thức đầu tư được ký giữa các nhà đầu tư nhằm hợp tác kinh
doanh phân chia lợi nhuận, phân chia sản phẩm mà không thành lập pháp nhân.

10 | P a g e


Hình thức đầu tư này có ưu điểm là giúp giải quyết tình trạng thiếu vốn,
công nghệ; tạo thị trường mới, bảo đảm được quyền điều hành dự án của nước sở

tại, thu lợi nhuận tương đối ổn định; và do không phải thành lập pháp nhân nên
tránh được các thủ tục pháp lý rườm rà, nên thường được áp dụng cho các nước
đang phát triển bắt đầu có chính sách thu hút FDI. Tuy nhiên, nó có nhược điểm
là không thành lập pháp nhân dễ gặp rủi ro, không phù hợp với dự án dài hạn.
1.2. Một số nhân tố tác động đến FDI
Có nhiều nhân tố tác động đến thu hút FDI, song có một số nhóm nhân tố
cơ bản sau:
Thứ nhất, môi trường đầu tư : Môi trường đầu tư bao gồm : Môi trường
pháp lý minh bạch phù hợp với các chuẩn mực quốc tế; môi trường kinh tế vĩ mô
ổn định, tăng trưởng kinh tế cao, bền vững, lạm phát được kiểm soát tốt; môi
trường xã hội, môi trường tự nhiên. Đây là nhóm nhân tố rất quan trọng trong thu
hút FDI, bởi trong một môi trường kinh tế vĩ mô thiếu ổn định, minh bạch sẽ tiềm
ẩn nhiều rủi ro khiến các nhà đầu tư dè dặt và quan ngại trong bảo toàn vốn và thu
nhập. Tăng trưởng kinh tế là một trong những yếu tố quan trọng nhất tác động
tích cực đến việc thu hút vốn FDI của một quốc gia.
Thứ hai, chất lượng cơ sở hạ tầng phải đầy đủ và đồng bộ: Hạ tầng cơ sở
bao gồm hạ tằng cơ sở vật chất- kỹ thuật và hạ tầng cơ sở kinh tế- xã hội. Hệ
thống hạ tầng cơ sở liên quan đến cả các yếu tố đầu vào lẫn đầu ra của hoạt động
sản xuất kinh doanh, vì vậy nó là điều kiện nền tảng để các nhà đầu tư có thể khai
thác lợi nhuận. Nếu hạ tầng cơ sở yếu kém và thiếu đồng bộ thì nhà đầu tư rất khó
để triển khai dự án, chi phí đầu tư tăng cao, quyền lợi của nhà đầu tư không được
bảo toàn.
Thứ ba, độ mở của nền kinh tế, khuyến khích xuất khẩu và sự ổn định
chính trị; nền kinh tế càng mở cửa thì mức độ giao thương, buôn bán càng mạnh,
các doanh nghiệp sẽ có thị trường xuất nhập khẩu lớn hơn và có nhiều cơ hội hơn
trong đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh.
11 | P a g e


Thứ tư, quy mô và tính chất thị trường nội địa: Đây là một trong những

yếu tố tác động đến quy mô đầu tư và tổng lợi nhuận của nhà đầu tư. Để thu hút
vốn FDI ngoài tiềm năng đông dân thì việc cải thiện đời sống, tăng thu nhập, tăng
sức mua của cư dân trong nước cũng có tác động rất lớn trong thu hút FDI. Bên
cạnh đó việc gia nhập các liên kết kinh tế khu vực và thế giới cũng tạo ra thị
trường rộng mở cho các nhà đầu tư và cũng là nhân tố tác động đến việc quyết
định địa bàn đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài.
1.3. Tác động của FDI tới sự phát triển kinh tế
FDI thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Khu vực FDI là một thành phần kinh tế,
đóng góp vào quá trình tăng trưởng chung của toàn nền kinh tế. Một mặt, FDI bổ
sung nguồn vốn cho đầu tư phát triển kinh tế thúc đẩy phát triển kinh tế về phía
cầu (cầu lao động, yếu tố nhập lương vv…). Mặt khác, thông qua các hình thức
kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế về phía cung (sản phẩm, dịch vụ vv…).
Từ năm 1991- 1995, GDP tăng liên tục qua các năm với tốc độ tăng bình
quân mỗi năm 8,2% và tỷ trọng đóng góp của vốn FDI thực hiện trong GDP bình
quân mỗi năm 4,7%. Trong 5 năm 1966- 2000, GDP bình quân hàng năm tăng
6.96% và tỷ trọng đóng góp của vốn FDI thực hiện trong GDP bình quân mỗi
năm là 10,4%. Trong thời kỳ 2001- 2005, GDP tăng 7,5%/năm và tỷ trọng
FDI/GDP là 14,6%/năm. Trong 2 năm 2008 và 2009, GDP tăng 5,78%/năm và tỷ
trọng FDI/GDP là 18,14%/năm.
FDI góp phần quan trọng trong việc làm tăng năng suất lao động, cải thiện
nguồn nhân lực. Đến nay, khu vực có vốn FDI đã tạo ra việc làm cho trên 1.5
triệu lao động và hàng triệu lao động gián tiếp khác. Theo kết điều tra của ngân
hàng thế giới (WB) cứ 1 lao động trực tiếp sẽ tạo việc làm cho từ 2- 3 lao động
gián tiếp phục vụ trong cộng đồng dân cư, góp phần tăng GDP/đầu người/năm.
FDI đóng góp một phần đáng kể vào nguồn thu ngân sách nhà nước.
-

Đối với các nước đầu tư:

12 | P a g e



Đầu tư ra nước ngoài giúp nâng cao hiệu quả sử dụng những lợi thế sản
xuất ở các nước nhận đầu tư, hạ giá thành sản phẩm và nâng cao tỷ suất lợi nhuận
của vốn đầu tư và xây được thị trường cung cấp nguyên liệu ổn định với giá phải
chăng.
Mặt khác đầu tư ra nước ngoài giúp tăng sức mạnh kinh tế và nâng cao uy
tín chính trị. Thông qua việc xây dựng nhà máy sản xuất và thị trường tiêu thụ ở
nước ngoài mà các nước đầu tư mở rộng được thị trường tiêu thụ, tránh được
hàng rào bảo hộ mậu dịch của các nước.
-

Đối với nước nhận đầu tư:
Đối với các nước kinh tế phát triển, FDI có tác dụng lớn trong việc giải

quyết những khó khăn về kinh tế, xã hội như thất nghiệp và lạm phát… Qua FDI
các tổ chức kinh tế nước ngoài mua lại những công ty doanh nghiệp có nguy cơ
phá sản, giúp cải thiện tình hình thanh toán và tạo công ăn việc làm cho người lao
động.
FDI còn tạo điều kiện tăng thu ngân sách dưới hình thức các loại thuế để
cải thiện tình hình bội chi ngân sách, tạo ra môi trường cạnh tranh thúc đẩy sự
phát triển kinh tế và thương mại, giúp người lao động và cán bộ quản lý học hỏi
kinh nghiệm quản lý của các nước khác.
Đối với các nước đang phát triển: FDI giúp đẩy mạnh tốc độ phát triển
kinh tế thông qua việc tạo ra những doanh nghiệp mới, thu hút thêm lao động,
giải quyết một phần nạn thất nghiệp ở những nước này.
FDI giúp các nước đang phát triển khắc phục tình trạng thiếu vốn kéo dài.
Nhờ vậy mà nhu cầu phát triển to lớn với nguồn tài chính khan hiếm được giải
quyết, đặc biệt là trong thời kỳ đầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Theo sau FDI là máy móc thiết bị và công nghệ mới giúp các nước đang phát

triển tiếp cận với khoa học- kỹ thuật mới. Quá trình đưa công nghệ vào sản xuất

13 | P a g e


giúp tiết kiệm được chi phí và nâng cao khả năng cạnh tranh của các nước đang
phát triển trên thị trường quốc tế.
Cùng với FDI, những kiến thức quản lý kinh tế, xã hội hiện đại được du
nhập vào các nước đang phát triển, các tổ chức sản xuất trong nước bắt kịp
phương thức quản lý công nghiệp hóa, hiện đại hóa; lực lượng lao động quen dần
với phong cách làm việc công nghiệp cũng như hình thành dần đội ngũ những nhà
doanh nghiệp giỏi.
FDI giúp các nước đang phát triển mở cửa thị trường hàng hóa nước ngoài
và đi kèm với nó là những hoạt động Marketing được mở rộng không ngừng.
2. Tình hình thu hút và vai trò của vốn FDI ở Việt Nam hiện nay
2.1. Tình hình thu hút vốn FDI ở Việt Nam hiện nay
Sau 30 năm thu hút vốn FDI, Việt Nam đã đạt được những thành tựu nhất
định với những giai đoạn đầy biến động trong lĩnh vực này. Đặc biệt là sau khi
Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO), FDI đã không ngừng tăng
trưởng một cách mạnh mẽ và đỉnh điểm là đến năm 2008, FDI đã đạt đến hơn 64
tỷ USD; và đến ngày 04/02/2016 bộ trưởng phụ trách thương mại của 12 nước,
trong đó có Việt Nam đã chính thức ký kết để xác thực lời văn Hiệp định Đối tác
xuyên Thái Bình Dương (TPP) tại Aucland, New Zealand (trước đó Việt Nam đã
tuyên bố gia nhập TPP vào 13/11/2010) với nhiều dự đoán sẽ tạo nên cú huých
lớn mạnh cho dòng chảy FDI đổ vào Việt Nam mặc cho sự kiện Mỹ rút khỏi tổ
chức này vào ngày 23/01/2017.
Năm 2014 tuy có nhiều biến động về kinh tế, chính trị trên thế giới và
trong nước nhưng với sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh
nghiệp nên nền kinh tế Việt Nam vẫn đạt được những kết quả khả quan, đặc biệt
là khu vực có vốn đầu tư nước ngoài.

Tình hình thu hút vốn đầu tư nước ngoài trong năm 2014, tính từ 1/1/2014
đến 15/12/2014:

14 | P a g e


-

Về số dự án và số vốn đăng ký, theo số liệu của Hệ thống thông tin về Đầu tư
nước ngoài, cả nước ta có 1588 dự án đầu tư nước ngoài mới được cấp giấy
chứng nhận đầu tư với tổng số vốn đăng ký là 15,64 tỷ USD, tăng 9,6% so với
cùng kỳ năm 2013. Ngoài ra, có 594 lượt dự án tăng vốn đầu tư với tổng vốn
đăng ký tăng thêm là 4,58 tỷ USD, bằng 62,4% so với cùng kỳ năm 2013.
Tính chung cả cấp mới và tăng vốn, trong năm 2014, các nhà đầu tư nước
ngoài đã đăng ký đầu tư vào Việt Nam 20,23 tỷ USD, bằng 93,5% so với cùng kỳ
2013 và tăng 19% so với kế hoạch năm 2014 (17 tỷ USD).

-

Về quy mô dự án, các dự án quy mô lớn trong năm 2014 còn chiếm tỷ lệ nhỏ. Cả
năm 2014 chỉ thu hút được 4 dự án có quy mô vốn trên 1 tỷ USD, 22 dự án trên
100 triệu USD, 24 dự án trên 50 triệu USD, 157 dự án trên 10 triệu USD. Còn lại
các dự án dưới 10 triệu USD (chiếm 87% tổng dự án cấp mới năm 2014). Quy mô
vốn trung bình của dự án ĐTNN trong năm 2014 khoảng 9,8 triệu USD, thấp hơn
so với quy mô vốn bình quân dự án ĐTNN nói chung là 14 triệu USD.
Đáng chú ý là 4 dự án có quy mô vốn đầu tư trên 1 tỷ USD:
+ Công ty TNHH Samsung Electronics tại Thái Nguyên, sản xuất lắp ráp
gia công các sản phẩm điện, điện tử, vốn đăng ký: 3 tỷ USD
+ Công ty TNHH điện tử Samsung CE Complex tại thành phố Hồ Chí
Minh, nghiên cứu sản xuất thiết bị điện tử công nghệ cao, các phần mềm tiên tiến,

vốn đăng ký: 1,4 tỷ USD
+ Công ty TNHH Dewan International tại Khánh Hòa, xây dựng, phát triển
khu vực biển chính của Nha Trang, vốn đăng ký: 1,25 tỷ USD
+ Công ty TNHH Samsung Display tại Bắc Ninh, sản xuất, lắp ráp, gia
công các sản phẩm màn hình smartphone, máy tính bảng, vốn đăng ký: 1 tỷ USD
Với 4 dự án lớn có quy mô vốn đăng ký trên 1 tỷ USD là dấu hiệu không
thực sự khả quan cho việc sử dụng hiệu quả vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tuy

15 | P a g e


nhiên bên cạnh đó, Việt Nam đang đàm phán khoảng 10 dự án BOT điện, vốn
mỗi dự án khoảng từ 2 – 2,5 tỷ USD và có dự án dầu khí đặc biệt lớn tại Bình
Định (vốn khoảng 27 tỷ USD) đang trong quá trình chuẩn bị đầu tư. Đây là xu thế
đầy hứa hẹn cho việc gia tăng các dự án quy mô lớn vào những năm tiếp theo.
-

Hoạt động giải ngân vẫn tăng nhẹ dù trong nước và thế giới có nhiều bất ổn, diễn
biến phức tạp. Cụ thể là các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đã giải ngân được
12,35 tỷ USD, tăng 7,4 % so với cùng kỳ năm 2013 và tăng 2,9% so với kế hoạch
năm 2014. Giải ngân dự án FDI đạt được những kết quả trên là do công tác hỗ
trợ, thúc đẩy giải ngân các dự án đã được chú trọng hơn. Đồng thời công tác đối
thoại chính sách với các nhà đầu tư đang hoạt động tại Việt Nam nhằm tháo gỡ
các khó khăn, vướng mắc của nhà đầu tư được đẩy mạnh, phần nào giúp các nhà
đầu tư triển khai hoạt động có hiệu quả hơn.
Tổng kết năm 2014 về tình hình thu hút vốn đầu tư nước ngoài đã đạt được
những thành tựu nhất định như hoạt động giải ngân hiệu quả thúc đẩy cho việc sử
dụng vốn FDI tốt hơn tuy nhiên số vốn trung bình về quy mô dự án đăng ký vẫn
chưa đạt chỉ tiêu là một trong những hạn chế kìm hãm dòng chảy đầu tư nước
ngoài vào nước ta.

“Năm 2015, giải ngân vốn FDI đạt mức kỷ lục” – Đó là tiêu đề của một bài
báo trên trang baocongthuong.com.vn số ra 30/12/2015 của nhà báo Nguyễn Hòa.
Năm 2015 không chỉ hoạt động giải ngân vốn đạt mức kỷ lục mà vốn FDI
đăng ký cũng tăng mạnh.

-

Về số dự án và số vốn đăng ký, theo số liệu của Hệ thống thông tin về Đầu tư
nước ngoài, tính đến ngày 20 tháng 12 năm 2015 cả nước có 2.013 dự án mới
được cấp giấy chứng nhận đầu tư với tổng vốn đăng ký là 15,578 tỷ USD, bằng
99,6% so với cùng kỳ năm 2014. Có 814 lượt dự án đăng ký tăng vốn đầu tư với
tổng vốn đăng ký tăng thêm là 7,18 tỷ USD, tăng 56,5% so với cùng kỳ năm
2014.

16 | P a g e


Một số dự án quy mô lớn được cấp phép trong 12 tháng năm 2015 là:
+ Dự án Cty SamSung Display Việt Nam với số vốn đầu tư tăng thêm là 3
tỷ USD; dự án này được cấp phép năm 2014 với số vốn đầu ban đầu là 1 tỷ USD;
dự án được đầu tư tại KCN Yên Phong 1, Bắc Ninh với mục tiêu sản xuất, lắp
ráp, gia công, tiếp thị hoặc bán các loại màn hình.
+ Dự án Nhà máy điện Duyên Hải 2 với tổng vốn đầu tư là 2,4 tỷ USD do
Công ty Janakuasa Sdn. Bhd – Malaysia đầu tư tại tỉnh Trà Vinh với mục tiêu
thiết kế, xây dựng, vận hành và chuyển giao một nhà máy nhiệt điện đốt than,
công suất khoảng 1.200 MW (gồm hai tổ máy với công suất thiết kế 600 MW mỗi
tổ máy).
+ Dự án Cty TNHH liên doanh thành phố Đế Vương tổng vốn đầu tư là 1,2
tỷ USD do Cty cổ phần bất động sản Tiến Phước và Cty TNHH bất động sản Trần
Thái Liên doanh với nhà đầu tư Denver Power Ltd - Vương quốc Anh dự án đầu

tư tại TP Hồ Chí Minh vào lĩnh vực hoạt động kinh doanh bất động sản.
+ Dự án Nhà máy sản xuất giấy công ty TNHH CHENG LOONG BÌNH
DƯƠNG PAPER tổng vốn đầu tư 1 tỷ USD do nhà đầu tư Samoa đầu tư tại Khu
công nghiệp Bình Dương với mục tiêu sản xuất giấy công nghiệp và giấy tiêu
dùng.
+ Dự án Cty TNHH Hyosung Đồng Nai tổng vốn đầu tư 660 triệu USD do
nhà đầu tư Thổ Nhĩ Kỳ đầu tư tại Khu công nghiệp Đồng Nai với mục tiêu sản
xuất và gia công các loại sợi.
-

Hoạt động giải ngân là điểm nhấn mạnh trong hoạt động thu hút vốn FDI vào Việt
Nam năm 2015. Trong 12 tháng năm 2015, ước tính các dự án đầu tư trực tiếp
nước ngoài đã giải ngân được 14,5 tỷ USD, tăng 17,4% với cùng kỳ năm 2014
(trong khi năm 2014 là tăng thêm 7,4% so với cùng kỳ năm 2013).
Kết quả thu hút và giải ngân vốn FDI năm 2015 khá tốt, trong đó đặc biệt
là vốn giải ngân tăng cao nhất từ trước tới nay. Ngoài sự xuất hiện của nhiều dự
17 | P a g e


án lớn, thu hút FDI năm 2015 tăng mạnh còn do Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư
sửa đổi được ban hành vào tháng 11/2014 và chính thức có hiệu lực từ ngày
1/7/2015 đã tác động tích cực đến môi trường đầu tư của Việt Nam. Từ đó tạo ra
tiền đề tích cực cho việc thực hiện kế hoạch 5 năm 2016-2020 về hoạt động này
cũng như hoạt động phát triển kinh tế - xã hội.
Năm 2016:
-

Về số dự án và số vốn đăng ký, theo số liệu của Hệ thống thông tin quốc gia về
Đầu tư nước ngoài, đến ngày 26 tháng 12 năm 2016 cả nước có 2.556 dự án mới
được cấp giấy chứng nhận đầu tư với tổng vốn đăng ký là 15,18 tỷ USD, tăng

27% về số dự án và bằng 97,5% về vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2015. Có
1.225 lượt dự án đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư với tổng vốn đăng ký tăng thêm
là 5,76 tỷ USD, tăng 50,5% về số dự án và bằng 80,3% về vốn tăng thêm so với
cùng kỳ.
Cũng trong năm 2016, có 2.547 doanh nghiệp, tổ chức kinh tế có nhà đầu
tư nước ngoài góp vốn mua cổ phần với tỷ lệ vốn lớn hơn 50% vốn điều lệ hoặc
thuộc lĩnh vực đầu tư có điều kiện với tổng vốn đầu tư là 3,425 tỷ USD.
Như vậy, tính chung đến 26/12/2016, tổng vốn đầu tư đăng ký cấp mới,
tăng thêm và góp vốn, mua cổ phần đạt 24,4 tỷ USD, tăng 5,55% so với năm
2015.
Trong năm 2016, số dự án cấp mới và tăng vốn vẫn tăng mạnh so với năm
2015. Về vốn đầu tư đăng ký và tăng thêm có giảm hơn so với cùng kỳ năm 2015
do trong năm 2016 không có nhiều dự án quy mô lớn được cấp giấy chứng nhận
đăng ký đầu tư (năm 2016 chỉ có một dự án có quy mô trên 1 tỷ USD, đó là Dự
án LG Display Hải Phòng, cấp phép ngày 15/4/2016, tổng vốn đầu tư đăng ký 1,5
tỷ USD do LG Display Co.,ltd (Hàn Quốc) đầu tư).
Một số dự án lớn được cấp phép trong năm 2016 là:

18 | P a g e


+ Dự án LG Display Hải Phòng, cấp phép ngày 15/4/2016, tổng vốn đầu tư
đăng ký 1,5 tỷ USD do LG Display co.,ltd (Hàn Quốc) đầu tư với mục tiêu sản
xuất và gia công sản phẩm màn hình OLED nhựa cho các thiết bị di động như
điện thoại di động, đồng hồ thông minh, máy tính bảng....
+ Dự án nhà máy LG Innotek Hải Phòng, tổng vốn đầu tư đăng ký 550
triệu USD do LG Innotek Co.Ltd (Hàn Quốc) đầu tư với mục tiêu sản xuất mô
đun camera tại Hải Phòng.
+ Dự án phát triển tổ hợp cảng biển và khu công nghiệp tại khu vực đầm
nhà Mạc, thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh, do Công ty TNHH tập đoàn quốc

tế CDC (Cayman Islands) đầu tư với tổng vốn đầu tư đăng ký 315,46 triệu USD.
+ Dự án Thành phố Amata Long Thành, tổng vốn đầu tư đăng ký 309,3
triệu USD do nhà đầu tư Thái Lan đầu tư với mục tiêu đầu tư xây dựng khu đô thị
dịch vụ theo quy hoạch tại Đồng Nai.
Đồng thời theo dự kiến năm 2016 có 2 dự án lớn là dự án điện BOT Nghi
Sơn 2, vốn 2,5 tỷ USD và dự án điện Vũng Áng 2, vốn 2,5 tỷ USD được cấp
GCNĐKĐT, tuy nhiên 2 dự án này không có khả năng cấp phép trong năm nay
mà phải sang năm 2017. Trong khi trong năm 2015 chỉ tính riêng các dự án quy
mô trên 1 tỷ USD đã đóng góp tới 6,6 tỷ USD.
-

Hoạt động giải ngân, tính đến ngày 26/12/2016, ước tính các dự án đầu tư trực
tiếp nước ngoài đã giải ngân được 15,8 tỷ USD, tăng 9% so với cùng kỳ năm
2015, đạt mức giải ngân vốn FDI cao nhất từ trước đến nay.
Nhìn chung tình hình thu hút vốn FDI ở Việt Nam ba năm 2014, 2015,
2016 khá hiệu quả, số dự án và số vốn đăng ký liên tục tăng qua các năm, bên
cạnh đó là hoạt động giải ngân cũng đạt được những thành tựu đáng kể đặc biệt là
sau khi Luật đầu tư, Luật doanh nghiệp được sửa đổi vào năm 2014, giảm bớt
những những sự can thiệt của các cơ quan cũng như những thủ tục hành chính đã
tháo gỡ nhiều rào cản cho dòng chảy FDI đổ vào Việt Nam. Nhưng những dự án

19 | P a g e


đăng ký quy mô lớn còn chưa thật nhiều và chưa có dự án thật sự lớn để tạo ra
ngành kinh tế mũi nhọn cho đất nước trong hoạt động thu hút, sử dụng vốn FDI.
2.2. Vai trò của vốn FDI đối với phát triển kinh tế Việt Nam hiện nay
Với tư cách là một nước tiếp nhận đầu tư, và cũng là một nước đang phát
triển, vốn FDI có vai trò hết sức quan trọng đối với việc phát triển kinh tế của
Việt Nam. Đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay, khi mà mục tiêu đưa đất nước trở

thành nước công nghiệp hiện đại vào năm 2020 đang đi vào giai đoạn nước rút và
có nguy cơ không đạt được mục tiêu đề ra như ở văn kiện Đại hội XII nhận định.
 Về mặt kinh tế

Thứ nhất, vốn FDI có tác động mạnh đến sự tăng trưởng kinh tế của Việt
Nam ở việc góp phần tăng nguồn vốn, giải quyết nạn thiếu vốn kéo dài cho việc
phát triển kinh tế xã hội.
FDI giải quyết tình trạng thiếu vốn đầu tư cho phát triển kinh tế xã hội, do
nước nước ta có lượng tích lũy vốn khá thấp. FDI không chỉ bổ sung nguồn vốn
đầu tư phát triển mà còn là một luồng vốn ổn định hơn so với các luồng vốn đầu
tư quốc tế khác, bởi FDI dựa trên quan điểm dài hạn về thị trường, về triển vọng
tăng trưởng và không tạo ra nợ cho chính phủ nước tiếp nhận đầu tư, do vậy, ít có
khuynh hướng thay đổi khi có tình huống bất lợi. Trong 3 năm 2014, 2015, 2016
các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đã giải ngân 42,65 tỷ USD.
Thứ hai, bên cạnh việc giải nạn thiếu vốn thì một trong những vai trò nổi
trội của nguồn vốn FDI so với các nguồn vốn khác là đi kèm theo hoạt động
chuyển giao công nghệ, thúc đẩy xuất khẩu, tiếp nhận kiến thức quản lý hiện đại
từ các nước đầu tư.
Việt Nam có nền tảng khoa học, công nghệ chưa thật sự nổi trội. Đặc biệt
là trong sản xuất còn hình thức thủ công, chưa thoát ly khỏi cơ khí hóa. Vậy nên,
khoa học, công nghệ thực sự quan trọng đối với việc tăng trưởng và phát triển
kinh tế nước nhà. Văn kiện đại hội XII của Đảng đã khẳng định, “khoa học và

20 | P a g e


công nghệ là quốc sách hàng đầu và là động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển
của lực lượng sản xuất”. Tuy nhiên, nếu không tập trung phát huy nội lực mà dựa
vào vốn để chuyển giao công nghệ sẽ có nguy cơ biến nền công nghệ nước nhà
thành bãi rác công nghệ thế giới.

Xuất khẩu luôn là mong muốn của mọi quốc gia trên thế giới. Hoạt động
này sẽ giúp nước xuất khẩu hàng hóa thu được nhiều lợi nhuận, tăng tính cạnh
tranh của hàng hóa trên thị trường thế giới và tạo ra tỷ giá hối đoái có lợi cho
quốc gia của mình. Ở nước ta, xuất khẩu của khu vực FDI (xuất khẩu không kể
dầu thô) trong 12 tháng đạt 94,41 tỷ USD tăng 16,7% so với cùng kỳ 2013 và
chiếm 68% kim ngạch xuất khẩu. Xuất khẩu của khu vực đầu tư nước ngoài (xuất
khẩu không kể dầu thô) trong năm ước 2016 đạt 123,55 tỷ USD, tăng 11,8% so
với cùng kỳ 2015 và chiếm 70,2% kim ngạch xuất khẩu. Như vậy, chúng ta có thể
thấy xuất khẩu của khu vực FDI ở nước ta luôn chiếm một tỷ trọng lớn trong kim
ngạch xuất khẩu của tất cả các khu vực, và giá trị xuất khẩu liên tục tăng từ qua
các năm.
Chuyển giao công nghệ qua các dự án FDI luôn đi kèm với hoạt động đào
tạo nhân lực vận hành, quản lý, nhờ đó đã hình thành được đội ngũ công nhân,
cán bộ, đội ngũ quản lý với trình độ, tay nghề cao. Hầu hết những đội ngũ công
nhân, cán bộ quản lý có trình độ, tay nghề cao đều tập trung ở các doanh nghiệp
hay khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Thứ ba, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đóng góp trực tiếp vào tổng thu nhập
nội địa (GDP).
Khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng góp đáng kể vào tổng thu
nhập quốc nội (GDP) của Việt nam. Cụ thể, đóng góp vào ngân sách nhà nước
của khu vực FDI (không kể dầu thô) năm 2014 đạt 5,58 tỷ USD, tăng 11,6% so
với năm 2013, chiếm 21,25% tổng thu nhập quốc nội. Góp phần quan trọng vào
việc tạo ra giá trị thặng dư từ tài khoản vốn, tăng ngân sách, giảm bội chi Nhà
nước, và ổn định kinh tế vĩ mô.
21 | P a g e


Thứ năm, tạo ra sự cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế, thúc đẩy sự
phát triển của thị trường.
Khi các doanh nghiệp thuộc khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ồ

ạt đón nhận dòng chảy về vốn, công nghệ…; thì các doanh nghiệp thuộc khu vực
kinh tế Nhà nước và ngoài Nhà nước cũng phải chuyển mình, thu hút vốn (thông
qua cổ phiếu, trái phiếu…), đổi mới công nghệ để cạnh tranh lại với khu vực FDI.
Và thông qua cuộc cạnh tranh đó vô hình trung thúc đẩy sự tăng trưởng, phát triển
kinh tế đất nước. Tuy nhiên, cạnh tranh rất dễ dẫn đến tình trạng độc quyền, đòi
hỏi Nhà nước phải có những chính sách tác động phù hợp.
Thứ sáu, FDI thúc đẩy thay đổi cơ cấu kinh tế theo hướng chiến lược công
nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta hiện nay và đi sâu, rộng vào hoạt động hội
nhập quốc tế.
FDI là bộ phận quan trọng của hoạt động kinh tế đối ngoại, thông qua đó
Việt Nam và các quốc gia sẽ tham gia ngày càng nhiều vào phân công lao động
quốc tế để hôị nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, đòi hỏi mỗi quốc gia phải
thay đổi cơ cấu kinh tế cho phù hợp với sự phân công lao động của quốc tế. Sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế của mỗi quốc gia phù hợp với trình độ phát triển
chung trên thế giới sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động FDI. Ngược lại chính
FDI lại góp phần vào đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, bởi vì :
- Thông qua FDI đã làm xuất hiện nhiều lĩnh vực, ngành kinh tế mới (lĩnh
vực công nghệ cao, công nghệ tiên tiến…) ở Việt Nam.
- FDI giúp cho sự phát triển nhanh chóng về trình độ kỹ thuật công nghệ ở
nhiều ngành kinh tế, góp phần thúc đẩy tăng năng suất và làm tăng tỷ phần đóng
góp của nó cho nền kinh tế.
- Một số ngành nghề được kích thích phát triển bởi FDI, bên cạnh đó cũng
có một số ngành bị mai một rồi đi đến xóa sổ.

22 | P a g e


Dòng vốn FDI đổ vào Việt Nam chủ yếu là ngành công nghiệp chế biến.
Năm 2012 (Lũy kế các dự án còn hiệu lực đến ngày 15/12/2012), công nghiệp chế
biến, chế tạo có 8070 dự án, tổng số vốn đầu tư đăng ký là 103,523.905 triệu

USD (chiếm 49,8%) đến năm 2016 (Lũy kế các dự án còn hiệu lực đến ngày
20/12/2016), công nghiệp chế biến, chế tạo có 11703 dự án, tổng số vốn đầu tư
đăng ký là 172,399.578 triệu USD (chiếm 58,8%). Ngành công nghiệp chế biến
chế tạo luôn đi đầu trong số vốn đăng ký đầu tư và liên tục tăng mạnh dẫn đến sự
phát triển mạnh mẽ của ngành này. Tuy nhiên ở chiều ngược lại, một ngành từng
là thế mạnh của Việt Nam trước đây lại phai mờ dần đi. Ngành nông, lâm nghiệp;
thủy sản ở Việt Nam vào năm 2012 có 497 dự án, tổng số vốn đầu tư là 3,343.971
triệu USD (chiếm 1,6%) đến năm 2016 có 518 dự án, tổng số vốn đầu tư là
3,551.989 (chiếm 1,2%). Số dự án và số vốn đăng ký vẫn tăng, tuy nhiên tỷ trọng
của ngành nông, lâm nghiệp; thủy sản lại giảm từ 1,6% năm 2012 xuống còn
1,2% vào năm 2016. Cho thấy sự mai một, nhạt nhòa dần của nhóm ngành này.
Hình 1:

Trong những năm qua, cụ thể là qua 3 thời điểm là năm 2005, 2010, 2013
cơ cấu GDP theo nhóm ngành kinh tế có sự chuyển dịch theo hướng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Tỷ trọng của nhóm ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ
tăng lên và xu hướng giảm của khu vực nông, lâm nghiệp, thủy sản. Xu hướng
chuyển dịch đã đúng hướng về mục tiêu đề ra đến năm 2020 nước ta cơ bản trở
thành nước công nghiệp hiện đại, tuy nhiên tốc độ chuyển dịch còn chậm và cần

23 | P a g e


phải đẩy nhanh hơn nữa để có thể hoàn thành mục tiêu đề ra vào năm 2020 hoặc
không quá trễ.
Thứ bảy, tạo động lực cho ổn định kinh tế vĩ mô.
Vốn FDI còn kích thích nước ta phải luôn theo sát thực tiễn, đánh giá kết
quả một cách sát sao, luôn đổi mới chính sách và pháp luật để tạo điều kiện thu
hút các nhà đầu tư cũng như sử dụng hiệu quả nguồn vốn này; với sự ra đời của
Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp vào năm 2014, đã tạo ra nhiều cơ hội thu hút

vốn FDI và sử dụng hiệu quả được nguồn vốn này thông qua việc giảm bớt những
thủ tục pháp lý dài dòng và giảm bớt sự can thiệp quá sâu của một số cơ quan
Nhà nước vào việc sử dụng dòng vốn này. Đây cũng là một môi trường rèn luyện
cho Đảng và Nhà nước và đồng thời cũng là con đường đến với môi trường kinh
tế quốc tế của Việt Nam.
Việc thay đổi những chính sách và pháp luật không chỉ tạo điều kiện thu
hút và sử dụng hiệu quả kênh này. Một cách chủ quan và khách quan, kinh tế vĩ
mô được ổn định thông qua những sự thay đổi chính sách, pháp luật một cách phù
hợp. Phát huy đúng vai trò của “bàn tay hữu hình” và khắc phục những khuyết tật
của “bàn tay vô hình”, giúp nền kinh tế hoạt động một cách hiệu quả.
 Về chính trị, xã hội

Thứ nhất, tạo động lực cho việc bình ổn chính trị - xã hội.
Phân tích ở chiều hướng ngược lại, điều kiện tốt về chính trị - xã hội có ý
nghĩa quyết định đến việc huy động và sử dụng hiệu quản vốn FDI, nếu đất nước
có điều kiện chính trị - xã hội bất ổn định (thể chế, pháp luật yếu kém, vai trò của
nhà nước không được đảm bảo, khủng bố…) thì lợi ích của các nhà đầu tư nước
ngoài bị giảm và dẫn đến giảm sút lòng tin và khả năng sử dụng hiệu quả vốn FDI
ở các nước chủ nhà cũng thấp do những bất ổn về chính trị - xã hội.
Là một nước đang phát triển, vốn FDI có ý nghĩa rất quan trọng đối với
phát triển kinh tế Việt Nam. Vậy nên, từ kinh nghiệm rút ra, Việt Nam luôn nỗ
24 | P a g e


lực, tăng cường giữ vững sự ổn định về chính trị - xã hội cũng như tôn trọng thực
hiện các công ước quốc tế về vấn đề này (ví dụ như vấn đề ở Biển Đông).
Thứ hai, tạo việc làm, giải quyết vấn đề cấp bách của xã hội (thất nghiệp).
Cùng với sự gia tăng nhanh của dòng vốn FDI đổ vào Việt Nam hiện nay,
sự xuất hiện ngày càng nhiều các doanh nghiệp, công ty, các dự án có quy mô lớn
thì số lượng lao động được tuyển dụng vào các công ty này cũng tăng nhanh

chóng. Năm 2013, lao động của nước ta trong khu vực FDI khoảng 3,2 triệu
người (theo bộ kế hoạch và đầu tư) gấp 8 lần năm 2000. Năm 2016, Bộ trưởng Bộ
Kế hoạch và Đầu tư Bùi Quang Vinh khẳng định, FDI vẫn là thành phần kinh tế
quan trọng của Việt Nam. Bộ trưởng dẫn chứng, “Chúng ta thấy rằng, chỉ cần 1
dự án như Samsung Thái Nguyên đã thu hút hơn 200.000 lao động, đây là con số
khổng lồ. Thu hút FDI đang tạo ra hàng triệu lao động, để ổn định xã hội, tăng
trưởng kinh tế cho nên chúng ta vẫn phải ủng hộ doanh nghiệp FDI.”
Khu vực FDI giải quyết việc làm không chỉ ở mặt lượng mà thông qua quá
trình đào tạo, chuyển giao, lao động của Việt Nam còn được nâng cao về mặt
chất, thông qua đó phát huy nguồn nội lực của lao động nước nhà.
Thứ ba, tạo điều kiện cho Đảng và Nhà nước thực hiện tốt các chính sách
về xã hội.
Nguồn vốn FDI đổ vào lĩnh vực giáo dục và đào tạo, y tế và các hoạt động
trợ giúp xã hội đã đóng góp đáng kể vào nguồn ngân sách để Nhà nước có thể
tăng chi tiêu ngân sách cho các lĩnh vực xã hội, cho các dịch vụ xã hội căn bản
như y tế, giáo dục, góp phần xóa đói giảm nghèo.
Thứ tư, thúc đẩy đô thị hóa, hình thành các vùng kinh tế trọng điểm cho
đất nước.
Việt Nam hiện có 3 thành phố lớn đại điện cho vùng kinh tế trọng điểm
Bắc bộ, Trung bộ, Nam bộ lần lượt là Hà Nội, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh.

25 | P a g e


×