Tải bản đầy đủ (.docx) (51 trang)

Vấn đề văn hóa và sự phát triển văn hóa ở nước ta trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (448.57 KB, 51 trang )

I. VẤN ĐỀ VĂN HÓA
1. Văn hóa:
a. Khái niệm: Văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người
sáng tạo ra bằng lao động và hoạt động thực tiễn trong quá trình lịch sự của mình
biệu hiện trình độ phát triển xã hội trong từng thời kì lịch sử nhất định.
b. Tính chất:
Văn hóa gồm: + văn hóa vật chất
+ văn hóa tinh thần
- Văn hóa luôn có tính kế thừa, sự kế thừa văn hóa luôn mang tính giai cấp
và được biểu hiện ở nền văn hóa của mội thời kì lịch sử trên cơ sở kinh tế,
chính trị của nó.
+ Trong xã hội có giai cấp, các giai cấp thống trị của mỗi thời kì lịch sử đều
in dấu ấn của nó trong lịch sử và tạo ra nền văn hóa của xã hội đó.
+ Kinh tế là cơ sở vật chất của văn hóa. Ảnh hưởng của kinh tế đến văn
hóa…
+ Chính trị là khuynh hướng phát triển của nền văn hóa.
2. Nền văn hóa xhcn:
a. Khái niệm: Văn hóa xh chủ nghĩa là nên văn hóa có những 3 đặc trưng
cơ bản
Nền văn hóa xhcn được hình thành và phát triển một cách tự giác, có sự
quan lý của nhà nước và có sự lãnh đạo của chính đảng của giai cấp công
nhân.
-

b. Nội dung:

-Một là, cần phải nâng cao trình độ dân trí, hình thành đội ngũ trí thức của xã hội mới.
Theo V.I.Lenin,”chủ nghĩa xã hội sinh động, sang tạo là sự nghiệp của bản
thân quần chúng nhân dân”.
Quần chúng nhân dân càng được chuẩn bị tốt về tinh thần,trí lực,tư tưởng…càng có ảnh
hương tích cực đến tiến trình xây dưng chủ nghĩa xã hội. Ý thức hàng triệu con người


không bao giờ ngẫu nhiên sinh ra để cùng nhau vi phạm văn minh đô thị, mà phải có
hoàn
cành

điều kiện
vật
chất
để
nó sinh
ra.do
đó
nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng , bồi dưỡng nhân tài, hình thành
và phát triển dội ngủ tri thức xã hội chủ nghĩa vừa là nhu cẩu cấp bách vừa là nhu cầu lâu
dài của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.


Muốn đạt được những mục tiêu trên cần cải tiến giáo dục Việt Nam. Sự đổi mới
trong giáo dục còn chắp vá, thiếu đồng bộ dẫn đến sự hỗn độn và nhiều điều bất
cập.Thách thức lớn nhất đối với giáo dục hiện nay là: phải dạy cái gì, dạy như thế nào
để lớp trẻ kịp tiếp thu những điều quan trọng, cốt yếu một khối kiến thức của nhân loại
đang tăng vô cùng nhanh bằng một phương pháp chủ động, có khả năng tự thích nghi
với một hoài bão đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.
Trong khi đó cái yếu kém rõ nhất, lớn nhất dẫn đến tình trạng hỗn độn
hiện nay trong giáo dục lại là sự bất cập về năng lực của cán bộ quản lý, cán bộ
hoạch định chính sách của ngành chưa kể đến sự suy thoái về đạo đức trong một bộ
phận. Cách xử lý các vấn đề nổi cộm của giáo dục hiện nay thường là đối phó,
thậm chí nhiều chủ trương còn mang tính trục lợi cục bộ, xâm phạm lợi ích toàn khu cục.

Về vấn đề chương trình:


- Nền giáo dục phổ thông của chúng ta có truyền thống tốt, ngay trong những thời kỳ gian
khổ nhất của chiến tranh mà việc học cũng không bị gián đoạn và giáo dục vẫn
xứng đáng là bông hoa đẹp.Đáng tiếc là qua việc cải cách vội vã và một số
thay đổi không phù hợp đã làm cho chương trình học đáng lo ngại như hiện nay.
Thử hình dung một học sinh lớp bốn phải học chín môn bắt buộc, hàng
ngày phải mang một cặp sách nặng nhiều cân trên vai. Riêng môn Toán có một quyển
lý thuyết 260 trang và một quyển bài tập cùng cỡ (chưa kể sách nâng cao). Nhiều bài tập


trước đây là bài tập dành cho học sinh giỏi nay được đưa vào trong chương trình
chung (không có dấu *). Khá nhiều thầy, cô khi giảng bài phải đọc nguyên xi lời giải
ở sách, các bài toán khó quá nhiều, thậm chí có bài sai dù đã tái bản nhiều lần.

Về vấn đề đội ngũ cán bộ:
-Ở phổ thông do vội đưa chương trình thay đổi trong khi chưa kịp chuẩn bị tốt cho người
dạy nên không đủ người chuyển tải được những nội dung cho dù sự thay đổi là tốt
hay không tốt.
-So sánh trong vùng cũng như trên thế giới, giáo dục của ta đứng ở vị trí
khá khiêm tốn và không còn giữ được vị trí một bông hoa đẹp như từng có
ngay trong giai đoạn khó khăn nhất của đất nước. Cái năng lực của ta không thấp song
thực thi còn quá yếu - đặc biệt việc học để hành ở ta kém nhiều (học để thi được thể hiện
qua một số đội tuyển thì có thể mừng, còn học để làm thì cần xem xét để tìm cách mà
nhanh chóng sửa đổi cách dạy và sử dụng).
-Từ một số nét khái quát đó, vấn đề cần quan tâm của giáo dục thì rất nhiều nhưng có hai
điều hoàn toàn phụ thuộc vào chính ngành mình, và nội lực của ta.
Giải pháp:
-

Thứ nhất là: Đội ngũ cán bộ quản lý hoạch định chính sách; phương pháp thu
thập, lựa chọn, sử dụng ý kiến các chuyên gia (thực sự) để đề ra các chủ

trương chính sách giáo dục đúng đắn.

-

Thứ hai là: Tổ chức các hội đồng xem xét lại một cách toàn diện nội dung
và chương trình các bậc học. Tăng cường tính tự chủ cho các trường đại học.
Xác định hợp lý các quy định về quản lý nhà nước trong ngành giáo dục (hiện
nay những điều đáng quản lý chưa thực hiện đầy đủ, nghiêm túc ngược lại
nhiều điều không thuộc chức năng lại quản lý).


Xã hội hóa giáo dục và nan giải:
-Hiện nay không ít người trong đội ngũ cán
bộ quản lý cấp cao của ngành giáo dục đang
có xu hướng muốn lý giải và tìm nguyên
nhân của sự bê bối ngành ở hệ thống các
trường dân lập - nhất là sau hội nghị
tổng kết công tác giáo dục tháng 4-1998.

-Những điều lợi của các trường ngoài công
lập cũng khó có ai phủ nhận vả lại việc phát
triển các trường này là chủ trương của Đảng
và Nhà nước đã được đưa vào Hiến pháp,
vào nghị quyết Đảng, vào Luật Giáo
dục. Với bậc học phổ thông hiện nay tỉ lệ
trường ngoài công lập đã khá cao. ở đây nói
về các trường đại học và cao đẳng.

- Với 17 trường đại học, cao đẳng dân lập và hơn 8% tổng số sinh viên các trường
này đang góp phần cùng các trường công lập đào tạo nhân lực trình độ cao cho

sự nghiệp phát triển đất nước, nâng cao dân trí. Trong số 70.000 sinh viên hiện nay đang
học tại các trường đại học, cao đẳng dân lập hiện chắc chắn sẽ có cả những cán
bộ khoa học, cán bộ quản lý có trình độ cao trong tương lai và cả nhân tài nữa. Tuy trình
độ lúc thi vào chưa cao bằng các trường công nhưng với đội ngũ thầy, cô giáo được chọn
lọc vừa qua trong các kỳ thi Olympic sinh viên, trường đại học dân lập đã đạt một số
giải.

- Tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh giữa các trường đại học, cao đẳng góp phần làm nhẹ
tính xơ cứng trong ổ chức, đào tạo của các trường công lập.
- Tiết kiệm trong kinh phí. Đặc biệt là tập hợp được đội ngũ cán bộ khoa học, giảng viên
có trình độ cao tham gia đào tạo.
- Tính uyển chuyển, dễ thích nghi nhất là trong việc chọn ngành nghề, công nghệ đào tạo
của đại học và cao đẳng dân lập giúp cho việc tiếp cận nhanh với nhu cầu xã hội và
sự phát triển rất nhanh của khoa học và công nghệ hiện nay.


Các điều bất cập chủ yếu:

- Cơ sở vật chất còn thiếu.
- Đội ngũ cán bộ cơ hữu phải xây dựng dần nên còn rất yếu.
- Chưa có quy định hợp lý về quản lý nhà nước.
- Tình trạng quản lý khá quan liêu và độc đoán hiện nay của một số cán bộ có chức
quyền trong ngành cùng với sự nhận thức chưa đúng về hệ thống trường ngoài công lập
làm cho tâm lý xã hội chỉ coi trọng công lập, kỳ thị hoặc ngại dân lập
không giảm bớt mà có lúc lại tănglên. Một số chủ trương, quy định còn phân biệt đối
xử giữa sinh viên công lập và dân lập.

- Hai là xây dựng con người mới phát triển toàn diện



Con người là sản phẩm của lịch sử, nhưng chính hoạt động của con người sàng tạo ra lịch
sử.Thực tiển lịch sử đã cho thấy,trong mọi thời đại sự hình thành va phát triển của con
người luôn gắn liền với sự hình thành và phát triển của xã hội. Mỗi xã hội với nhửng nấc
thang phát triển khác nhau của sự tiến bộ đều cầ đến những mẩu người nhất định,có năng
lực đáp ứng nhu cầu của sự phát triển.Chính vì vậy, mỗi giai cấp cầm quyền của mổi
thời kì lịch sử khác nhau khi đã ý thức dược xã hội mà mình đã tạo dựng,thì trước tiên
giai cap đó phải quan tâm đến việt đào tạo con người.

Do nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của vấn đề con người đặc biệt là vấn
đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước ta
hiện nay. Đảng và nhân dân ta đã và đang xây dựng và phát triển đất nước toàn diện
về nhiều mặt đặc biệt là lĩnh vực kinh tế, nó phụ thuộc rất nhiều vào nhiều chiến lược con
người: Cần đào tạo con người một cách có chiều sâu lấy tư tương và chủ
nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng, cũng như trên thế giới ở nước ta chiến lược con
người nó có một ý nghĩa hết sức quan trọng và để phát triển đúng hướng chiến lược
đó cần có một chính sách phát triển con người, không để con người đi lệch
tư tưởng tuy nhiên trong thực tế không ít người sẽ ngang đi tìm khả năng phát triển nó
trong chủ nghĩa tư bản. Nhiều người trở về phục sinh và tìm sự hoàn thiện con người
trong các tôn giáo và các hệ tư tưởng truyền thống. Có người lại sáng tạo ra tư tưởng
tôngiáo mới cho phù hợp với con người Việt Nam. Song nhìn lại một cách khách quan và
khoa học sự tồn tại của chủ nghĩa Mác - Lênin trong xã hội Việt Nam có lẽ không
ai có thể phủ nhận được vai trò ưu trội và triển vọng cuả nó trong sự nghiệp phát triển
con người tạo đà cho bước phát triển tiếp theo của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá
thì một
nước đang
còn
ở tình
trạng
kém phát

triển
như nước ta không thể không xây dựng một chính sách phát triển lâu dài, có tầm
nhìn xa trông rộng phát triển con người nâng cao chất lượng của người lao động.
Hơn bất cứ một lĩnh vực nghiên cứu nào khác, lĩnh vực phát triển con người là
mục tiêu cao cả nhất của toàn dân, đưa loài người tới một kỷ nguyên mới, mở ra
nhiều khả năng để tìm ra những con đường tối ưu đi tới tương lai con đường khả
quan nhất cho sự nghiệp phát triển con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá
hiện đại hoá đất nước. Trong đời sống xã hội thực tiễn cơ sở vận dụng khoa học và
sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin về con người tại hội nghị lần thứ tư của ban chấp
hành trung ương Đảng khoá VII đề ra nghị quyết và thông qua nghị quyết về việc
phát triển con người Việt Nam toàn diện với tư cách là "Động lực của sự nghiệp
xây dựng xã hội mới, đồng thời là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội" Đó là "con
người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất phong phú về tinh thần,
trong sáng về đạo đức". Bởi lẽ, người lao động nước ta ngày càng đóng vai trò
quan trọng trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và trong sự phát triển của nền
kinh tế đất nước theo cớ chế thị trường, dưới sự quản lý của nhà nước, theo định
hướng xã hội chủ nghĩa thì chất lượng của người lao động là nhân tố quyết định
nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định "Nâng


cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là
nhân tố quyết định thắng lợi cuả công cuộc đổi mới đất nước". Thực tiễn đã chứng
tỏ xã hội ta hiện nay tình trạng mất hài hoà về mặt bản thể của mỗi cá nhân là chủ
yếu, là tất cả bản thể cá nhân phát triển toàn diện và hài hoà về đạo đức, trí tuệ, thể
lực là mục tiêu xây dựng con người trong chủ nghĩa xã hội nhưng mục tiêu cơ bản
và quan trọng hơn cả là vấn đề con người phải trở thành nhân tố quyết định lịch sử
xã hộivà lịch sử của chính mình.
Các nhà tư tưởng tư sản xuyên tạc chủ nghĩa Mác cho rằng đó là "chủ nghĩa
không có con người" thực tế thì, chủ nghĩa Mác là một chỉnh thể thống nhất của ba
bộ phận triết học nghiên cứu các quy luật của thế giới, giúp ta hiểu bản chất, mới

quan hệ tự nhiên - xã hội - con người, chính trị kinh tế vạch ra quy luật đi lên của
xã hội, chủ nghĩa xã hội khoa học chỉ ra con đường và phương pháp nghiên cứu
con người. Chủ nghĩa Mác là một chỉ nghĩ vì con người, chủ nghĩa nhân đạo. Học
thuyết đó không chỉ chứng minh bản chất của con người ("tổng hoà của các quan
hệ xã hội") và bản tính con người ("luôn vươn tới sự hoàn thiện") mà còn vạch
hướng đưă con người đi đúng bản chất và bản tính của mình, giải phóng, xoá bỏ sự
tha hoá, tạo điều kiện phát huy mọi sức mạnh bản chất người, phát triển toàn diện,
hài hoà cho từng cá nhân. Sự phù hợp giữa tư tưởng Mác Xít với bản chất và bản
tính người đã thu phục và làm say mê những con người hằng mong vươn lên xây
dựng xã hội mới, mở ra mọi khả năng cho sự phát triển con người.
Chỉ có chủ nghĩa Mác - Lênin mới có thẻ vạch rõ được hướng đi đúng cho con
đường đi lên xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, thực tế cho thấy cùng với tư tưởng Hồ
Chí Minh, chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam đã làm nên thắng lợi cách mạng
giải phòng dân tộc (1945), thống nhất đất nước (1975) thực hiện ý chí độc lập tự
do con người việt Nam điều mà bao nhiêu học thuyết trước Mác không thể áp
dụng được, và chính chủ nghĩa Mác - Lênin đã làm thay đổi, trở thành hệ tư tưởng
chính thống của toàn xã hội, thay đổi nhanh chóng đời sống tinh thần đại đa số
nhân dân Việt Nam. Thực tiễn hoạt động cách mạng xã hội chủ nghĩa vừa nhanh
chóng nâng cao trình độ nhận thức toàn diện. Bằng hệ thống giáo dục với các hình
thức đào tạo đa dạng, với các hình thức khoa học thấm nhuần tinh thần cơ bản của
chủ nghĩa Mác - Lênin đã hình thành kế tiếp nhau những lớp người lao động mới
ngày càng có tư tưởng, trình độ chung, chuyên môn cao ngày nay chúng ta đã có
một đội ngũ cán bộ văn hoá khoa học công nghệ với trình độ lý luận và quản lý tốt
đồng đều trong cả nước.


Có thể nói chỉ trong một thời gian ngắn hệ tư tưởng Macxít đã thể hiện xu
hướng của mình đối với nền văn hoá dân dã, xoá bỏ dần dần sự thống trị của các
loại tư tưởng tự phát, lạc hậu, thấp kém trong con người cũ, mê tín dị đoan, các
niềm tin mù quáng… Với sức mạnh có tính khoa học, học thuyết Mác - Lênin đã

vạch rõ được những yếu tố phi khoa học, phi nhân đạo, các loại thế giới quan,
nhân sinh quan sai lệch mà trước đó đã làm mai một trí tuệ, tính tích cực trong con
người của các hệ tư tưởng truyền thống. Mặt khác, chủ nghĩa Mác - Lênin còn thể
hiện rõ tính ưu việt trong con người đối với các luồng tư tưởng tư sản ngoại nhập
của Phương Tây, và các trào lưu tư tưởng tư sản hiện tại đang làm lệch hướng đi
của những con người chân chính trong điều kiện đời sống vật chất khó khăn. Lần
đầu tiên trong lịch sử dân tộc xiềng xích của chân lý cổ truyền, của nền sản xuất
tiểu nông với tư duy còn hạn chế, kinh nghiệm, phi khoa học trong con người thiếu
văn hoá do xã hội cũ để lại đã được tri thức khoa học Mác xít phá tan. Một ý thức
tiên tiến ra đời. Các tín ngưỡng dần dần cũng phải nhường chỗ cho niềm tin khoa
học. Các yếu tố tư duy duy vật biện chứng hình thành trong đời sống thường ngày,
trong lao động, cũng như trong mọi hoạt động của xã hội. Thế giới quan khoa học
ngày càng ăn sâu ở những con người luôn phấn đấu cho thắng lợi của chủ nghĩa xã
hội nó nhìn thế giới, xã hội, con người trong sự vận động và phát triển trong tính
hiện thực và tiềm ẩn những khả năng, sự tồn tại khách quan là điều kiện sống và sự
phát triển con người.
Thế giới quan đó hàm chứa nhân sinh quan tiến bộ, khắc phục dần những quan
niệm sai lầm, phiến diện về con người của các hệ tư tưởng khác.
Sự chuyển đổi hệ tư tưởng dẫn đến chuyển đổi hệ giá trị của xã hội và giá trị
con người, con người từ chỗ phục tùng chuyển sang tự chủ, sáng tạo, từ chỗ dựa
trên tập quán chuyển sang lý trí, dân chủ, từ chí tìm cách hoà đồng chuyển sang
tôn trọng cả cá tính và bản lĩnh riêng. Các chuẩn mực mới của con người đòi hỏi
không chỉ phát triển từng mặt riêng lẻ mà phải là cá nhân phát triển hài hoà tính
cách mạng của học thuyết Mác xít khắc phục dần lối sống thụ động, hẹp hòi, làm
cơ sở cho lối sống tích cực, vì xã hội, phát triển ý thức luôn vươn lên làm chủ và
xây dựng cuộc sống mới xuất hiện những nhân cách mới.
Tuy nhiên sự phát triển con người ngày nay không chỉ là sản phẩm của hệ tư


tưởng Mác xít vì ngay khi chủ nghĩa Mác xít trở thành hệ tư tưởng chính thống ở

Việt Nam thì các tôn giáo, các hệ tư tưởng và văn hoá bản địa đã có sức sống riêng
của nó. Chủ nghĩa Mác - Lênin thâm nhập, nó như một hệ tư tưởng khoa học vượt
hẳn lên cái nền văn hoá bản địa, nhưng nó cũng chịu sự chi phối tác động đan xen
của các yếu tố sai - đúng, yếu - mạnh, mới - cũ, v.v.. Các yếu tố tích cực đã thúc
đẩy, còn các yếu tố tiêu cực thì kìm hãm sự phát triển con người.
Sự văn minh, phát triển hoá con người Việt Nam của chủ nghĩa Mác - Lênin
vừa có lợi thế song cũng không tránh khỏi những sai lầm. Sai lầm là sự chống trả
của tư tưởng văn hoá bản địa đã thành truyền thống. Lợi thế là văn hoá bản địa
chưa có một hệ tư tưởng khoa học định hình vững chắc, nó dường như đang thiếu
một lý thuyết khoa học. Nếu như không có chủ nghĩa Mác - Lênin xã hội Việt
Nam phát triển hơn, đó là tư tưởng của những người thiếu hiểu biết về một xã hội
tiến bộ, luôn coi cái trước mắt mình là những thứ vô giá trị mà chỉ chạy theo trào
lưu, điều đáng trách hơn là họ cần cho rằng văn hoá Việt Nam sẽ phong phú hơn,
đặc sắc hơn. Thực tế, từ khi xuất hiện chủ nghĩa Mác - Lênin xã hội Việt Nam như
được tiếp thêm sức mạnh, phát triển có khoa học hơn, ở khía cạnh nào đó trình độ
dân trí, trình độ năng lực, văn hoá, khoa học, nghệ thuật… Con người Việt Nam
không thua kém con người của các nước văn minh khác.
Theo chủ nghĩa Mác - Lênin con người chỉ những cá thể, là sự thống nhất giữa
mặt sinh học và mặt xã hội của nó. Cái mà chủ nghĩa Mác - Lênin đã làm được đó
là lý luận con người trong xã hội chứ không chỉ mặt sinh học như trước đây. Và
chính vậy mà nó đã được áp dụng vào xã hội Việt Nam, trong cách mạng xã hội
chủ nghĩa con người là yếu tố quyết định vừa là điểm xuất phát vừa là mục tiêu
của mọi chính sách kinh tế - xã hội. Xây dựng chủ nghĩa xã hội là xây dựng được
một xã hội mà ở đó có đủ những điều kiện vật chất và tinh thần để thực hiện trong
thực tế nguyên tắc "Sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát
triển tự do của tất cả mọi người" và ở một đất nước ta, một đất nước đang còn
nghèo nàn thì việc phát triển yếu tố con người là một vấn đề mà Đảng ta đã xác
định đó là vấn đề then chốt cho sự phát triển kinh tế đất nước lấy chủ nghĩa Mác Lênin là kim chỉ nam cho mọi hoạt động.
Chúng ta cũng đã có những đổi mới rõ rệt, sự phát triển hàng hoá nhiều thành
phần theo cơ chế thị trường, sự phân hoá giàu nghèo sự phân tầng xã hội, việc mở



rộng dân chủ đối thoại trong sinh hoạt chính trị của đất nước, việc mở cửa và phát
triển giao lưu quốc tế về các mặt kinh tế, văn hoá và chính trị, trên thế giớ. Sự biến
đổi nhanh chóng của tình hình chính trị quốc tế, sự phát triển vũ bão của cuộc cách
mạng khoa học và công nghệ… Điều đó đòi hỏi chúng ta phải biết vận dụng chủ
nghĩa Mác một cách khoa học, hợp lý và sáng tạo để đáp ứng được những đòi hỏi
của xã hội mới nếu muốn tồn tại và vươn lên một tầm cao mới.
- Ba

xây dựng lối sống mới XHCN
Lối sống là dấu hiệu biểu thị sự khác biệt giữa những cộng đồng khác nhau,là tổng thể
các hình thái hoạt động của con người, phản ánh điều kiện vật chất,tinh thần và xã hội
của con người; là sản phẩm tất yếu của mộy hình thái kinh tế xã hội và có tác động
đến nền kinh tế xã hội đó. toàn bộ hình thức hoạt động sống của con người trong đời sống
và trong điều kiện cuả CNXH; là lối sống của người lao động làm chủ xã hội. LSXHCN
về cơ bản do hệ thống các quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa quy định, và phụ thuộc vào
trình độ sản xuất vật chất và tinh thần mà xã hội đã đạt được. Những nét tiêu biểu
nhất trong LSXHCN: lòng yêu lao động, coi lao động là nghĩa vụ và vinh dự của mỗi
người; thái độ quan tâm đến lợi ích xã hội, không vì lợi ích cá nhân mà vi phạm lợi ích
cộng đồng, theo tinh thần "mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người" (chủ
nghĩa tập thể); sự tôn trọng phẩm giá của con người, bảo vệ tính người trong quan hệ xã
hội (chủ nghĩa nhân đạo).

Sự xuất hiện của những quan hệ sản xuất XHCN đã mở đầu cho sự hình thành
trong thực tế của lối sốngXHCN. Lối sốngXHCN là một lối sống đáp ứng với những
nhiệm vụ xây dựng CNXH, góp phần giải quyết những nhiệm vụ đã đặt ra. Những tiền đề
khách quan của lối sống ấy đã có trong lòng CNTB. Tiền đề ấy nằm trong bản thân tính
chất của lực lượng sản xuất, chúng đòi hỏi ở mỗi người những năng lực đa dạng và
những mối liên hệ đa dạng với thế giới chung quanh.


-Trong "Hệ tư tưởng Đức", Mác và Ănghen vạch rõ rằng, những người vô sản
cách mạng chính là những người không những tự giác từ bỏ lối sống "cũ" mà còn
đặt mục đích cho mình là giải phóng mọi người khỏi lối sống "cũ" ấy ngay khi có
khả năng thay đổi những điều kiện sống hiện có. Về mặt này, cần phải chú ý đến
những yếu tố sau


-Trong điều kiện của CNTB, chỉ có giai cấp vô sản mới có thể xóa bỏ những
phương thức tồn tại "cũ" của các cá nhân. Và nó thực hịên điều đó không phải để
củng cố mãi mãi sự thống trị giai cấp của mình, mà là theo quan điểm con người
nói chung, khiến con người trở lại thành một con người xã hội, tức là con người có
tính
chất
người.
-Xét về điều kiện sống cũng như lối sống của họ, vô sản đối lập với tư sản. Những
nét bản chất của lối sống XHCN như sự đoàn kết giai cấp, sự tương trợ đồng chí, ý
thức cao về phẩm giá của mình, nguyện vọng hoàn thiện về mặt tinh thần v.v… đã
hình thành dưới CNTB ở những công nhân tiên tiến.
-Sự thay đổi lối sống con người trong quá trình cải tạo con người diễn ra trong
cả một thời đại lịch sử để xóa bỏ tính chất đối kháng giai cấp của các quan hệ sở
hữu, của việc sản xuất vật chất và tinh thần, của sự phân công lao động, của chính
quyền và quản lý. Trong giai đoạn XHCN, đã xuất hiện những nét chính của lối
sống tương lai con người, lối sống ấy đưa lại những khả năng rộng lớn cho mỗi cá
nhân phát triển và hoàn thiện. Lối sống XHCN nói ngắn gọn là lối sống trong
những điều kiện đặc thù của hình thái xã hội – kinh tế XHCN, gắn với phương
thức sản xuất XHCN.

Những đặc trưng cơ bản của lối sống XHCN là:
Thứ nhất, có hai yếu tố quyết định bản chất xã hội của phương thức tồn tại và hoạt

động
chung
của
những người
lao
động
trong xã
hội
XHCN:
-Tính
chất
lao
động.
-Thái
độ
của con
người đối
với
lao
động.
Lối sống XHCN biến lao động thành “một nghĩa vụ giống nhau với tất cả mọi
người như Ănghen đã nói, biến nó thành “một quy tắc chung sống” của con người.
Việc đánh giá mỗi người, phẩm chất đạo đức và trình độ giác ngộ của họ trên cơ
sở cống hiến lao động vào sự nghiệp xây dựng CNXH và chủ nghĩa cộng sản cũng
như trên cơ sở tôn trọng lao động của những người khác là một nết bản chất và
một truyền thống của lối sống XHCN. Vì vậy, một điểm quan trọng để xem xét lối
sống của mỗi người là trình độ hài lòng về lao động của người đó.
Thứ hai, sự thay đổi về thời gian rỗi là một đặc trưng quan trọng của lối sống



XHCN, bởi vì việc giảm thời gian lao động là tăng thời gian rỗi có liên quan chặt
chẽ với việc thực hiện mục đích nhân đạo của chủ nghĩa cộng sản. Của cải vật chất
xã hội càng tăng lên, nhu cầu của người lao động càng được thỏa mãn, thì thước đo
“giá trị”, “hiện vật”, “tiền tệ” càng nhường chỗ cho thước đo thời gian trong việc
đo lường sự phong phú và ý nghĩa của cuộc sống con người. Tiết kiệm thời gian
làm việc dưới CNXH không phải chỉ là một bịên pháp thuần tuý kinh tế để nâng
cao hiệu quả của sản xuất xã hội và nâng cao năng suất lao động, mà còn là một
trong những điều kiện để phát triển cá nhân. Theo ý nghĩa ấy, sự phát triển của lối
sống XHCN đòi hỏi phải xác lập mối liên hệ qua lại của các hoạt động kinh tế, xã
hội – chính trị, văn hóa và sinh hoạt của con người, nhằm xóa bỏ sự “đối lập trừu
tượng” giữa thời gian làm việc với thời gian rỗi. Phối hợp lao động với học tập,
tích cực tham gia việc sáng tạo khoa học – kỹ thuật và hoạt động nghệ thuật nghiệp
dư v.v... đó là biểu hiện cụ thể của quá trình thường xuyên mở rộng thời gian cho
sự phát
triển
và hoàn
thịên
tinh
thần
của mỗi
người
lao
động.
Thứ ba, một đặc trưng hết sức quan trọng của lối sống XHCN là tính tích cực xã
hội – chính trị của con người: tính tích cực ấy ăn sâu vào các lĩnh vực lao động và
ngoài lao động của hoạt động sống trong những điều kiện của CNXH. Cách mạng
XHCN không chỉ làm thay đổi tương quan giữa đời sống cá nhân và đời sống xã
hội, mà còn biến “đời sống xã hội” thành một công việc riêng của đa số dân cư. Sự
tham gia tự giác và tự nguyện của người ta vào hoạt động xã hội là một hiện tượng
điển hình và có tính chất quần chúng rộng rãi trong hoạt động sống hàng ngày của

xã hội XHCN.
Thứ tư, trong quá trình cải tạo XHCN đã hình thành một thứ sinh hoạt xã hội mới
với mục đích xóa bỏ sự phụ thuộc của con người với kinh tế gia đình nhỏ hẹp và
kết hợp những hình thức sinh hoạt cá nhân, gia đình và xã hội lại với nhau, góp
phần tạo nên những như cầu phát triển về mặt xã hội của cá nhân và bảo đảm thỏa
mãn những nhu cầu phát triển về mặt xã hội của cá nhân và bảo đảm thỏa mãn
những nhu cầu ấy bằng một phương thức có tính chất con người nhất (phương thức
văn hóa). Đặc trưng của lối sống XHCN trong lĩnh vực sinh hoạt là sự xác lập của
những nguyên tắc tập thể chủ nghĩa trong đời sống riêng của cá nhân, là sự thừa
nhận những tiêu chuẩn đạo đức cộng sản chủ nghĩa làm cơ sở văn hóa của sự giao
tế

hành
vi
của
con
người.
Thứ năm, Tính tự giác và tính văn hóa của các thành viên xã hội là một nhân tố hết
sức quan trọng trong sự hình thành và phát triển của lối sống XHCN. Lối sống
XHCN chính là một hệ thống của những hình thức văn hóa cụ thể về sự giao tế và
hành vi của con người. Cái mà Ănghen gọi là “những hình thức văn hóa về sự giao
tế” bao hàm mỗi hình thức hợp tác của con người, ăn sâu vào một lĩnh vực quan hệ


của họ. Trình độ văn hóa được quy định đặc biệt bởi những đạo đức và truyền
thống chủ đạo
trong
xã hội
XHCN.
Những đặc trưng mới trên tất nhiên không nói hết toàn bộ sự phong phú và đa

dạng của những biểu hiện thực tiễn sống của mỗi cá nhân. Cũng không phải tất cả
mọi thành viên trong xã hội XHCN đều có lối sống XHCN, bởi vì còn có một bộ
phận nào đó không sống theo lối sống ấy. Hơn nữa, cần tính đến một sự thật là lối
sống XHCN trong trạng thái hiện thực của nó vẫn còn mang những khác biệt xã
hội và văn hóa của các thành viên xã hội, đó là điều không thể tránh khỏi trong
một giai đoạn phát triển nhất định của CNXH. Những khác biệt ấy đang in dấu vết
lên lối sống của chúng ta. (Chẳng hạn sự khác biệt về trình độ về văn hoá của
thành thị và nông thôn đã được phản ánh vào tính chất của nếp sinh hoạt, quan hệ
cá nhân và vào các hình thức giải trí của dân thành thị và nông thôn).
Một điểm cần chú ý khi nói đến lối sống XHCN là lối sống chưa phải là lối sống
cộng sản chủ nghĩa, cũng như CNXH là giai đoạn đầu của CN cộng sản chứ chưa
phải là CN Cộng sản. CNXH dù đã được xác lập, nhưng trình độ lực lượng sản
xuất của nó vẫn chưa đủ để bảo đảm sự dồi dào về của cải vật chất và tinh thần để
có thể thực hiện nguyên tắc: “Làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu” và biến sự
phát triển tự do của mỗi người thành điều kiện phát triển của mọi người. Cơ sở của
lối sống XHCN là hoạt động sản xuất vật chất. Đó là một lối sống trong đó hoạt
động sản xuất vật chất hịên vẫn chiếm vị trí chi phối trong các hình thức hoạt động
sống tích cực. Xã hội XHCN vẫn còn coi sự phát triển của những người lao động
với tư cách lực lượng sản xuất chính, nhân tố quan trọng nhất của sản xuất. Chỉ khi
nào sự phát triển sức mạnh của các cá nhân con người không còn là phương tiện
quyết định để tăng thêm lực lượng sản xuất của xã hội nữa, mà biến thành mục
đích tự thân của sự phát triển xã hội – nghĩa là khi nào lực lượng sản xuất phát
triển đến mức khiến cho lao động, dưới hình thức trực tiếp của nó, không còn là nguồn
đưa lại sự giàu có của xã hội – thì xã hội mới kết thúc được sự quá độ từ
vương quốc tất yếu sang vương quốc tự do, đi vào giai đoạn cộng sản chủ nghĩa.
Cũng chỉ lúc đó, lối sống cộng sản chủ nghĩa mới xuất hiện dưới hình thức hoàn
chỉnh của nó.

- Xét về cơ cấu của nó, lối sống XHCN bao gồm tất cả các hình thức hoạt động sống
(của cá nhân, tập đoàn, xã hội) phù hợp với bản chất, với tinh chất của CNXH. Bởi



vì trong xã hội XHCN, lao động vẫn còn là phương tiện sống, vẫn chiếm đại bộ
phận hoạt động sống, nên lối sống XHCN gồm có:
- Những hình thức hoạt động sống có liên quan với lĩnh vực sản xuất (thời gian
làm
việc).
-Những hình thức hoạt động sống không có liên quan trực tiếp với sản xuất (thời
gian rỗi)
Mặc dầu lối sống xã hội chủ nghĩa và lối sống Cộng sản chủ nghĩa thuộc cùng
một loại, (cái cá nhân và xã hội nằm trong sự thống nhất hài hòa,...) nhưng lối sống
xã hội chủ nghĩa vẫn còn dựa vào những lực lượng sản xuất phát triển chưa cao,
vẫn còn những khác biệt căn bản về tính chất lao động, về điều kiện sống giữa
thành thị và nông thôn, giữa lao động chân tay và lao động trí óc, những khác biệt
về phúc lợi vật chất, về văn hóa về sự tham gia của các cá nhân vào đời sống xã
hội – chính trị. Như vậy, đó chưa phải là một lối sống thuần nhất, mà là một tập
hợp những dạng lối sống khác nhau của những tập đoàn và cá nhân khác nhau.
Chính vì thế, sự phát triển của lối sống xã hội chủ nghĩa phải hướng tới sự hình
thành lối sống Cộng sản chủ nghĩa, xóa bỏ những khác biệt xã hội – kinh tế trong
lối sống của các tập đoàn xã hội khác nhau.
Thứ sáu, xây dựng gia đình văn hóa XHCN
Gia đình là môi trường sống đầu tiên và quan trọng nhất của mỗi con người.
Tiếp mới đến xã hội. Và ngay khi con người hòa nhập vào cuộc sống xã hội để
mưu sinh, để khẳng định mình, để làm “ông nọ bà kia”, thì gia đình vẫn luôn là
môi trường không thể thiếu được. Trước mọi sóng gió cuộc đời, gia đình phải luôn
luôn là cái cảng an bình nhất, là “tổ ấm” hạnh phúc nhất, là nơi chia sẻ mọi nỗi
buồn vui, sự thành đạt cũng như nỗi bất hạnhKhi nói về vai trò của gia đình, cụ
Phan Bội Châu đã khẳng định: Nước là một cái nhà lớn, nhà là một cái nước nhỏ.
Trong bài nói chuyện tại Hội nghị thảo luận dự thảo Luật Hôn nhân – Gia đình
(tháng 1-1959), Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Rất quan tâm đến gia đình là

đúng và nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, xã hội tốt thì gia đình càng tốt,
gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Hạt nhân của xã hội là gia đình”(1)
Nhiều thập kỷ qua, cơ cấu xã hội có sự biến đổi, nhưng tổ chức của gia
đình không biến đổi nhiều. Gia đình là tế bào của xã hội, do đó, văn hóa gia đình đóng
vai trò
quan
trọng trong vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống dân tộc.


Gia đình truyền thống Việt Nam xưa rất chú trọng xây dựng gia đạo, gia phong và gia lễ,
trong đó gia đạo là sức mạnh của gia đình. Gia đạo là đạo đức của
gia đình như đạo hiếu, đạo ông bà, đạo cha con, đạo vợ chồng, đạo anh em. Đạo hiếu là
hiếu nghĩa của con cháu đối với ông bà, cha mẹ. Gia lễ là phép ứng xử của
con người theo một nguyên tắc có tôn ti trật tự theo lễ tiết, đặc biệt là việc thờ
cúng tổ tiên, đáp ứng nhu cầu đời sống tâm linh. ở thời đại nào văn hóa gia đình
cũng là nền tảng cho văn hóa xã hội. Văn hóa gia đình giàu tính nhân văn, nhân
bản, đề cao giá trị đạo đức, xây dựng nếp sống văn hóa trật tự, kỷ cương, hun đúc
tâm hồn, bản lĩnh cho con người trong từng tế bào của xã hội. Bởi vậy, gia đình tốt
là bảo đảm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội lành mạnh và văn minh.
Văn hóa gia đình là một bộ phận, là cái “gốc” của văn hóa làng, văn hóa nước.
Vì vậy, việc đẩy mạnh phong trào xây dựng gia đình văn hóa không thể tách rời
việc nghiên cứu, xem xét, đánh giá từ góc độ văn hóa giađình. Nghĩa là, cuộc vận
động xây dựng gia đình văn hóa và tiêu chí gia đình văn hóa hiện nay phải dựa
trên những giá trị văn hóa truyền thống của gia đình Việt Nam. Đồng thời trong
quá trình xây dựng gia đình văn hóa phải biết giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa
dân tộc. Đó là cơ sở xây dựng tư tưởng, đạo đức lối sống tốt đẹp, xây dựng đời
sống văn hóa lành mạnh từ trong mỗi gia đình, lấy gia đình làm “pháo đài” chống
lại sự xâm nhập của các tệ nạn xã hội và những tác động xấu từ mặt trái của cơ chế
thị trường. Xây dựng gia đình văn hóa là xây dựng mô hình gia đình Việt Nam
hiện đại, phù hợp với tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập

kinh tế quốc tế. Mục tiêu chúng ta cần vươn tới và thực hiện là xây dựng gia đình
văn hóa truyền thống, hiện đại. Xây dựng gia đình văn hóa là vừa phải kế thừa và
phát huy những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam, vừa
kết hợp với những giá trị tiên tiến của gia đình hiện đại để phù hợp với sự vận
động phát triển tất yếu của xã hội. Tất cả nhằm hướng tới thực hiện mục tiêu làm
cho gia đình thực sự là tế bào lành mạnh của xã hội, là tổ ấm của mỗi người.

II.
NỀN VĂN HÓA VIỆT NAM
1. Ba quan niệm lớn về văn hóa Việt Nam


Quan niệm thứ nhất: đó là đồng nhất văn hóa Việt Nam với văn hóa của
người Việt, trình bày lịch sử văn hóa Việt Nam chỉ như là lịch sử văn minh
của người Việt.




Quan niệm thứ hai: Văn hóa Việt Nam là toàn bộ văn hóa các dân tộc Việt
Nam cư trú trên mảnh đất Việt Nam, chỉ có văn hóa từng tộc người, không
có văn hóa dân tộc/quốc gia.



Quan niệm thứ ba: Văn hóa Việt Nam là cộng đồng văn hóa dân tộc/quốc
gia, đây là nền văn hóa dân tộc thống nhất trên cơ sở đa dạng sắc thái văn
hóa tộc người.

2. Việt Nam trong tính đa dạng của văn hóa:

• Đa dạng về không gian: 6 vùng văn hóa
a. Vùng văn hóa Tây Bắc
- Tín ngưỡng đa thần, tin có linh hồn
- Văn hóa nghệ thuật: tác phẩm truyền miệng phong phú, nhiều
-

-

tác phẩm truyện thơ nổi tiếng
Ca múa: múa xòe, múa khèn, múa bông
Trang phục: màu sắc sặc sỡ gam nóng
Nhà sàn thái, sống giản dị hòa thuận
b. Vùng văn hóa Việt Bắc
Tín ngưỡng tôn giáo, văn hóa dân gian
Tầng lớp tri thức Tày Nùng xuất hiện khá sớm, sáng tạo chữ
Nôm Tày dựa trên chữ Latinh
Trang phục: màu chàm
c. Vùng văn hóa châu thổ Bắc Bộ

-

Nhiều lễ hội nông nghiệp
Trang phục giản dị, gọn gàng, màu nâu
Tâm thức nhân gian: xa rừng nhạt biển
d. Vùng văn hóa Trung Bộ

-

Kiến trúc Huế: cung điện, lăng tẩm….
e.


-

Vùng văn hóa Trường Sơn-Tây Nguyên

Nhiều lễ hội: đâm trâu, cồng chiêng…
Trang phục màu trầm
f. Vùng văn hóa Nam Bộ

Trang phục: áo bà ba, khăn rằn, màu sắc chủ yếu là đen
Có rất nhiều tôn giáo: Cao Đài, Phật Giáo, Thiên Chúa Giáo,
Hòa Hảo…
- Âm nhạc: là nơi ra đời vọng cổ, hát tuồng rất phát triển.
• Đa dạng về thời gian
3. Tiến trình lịch sử của văn hóa Việt Nam
-


 Văn hóa Việt Nam thời tiền sử và sơ sử
Tiền sử:
- Văn hóa Núi Đọ
- Văn hóa Sơn Vi
- Văn hóa Hòa Bình
- Văn hóa Bắc Sơn
• Sơ sử:
- Văn hóa Đông Sơn (miền Bắc)
- Văn hóa Sa Huỳnh (miền Trung)
- Văn hóa Đồng Nai (miền Nam)



Văn hóa Việt Nam thiên niên kỉ thứ nhất sau CN
Văn hóa cộng đồng cư dân châu thổ Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ
Văn hóa Chăm Pa ở ven biển miền Trung
Văn hóa Óc Eo ở đồng bằng châu thổ sông Cửu Long
Tiêu biểu thời kì này là văn hóa Bắc Thuộc
 Văn hóa Việt Nam thời độc lập
Nền văn hóa Óc Eo bắt đầu lụi tàn
Từ TK XV nền văn hóa Chăm Pa trở thành nền văn hóa của 1 tộc người
Tiêu biểu trong thời độc lập là nền văn hóa Đại Việt
• Văn hóa Việt Nam giai đoạn Pháp thuộc

Đặc trưng là nền văn hóa mang đậm tính phong kiến quân
chủ chuyên chế

Sự tiếp xúc giao lưu văn hóa Tây phương (Pháp)
• Văn hóa Việt Nam từ 1945 đến nay
• Đặc điểm văn hóa thời kì này: tư tưởng chủ nghĩa Mác-Lênin
• Dưới ngọn cờ của chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa Mác-Lênin.
Với sự hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền văn minh thế giới
hiện đại, đồng thời giữ gìn, phát huy bản sắc dân tộc, văn hóa Việt
Nam hứa hẹn một đỉnh cao lịch sử mới.
4. Sự thống nhất của văn hóa Việt Nam trong đa dạng
• Về không gian: thống nhất trong khuôn khổ lãnh thổ Việt Nam
• Về thời gian: tiến trình lịch sử đem đến 1 thống nhất duy nhất là nền văn
hóa Việt Nam hiện đại
• Về các mặt văn hóa chủ yếu:
- Triết học và tư tưởng
- Phong tục tập quán
- Tín ngưỡng và tôn giáo
- Ngôn ngữ

- Văn hóa
- Nghệ thuật











PHÁT TRIỂN NỀN VĂN HOÁ VIỆT NAM TIÊN TIẾN, ĐẬM ĐÀ BẢN SẮC
DÂN TỘC
Phần
thứ
VỀ THỰC TRẠNG VĂN HOÁ NƯỚC TA
1-

Những

nhất
thành

tựu

-Tư tưởng, đạo đức và lối sống là những lĩnh vực then chốt của văn hoá, đã có những
chuyển
biến

quan
trọng.
Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh được vận dụng và phát triển sáng tạo.
Tính năng động và tính tích cực công dân được phát huy, sở trường và năng lực cá nhân
được khuyến khích. Thế hệ trẻ tiếp thụ nhanh những kiến thức mới và có ý chí vươn lên
lập
thân,
lập
nghiệp,
xây
dựng

bảo
vệ
tổ
quốc.
Những việc làm thiết thực hướng về cội nguồn, về cách mạng và kháng chiến, tư
tưởng các anh hùng dân tộc, đền ớp đáp nghĩa những người có công, giúp đỡ những
người hoạn nạn…trở thành phong trào quần chúng. Tự do tín ngưỡng và không tín
ngưỡng
được
tôn
trọng.
-Sự nghiệp giáo dục, khoa học thu được những thành tựu quan trọng, góp phần nâng cao
dân trí, trình độ học vấn của nhân dân
-Trên lĩnh vực văn học, nghệ thuật, các hoạt động sáng tạo có bước phát triển mới. Nhiều
bộ môn nghệ thuật truyền thống được giữ gìn. Có thêm nhiều tác phẩm có giá trị về đề tài
cách mạng và kháng chiến, vê công cuộc đổi mới. Nhiều bộ sưu tập công phu từ kho tàng
văn hoá, dân gian và văn hoá bác học Việt Nam trong nhiều thế kỷ được xuất bản, tạo cơ
sở cho việc nghiên cứu, bảo tồn và phát huy những giá trị tư tưởng, học thuật và thẩm mỹ

của
dân
tộc.
Số đông văn nghệ sĩ được rèn luyện và thử thách trong thực tiễn cách mạng, có vốn sống,
giàu lòng yêu nước; trước những biến động của thời cuộc và những khó khăn của đời
sống vẫn giữ gìn được phẩm chất, kiên định quan điểm sáng tác phục vụ nhân dân. Nhiều
văn nghệ sĩ tuổi cao, vẫn tiếp tục sự nghiệp sáng tạo, lớp trẻ có nhiều cố gắng tìm tòi cái
mới.
Văn học, nghệ thuật các dân tộc thiểu số có bước tiến đáng kể. Đội ngũ những nhà văn
hoá người dân tộc thiểu số phát triển cả về số lượng, chất lượng, đã có những đóng góp
quan trọng vào hầu hết các lĩnh vực văn học, nghệ thuật.
- Thông tin đại chúng phát triển nhanh về số lượng và quy mô, về nội dung và hình thức,
về in, phát hành, truyền dẫn, ngày càng phát huy vai trò quan trọng trong đời sống văn
hoá tinh thần của xã hội. Hệ thống mạng thông tin trong nước và quốc tế được thiết lập,


tạo khả năng lựa chọn, khai thác các nguồn thông tin bổ ích phục vụ đông đảo công
chúng. Đội ngũ các nhà báo ngày càng đông và có bước trưởng thành về chính trị, tư
tưởng

nghiệp
vụ.
- Giao lưu văn hoá với nước ngoài từng bước được mở rộng. Chúng ta có dịp tiếp xúc
rộng rãi với những thành tựu văn hoá nhân loại, đồng thời giới thiệu với nhân dân các
nước những giá trị tốt đẹp, độc đáo của văn hoá Việt Nam.
Giúp đội ngũ văn nghệ sĩ chuyên nghiệp làm tốt vai trò nòng cốt trong việc sáng tạo
các giá trị văn hoá mới, tạo điều kiện thực hiện tốt nhiệm vụ giữ gìn và phát huy bản sắc
văn hoá dân tộc kết hợp với tiếp thụ tinh hoa văn hoá thế giới.
Đảng và Nhà nước đã quan tâm tăng cường bộ máy tổ chức, ban hành những văn bản
pháp

luật
nhằm
điều
chỉnh
hoạt
động
của
ngành
văn
hoá.
2-

Những

mặt

yếu

kém

-Nổi lên trước hết ở nhận thức tư tưởng, trong đạo đức và lối sống.
Trước những biến động chính trị phức tạp trên thế giới, một số người dao động, hoài
nghi về con đường xã hội chủ nghĩa, phủ nhận thành quả của chủ nghĩa xã hội hiện thực
trên thế giới, phủ nhận con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; phủ nhận lịch sử
cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Không ít người còn mơ hồ, bàng quang
hoặc mất cảnh giác trước những luận điệu thù địch xuyên tạc, bôi nhọ chế độ ta.
Tệ sùng bái nước ngoài, coi thường những giá trị văn hoá dân tộc, chạy theo lối sống
thực dụng, cá nhân vị kỷ…đang gây hại đến thuần phong mỹ tục của dân tộc. Không ít
trường hợp vì đồng tiền và danh vị mà chà đạp lên tình nghĩa gia đình, quan hệ thầy trò,
đồng chí, đồng nghiệp. Buôn lậu và tham nhũng phát triển. Ma tuý, mại dâm và các tệ

nạn xã hội khác gia tăng. Nạn mê tín dị đoan khá phổ biến. Nhiều hủ tục cũ và mới lan
tràn,
nhất

trong
việc
cưới,
việc
tang,
lễ
hội
Nghiêm trọng hơn là sự suy thoái về đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán
bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ có chức, có quyền. Nạn tham nhũng, dùng tiền của
Nhà nước tiêu xài phung phí, ăn chơi sa đoạ không được ngăn chặn có hiệu quả. Những
tệ nạn đó gây sự bất bình của nhân dân, làm tổn thương uy tín của Đảng, của Nhà nước.
- Nhiều biểu hiện tiêu cực trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo làm cho xã hội lo lắng như sự
suy thoái đạo lý trong quan hệ thầy trò, bạn bè, lối sống thiếu lý tưởng, hoài bão, ăn chơi,
nghiện ma tuý…ở một bộ phận học sinh, sinh viên; việc coi nhẹ giáo dục đạo đức, thẩm
mỹ và các bộ môn chính trị, khoa học xã hội và nhân văn.
-Đời sống văn học, nghệ thuật còn những mặt bất cập. Rất ít tác phẩm đạt đỉnh cao tương
xứng với sự nghiệp cách mạng và kháng chiến vĩ đại của dân tộc và thành quả đổi mới.
Một vài tác phẩm viết về kháng chiến đã không phân biệt chiến tranh chính nghĩa vói
chiến tranh phi nghĩa. Xu hướng “thương mại hoá”, chiều theo những thị hiếu thấp kém,


làm cho chức năng giáo dục tư tưởng và thẩm mỹ của văn học, nghệ thuật bị suy giảm.
Một số quan điểm sai trái vẫn xuất hiện, các loại văn hoá phẩm độc hại vẫn còn xâm
nhập vào xã hội và các gia đình. Nhiều cơ sở in, quảng cáo, quán ăn, khách sạn, sàn nhảy
mở tràn lan, chạy theo đồng tiền hoạt động tuỳ tiện, không tuân thủ những quy định của
pháp luật; các cơ quan quản lý nhà nước không có biện pháp hữu hiệu để xử lý.

Tiềm lực đội ngũ sáng tác, nghiên cứu lý luận, phê bình về văn học, nghệ thuật còn
yếu. Nhà nước chậm ban hành các chính sách để phát huy những năng lực hiện có. Một
số ngành nghệ thuật như điện ảnh, sân khấu, đặc biệt là sân khấu truyền thống gặp rất
nhiều
khó
khăn.
Lãnh đạo quản lý trong xuất bản văn học, nghệ thuật còn nhiều sơ sở. Thiếu sự đầu tư
trọng điểm và lâu dài cho sự ra đời những tác phẩm lớn.
-Về thông tin đại chúng, còn nhiều sản phẩm chất lượng thấp, chưa kịp thời phát hiện và
lý giải những vấn đề lớn do cuộc sống đặt ra. Báo chí chưa biểu dưng đúng mức những
điển hình tiên tiến trên các lĩnh vực, cũng như thiếu sự phê phán kịp thời những việclàm
trái với đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước và đạo đức xã hội. Không ít trường
hợp thông tin thiếu chính xác, làm lộ bí mật quốc gia. Khuynh hướng “thương mại hoá”,
lạm dụng quảng cáo để thu lợi còn khá phổ biến. Một số ít nhà báo đã vi phạm đạo đức
nghề nghiệp, thông tin thiếu trung thực, gây tác động xấu đến dư luận xã hội, nhưng chưa
được
xử

kịp
thời
theo
pháp
luật.
Giao lưu văn hoá với nước ngoài chưa tích cực và chủ động, còn nhiều sơ hở. Số văn
hoá phẩm độc hại, phản động xâm nhập vào nước ta còn quá lớn, trong khi đó, số tác
phẩm văn hoá có giá trị của ta đưa ra bên ngoài còn quá ít.
Lực lượng hoạt động văn hoá - văn nghệ trong cộng đồng người Việt Nam ở nước
ngoài hiện nay không nhỏ, đã có những công trình nghiên cứu, tác phẩm văn học, nghệ
thuật tốt hướng về Tổ quốc. Song chúng ta còn thiếu những biện pháp tích cực giúp đồng
bào tìm hiểu sâu văn hoá dân tộc, liên hệ mật thiết với quê nhà, góp phần đấu tranh với

những
hoạt
động
chống
phá
đối
với
Tổ
quốc.
Việc xây dựng thể chế văn hoá còn chậm và nhiều thiếu sót. Chính sách xã hội hoá các
hoạt động văn hoá chậm được ban hành. Bộ máy tổ chức ngành văn hoá chưa được sắp
xếp hợp lý để phát huy cao hơn hiệu lực lãnh đạo và quản lý.
Công tác đào tạo đội ngũ cán bộ và quản lý văn hoá chưa đáp ứng yêu cầu, còn hẫng hụt
cán
bộ
văn
hoá

các
vị
trí
quan
trọng.
Chính sách khuyến khích và định hướng đầu tư xã hội cho phát triển văn hoá còn chưa
rõ. Hệ thống các thiết chế văn hoá cần thiết nói chung bị xuống cấp và sử dụng kém hiệu
quả.
Ở nhiều vùng nông thôn, nhất là vùng sâu,vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc thiểu


số, vùng căn cứ cách mạng, kháng chiến trước đây, đời sống văn hoá còn quá nghèo nàn.

3- Những nguyên nhân chủ yếu
Những thành tựu trong sự nghiệp xây dựng văn hoá một mặt chứng tỏ đường lối và các
chính sách của Đảng và Nhà nước ta đã và đang phát huy tác dụng tích cực, định hướng
đúng đắn cho sự phát triển đời sống văn hoá, xã hội, mặt khác đó là kết quả của sự tham
gia tích cực của nhân dân và những nỗ lực to lớn của các lực lượng hoạt động trên lĩnh
vực
văn
hoá.
Tuy nhiên những mặt chưa được còn nhiều, thậm chí có mặt nghiêm trọng, nhất là trong
lĩnh vực tư tưởng, đạo đức và lối sống. Nguyên nhân của tình trạng yếu kém đó là:
Về

khách

quan:

- Sụp đổ ở Liên Xô cũ và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu đã gây xáo động lớn về tư
tưởng,
tình
cảm
trong
cán
bộ,
đảng
viên

nhân
dân.
- Các thế lực thù địch ráo riết chống phá ta trên mặt trận tư tưởng, văn hoá nhằm thực
hiện

“diễn
biến
hào
bình”.
- Cơ chế thị trường và sự hội nhập quốc tế, bên cạnh những tác động tích cực to lớn, cũng
đã bộc lộ mặt trái của nó, ảnh hưởng tiêu cực đến ý thức tư tưởng, đạo đức, lối sống của
nhân
dân
ta.
- Nước ta còn nghèo, nhu cầu văn hoá của nhân dân rất lớn nhưng khả năng đáp ứng còn
hạn chế do thiếu những điều kiện và phương tiện vật chất cần thiết.
Về

chủ

quan:

- Trong khi tập trung sức vào nhiệm vụ kinh tế, Đảng chưa lường hết những tác động tiêu
cực nói trên, từ đó chưa đặt đúng vị trí của văn hoá, chưa coi trọng công tác giáo dục về
tư tưởng, đạo đức, lối sống, thiếu các biện pháp cần thiết trên cả hai mặt “xây” và
“chống” trên lĩnh vực văn hoá. Công tác nghiên cứu lý luận chưa làm rõ nhiều vấn đề có
liên quan đến văn hoá trong quá trình đổi mới, trong việc xác định những giá trị truyền
thống cũng như hệ giá trị mới cần xây dựng, trong việc xử lý các mối quan hệ giữa truyền
thống và hiện đại, dân tộc và quốc tế, văn hoá và chính trị, văn hoá và kinh tế…Chưa xây
dựng được chiến lược phát triển văn hoá song song với chiến lược phát triển kinh tế.
- Việc xử lý những phần tử thoái hoá biến chất trong đảng và bộ máy nhà nước chưa
nghiêm. Tinh thần tự phê bình và phê bình sa sút ở nhiều cấp bộ đảng. Nội dung giáo dục
tư tưởng, chính trị trong sinh hoạt đảng và các đoàn thể rất yếu. Những điều đó làm suy
giảm niềm tin của nhân dân vào đội ngũ cán bộ, nhưng Trung ương và Bộ Chính trị,
Chính

phủ
chưa

những
biện
pháp
khắc
phục
hữu
hiệu.


- Trong lãnh đạo và quản lý có những biểu hiện buông lỏng, né tránh, hữu khuynh. Trong
hoạt động kinh tế, chưa chú ý đến các yếu tố văn hoá, các yêu cầu phát triển văn hoá
tương ứng. Mức đầu tư ngân sách cho văn hoá còn thấp. Chính sách đào tạo, bồi dưỡng,
sử dụng, đãi ngộ cán bộ làm công tác văn hoá còn nhiều bất hợp lý. Những lệch lạc và
việc làm sai trái trong văn hoá - văn nghệ chưa được kịp thời phát hiện, việc xử lý bị
buông trôi hoặc có khi lại dùng những biện pháp hành chính không thích hợp.
- Chưa có cơ chế và chính sách phát huy nội lực của nhân dân; chưa tạo được phong trào
quần chúng mạnh mẽ tham gia phát triển văn hoá, xây dựng nếp sống văn minh, bảo vệ
văn hoá dân tộc. Chưa coi trọng bồi dưỡng, giáo dục và phát huy khả năng của tuổi trẻ là
lực lượng chính, là đối tượng chủ yếu của hoạt động văn hoá.
Phần

thứ

hai

PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HOÁ
1. PHƯƠNG HƯỚNG

1- Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc
đẩy
sự
phát
triển
kinh
tế

hội
Chăm lo văn hoá là chăm lo củng cố nền tảng tinh thần của xã hội. Thiếu nền tảng
tinh thần tiến bộ và lành mạnh, không quan tâm giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển
kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội thì không thể có sự phát triển kinh tế - xã hội bền
vững.
Xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu văn hoá, vì xã hội công bằng,
văn minh, con người phát triển toàn diện. Các nhân tố văn hoá phải gắn kết chặt chẽ với
đời sống và hoạt động xã hội trên mọi phương diện chính trị, kinh tế, xã hội, pháp luật,
kỷ cương,…biến thành nguồn lực nội sinh quan trọng nhất của phát triển.
2- Nền văn hoá mà chúng ta xây dựng là nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc
Tiên tiến là yêu nước và tiến bộ mà nội dung cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhằm mục tiêu tất cả
vì con người, vì hạnh phúc và sự phát triển phong phú, tự do, toàn diện của con người
trong mối quan hệ hài hoà giữa cá nhân và cộng đồng, giữa xã hội và tự nhiên.
Bảo vệ bản sắc dân tộc phải gắn kết với mở rộng giao lưu quốc tế, tiếp thụ có chọn lọc
những cái hay, cái tiến bộ trong văn hoá các dân tộc khác. Giữ gìn bản sắc dân tộc phải đi
liền với chống lạc hậu, lỗi thời trong phong tục, tập quán, lề thói cũ.


3- Nền văn hoá Việt Nam là nên văn hoá thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng
các dân tộc Việt Nam

Hơn 50 dân tộc sống trên đất nước ta đều có những giá trị và sắc thái văn hoá
riêng. Các giá trị và sắc thái đó bổ sung cho nhau, làm phong phú nền văn hoá Việt Nam
và củng cố sự thống nhất dân tộc là cơ sở để giữ vững sự bình đẳng và phát huy tính đa
dạng
văn
hoá
của
các
dân
tộc
anh
em.
4- Xây dựng và phát triển văn hoá là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo,
trong
đó
đội
ngũ
trí
thức
giữ
vai
trò
quan
trọng
Mọi người Việt Nam phấn đấu vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn
minh đều tham gia sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hoá nước nhà. Công nhân,
nông dân, trí thức là nền tảng khối đại đoàn kết toàn dân, cũng là nền tảng của sự nghiệp
xây dựng và phát triển văn hoá dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước. Đội
ngũ trí thức gắn bó với nhân dân giữ vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và phát
triển

văn
hoá.
5- Văn hoá là một mặt trân; xây dựng, phát triển văn hoá là một sự nghiệp cách
mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì, thận trọng
Bảo tồn và phát huy những di sản văn hoá tốt đẹp của dân tộc, sáng tạo nên những
giá trị văn hoá mới, xã hội chủ nghĩa. Trong công cuộc đó, “xây” đi đôi với “chống”, lấy
“xây” làm chính. Cùng với việc giữ gìn và phát triển những di sản văn hoá quí báu của
dân tộc, tiếp thụ những tinh hoa văn hoá thế giới, sáng tạo, vun đắp nên những giá trị
mới, phải tiến hành kiên trì cuộc đấu tranh bài trừ các hủ tục, các thói hư tật xấu, nâng
cao tính chiến đấu, chống mọi mưu toan lợi dụng văn hoá để thực hiện “diễn biến hoà
bình”.
II. NHỮNG NHIỆM VỤ CỤ THỂ
1- Xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới với những đức

tính

sau:

Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, có chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, đoàn kết
với nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ

tiến
bộ

hội.
Có ý thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích chung.Có lối sống lành mạnh,
nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa, tôn trọng kỷ cương phép nước,
quy ước của cộng đồng; có ý thức bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái.
Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo, năng suất

cao vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội.




Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn, trình độ thẩm mỹ
thể
lực.

2-

Xây

dựng

môi

trường

văn

hoá

Tạo ra ở các đơn vị cơ sở (gia đình, làng, bản, xã, phường, khu tập thể, cơ quan,
xí nghiệp, nông trường, lâm trường, trường học, đơn vị bộ đội..., các vùng dân cư (đô
thị, nông thôn, miền núi...) đời sống văn hoá lành mạnh
Gìn giữ và phát huy những đạo lý tốt đẹp của gia đình Việt Nam. Nêu cao vai
trò gương mẫu của các bậc cha mẹ. Coi trọng xây dựng gia đình. Xây dựng mối quan
hệ
khăng

khít
giữa
gia
đình,
nhà
trường


hội.
Đẩy mạnh phong trào xây dựng làng, ấp, xã, phường văn hoá,
thu hẹp dần khoảng cách đời sống văn hoá giữa các trung tâm đô thị và nông thôn,
giữa những vùng kinh tế phát triển với các vùng sâu, vùng xa, vùng núi, biên giới,
hải
đảo,
giữa
các
tầng
lớp
nhân
dân.
Đầu tư xây dựng một số công trình văn hoá trọng điểm tầm quốc gia. Tăng
cường hoạt động của các tổ chức văn hoá, nghệ thuật chuyên nghiệp.
3-

Phát

triển

sự


nghiệp

văn

hoá,

nghệ

thuật

Phấn đấu sáng tạo nhiều tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị tư tưởng và nghệ
thuật cao, thấm nhuần tinh thần nhân văn, dân chủ, có tác dụng sâu sắc xây dựng con
người.
Khuyến khích tìm tòi, thể nghiệm mọi phương pháp, mọi phong cách sáng tác vì
mục đích đáp ứng đời sống tinh thần lành mạnh, bổ ích cho công chúng. Bài trừ các
khuynh
hướng
sáng
tác
suy
đồi,
phi
nhân
tính.
Hướng văn nghệ nước ta phản ánh hiện thực sinh động, chân thật và sâu sắc sự
nghiệp của nhân dân trong cách mạng và kháng chiến, trong xây dựng chủ nghĩa xã hội
và bảo vệ Tổ quốc cũng như tái hiện lịch sử kiên cường, bất khuất của dân tộc. Đặc biệt
khuyến khích các tác phẩm về công cuộc đổi mới thể hiện nổi bật những nhân tố tích cực
trong xã hội, những nhân vật tiêu biểu của thời đại. Cổ vũ cái đúng, cái tốt, cái đẹp trong
quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với xã hội, với thiên nhiên; phê

phán những thói hư tật xấu, lên ái cái ác, cái thấp hèn. Sáng tạo nhiều tác phẩm văn học,
nghệ thuật cho thiếu niên, nhi đồng với hình thức, nội dung thích hợp; nghiêm cấm xuất
bản
loại
sách
kích
thích
bạo
lực

trẻ
em.
Phát huy vai trò thẩm định tác phẩm, hướng dẫn dư luận xã hội phê bình văn học,
nghệ thuật. Bảo đảm tự do sáng tác đi đôi với nêu cao trách nhiệm công dân, trách nhiệm
xã hội của văn nghệ sĩ, các nhà văn hoá. Nâng cao chất lượng, phát huy tác dụng của
nghiên
cứu,

luận.


Tiếp tục đấu tranh chống các khuynh hướng trái với đường lối văn nghệ của Đảng.
Không ngừng nâng cao thị hiếu thẩm mỹ và trình độ thưởng thức nghệ thuật của công
chúng, đặc biệt quan tâm tầng lớp thanh niên, thiếu niên, nhi đồng. Tạo điều kiện để
nhân dân tham gia tích cực sáng tạo và phê bình, được hưởng thụ ngày càng nhiều tác
phẩm
văn
nghệ

giá

trị
trong
nước

ngoài
nước.
Chăm sóc đời sống vật chất, tinh thần, tạo điều kiện làm việc thuận lợi cho văn nghệ sĩ.
Chú trọng bồi dưỡng, đào tạo lớp văn nghệ sĩ trẻ. Làm tốt công tác bảo vệ bản quyền tác
giả.
Liên hiệp văn học, nghệ thuật Việt Nam (bao gồm các hội sáng tạo văn học, nghệ thuật
ở trung ương) và các hội văn nghệ ở các tỉnh, thành phố là những tổ chức chính trị - xã
hội nghề nghiệp do Đảng lãnh đạo có bộ máy chuyên trách gọn nhẹ, có sự tài trợ của
Nhà nước về kính phí.
4-

Bảo

tồn



phát

huy

các

di

sản


văn

hoá

Di sản văn hoá là tài sản vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc
dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị mới và giao lưu văn hoá. Hết sức coi trọng bảo
tồn, kế thừa, phát huy những giá trị văn hoá truyền thống (bác học và dân gian), văn hoá
cách mạng, bao gồm cả văn hoá vật thể và phi vật thể. Nghiên cứu và giáo dục sâu rộng
những
đạo

dân
tộc
tốt
đẹp
do
cha
ông
để
lại.
5- Phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ
Đẩy mạnh việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 (khoá VIII) về giáo dục - đào
tạo và khoa học - công nghệ. Coi trọng giáo dục đạo lý làm người, ý thức trách nhiệm,
nghĩa vụ công dân, lòng yếu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, đạo đức, lối sống, nếp sống văn
hoá, lịch sử dân tộc và bản sắc dân tộc, ý chí vươn lên vì tương lai của mỗi người và tiền
đồ của đất nước, bồi dưỡng ý thức và năng lực phát huy giá trị văn hoá dân tộc, tiếp thụ
tinh
hoa
văn

hoá
nhân
loại.
Bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ giảng viên và tu chỉnh hệ thống sách giáo khoa, nâng
cao chất lượng giảng dạy các bộ môn ngữ văn, lích sử, chính trị, pháp luật, đạo đức;
giảng
dạy
nhạc

họa

các
trường
phổ
thông.
Hoạt động khoa học xã hội - nhân văn, khoa học tự nhiên và công nghệ phải góp
phần đắc lực giải quyết các vấn đề đặt ra trên lĩnh vực văn hóa, thông tin, văn học, nghệ
thuật.
6- Phát triển đi đôi với quản lý tốt hệ thống thông tin đại chúng
Củng cố, xây dựng, phát triển, từng bước hiện đại hóa hệ thống thông tin đại chúng.
Sắp xếp lại và quy hoạch hợp lý hệ thống truyền hình, phát thanh, thông tấn, báo chí, xuất
bản, thông tin mạng nhằm tăng hiệu quả thôngb tin, tránh lãng phí; phối hợp hoạt động


×