Tải bản đầy đủ (.pdf) (56 trang)

Văn học luôn gắn liền với cái đẹp và cái thiện tuy nhiên, nhiều tác phẩm văn học lại miêu tả cái xấu, cái ác anh, chị lý giải như thế nào về vấn đề này hãy cho biết ý kiến của anh, chị cùng với những dẫn chứng trong văn học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (798.93 KB, 56 trang )

1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

MÔN ĐẠI CƯƠNG LÝ LUẬN VĂN HỌC

NHÓM PHẢN BIỆN ĐỀ TÀI 1

Văn học luôn gắn liền với cái đẹp và cái thiện. Tuy nhiên, nhiều tác
phẩm văn học lại miêu tả cái xấu, cái ác. Anh, chị lý giải như thế
nào về vấn đề này? Hãy cho biết ý kiến của anh, chị cùng với
những dẫn chứng trong văn học Việt Nam và thế giới.
Giảng viên: ThS Lê Ngọc Phương
Khoa: Văn học và ngôn ngữ
Danh sách thành viên:
Họ và tên
01. Vương Thị Ngọc Hân
02. Lê Quốc Sĩ
03. Vũ Ngọc Minh Tâm (Trưởng nhóm)
04. Phạm Trần Tôn Phương
05. Dương Tuyết Mai
06. Trần Thị Phượng
07. Võ Ngọc Bảo Châu
08. Phạm Thị Ngọc Chi
09. Phạm Thị Hồng Cúc
10. Nguyễn Phú Cường
11. Nguyễn Thùy Dương
12. Lê Thúy Hà
13. Mai Thị Hà
14. Đặng Thị Thúy Hồng


15. Nguyễn Thị Thu Ngân
16. Huỳnh Nguyễn Thanh Thủy
17. Lê Huỳnh Phương Trúc
18. Trần Thị Diệp Trúc

MSSV
1356010036
1356010108
1356010110
1356020039
1356010067
1356010101
1356020005
1356020006
1356020007
1356020008
1356020013
1356020014
1356020015
1356020016
1356020029
1356020052
1356020060
1356020062

Chuyên ngành
Hán Nôm
Hán Nôm
Hán Nôm
Hán Nôm

Ngôn Ngữ
Ngôn Ngữ
Ngôn Ngữ
Ngôn Ngữ
Ngôn Ngữ
Ngôn Ngữ
Ngôn Ngữ
Ngôn Ngữ
Ngôn Ngữ
Ngôn Ngữ
Ngôn Ngữ
Ngôn Ngữ
Ngôn Ngữ
Ngôn Ngữ


2

MỤC LỤC
Đề mục

Trang

I.

PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 3

II.

PHẦN NỘI DUNG .................................................................................................................... 4

1. CÁI ĐẸP VÀ CÁI THIỆN ......................................................................................................... 4
1.1. QUAN NIỆM VỀ CÁI ĐẸP .............................................................................................. 4
1.2. QUAN NIỆM VỀ CÁI THIỆN ......................................................................................... 5
1.3. MỐI QUAN HỆ GIỮA CÁC PHẠM TRÙ CHÂN-THIỆN-MỸ ....................................... 6
1.4. VĂN HỌC LUÔN GẮN LIỀN VỚI CÁI THIỆN VÀ CÁI ĐẸP ....................................... 9
2. CÁI XẤU VÀ CÁI ÁC ............................................................................................................ 28
2.1. QUAN NIỆM VỀ CÁI XẤU VÀ CÁI ÁC ....................................................................... 28
2.2.

CÁI XẤU VÀ CÁI ÁC TRONG VĂN HỌC .............................................................. 28

3. NGHỊCH DỊ VỀ SỰ TỒN TẠI CỦA CÁI ĐẸP, CÁI THIỆN LẪN CÁI XẤU, CÁI ÁC
TRONG VĂN HỌC ..................................................................................................................... 41
3.1. CÁC DẠNG TỒN TẠI CỦA THIỆN-ÁC, ĐẸP-XẤU TRONG VĂN HỌC ........................... 41
3.1.1 DẠNG ĐẤU TRANH .................................................................................................... 41
3.1.2. DẠNG THỐNG NHẤT ................................................................................................. 42
3.1.3. DẠNG CHUYỂN HÓA ................................................................................................. 43
3.2. LÝ GIẢI NGHỊCH DỊ ...................................................................................................... 45
III.

PHẦN KẾT LUẬN .............................................................................................................. 54

IV.

TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................................... 55


3

I.


PHAቺ NMƠቶĐAቺ U

“Nếu nhà thơ không tham gia vào việc hoàn thành thế giới thì thế giới đã không được
đẹp đã như thế này” (Gamzatov). Một trong những nhiệm vụ của nhà văn, nhà thơ là tái
hiện lại cuộc sống vào trang sách, phát hiện cái đẹp và thâm nhập những mảnh đời. Bởi
“văn học luôn gắn liền với cái đẹp và cái thiện”. Nhờ đó ta tìm ra chân lý, cho ta lòng yêu
cuộc sống và biết đồng cảm, yêu thương. Nói như Gamzatov thì nhà thơ, nhà văn đã góp
phần nuôi dưỡng cái đẹp trong mỗi chúng ta, làm nên diện mạo đẹp đẽ của thế giới.
“Tuy nhiên, nhiều tác phẩm văn học lại miêu tả cái xấu, cái ác”. Bên cạnh cái đẹp, cái
nên thơ, nhà văn, nhà thơ còn thể hiện cả những giọt nước mắt, cả cái bi thảm, sầu muộn.
Văn học là nhân học. Mỗi cuộc đời và một tác phẩm nghệ thuật, những trang sách, những
áng văn viết về cuộc sống cơ hồ đã là một tác phẩm nghệ thuật. Toàn bộ cuộc sống sống loài
người đều được phản ánh trên những trang sách. Những dân tộc, những con người, những
cuộc tình dang dở, những giọt nước mắt chia ly, những nụ cười hạnh phúc, những cuộc đấu
tranh, những lầm than, những máu và nước mắt…. Cái đẹp mà văn học đem lại không phải
cái gì khác hơn là cái đẹp của sự thật đời sống được khám phá một cách nghệ thuật. “Tác
phẩm nghệ thuật đạt tới cái đẹp theo nghĩa: mang được sự thật sâu xa của đời sống bên
ngoài, đồng thời mang được sự thật tâm tình của con người." (Lê Đình Kỵ - Cảm nhận văn
học). Hay như một nhà phê bình từng viết "Những cuộc chiến qua đi, những trang lịch sử
của từng dân tộc được sang trang, các chiến tuyến có thể được dựng lên hoặc san bằng.
Nhưng những tác phẩm đi xuyên qua mọi thời đại, mọi nền văn hóa hay ngôn ngữ, cuối
cùng vẫn nằm ở tính nhân bản của nó. Có thể màu sắc quốc kỳ, ngôn ngữ, hay màu da
chúng ta khác nhau. Nhưng máu chúng ta đều có màu đỏ, nhịp tim đều giống nhau. Văn học
- cuối cùng vẫn là viết về trái tim con người". Đó là lý do vì sao trong văn học lại có sự
nghịch dị “văn học luôn gắn liền với cái đẹp và cái thiện” và cũng “miêu tả cái xấu, cái
ác”. Bởi “suy cho cùng cái đẹp là đứa con ruột của đời sống. Hư vô tuyệt đối không có
gạch đá và vôi vữa, không có hạnh phúc lẫn bi ai, thì lấy gì để mà làm chất liệu tạo hình
nên cái gọi là “Cái đẹp”?”(Miên Di).



4

II.

PHAቺ NNOƹ̣ IDUNG

1. CÁI ĐẸP VÀ CÁI THIỆN
1.1. QUAN NIỆM VỀ CÁI ĐẸP
Cái đẹp là biểu trưng cho một giá trị, đáp ứng nhu cầu khát vọng sống của con người,
đem lại cho con người cảm xúc tích cực và thôi thúc con người sáng tạo.
Cái đẹp là một phạm trù mỹ học, trong đó phản ánh và đánh giá những hiện tượng của
hiện thực và những tác phẩm nghệ thuật đem lại cho con người một cảm giác khoái lạc về
mặt thẩm mỹ biểu hiện dưới hình thức cảm tính đồng thời xác định giá trị thẩm mỹ của đối
tượng theo quan điểm về sự hoàn thiện xem chúng là những hiện tượng có giá trị thẩm mỹ
cao nhất. Cái đẹp hiện ra thiên hình vạn trạng với tính chất khác nhau. Nhà văn hào Lev
Tolstoi viết : “Những tài liệu viết về cái đẹp chất lên như núi, tuy nhiên, cái đẹp vẫn là một
câu đố giữa cuộc đời”
Platon tìm cái đẹp đối với tất cả. Aristote thì cho rằng “cái đẹp ở trong kích thước và
trật tự nhất định của nó để tạo thành tính nhất trí và tính hoàn chỉnh” (Nghệ thuật thi ca). Ở
Trung Quốc cái đẹp là sự hài hòa giữa âm và dương (tranh thủy mặc). Một người con gái
đẹp là người có đủ bốn phẩm chất nguyên, hanh, lợi, trinh, người nam đẹp là sự mạnh mẽ.
Cái đẹp trước hết phải gắn liền với cuộc sống, với sự sống đồng thời phải phù hợp với
quan niệm của thời đại, dân tộc, giai cấp...Secnưxepxki khẳng định Cái đẹp chính là cuộc
sống: “Một tồn tại được gọi là đẹp là một tồn tại trong đó chúng ta nhìn thấy cuộc sống
đúng như quan niệm của mình, một đối tượng đẹp là đối tượng chứng tỏ nó mang một cuộc
sống hay gợi cho chúng ta ý niệm về cuộc sống”. Nghệ thuật là nơi tập trung cao nhất mối
quan hệ của con người đối với hiện thực. Nếu con người bao giờ cũng sáng tạo theo qui luật
của cái đẹp thì nghệ thuật chính là nơi tập trung cao nhất của qui luật này.
Mặt khác, cái gì đẹp thì luôn luôn gắn liền với cái tốt, cái thiện (do đó mà chúng ta

thường gắn liền thành hai chữ ‘tốt đẹp’). Cái tốt ở cấp độ bình thường đối với con người là
cái hữu ích. Một cái gì không hữu ích cho thân tâm, thậm chí có hại thì hẳn không thể nói là


5

đẹp. Uống một ít bia, cho vui, cho có không khí gặp mặt, thì đó là một việc đẹp. Nhưng nếu
uống say be bét, không còn tự chủ được, thì đó hẳn là một điều không đẹp, không tốt. Tác
phẩm của nhà văn có thể tả những điều hư hỏng, tệ hại ở tận đáy xã hội. Nhưng nếu tả thực
chỉ để người ta tiếp tục trầm mình trong bản năng thôi, thì hẳn là cuốn sách ấy không đẹp và
không tốt. Sự vươn lên của con người là một điều vừa đẹp và vừa tốt. Cái đẹp của con người
thì nội dung là thiện, hình thức là mỹ, nội dung quyết định hình thức.

1.2. QUAN NIỆM VỀ CÁI THIỆN
Theo nghĩa triết học, Thiện là “điều tốt về phạm vi đạo đức, là lý tưởng thỏa mãn ý chí
con người, cũng như chân thỏa mãn lý trí và mỹ, thỏa mãn tình cảm” (Trần Văn Hiến, Từ
điển và danh từ triết học, Ra khơi, Sài Gòn, 1966). Mạnh tử thì cho rằng “Ai cũng có lòng
thương người…Nếu thình lình thấy một đứa nhỏ sắp ngã xuống giếng, ai cũng có lòng bồn
chồn thương xót”. Đó là minh chứng cho một trong tứ đoan (mầm thiện) gồm: lòng trắc ẩn,
lòng tu ố, lòng từ nhượng, lòng thị phi. Mạnh tử thường dùng “ hiếu, đễ, trung, tín” để nói
lên nội dung cụ thể của thiện :
Hiếu : thể hiện cụ thể mối quan hệ thích đáng giữa con với cha mẹ.
Đễ : thể hiện cụ thể mối quan hệ thích đáng giữa tôi với anh chị em.
Trung : thể hiện cụ thể mối quan hệ thích đáng giữa tôi với tổ quốc hay người chủ.
Tín : thể hiện cụ thể mối quan hệ thích đáng giữa tôi với bạn bè.
Nên thiện thể hiện cụ thể mối quan hệ thích đáng giữa tôi với tha nhân.
Trong Phật giáo, Thiện (Pali :kusala) là lành, tốt, có đạo đức, thuận theo đạo đức có
ích cho mình và cho người, là trạng thái tiêu diệt ác pháp. Pythagore quan niệm “sự thiện
không những như là giá trị luân lý mà còn như cái đẹp chân lý và hạnh phúc”. Trong Công
Giáo, “cái hữu thể tất yếu, cái thiên lý chí thiện đó chính là Thiên chúa, Thiện chính là bản

tính của Chúa: Thiên chúa là tình yêu, là nguồn sự thiện sung mãn vô biên. Con người luôn
khao khát hiểu biết sự thật và ước muốn đạt đến sự thiện tuyệt đối, điều đó chỉ có ở Thiên
chúa.” ( Tổng luận thần học của Thánh Toma ).


6

1.3. MỐI QUAN HỆ GIỮA CÁC PHẠM TRÙ CHÂN-THIỆN-MỸ
Ở bình diện cảm thức thông thường, chúng ta thấy cái đẹp bao giờ cũng gắn với cái
thật. Khi nói rằng bài thơ ấy giả tạo, bức tranh ấy giả tạo có nghĩa là bài thơ ấy, bức tranh ấy
không đẹp, không hay. Trong tác phẩm nghệ thuật có thể tha hồ tưởng tượng, thậm chí đến
mức siêu thực, nhưng nó luôn luôn là cái thực, cái có ý nghĩa, không thể là cái giả, mà cái
giả cũng đồng nghĩa với cái không có giá trị. Picasso đã nói: “Tôi có thể hãnh diện mà nói
điều này: Tôi chẳng bao giờ coi hội họa như là một nghệ thuật chỉ đơn thuần để gây thú vị,
để giải trí. Tôi muốn dùng nét vẽ và màu sắc, bởi lẽ đây là vũ khí của tôi, để càng đi sâu hơn
vào việc hiểu biết thế giới và con người, để sự hiểu biết đó càng ngày càng giải phóng thêm
cho chúng ta. Phải, tôi có ý thức là bấy lâu tôi vẫn chiến đấu bằng hội họa của tôi như một
người cách mạng thật sự”. (Dẫn theo Phùng Văn Tửu- Mỹ học, của Diderot, NXB. Khoa
học và Xã hội). Trong bài diễn từ nhận giải Nobel năm 1987, nhà thơ Joseph Brodsky nói
“Thi ca là nhận thức, tư duy, cảm nhận thế giới” và đi “xa hơn” vào trong bí mật của thế
giới, “nơi chưa từng ai đến”.
Tuy nhiên, văn học là sáng tạo, hư cấu, không phải sao chép hiện thực. Tolstoi không
thừa nhận thống nhất chân-thiện-mĩ, trong sáng tác của ông cũng không có thống nhất ấy.
Trong tiểu thuyết Chiến tranh và hòa bình, Tolstoi vì muốn khẳng định sự thống nhất của
nhân dân Nga trong cuộc chiến chống quân Pháp, ông đã xóa đi các mâu thuẫn giữa các giai
cấp, giảm đi tính sắc nhọn của ngòi bút, xé toạc các mặt nạ giả dối của xã hội. Tức là vì cái
thiện, cái đẹp, ông hi sinh bớt một phần cái thật. Cái thật đối thoại với cái thiện, cái chân.
Hoặc chúng phủ định lẫn nhau, phê phán nhau. Nếu đem ánh sáng của cái đẹp, cái thiện mà
miêu tả cái xấu, cái ác thì lúc đó chúng đối thoại với nhau, chứ không thống nhất với nhau.
Nhà xã hội học người Đức là Max Weiber, đã nói như đinh đóng cột: “Một vật sở dĩ

đẹp là vì nó không chân, không thiện. Một sự vật sở dĩ là chân thật chính là do nó không
đẹp và không thiện. Mà chỉ vì nó không đẹp, không tốt, nó mới là chân. Chân thiện mĩ căn
bản là tách rời nhau chứ không phải thống nhất với nhau.” Weiber cũng cho rằng ba giá trị
chân-thiện-mĩ có tính loại trừ nhau, không nhất thiết phải thống nhất.


7

Trong thực tế, chân-thiện-mĩ khó có khả năng thống nhất với nhau. Theo Lão Tử trong
Đạo đức kinh, cái thật và cái đẹp không đi đôi: “Lời thật thì không đẹp, mà lời đẹp thì
không thật. Người tốt không giỏi nói lí, người khéo nói lí thì không tốt; người hiểu đạo
không biết rộng, kẻ biết rộng không biết đạo” (Tín ngôn bất mĩ, mĩ ngôn bất tín; thiện giả
bất biện, biện giả bất thiện; tri giả bất bác, bác giả bất tri). Lời nói thật thì khó nghe. Lời
nói ngọt ngào, bùi tai đều là dối trá. Mà lời đã giả dối thì cũng không có giá trị thiện căn đạo
đức gì cả. Chân, mĩ, thiện, biện, tri, bác là các phương diện khác nhau, không thống nhất với
nhau. Phạm vi của Lão Tử có hẹp hơn. Ông chỉ bàn quan hệ giữa lời thật và lời đẹp, một
quan hệ có tính loại trừ. Nhưng qua đó ta cũng có thể thấy quan hệ của chúng trong văn học,
nghệ thuật ngôn từ. Văn học thật, không đẹp, văn học đẹp không thật.
Trong thời cận đại, nhà thơ tượng trưng Pháp Baudelaire có lẽ là một trong những
người chủ trương duy mĩ, đầu tiên phản đối sự thống nhất đó. Ông nói : “Mục đích của thi
ca không phải là nâng con người lên cao hơn các lợi ích phàm tục, nếu nhà thơ chạy theo
một mục đích đạo đức thì ông ta sẽ làm suy yếu đi sức mạnh của thơ. Thơ không thể đặt
ngang hàng với khoa học và đạo đức, nếu không thơ sẽ suy tàn và chết. Thơ không lấy chân
thực làm đối tượng, nó chỉ lấy bản thân nó làm mục đích.” Một chỗ khác ông viết: “Thơ
không thể lấy bất cứ cái gì ngoài nó làm mục đích, chỉ có những bài thơ viết đơn thuần ra vì
niềm vui mới vĩ đại và cao quý, mới xứng đáng với tên gọi của thơ.” Theo ông cái thật, cái
thiện cái đẹp ở những vị trí khác nhau, có chức năng khác nhau, nếu thống nhất thì cái này
phá hoại cái kia. Thơ chỉ lấy thơ làm mục đích. Quan niệm này có chỗ thống nhất với Lão
Tử. Một thời gian dài chúng ta phê phán quan niệm nghệ thuật vị nghệ thuật, song ngày nay
không thể không thấy tính hợp lí nhất định của nó.

Văn học là những tác phẩm được viết ra dựa trên sự tưởng tượng cái cái khát khao của
con người, nên chúng ta có thể dễ dàng thấy được chân-thiện-mỹ đi cùng nhau. Trong nghệ
thuật, cái chân (cái thật) là cái có trước tuyệt đối, là cái không chịu phụ thuộc bất cứ cái gì
có trước nó. Cái tốt (cái thiện) là cái cần phải có, so với cái hiện có, gắn với lí tưởng của nhà
văn. Nếu cái cần phải có chiếm ưu thế thì sẽ tồn hại đến cái thật. Cái thẩm mĩ là cái dùng để
tạo hình thức cho thế giới nghệ thuật. Nhưng cái thẩm mĩ ngày nay không nhất thiết là chỉnh
thể, nó phân mảnh, tạp chủng, lai ghép không còn giống như Bakhtin quan niệm vào đầu thế


8

kỉ XX nữa. Theo Bakhtin quan hệ đó là như sau: “Hiện thực chỉ có thể đối lập với nghệ
thuật như là một cái gì tốt (thiện) hay là một cái gì thật (chân) đối với cái đẹp”. Ở đây
Bakhtin nói cái thật hay cái tốt trong quan hệ lựa chọn. Ông không nói cái đẹp là đối tượng,
bởi nó phụ thuộc vào cái thật. Cái thẩm mĩ đem cái thật hay cái tốt lại gần với sự thụ cảm,
soi ngắm của người đọc. Như vậy thống nhất chân thiện mĩ không phải là đem bao nhiêu cái
tốt, cái thật, cái đẹp trong đời sống tập họp lại làm thành nghệ thuật, mà chỉ là đem cái thật
(vốn có), hay cái tốt (cần phải có) biến thành yếu tố của khách thể thẩm mĩ. Với nghĩa đó,
theo Bakhtin, “cuộc sống vừa ở bên ngoài, vừa ở bên trong nghệ thuật; nghệ thuật giàu có,
không khô khan, không chuyên biệt; người nghệ sĩ chỉ là chuyên gia với tư cách là người
thợ, tức là chỉ trong quan hệ với chất liệu của anh ta”. Như vậy chân thiện mĩ thống nhất
theo phương thức cái đẹp (thẩm mĩ) trở thành hình thức biểu đạt cho cái thật hay cái thiện,
trong đó cái thật, cái thiện và cái mĩ ở vào một tương quan hoàn toàn quy ước. Do đó tính
chân thực của văn học là chân thực của các khả năng trong đời sống mà nhà văn đã lựa
chọn, khái quát thành thế giới nghệ thuật. Tính chân thực ở đây là phù hợp với các khả năng
đời sống. Khi người đọc chấp nhận thế giới ấy như là có thật, thì nó có tính chân thật.
Văn hóa, nghệ thuật Việt Nam đang đi trên đường đa nguyên hóa. Từ chỗ không thừa
nhận vô thức, phi lí tính, chúng ta đã phiên dịch và thưởng thức được các tác phẩm thuộc
dòng văn học phi lí tính, như văn học hiện sinh, văn học phi lí tính. Từ chỗ không chấp nhận
yếu tố sex trong văn chương đã thừa nhận từng bước sự xâm nhập của nó vào văn học, nghệ

thuật. Ranh giới của sex trong nghệ thuật và khiêu dâm nằm ở chỗ một bên là giá trị tinh
thần, còn bên kia là giá trị vật chất, vật thể. Trong văn học cách mạng trước đây, một nụ hôn
đã bị coi là đồi trụy thì hiện tượng sex trong văn học hôm nay có thể coi là sự kiện thay đổi
nhãn quan về giá trị thẩm mĩ, chân thực và đạo đức. Trong thực tiễn phê bình, nếu ta theo
tiêu chí đạo đức, tức dựa vào tác dụng giáo dục mà dánh giá thì tiêu chí thẩm mĩ có thể bị hi
sinh. Như cụ nghè Ngô Đức Kế đánh giá Truyện Kiều, khi xét theo tiêu chí đạo đức, cụ chỉ
thấy tác dụng xấu của nó: “ai, dâm, sầu, oán, đạo, dục, tăng, bi, tám chữ ấy không tránh
đâu cho khỏi”. Cụ cũng thấy Truyện Kiều văn chương đẹp, nhưng không thấy thống nhất
đâu cả. Trong sáng tác, nếu chạy theo tác dụng tuyên truyền, giáo dục thì tính chân thực
thường bị vi phạm.


9

1.4. VĂN HỌC LUÔN GẮN LIỀN VỚI CÁI THIỆN VÀ CÁI ĐẸP
Văn học là nghệ thuật của ngôn từ. Cái đẹp trong văn học của mỗi tác phẩm lại không
giống nhau, điều đó phụ thuộc vào quan niệm riêng của mỗi tác giả. Cái đẹp trong văn học
thông thường là nhân vật đẹp: phẩm chất đẹp và hành động đẹp, thiên nhiên đẹp, ý nghĩa tác
phẩm…
Cái đẹp trong thiên nhiên chiếm một vị trí hết sức quan trọng trong đời sống, cũng như
trong văn học, nó luôn là nguồn cảm hứng bất tận cho con người:
Thơ xưa yêu cảnh thiên nhiên đẹp.
Mây gió trăng hoa tuyết núi sông
("Cảm tưởng đọc thiên gia thi" của Hồ Chí Minh)
Vẻ đẹp trong thiên nhiên là thước đo đầu tiên của vẻ đẹp trong đời sống con người.
Thế giới do con người sáng tạo nên chỉ là thiên nhiên thứ hai. Thứ hai bởi vì nó là sự mô
phỏng của thiên nhiên thứ nhất, khi sáng tạo theo qui luật của cái đẹp, con người đã mượn
thiên nhiên như một khuôn mẫu, một thước đo. Chẳng hạn, màu sắc, âm thanh trong hội
họa, trong âm nhạc, trong đời sống của con người là sự mô phỏng những màu sắc, âm thanh
trong tự nhiên. Thiên nhiên là nguồn cảm hứng vô tận, niềm say mê của con người, là đối

tượng của nhiều ngành nghệ thuật: hội họa có tranh phong cảnh, nhiều họa sĩ dành cả đời
mình để vẻ tranh phong cảnh như Lêvitan (Nga); Monet (Pháp), Tecner...Trong văn học,
đặc biệt là trong thơ, thiên nhiên được miêu tả hết sức phong phú và đa dạng. Nguyễn Du đã
từng khẳng định trong truyện Kiều bất hủ của mình:
“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”
Thiên nhiên cảnh vật xung quanh ta vốn là khách quan nhưng khi đi vào văn học thì
nó chịu sự chi phối của nhà văn. Bức tranh thiên nhiên trong truyện Kiều được Nguyễn Du
khắc họa với nhiều sắc thái khác nhau. Hầu hết các cảnh vật đều là những bức tranh được
khoác màu tâm trạng. Tả cảnh để gợi tình, thông qua bức tranh thiên nhiên Nguyễn Du gửi


10

bức tranh tâm trạng, nội tâm của con người. Đây là cảnh chiều tà Kim, Kiều gặp nhau, cảnh
của một ngày sắp tàn, vậy mà vẫn rất nên thơ và tươi sáng:
“ Hài văn lần bước dặm xanh
Một vùng như thể cây quỳnh cây dao”
Vẫn là cảnh chiều tà nhưng khi Thúy Kiều nhỏ giọt nước mắt xuống ngôi mộ Đạm
Tiên thì cảnh vật bỗng dưng trở nên thê lương và tàn úa:
“Sè sè nấm mộ bên đường
Dầu dầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh”
Ngọn cỏ mùa xuân nhẽ ra phải xanh non mơn mởn nhưng do mối thương cảm của
Thúy Kiều dành cho cô kĩ hồng nhan bạc mệnh nên nó đã bị nhuốm màu ảm đạm hẩm hiu.
Trong đêm Kim, Kiều thề thốt, thiên nhiên cũng rực sáng trong như mối tình trong
trắng thánh thiện của họ:
“ Vầng trăng vằng vặc giữa trời
Đinh ninh hai miệng một lời song song”
Và đây là cảnh Kiều từ giã gia đình để dấn thân vào cuộc đời gió bụi :
“ Đùng đùng gió đục mây vần

Một xe trong cõi hồng trần như bay”
Ngoài thiên nhiên tâm trạng Nguyễn Du còn dành những câu thơ đẹp nhất để miêu tả
thiên nhiên theo bốn mùa. Đó là cảnh ngày xuân:
“ Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”
Màu xanh của cỏ làm nền cho bức tranh màu trắng của hoa lê tô điểm cho bức tranh
thêm trong sáng tinh khôi, nhẹ nhàng mà quyến rũ.
Hay là một đêm hè:


11

“ Dưới trăng quyên đã gọi hè
Đầu tường lửa lựu lập lòe đâm bông”
Một cảnh chiều thu:
“ Long lanh đáy nước in trời
Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng”
Cảnh một ngày đông:
“ Trời hôm mây kéo tối sầm
Dầu dầu ngọn cỏ đầm đầm cành sương”
Và chỉ một câu thơ thôi mà Nguyễn Du tả đủ cả bốn mùa trong năm:
“ Sen tàn cúc lại nở hoa
Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân”
Nguyễn Du đã chỉ ra đặc trưng của từng mùa trong năm và kết hợp các mùa ấy trong
một câu thơ. Để thấy được sự luân chuyển của quy luật tự nhiên về các mùa. Qua Truyện
Kiều, Nguyễn Du đã khắc họa rấ thành công vẻ đẹp của thiên nhiên.
Trong Vội vàng của Xuân Diệu, đó là một thiên đàng nơi hạ giới, một người tình
quyến rũ, thanh tân :
“Của ong bướm này đây tuần tháng mật,
Này đây hoa của đồng nội xanh rì,

Này đây lá của cành tơ phơ phất,
Của yến anh này đây khúc tình si,
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi,
Mỗi sáng sớm, thần Vui hằng gõ cửa,
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”


12

Với phép điệp “ của”… “của”… và phép liệt kê “này đây”… “ này đây”… nhà thơ
phơi bày ra trước mắt ta những cảnh sắc mà thiên nhiên đã hào phóng ban tặng: Rạo rực như
tuần tháng mật của bướm ong, tươi như hoa đồng nội, nõn như lá cành tơ, bổng trầm như
khúc hoan ca của anh yến, rực rỡ như ánh sáng mặt trời và quyến rũ như mùa vào năm mới.
Có lẽ, trước Xuân Diệu, thơ Việt Nam chưa có được cảm giác về tháng Giêng táo bạo, mới
mẻ và ngọt ngào như thế “ngon như một cặp môi gần”!, một vẻ đẹp rất trần gian nhưng chỉ
có tạo hóa toàn năng mới làm được, nó gần gũi, có tính nhục thể nhưng rất đỗi cao vời, một
cái gì vô cùng tinh khôi, trinh trắng.
Hay trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu thì nhân vật Phùng
vô cùng xúc động khi bắt gặp cảnh mặt trời mọc trên biển lúc bình minh “mũi thuyền in một
nét lòe nhòe vào bầu sương trắng như pha sữa có đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời
chiếu vào… toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp
thật toàn bích…” đó chính là thiên nhiên đẹp, thiên nhiên mang lại sự rung cảm cho con
người.
Thiên nhiên là nguồn cảm hứng, say mê của con người. Tuy nhiên, cũng cần phải thấy
rằng, trong giới tự nhiên vô cùng phong phú có rất nhiều cái đẹp không phải hoàn toàn do
những phẩm chất tự nhiên của chúng mà là do những giá trị mà chúng đã có trong mối quan
hệ của chúng với con người. Thí dụ: vàng, bạc, bầu trời đầy trăng sao, cánh đồng lúa chín..
.Trong quá trình lao động thực tiễn, nhiều sự vật, hiện tượng trong thiên nhiên chuyển dần
từ cái có ích sang cái đẹp, tạo thêm cho sự vật những ý nghĩa mới. Thông thường, ý nghĩa
này có được là do cảnh vật gắn bó mật thiết với con người, ban đầu là cái có ích, sau trở

thành cái đẹp.
Ngoài cái đẹp của thiên nhiên, trong văn chương, đặc biệt và quan trọng hơn cả, là Cái
đẹp của con người. Con người là sản phẩm cao nhất và hoàn thiện nhất của tự nhiên, xã hội.
Shakespeare ca ngợi con người "Kì diệu thay là con người! Con người cao quí làm sao về lí
trí, vô tận làm sao về năng khiếu. Về hình dung và vóc dáng, nó đẹp tựa thiên thần, về trí tuệ
nó có thể sánh tài thượng đế. Thật là vẻ đẹp của thế gian, kiểu mẫu của muôn loài". Trong
quá trình phát triển của lịch sử, có rất nhiều quan niệm khác nhau về sự hình thành của con


13

người và cái đẹp của con người (Quan điểm của Thiên chúa giáo, quan điểm Ấn độ giáo,
quan điểm của Empédocle...). Chúng ta cho rằng để trở thành con người như ngày hôm nay,
nhân loại đã phải trải qua một quá trình lao động và cái đẹp của con người cũng không thể
tách rời khỏi quá trình lao động. Cái đẹp của con người thường gắn liền với những vấn đề
đạo đức và những hoàn cảnh xã hội. Nếu người đàn bà đẹp trong quan niệm của phương
Ðông nói chung là công, dung, ngôn, hạnh thì Tsêkhôp cũng có ý kiến tương tự về con
người nói chung: “Tất cả mọi thứ trong con người đều phải đẹp, từ mặt mũi áo quần đến
tâm hồn, tư tưởng”. Ðánh giá, nhìn nhận cái đẹp của con người thật khó có thể tách rời với
những vấn đề đạo đức, chính trị và hoàn cảnh lịch sử xã hội cụ thể.
Con người là sản phẩm của tự nhiên, vì vậy cái đẹp của con người trước hết phải mang
tính vật chất. Có thể coi đó là vẻ đẹp, cái đẹp bên ngoài được thể hiện qua dung nhan, sự cân
đối của cơ thể…Không nên coi nhẹ vẻ đẹp này vì cái răng, cái tóc là góc con người.
Nguyễn Du đã ca tụng vẻ đẹp của chị em Kiều:
"Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da
Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn

Làn thu thủy nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh"
Bên cạnh vẻ đẹp bên ngoài này còn có một cái đẹp cũng được biểu hiện một cách cụ
thể, cảm tính từ hành vi, ngôn ngữ, cử chỉ ... Trong ca dao, người ta chú trọng đến lời ăn
tiếng nói, cử chỉ, hành động của con người:
Ðây là cái đẹp của lời nói:
-Lời nói không mất tiền mua


14

Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau
-Chim khôn kêu tiếng rãnh rang
Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe.
-Kim vàng ai nỡ uốn câu
Người khôn ai nỡ nói nhau nặng lời...
-Ðất rắn trồng cây ngẳng nghiu
Những người thô tục nói điều phàm phu...
-Những người chưa nói đã cười
Chưa đi đã chạy là người vô duyên.
Những người được coi là đẹp trong văn học từ xưa đến nay cũng được miêu tả lời nói
dịu dàng, nụ cười duyên dáng:
-Hoa cười ngọc thốt đoan trang
-Lặng nghe lời nói như ru
Chiều thu dễ khiến nét thu ngại ngần.
Chính cái đẹp của hình thức này mới biểu hiện được vẻ đẹp bên trong, mới là sự thống
nhất giữa nội dung và hình thức. Trong tiếng Việt, từ “có duyên” lột tả được một phần nào
đó cái đẹp bên trong được biểu hiện qua cái đẹp bên ngoài. Trong quan niệm dân gian Việt
Nam từ rất xa xưa, cái đẹp lí tưởng của con người bao giờ cũng có sự hài hòa, thống nhất
giữa cái bên trong và bên ngoài, giữa nội dung và hình thức (Truyện Tấm Cám, Lục Vân

Tiên, Kiều Nguyệt Nga…). Có nhiều trường hợp khuyên chúng ta không nên đánh giá vội
vàng cái vẻ bên ngoài mà kết luận về bản chất bên trong của một con người mà phải cần có
thời gian và sự gần gũi (Hoàng tử cóc, Sọ dừa...). Lev Tolstoi miêu tả Hélène có vẻ đẹp bên
ngoài nhưng tâm hồn hoàn toàn trống rỗng. Pie thì cục mịch nhưng lại có một tâm hồn vĩ
đại. V. Hugo trong tác phẩm Nhà thờ đức bà Paris miêu tả Quazimodo xấu xí nhưng tâm
hồn rực sáng hoàn toàn khác với vẻ ngoài đẹp trai, phong lưu nhưng đàng điếm của Fébus


15

de Satopé. Nếu phải chọn lựa giữa cái đẹp bên trong và vẻ đẹp bên ngoài, hầu như người ta
ưu tiên chú trọng cái đẹp bên trong. Có thể nêu lên một số ý kiến về vấn đề này:
Krassovki cho rằng: "Nhan sắc người phụ nữ quyến rũ tình yêu nhưng chỉ cái đẹp tâm
hồn mới khiến tình yêu bền vững".
Voltaire: "Sắc đẹp làm vui mắt, sự dịu hiền thu hút lòng người".
Ðô-rơ -vin-li: "Ðẹp mà được yêu, đó mới chỉ là người đàn bà. Xấu mà biết làm cho
người ta yêu, đó là một nữ hoàng."
Ngạn ngữ Nga: "Sắc đẹp chỉ cần trong lễ cưới còn tình yêu ta cần nó suốt đời".
Ở Việt Nam cũng như ở phương Ðông, người ta cũng luôn đánh giá cao cái đẹp bên
trong so với cái đẹp bên ngoài: Tốt gỗ hơn tốt nước sơn, Xấu người đẹp nết còn hơn đẹp
người hay "Giai nhân hà tất kiều như ngọc" (Người đẹp hà tất phải có vẻ đẹp như ngọc).
Nhạc sỹ tài danh Trịnh Công Sơn đã từng nói: “Mục đích đầu tiên và sau cùng của
nghệ thuật và văn học theo tôi là mang đến cái hay cái đẹp cho đời người. Tự thân nó không
có mầm mống của một sự mưu toan nào cả. Hãy cho nó thanh thản tự do và mãi mãi là hiện
thân của điều thiện của cái đẹp”.
Nhà văn tạo ra cái Đẹp. Anh ta có thiên chức trân trọng, ngợi ca cái Đẹp, đi tìm cái
Đẹp trong cuộc sống xã hội, thiên nhiên và tâm hồn. Cái Đẹp trong văn chương cổ là cái đẹp
hài hoà, cái đẹp của sự hoàn thiện, mực thước và thuần khiết, cái đẹp gắn với sự phụ thuộc
và ổn định, cái đẹp thuộc về thời quá khứ, hô ứng nhịp nhàng với thiên nhiên vũ trụ. Nghệ
thuật cổ điển xem cái Đẹp của con người biểu hiện ở trí tuệ. Chủ nghĩa tình cảm, chủ nghĩa

lãng mạn coi cái Đẹp ở sự thành thực của trái tim, xúc cảm. Cái Đẹp trong văn chương đi từ
cái đẹp thiêng đến cái đẹp phàm tục trần thế, cái đẹp lí tưởng của thời đại tới cái đẹp của cá
nhân, cá tính; từ cái đẹp con người không thể với tới, đạt được (cái đẹp viển vông) đến cái
đẹp con người có khả năng chiếm lĩnh trong đời sống này, từ cái đẹp ý niệm đến cái đẹp
khách quan. Lưu Hiệp nói: “Việc thấy được cái đẹp, gốc ở tình cảm và tư tưởng nhà
văn”. Xuân Diệu ngỡ ngàng sung sướng khi nhận ra thiên đường trên mặt đất, thi sĩ cho
rằng cuộc sống đương mơn mởn xanh non, tràn đầy hương sắc âm thanh rạo rực xuân tình là


16

đẹp. Hồ Dzếnh thấy “tình chỉ đẹp khi còn dang dở”, còn Thế Lữ xem cái Đẹp ở chốn bồng
lai tiên cảnh. Nguyễn Tuân quan niệm người giữ vững thiên lương là đẹp, Thạch Lam coi
cái Đẹp ở khao khát thay đổi cuộc sống ao tù, bằng phẳng, tăm tối. Với Nam Cao, con
người đẹp phải biết giữ vững nhân cách trước cái đói miếng ăn, môi trường sống đẹp là môi
trường phải vun đắp cho tài năng nảy nở, nâng đỡ ước mơ cao đẹp của con người, hoặc ít ra
đảm bảo những điều kiện tối thiểu cho con người được sống đời lương thiện. Trong cảm
quan của nghệ sĩ này “cái đẹp cứu vớt nhân loại”, nhưng trong nhãn quan của nhà văn kia
thì người đẹp, người tài thường gặp cảnh khốn cùng. Số khác thì miêu tả cái Đẹp thường
mang tới tai hoạ “khuynh quốc khuynh thành”. Không ít nhà văn qua cái bi, cái hùng đã chỉ
ra cái Đẹp nhân văn.
Theo Nguyễn Đình Thi: “Nói nghệ thuật tức là nói đến sự cao cả của tâm hồn. Đẹp
tức là một cái gì cao cả. Đã nói đẹp là nói cao cả. Có khi nhà văn miêu tả một cái nhìn rất
xấu, một tội ác, một tên giết người nhưng cách nhìn cách miêu tả phải cao cả.” Còn Sê
khốp thì cho rằng: “Thanh nam châm thu hút mọi thế hệ vẫn là cái cao thượng, cái đẹp cái
nhân đạo của lòng”
Đọc Nam Cao, ta lại hình dung đến không khí ngột ngạt của những năm 1930– 1945
với những con người từng bước chông chênh trên con đường đi tìm nhân cách. Chí Phèo
đắm mình trong một chuỗi cơn say triền miên để phút cuối cùng tự đốt cháy mình lên với
những câu hỏi nhức nhồi “Ai cho ta lương thiện?”, một anh Hộ luôn đề cao nguyên tắc tình

thương nhưng lại khốn khổ vì cuộc sống chật hẹp với một vòng tròn cơm-áo-gạo-tiền khắc
nghiệt. Mỗi tác phẩm văn học là một lát cắt của đời sống phản ánh một nội dung rất cụ thể,
một số phận rất rõ nét buộc người đọc phải suy ngẫm, băn khoăn. Vô số những lát cắt của
rất nhiều thời đại ấy cuối cùng đều hướng tới một mục tiêu tốt đẹp, dẫn dắt con người đi đến
cõi hoàn thiện. Có vươn tới mục tiêu đó, tác phẩm văn học mới thật sự là tác phẩm chân
chính và tồn tại vượt qua sức công phá mãnh liệt của thời gian.
Một tác phẩm có giá trị thẩm mỹ là kết quả cao của sự hòa quyện nhuần nhuyễn ba yếu
tố cơ bản: phản ánh chân thực cuộc sống xã hội, độc đáo, đặc sắc trong sáng tạo nghệ thuật
cộng với tình cảm nhân đạo và ý thức xã hội tiên tiến. Nhu cầu hướng tới cái đẹp của con


17

người luôn luôn mang tính khẳng định: con người cần phải đẹp cả khuôn mặt, quần áo và
cả tư tưởng (Sêkhốp), toàn bộ các quan hệ xã hội với những hoạt động cụ thể của chúng
cũng cần phải “theo quy luật của cái đẹp” (Mac). Vì vậy, cái đẹp có quyền tuyệt đối tồn tại
và phát triển. Lê-nin đã nói: “nếu tách rời, cô lập cái mới, cái đẹp ra khỏi mối liên hệ môi
trường khách quan thì chúng chỉ là một cái xác không hồn thậm chí một quà tặng vô duyên
với công chúng”.Có thể nói “cái đẹp xã hội” vô cùng quan trọng bởi vì cái đẹp xã hội chính
là sự trình bày trực tiếp của bản chất cái đẹp. Sự căm phẫn xót xa thể hiện qua việc diễn tả
một cuộc đời ngang trái.
Hay như lời phát biểu của nhà văn Nguyễn Minh Châu “Văn học và đời sống là hai
vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người. Mỗi tác phẩm văn học chỉ là một lát cắt, một
tờ biên bản của một chặng đời sống con người ta, trên con đường dài dằng dặc đi đến cõi
hoàn thiện”. Bao giờ cũng thế, văn học – cuộc sống – con người là những yếu tố không thể
tách rời nhau để tồn tại riêng biệt. Dường như có một sợi dây vô hình buộc chặt văn học và
cuộc sống, tạo nên mối quan hệ vô cùng mật thiết và sâu sắc như lời phát biểu của nhà văn
Nguyễn Minh Châu. Văn học bao giờ cũng gắn liền với cuộc sống – con người để có sức
sống trụ lại với thời gian, để thực hiện chức năng cao cả không một bộ môn khoa học nào
thay thế được, hướng con người đến cái tận thiện- tận mỹ, gột rửa bớt những xấu xa của

cuộc đời phức tạp, góp phần “thanh lọc” tâm hồn và lương tâm con người để cuộc sống tốt
đẹp hơn. Văn học – cuộc sống mãi mãi không thể tách rời nhau và cả hai đều xuất phát, đều
hướng về tâm điểm duy nhất: Con người. Văn học là chiếc gương phản ánh và chiêm
nghiệm về đời sống nên văn học cũng lấy con người làm tâm điểm trên những trang thơ,
trên những dòng truyện ngắn hay trang tiểu thuyết đồ sộ. Trong nghệ thuật, cái chân (cái
thật) là cái có trước tuyệt đối, là cái không chịu phụ thuộc bất cứ cái gì có trước nó. Cái tốt
(cái thiện) là cái cần phải có, so với cái hiện có, gắn với lí tưởng của nhà văn. Cái thẩm mĩ
là cái dùng để tạo hình thức cho thế giới nghệ thuật.
Bất cứ nhà văn chân chính nào cũng đặt ra cho mình một lý tưởng thẩm mỹ, một quan
niệm nghệ thuật để từ đó phấn đấu vươn theo nó. Nguyễn Tuân là nhà văn suốt đời đi tìm
cái đẹp, thậm chí trước Cách mạng tháng Tám, ông đã coi cái đẹp như là tôn giáo của mình
và “Nghệ Thuật” là hai chữ viết hoa. Ông lúc nào cũng muốn lăn cả cái vỏ của mình trên


18

trái đất, thêm những cảm giác mạnh, thèm được đi nhiều để thay đổi thực đơn cho giác
quan. Có khi ông tự nhận mình là lữ khách lang thang đi tìm cái đẹp cho cuộc đời. Cái đẹp
tựa hơi thở, tựa nguồn sống trong các sáng tác của Nguyễn Tuân. Cái đẹp trong văn chương
của Nguyễn Tuân không chỉ cho người đọc giá trị trông nhìn và thưởng thức mà còn giúp
con người trân trọng và nâng niu nó. Với Nguyễn Tuân quan niệm nghệ thuật của ông đồng
nghĩa với quan niệm cái đẹp. Ông là người đi theo quan niệm “nghệ thuật vị nghệ thuật”.
Nguyễn Tuân quan niệm “viết văn không khuynh hướng” khát vọng lớn lao theo đuổi suốt
cuộc đời ông chính là hướng tới cái đẹp, cái đẹp duy nhất.. Chữ người tử tù, mà trực tiếp là
cảnh cho chữ trong nhà ngục, là sự thể hiện một cách đầy đủ quan điểm mĩ học của ông.
Trong tác phẩm Chữ người tử tù, truyện được dựng nên từ một tình huống vô cũng gay cấn
về thời gian và không gian. Về thời gian, người tử tù chỉ còn sống duy nhất qua một đêm vì
sáng sớm hôm sau sẽ bị đưa đi xử tử. Thời gian cuối cùng của một đời người trong tình cảnh
bi hùng ấy đã đẩy đến đỉnh điểm mọi sự lựa chọn và quyết định khi người tử tù lại được
người cai ngục hạ mình tận cùng cầu xin ban cho “Chữ”. Tất cả sự việc đó được diễn ra

trong không gian tăm tối của ngục tù. Đây cũng là lúc nét đẹp tâm hồn trú ngụ thầm kín
trong cái vỏ của quan cai ngục được bộc lộ. Cũng là lúc người tử tù nhận ra tên cai ngục
những tưởng xâu xa, đáng ghét kia lại trở nên đáng trân trọng như vậy. Người tử tù không
còn thời gian sống, không còn thời gian cống hiến cho đời nhiều nữa ngoài mấy tiếng đồng
hồ đang bị thần chết đợi chờ từng giây từng phút đã trở thành người ban phát cái đẹp cho
đời. Cái đẹp của ông được trân trọng đến tận cùng cuộc đời và người cai ngục trở thành kẻ
lưu giữ cái đẹp đó cho đời. Cảnh Huấn Cao cho chữ viên cai ngục có thể coi là cuộc nổi
lọan của cái đẹp. Đó là vẻ đẹp đầy uy lực của nhân cách và tài hoa:
Cái đẹp không vụ lợi: “Ông Huấn Cao nổi tiếng viết chữ đẹp nhưng không vì quyền
thế mà ép mình viết câu đối bao giờ và cả đời mới viết hai bộ tứ bình và một bức trung
đường cho ba người bạn thân”. Nhưng lần này, ông viết cho người quản ngục, trong nhà
ngục và trước chỉ vài giờ là lên đường vào kinh chịu tử hình.
Cái đẹp không bị khuất phục trước uy quyền: Chữ viết của Huấn Cao là cái đẹp và
ông- người sáng tạo ra nó, cũng có thể gọi là hiện thân của cái đẹp. Khi nhận lời cho chữ


19

người quản ngục, Huấn Cao không nghĩ là cho một người đang nắm giữ vận mạng của mình
mà cho một người có những sở thích cao quý, một tấm lòng trong thiên hạ.
Cái đẹp vượt lên trên sự thấp hèn, dung tục: Hoàn cảnh Huấn Cao cho chữ là hoàn
cảnh dung tục, bất nhân. Về không gian là một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng
nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián, trong không khí khói tỏa như đám cháy nhà…. Về
thời gian là lúc đêm khuya, chỉ còn vẳng tiếng mõ trên vọng canh. Người sáng tạo cái đẹp
lại là tù nhân, trong tư thế cổ đeo gông, chân vướng xiềng. Người nhận chữ (thầy quản ngục
và viên thơ lại), thái độ của hai đều rất thành kính và thiêng liêng: viên quản ngục khúm
núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa óng; thầy thơ lại gầy gò
run run bưng chậu mực. Tất cả những đồ dùng của Huấn Cao trong việc cho chữ dường như
trinh nguyên: tấm lụa bạch còn nguyên lần hồ; tấm lụa trắng tinh; phiến lụa óng; mùi mực
bốc lên thơm quá… Ông Huấn Cao chăm chú trên tấm lụa bạch; dậm tô từng nét chữ,

“những nét chữ vuông tươi tắn nó nói lên những cái hoài bão tung hoành của một đời con
người”. Khi viết xong, ông thở dài, buồn bã không vì thán phận mình mà vì người biết được
giá trị của cái đẹp như thầy Quản mà phải làm cái nghề này và phải ở một nơi khó giữ thiên
lương cho lành vững và rồi đến nhem nhuốc mất cả đời lương thiện đi. Điều đó chứng tỏ cái
đẹp có thể sinh thành nơi không đẹp nhưng không thể tồn tại nơi ấy.
Cái đẹp có sức cải hóa con người: Viên quản ngục là chức quan cao nhất nơi ông Huấn
Cao bị giam giữ. Trước cảnh cho chữ, ông ta quý Huấn Cao ở cái tài (lần gặp đầu tiên, bị
Huấn Cao đuối khéo, ông chỉ lễ phép lui ra với một câu: Xin lĩnh ý). Khi Huấn Cao cho chữ,
thầy quản khúm núm (thái độ với cái đẹp). Nhưng sau khi Huấn Cao khuyên bảo, thái độ và
tình cảm của quản ngục càng khác trước: Ngục quan cảm động, vái người tù một cái, chắp
tay nói một cái mà nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào: “Kẻ ngu muội này xin bái
lĩnh”. Đó là sự thay đổi không chỉ về tư tưởng (Kẻ ngu muội này xin bái lĩnh) mà còn là tình
cảm (chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào).
“Chữ người tử tù” thể hiện niềm tin mãnh liệt của Nguyễn Tuân về sự bất diệt của cái
đẹp, rằng “Cái đẹp không bao giờ chết”. Dù thực tại tăm tối, tàn bạo đến đâu cũng không
thể tiêu diệt được cái đẹp. Cái đẹp là bất khả chiến bại. Đó chính là giá trị nhân văn rất sáng


20

giá của Nguyễn Tuân trong “Chữ người tử tù”. Ta chợt nhớ tới câu danh ngôn bất hủ
của Dostoyevski: "Cái đẹp sẽ cứu vớt con người”. Cái đẹp và cái thiện xuất hiện đan xen và
tô nét thêm cho cảnh cho chữ thêm đặc sắc và là cảnh “xưa nay chưa từng có”.
Còn trong tác phẩm Chí Phèo, ở đoạn cuối của tác phẩm (Chí Phèo say rượu rồi gặp
thị Nở…) Chí Phèo đã có ý thức vươn lên khao khát được làm người lương thiện. Động lực
thúc đẩy là tình thương của thị Nở và bát cháo hành của thị. Nếu như trước đây, Chí chỉ biết
uống rượu, chửi bới, dọa nạt, cướp giật, nằm vạ… thì giờ đây khi được ăn bát cháo hành của
thị Nở, “hắn thấy lòng thành trẻ con. Hắn muốn làm nũng với thị như với mẹ. Ổi sao mà
hắn hiền…” Bát cháo có gì đâu, một chút cháo, vài cọng hành và ba hạt muối mà hiệu quả
thật không ngờ, bát cháo hành quả là liều thuốc giải độc. Nó vừa giúp Chí Phèo thoát ra

khỏi cơn ốm sau khi say rượu vừa khơi dậy bản chất ý thức con người ở Chí. Phải chăng bát
cháo hành đơn sơ chân quê đó đã được nấu bằng tất cả tấm lòng yêu thương chân thật của
thị Nở? Đúng vậy, "bát cháo hành" là tượng trưng cho tình cảm của thị Nở với Chí Phèo,
một tình cảm dịu dảng, giản dị nhưng đong đầy ân tình, nhân nghĩa…Khi nhận được bát
cháo hành, Chí rất ngạc nhiên. “Hết ngạc nhiên thì hắn thấy mắt mình ươn ướt". Và Chí
phèo đã khóc, dòng nước mắt xúc động, nghẹn ngào. Hắn đã khóc vì hắn cảm nhận được vị
ngon của cháo: "Trời ơi! Cháo mới thơm làm sao… những người suốt đời không ăn cháo
hành không biết rằng cháo ăn rất ngon… Nhưng tại sao mãi đến bây giờ hắn mới nếm vị
mùi cháo". Hắn tự hỏi rồi lại tự trả lời… “Đời hắn chưa bao giờ được săn sóc bởi một tay
đàn bà”. Hắn cảm động vì "lần thứ nhất hắn được một người đàn bà cho. Xưa nay nào hắn
có thấy tự nhiên ai cho cái gì”. Hắn đã nhìn bát cháo bốc khói mà "bâng khuâng, vừa vui
vừa buồn và một, cái gì nữa giông như là ăn năn”. Tự bao giờ những tình cảm con người
đã thức dậy trong tâm can "con vật lạ, con quỷ dữ" của làng Vũ Đại ấy. Bên cạnh Chí, thị
Nở múc cháo "nhìn trộm hắn rồi lại cười toe toét. Trông thị thế mà có duyên…". Lần đầu
tiên, Chí đã biết đến cái duyên của một con người. Rồi hắn nhớ lại khi xưa, nghĩ về quá khứ
của mình khi phải “săn sóc” cho bà Ba, phải làm những việc xấu xa, hắn đã thấy nhục hơn là
thích, rồi hắn thấy sợ. Xưa kia, cũng như bây giờ, hắn thật trong sáng, lương thiện. "Vì vậy
bát cháo hành của thị Nở làm hắn suy nghĩ nhiều. Hắn có thể tìm bạn được, sao lại chỉ gây
thù?" Thật kì diệu, những sự chăm sóc giản dị đầy ân tình và tình yêu thương mộc mạc chân


21

thành của thị Nở đã đánh thức dậy bản chất lương thiện của người nông dân lao động trong
hắn. Đây là một đoạn văn tuyệt bút, đầy chất thơ. Cuộc gặp gỡ thị Nở đã lóe sáng như một
tia chớp trong cuộc đời tăm tối của Chí Phèo. Tình yêu thương đã thức tỉnh Chí và linh hồn
của Chí lâu nay phải bán cho quỷ dữ để đổi lấy miếng cơm, mạnh áo thì nay đã trở về với
bát cháo hành và tình thương của thị Nở là một liều thuốc quý không gì sánh được mà nhà
văn đã ban cho Chí Phèo bằng tấm lòng nhân đạo của mình.
Cái đẹp và cái thiện xuất hiện cùng lúc trong cùng một hình ảnh rất đơn giản đó là bát

cháo hành. Nam Cao đã khéo léo đưa chi tiết rất nhỏ nhưng vô cùng sâu sắc để nói lên cái
đẹp và cái thiện giữa con người với con người, cái đẹp thể hiện qua hành động đơn giản và
tình cảm mà Thị Nở dành cho Chí phèo.
Cái đẹp còn thể hiện qua giá trị nhân đạo mà tác phẩm mang lại. Giá trị nhân đạo của
tác phẩm được thể hiện chủ yếu qua cái nhìn đầy trìu mến, yêu thương của nhà văn đối với
nhân vật của mình.
Truyện Kiều là một kiệt tác văn học. Nguyễn Du đã dồn hết tâm huyết của mình vào
hình tượng Thúy Kiều - người con gái bất hạnh, dù bị hoàn cảnh xô đẩy, dập vùi nhưng vẫn
ngời sáng một tâm hồn trong trẻo luôn hướng về mái ấm gia đình, về hạnh phúc lứa đôi và
một ý thức rõ ràng về trách nhiệm làm người... Dường như trong tác phẩm bất hủ này,
Nguyễn Du tạo tác nhân vật nàng Kiều trên nền bi kịch cuộc đời của chính ông. Nàng Kiều
ý thức rất rõ về nhân phẩm nhưng lại bị xã hội hủ bại chà đạp về nhân phẩm và đó chính là
bi kịch lớn nhất. Mỗi câu chữ trong Truyện Kiều đều thấm đẫm tình cảm của tác giả với số
phận người phụ nữ trong một xã hội hủ bại, xã hội mà đồng tiền là quyền lực. Nguyễn Du
đau với nỗi đau của nàng Kiều nhưng cũng gửi vào đó những khát khao mãnh liệt vượt qua
sự trói buộc của thời cuộc. Qua tác phẩm của mình, ông đã chạm đến những vấn đề nhân
văn, nhân bản nhất. Tình yêu, tình dục, khát vọng hạnh phúc cũng được ông đề cập như một
vấn đề rất nhân bản của con người. Và những câu thơ của ông đều toát lên vẻ đẹp kỳ diệu
của tình yêu đôi lứa, của người phụ nữ...
Những chàng trai cô gái Mèo trong tác phẩm của Tô Hoài là những người rất đẹp. Tuy
nghèo khổ nhưng họ là những người đẹp người đẹp nết, dũng cảm, yêu đời, yêu lao động,


22

khỏe mạnh. Có thể dễ thấy điều này qua những từ ngữ đầy ưu ái ông dành cho Mị và A Phủ
: “Mị thổi sáo giỏi”, “Có biết bao người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị hết núi này sang
núi khác”, “Trai đến đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị”, còn A Phủ là chàng trai được
nhiều người con gái ao ước : “A Phủ khỏe , chạy nhanh như ngựa…”, “ biết đúc lưỡi cày ,
biết đục cuốc, lại cày giỏi và đi săn bò tót rất bạo”. Không dừng lại ở những đặc điểm bên

ngoài , nhà văn tìm thấy ở họ những phẩm chất tốt đẹp . Mị thà phải lao động vất vả hơn
làm con dâu nhà giàu, A Phủ dám đánh lại con nhà giàu để bênh vực cho lẽ phải, không hề
khóc lóc van xin khi bị cha con thống lí đánh đập tàn nhẫn. Bên ngoài cái xác không hồn
của Mị, Tô Hoài nhận thấy tiềm tàng một sự phản kháng, một sức mạnh kì diệu, một ngọn
lửa tự do vẫn còn âm ỉ. Và hơn thế nữa sự yêu thương cưu mang lẫn nhau giữa những người
cùng khổ. Mị đã cứu A Phủ và cả hai đã cùng chạy trốn , cùng nương tựa nhau mà sống: “A
Phủ nói : “Đi với tôi”. “Và hai người lẳng lặng đỡ nhau lao chạy xuống núi”. Sức mạnh ở
những con người ấy, nếu biết giác ngộ, biết tổ chức lại thì nó sẽ tạo nên sức mạnh diệu kì
làm kẻ thù khiếp sợ. Hiểu được điều này, Tô Hoài đã đặt trọn niềm tin vào khả năng cách
mạng của Mị và A Phủ.
Trong nền văn hóa phương đông, ta còn nhận thấy sự nhuốm màu tôn giáo trong cảm
quan thẫm mỹ, đặc biệt là những tôn giáo lớn như Phật giáo, Hồi giáo và những tôn giáotriết lý cũ như Nho giáo, Đạo giáo. Đối với Đạo giáo cái đẹp là những cái tự nhiên nó có, tự
nhiên nó tồn tại, không có sự tác động của con người, như đá, núi, cỏ cây, thiên nhiên, và
con người đẹp là con người sống hòa hợp với thiên nhiên; quan niệm của Nho giáo cũng
tương tự song con người tốt, đẹp còn phải gắn với lòng trung tín với quân vương, còn với
Phật giáo toàn thể chúng sinh đều tốt đẹp, Phật đề cao lòng nhân nghĩa, từ bi nơi con người.
Ở nước Trung Hoa rộng lớn, màu sắc tôn giáo ảnh hưởng sâu rộng đến những tác phẩm văn
học như Kinh thi, Tam quốc diễn nghĩa... là những tác phẩm chịu ảnh hưởng bởi Nho giáo,
những tác phẩm thơ ca Phật giáo có những bài tụng, kệ... Ở Việt Nam, những quan niệm
trong tôn giáo, tín ngưỡng ăn sâu vào người Việt, nên từ văn học dân gian đến văn học
thành văn sau này, ý thức thẫm mỹ đều có phần nào đó chịu sự chi phối của tôn giáo, tín
ngưỡng và văn hóa nông nghiệp lúa nước lâu đời. Từ truyền thuyết, thần thoại, sử thi ta
nhận thấy được nét văn hóa nông nghiệp và tín ngưỡng thờ thần tự nhiên trong văn học Việt


23

Nam, truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ với hình tượng nhân vật cha Rồng, mẹ Tiên
sinh ra dân tộc Việt, sự nhìn nhận cái đẹp của dân gian lúc này là hình tượng của sức mạnh
thiên nhiên, người con trai thì khỏe mạnh, phi thường, người con gái như cỏ cây mềm mại

nhưng cũng thần thông, cái đẹp được hình tượng hóa thành những cái thuộc về tự nhiên,
những cái mà con người chưa giải thích được. Trong sử thi Đăm Săn, hình ảnh người anh
hùng dũng cảm, vạm vỡ đi tìm thần Mặt Trời là hình tượng đẹp, hướng đến cái tốt, ở đây
cũng theo tín ngưỡng dân gian thờ thần tự nhiên nên hình ảnh Đăm Săn cũng như tự nhiên
siêu phàm, phi thường. Gần hơn là trong truyện cổ tích, truyện cổ tích là mô tuýp đẹp hóa,
thiện hóa, và cái đẹp, cái thiện luôn thắng, trong truyện cổ tích cũng có những hình tượng
của tiên, bụt, thần thánh đây là những biểu tượng của tự nhiên, còn các nhân vật là những
người hiền lành, tốt đẹp và đến cuối cùng họ có được những kết thúc tốt đẹp cho câu chuyện
của chính mình "ở hiền gặp lành" và cái đẹp ở truyện cổ tích lúc này đây không chỉ dừng
lại ở bề nổi mà còn đi sâu vào sự đề cao sự ước mơ, vươn lên của con người, nuôi dưỡng
tâm hồn, giáo dục con người(dù sự giải quyết lúc này chưa rõ ràng chủ yếu dựa vào những
yếu tố thần kỳ). Lấy ví dụ ở truyện Thạch Sanh, nhân vật Thạch Sanh là nhân vật điển hình
biểu thị cho sức mạnh, cho khát vọng công lý của nhân dân lao động, là hình tượng của sự
vươn lên, ước mơ có được một cuộc sống tốt đẹp hơn của nhân dân trong xã hội bấy giờ, cái
đẹp và cái thiện hiện hữu lúc này đây ngoài chịu sự chi phối cái đẹp trong tôn giáo, văn hóa
tín ngưỡng còn chịu sự chi phối của thể chế xã hội, thể chế xã hội manh nha chuyển sang tư
hữu với nhiều điều bất công hơn trước đã hướng con người đến quan niệm cái đẹp, thiện
phải gắn với sự công bằng.
Tuy nhiên, ý thức thẩm mỹ mang màu sắc văn hóa phương Tây lại có những nét khác
biệt so với phương Đông. Phương Tây với văn hóa du mục, lấy trí tuệ và sức mạnh làm
trọng, với tôn giáo chính là Kitô giáo cũng ảnh hưởng đến cảm quan thẫm mỹ của con người
thể hiện trong các tác phẩm văn học. So sánh giữa những truyện cổ tích Việt Nam với
truyện cổ tích phương Tây ta cũng nhận thấy sự thần kỳ hóa, sự thần thánh hóa thông qua
hình ảnh bụt, tiên với phép thuật giải cứu con người, đây chính là biểu tượng của cái luôn
thiện, luôn tốt đẹp trong nhận thức của con người. Song ở văn hóa phương Tây lại tồn tại
tiên xấu. Đó chính là biểu tượng thực tại của xã hội hiện thực, khi sự thống trị của giai cấp


24


cầm quyền có chế độ hà khắc, tuy nhiên cái tốt, đẹp vẫn được đề cao biểu hiện qua hình ảnh
nhân vật mồ côi, xấu xí... có kết thúc tốt đẹp. Trong Cinderella, cô bé lọ lem Cinderella đến
cuối cùng vẫn có được hạnh phúc với hoàng tử, cái đẹp được đề cao ở đây không còn là cái
đẹp của hình thức mà là cái đẹp của tâm hồn, khi con người hướng đến những tư tưởng tốt
đẹp thì tự nhiên chúng ta cũng trở nên đẹp đẽ, mô tuýp này gần với truyện cổ tích phương
Đông.
Nhận thức về cái đẹp, cái thiện còn chịu sự chi phối của thời gian lịch sử, trong những
giai đoạn lịch sử khác nhau thì cái đẹp cũng được con người hiểu theo những quan niệm
khác nhau, cái đẹp trong văn học qua thời gian cũng có những sự biến đổi. Bước sang chế
độ có tư hữu, có nhà nước phong kiến việc nhận thức cái đẹp cũng thay đổi. Phụ nữ đẹp
tuyệt mỹ ở phương Đông là như Thúy Vân, Thúy Kiều “mười phân vẹn mười”, hoặc như
Tây Thi, Dương Quý Phi…“nghiêng nước nghiêng thành”. Nam nhi đại trượng phu phải
như Từ Hải "vai năm tấc rộng thân mười thước cao", nhưng phụ nữ trong triều đại phong
kiến do ảnh hưởng của Nho giáo nên chỉ được xem trọng, đề cao cái đẹp hình thức còn phủ
định phần lớn cái đẹp của trí tuệ.
Trong khi đó ở các nước phương Tây, đặc biệt là châu Âu, họ đang có những bước
chuyển mình lớn trong xã hội cũng như trong nhận thức. Họ bước vào “đêm trường trung
cổ” khiến cho những giá trị văn minh trong đó có giá trị thẫm mỹ hầu như bị hủy diệt hoàn
toàn, xã hội châu Âu bước vào thời kỳ đen tối, ánh sáng của văn minh mờ dần, con người bị
che đi dưới sự thống trị của tôn giáo (Kitô giáo), những cái đẹp lúc này được nhận thức luôn
gắn với giáo điều, giáo lý tôn giáo, đó là sự thần thánh hóa cực độ, có thể nói đến vô tưởng.
Trong Đồi gió hú của Emili Bronte, bối cảnh lịch sử là đầu thế kỉ XIX, nhân vật
Heathciff – một anh chàng thô kệch, điên rồ, được nhặt về nuôi bởi một ông chủ đồn điền ở
Yorksine đem lòng yêu cô tiểu thư – con gái ông chủ mình, một cô gái xinh đẹp, có địa vị xã
hội, học thức và lễ giáo. Tình yêu của họ là mãnh liệt đến ám ảnh, dữ dội đến hủy diệt mà
cái chết mới là cái bắt đầu. Ở đây ta nhận thấy rằng cái đẹp đã chuyển đổi, từ nhận thức các
quý cô châu Âu an phận đến sự bùng nổ của con người, phần tính người trong mỗi người.
Emilli Bronte đề cao những cái thuộc về bản tính con người ở nhân vật mình đó là khát



25

khao, là dục vọng, là tình yêu điên cuồng, hay có thể nói rằng đó là cái đẹp “nguyên thủy”.
Sự nhận thức cái đẹp lúc này vượt qua cái lễ giáo tôn giáo cũ còn tồn tại trong xã hội châu
Âu lúc này, mà nó nhường hết chỗ cho tình yêu con người. Cô tiểu thư Earnshaw là điển
hình của “cái đẹp quý cô” song đã có sự vượt lên để đi tìm những cái thuộc về mình khi đem
lòng yêu Heathciff, sự chung thủy – vốn dĩ là nét đẹp được đề cao trong tình yêu lúc này
được nhận thức khác không còn là sự trung thành nhất nhất với tình yêu cả thể xác và tâm
hồn mà chỉ còn là sự tồn tại của tình yêu từ đầu đến cuối, đến lúc chết tình yêu ấy vẫn ám
ảnh họ đưa họ đi tìm nhau. Nhận thức cái đẹp lúc này đây là những gì thuộc về thiên nhiên,
tự do – nơi đồng truông gió gào thét đến kinh hãi nhưng vẫn tồn tại tình yêu, Heathciff bị
xem là ngu dốt, thô kệch như đá tảng nhưng vẫn có nàng hoa Catherine Earnshaw quấn quýt
thủy chung, cái đẹp, cái thiện lúc này đây là tình yêu, là cái nhân văn mà nhà văn đưa vào
tác phẩm chứ không còn là cái hình thức bề ngoài.
Trong Cuốn theo chiều gió của Margaret Mitchell , bối cảnh lịch sử của xã hội giao
thời, nội chiến và tái chiến thường nhật, cái đẹp hiện lên ở đây thong qua tình yêu của
Scarlett O’Hara và Rhett Butler, vẻ đẹp của Scarlett là cái đẹp hình thức đến tuyệt vời,
nhưng không theo cái đẹp truyền thống, “Scarlett là một cô gái quyến rũ, tuy nàng không
đẹp thật sự như những người đẹp miền Nam truyền thống, nhưng lại có một sức thu hút lạ
thường. Nàng có một thân hình hoàn hảo, vẻ thuỳ mị của người mẹ và nét cuồng nhiệt của
người cha, và đặc biệt là đôi mắt xanh biếc lóng lánh lạ kì khiến cho người chỉ gặp một lần
cũng có thể nhớ mãi.Khuôn mặt nàng là một sự kết hợp hài hoà giữa những đường nét kiều
diễm của mẹ, người quý tộc miền duyên hải thuộc dòng dõi Pháp, và những góc cạnh thô
kệch của người cha Ái Nhĩ Lan, da dẻ hồng hào. Tuy thế, đó là khuôn mặt ưa nhìn với cằm
thon, hàm nở rộng. Đôi mắt xanh biếc của nàng được viền bởi những hàng nở rộng. Đôi
mắt xanh biếc của nàng được viền bởi những hàng mi dài rậm uốn cong vút. Bên trên đôi
mắt đó là hai vệt mày chênh chếch vạch thành hai đường nghiêng đậm nét trên làn da trắng
trong của hoa mộc lan- màu da mà phụ nữ miền Nam vô cùng quý trọng và cẩn thận giữ gìn
bằng những chiếc nón rộng vành, mạng che mặt và bao tay để chống lại ánh nắng gay gắt
của xứ Georgia." Nhưng không dừng lại ở cái đẹp ngoại hình, ở Scarlett có cái đẹp của sự

đổi mới trong tính cách, có sự kiên cường và vươn lên mà một người phụ nữ truyền thống


×