Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

bài thuyết minh các điểm du lịch chùa vĩnh tràng, trại rắn đồng tâm, tuyến trình cầu mỹ tho, mỹ thuận, cần thơ, đình cổ, nhà cổ bình thủy, bảo tàng cần thơ, chợ nổi cái răng, cồn phụng bến tre, cồn thới sơn,

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (119.23 KB, 21 trang )

1

CHÙA VĨNH TRÀNG

Chùa Vĩnh Tràng là một ngôi chùa ở ấp Mỹ An, xã Mỹ Phong, thành phố
Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang, Việt Nam. Đây là một ngôi chùa nổi tiếng ở Nam Bộ,
được xếp hạng di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia, và là một điểm hành hương
và du lịch nổi tiếng.
Đầu thế kỷ 19, chùa được ông bà Bùi Công Đạt bắt đầu xây dựng. Năm
1849, Hòa thượng Thích Huệ Đăng ở chùa Giác Lâm (Gia Định) về trụ trì đã tổ
chức xây dựng thành ngôi đại tự và đặt tên là chùa Vĩnh Trường với ngụ ý ước cho
chùa được "Vĩnh cửu đối sơn hà, trường tồn tề thiên địa". Người dân vùng lân cận
đến nay vẫn quen gọi là chùa Vĩnh Tràng.
Năm 1907, Hòa thượng Chánh Hậu đã cho trùng kiến ngôi chùa, pha hòa cả
nét kiến trúc Á - Âu.
Kiến trúc
Chính điện được bài trí trang nghiêm. Chùa còn bảo tồn nhiều tượng cổ, bao
lam chạm trổ công phu. Bộ Thập bát La hán thượng kỳ thú là những tác phẩm
tượng tròn độc đáo được các nghệ nhân Nam Bộ tạc vào những năm đầu thế kỷ
20.Chùa được xây cất do công trình kiến trúc của nhiều người, trong nhiều năm, là
một chùa lớn, được kiến trúc khá tinh vi, đa dạng theo lối kiến trúc tổng hợp Á Âu (Pháp, La Mã, Thái, Miên, Chàm). Tuy nhiên, chùa vẫn mang đậm nét lối kiến
trúc điêu khắc truyền thống Việt Nam.
Chùa Vĩnh Tràng được kiến trúc theo dạng chữ Quốc, gồm 4 gian nối tiếp
nhau (tiền đường, chánh điện, nhà tổ và nhà hậu) rộng 14.000 m², dài 70 m, rộng
20 m, xây bằng xi măng và gỗ quý, nền đúc cao 1 m, xung quanh xây tường vững
chắc.
Phía trong gian chính điện và nhà tổ làm theo kiểu Trung Quốc nhưng vẫn
giữ được nét kiến trúc Việt Nam, nối hai gian này là một khoảng nhỏ có hòn non
bộ ở giữa, hòn non bộ này phác họa lại cảnh thiên nhiên sinh động mang bản sắc



Việt Nam, điều đó chứng tỏ rằng tổ tiên ta nhễ muốn đưa thiên nhiên vào tận nhà.
Đúng trên hòn non bộ nhìn về mặt sau gian chánh điện, hai bên nhà cầu, mặt trước
nhà tổ, ta sẽ thấy lối kiến trúc Rôma với những hàng đá hoa màu sắc sặc sỡ của
Phápđược trang trí trên thành nóc, trên những cột xây bằng xi măng kiểu cách.Đi
vào từng gian ta sẽ thấy một màu vàng óng ánh được thếp rên các hình chạm, trên
các tượng phật. Đáng chú ý hơn cả là những đôi long trụ trong gian chính điện, đó
là những cây cột tròn to, bằng gỗ quý kiến trúc theo kiểu "thượng thu hạ cách".
Trước chùa có 2 cổng Tam quan kiểu võ rất tinh xảo, xây theo kiểu cổ lầu để
hình hòa thượng Lê Ngọc Xuyên đúng trên bậc đúc bằng xi măng, cửa ngõ này cẩn
toàn bằng đồ sứ có giá trị (sứ Trung Hoa, Việt Nam) in hình long, lân, quy,
phượng. Canh, mục, ngư tiều, mấy câu đối cũng cẩn bằng miếng chai nổi màu sắc
óng ánh trông rất đẹp.
Tóm lại, bằng những vất liệu gỗ, những nhà kiến trúc, nhà điêu khắc cuối thế
kỷ XIX, đầu thế kỷ XX đã chạm khắc những hình tượng mang màu sắc tôn giáo
huyền ảo, thoáng đượm vẻ vương quyền, qua đó ta thấy được những công trình
điêu khắc của người xưa - qua những hình tượng sống động ấy ta thấy rõ cuộc sống
vui tươi và ý chí vươn lên của dân tộc Việt Nam - một dân tộc tự nhận mình là
dòng dõi con rồng cháu tiên thể hiện qua chạm khắc hình tượng tứ linh.
Chùa Vĩnh Trường được trang bị trên 60 tượng phật đúc bằng gỗ, đồng, đất
nung, xi măng, đa số tượng bằng gỗ, tất cả được thếp vàng óng ánh và được tạo
vào cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20. Riêng 3 tượng đồng (Di đà, cao 98 cm, Quan
Âm và Thế Chí cao 93 cm) được tạo tác giữa thế kỷ 19.
Bên cạnh những pho tượng, hiện vật còn lại trong chùa này phải kể dến là
Đại Hồng Chung mang tên Pháp Bảo Chuông cao 12 cm, nặng khoảng 150 kg
được đúc giữa tháng 5 năm 1854 trên đó khắc chữ "Vĩnh Trường Tự". Hiện nay
Pháp Bảo Chuông không sử dụng được, bị hỏng do nằm lâu dưới nước sau thời
gian thất lạc.


Ngoài ra trong chùa hiện nay còn hơn 20 bức tranh sơn thủy rất giá trị. Tuy

ảnh hưởng tranh vẽ Trung Quốc nhưng những bức vẽ này mang đậm nét dân gian
Việt Nam, in hình "Mai, lan, cúc, trúc" in hình phong cảnh Việt Nam rất nên thơ.
Đó là công trình của Long Giang cư sĩ phác họa năm 1904. Điều đáng chú ý là
những bức hoành, câu đối trong chùa được điêu khắc chữ nổi thếp vàng như những
chữ "Hoàng kim bửu điện" được khắc từ 1851 đến nay vẫn còn khá đẹp.
Từ trước tới nay, ngôi chùa vẫn được bảo quản tốt, bổn đạo khắp nơi vẫn
thường đến viếng, góp tiền của cho việc tu sửa chùa, các tu sĩ trong chùa vẫn chú
trọng công tác bảo vệ chùa. Gần đây, chùa đã xây dựng thêm một tượng Phật đừng
rất vĩ đại. Tượng màu trắng, diễn tả Phật đang đứng trông nom chúng sinh các cõi.
Tượng Phật được nhiều người địa phương cho là biểu tượng của ngôi chùa hiện
nay.
Những đời hòa thượng trụ trì
Chùa Vĩnh Trường được xây cất năm 1849, trước đó, chùa mới chỉ là một
cái am nhỏ, mái lá vách đất, quang cảnh hoang vu, do ông Bùi Công Đạt kiến tạo.
Năm 1849, Hòa thượng Huệ Đăng khởi tạo xây chùa, ngoài việc lo kinh kệ, Huệ
Đăng còn gánh đất đắp nền cùng với nhiều đạo hữu đến giúp. Năm 1864, HT Huệ
Đăng mất trong lúc công việc chưa hoàn tất. Do Sư không có đệ tử kế truyền nên
bổn đạo thỉnh ông Minh Đề làm trụ trì.
Năm 1878, Hòa thượng Minh Đề tịch hòa thượng Quản Ân thay thế được
một thời gian rồi đi du học ở Thái Lan. Bổn đạo thỉnh sư Minh Truyện về chủ trì
được một thời gian rồi cũng chuyển đi nơi khác. Vì chùa không có người chủ trì
nên phật tử trong bổn đạo họp nhau lại bàn bạc và nhất trí đến hội ý Hòa thượng
Tổ Từ Trung, Hoà thượng Trung (chùa Bửu Lâm, Mỹ Tho) đến thỉnh Hòa thượng
Trà Chánh Hậu (hiệu là Quảng Ân) về trụ trì, tiếp tục công việc của Hòa thượng
Huệ Đăng.


Năm 1907, Hòa thượng Trà Chánh Hậu bắt đầu trùng tu lại ngôi chùa, tầng 1
của gian chánh điện được xây cất. Hòa thượng Lê Ngọc Xuyên, pháp danh Tục
Thông, tự Tâm Liễu, pháp hiệu An Lạc là đệ tử kế thế của Hòa thượng Quảng Ân

lên thay. Đến năm 1930, Sư lo chỉnh trang nóc chùa và mặt dựng bốn phía chùa.
Cuối 1930, chùa được hoàn tất thêm 3 gian và tầng 2 của gian chánh điện.
Năm 1933, Sư cho xây 2 cổng Tam quan và xây rào xung quanh. Ngày 22 tháng
6 năm 1939, Hòa thượng Quảng Ân qua đời, thọ 67 tuổi.
Thượng tọa Thích Trí Long là đệ tử được Hòa thượng Lê Ngọc Xuyên di
chúc làm Trụ trì nhưng vì Thích Trí Long mới 19 tuổi nên thầy yết ma Tục Chơn tự
Tâm Giác, là anh ruột của hòa thượng Tục Thông thay quyền trụ trì và làm vị sư
bảo hộ. Ngày 25 tháng 3 năm 1954, thầy Yết ma Tục Chơn mất (thọ 94 tuổi),
Thượng tọa Thích Trí Long chính thức trụ trì cho đến ngày nay
Tọa lạc trên địa phận xã Mỹ Phong, TP Mỹ Tho, Tiền Giang, chùa Vĩnh
Tràng là một di tích kiến trúc nghệ thuật cổ, độc đáo của miền Tây Nam Bộ. Dân
gian nói rằng: Đến Tiền Giang, nếu đã tham quan hương vị sông nước miệt vườn ở
cù lao Thới Sơn, ngắm khu bảo tồn thiên nhiên ở trại rắn Đồng Tâm rồi… thì phải
thưởng thức vẻ đẹp kết hợp nét kiến trúc châu Âu lẫn châu Á của chùa Vĩnh Tràng
mới là trọn vẹn.

Theo tỉnh lộ 22 về hướng Đông Bắc TP Mỹ Tho chừng 5km, chùa Vĩnh Tràng
hiện ra uy nghiêm trong lạc cảnh thanh tịnh. Điều làm cho du khách ngạc nhiên
nhất khi đến đây là kiến trúc của ngôi chùa này. Kiểu kiến trúc ấy không giống như
những ngôi chùa truyền thống Việt Nam với mái uốn cong, với những trạm khắc
long phụng mà mang một nét rất riêng biệt. Mới nhìn chùa từ xa, du khách thấy
chùa có nét giống những ngôi đền của Cam-pu-chia, vừa lại giống một ngôi nhà cổ
của Pháp hoặc một lâu đài nào đó của I-ta-li-a…


Điểm thu hút ánh mắt du khách đầu tiên là vẻ đẹp rực rỡ của cổng Tam quan.
Khu cổng này do những nghệ nhân xứ Huế thực hiện vào năm 1933 theo kiểu cổ
lầu. Nét độc đáo của cổng thể hiện ở nghệ thuật ghép mảnh sành, mảnh sứ tạo nên
những bức tranh màu sắc hài hòa, kể về sự tích nhà Phật, những câu chuyện dân
gian, miêu tả tứ quý, tứ linh, hoa lá… Tất cả đều thể hiện sự sống động vui tươi.

Ngôi chùa được xây dựng theo dạng chữ “quốc” của Hán tự, gồm bốn gian nối tiếp
nhau: Tiền đường, chánh điện, nhà tổ và nhà hậu. Chánh điện được xây dựng theo
lối kiến trúc kết hợp á âu với những hàng cột thanh mảnh vòm cong, có bộ phù
điêu bát tiên cưỡi thú. Trên nóc chùa có 5 mái nhô cao, tượng trưng cho Ngũ hành
theo quan niệm phương Đông.

Chùa Vĩnh Tràng đang bảo tồn hơn 60 tượng Phật đúc bằng gỗ, đồng, đất
nung… được thếp vàng óng ánh và được tạc vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
Có giá trị nghệ thuật nhất là bộ tượng bằng gỗ 18 vị La Hán ở hai bên tường chánh
điện được tạc vào đầu thế kỷ XX, mỗi tượng cao khoảng 0, 8m. Bộ tượng này là
đỉnh cao của nghệ thuật tạc tượng tròn của khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.
Mỗi vị La Hán cưỡi trên lưng một con mãnh thỏ, tay cầm bửu bối, tượng trưng cho
các giác quan mà giáo lý nhà Phật gọi là “lục căn”. Khuôn viên chùa là những
vườn cây cảnh trồng nhiều loại hoa thơm cỏ lạ, những hồ nước thơm ngát hương
sen và những cây cổ thụ che trùm bóng mát, tạo nên sự hài hòa tuyệt vời giữa
khung cảnh thiên nhiên với không gian kiến trúc.
Nhân dân địa phương kể rằng, trước kia chùa vốn là một thảo am, do ông Tri
huyện Bùi Công Đạt thời vua Minh Mạng xây cất vào khoảng đầu thế kỷ XIX. Đến
năm 1849, Hòa thượng Thích Huệ Đăng trụ trì tổ chức xây dựng thành ngôi đại tự
và đặt tên là “Vĩnh Tràng”. Theo các chuyên gia văn hóa thì có thể xem chùa Vĩnh
Tràng là sự phản ánh lịch sử mỹ thuật của đất Tiền Giang nói riêng, Nam Bộ nói
chung. Hằng ngày, ngoài thiện nam tín nữ phật tử đến chiêm bái, còn có nhiều


khách du lịch đến tham quan chùa Vĩnh Tràng. Du khách đến đây, vừa tìm về chốn
tâm linh thanh bình, vừa chiêm ngưỡng vẻ đẹp của một di sản văn hóa quốc gia.
Nét độc đáo của cổng tam quan này thể hiện ở nghệ thuật ghép mảnh sành sứ có
giá trị (sứ Trung Hoa, Việt Nam) minh họa lịch sử nhà Phật, in hình long, lân, quy,
phượng, canh, mục, ngư, tiều, mấy câu đối cũng cẩn bằng miếng chai nổi màu sắc
óng ánh trông rất đẹp.

Tượng phật Di Lặc cao 20m, có chiều dài 27m, chiều rộng 18m, tổng trọng
lượng nặng 250 tấn, được tạo hình ở tư thế an tọa rất gần gũi cuộc sống với nụ cười
an nhiên và chiếc bụng to đặc trưng của ngài Di Lặc
Kiến trúc khá tinh vi, đa dạng theo lối kiến trúc tổng hợp Á – Âu (Pháp, La
Mã, Thái, Miên, Chàm).
Mặt tiền chùa Vĩnh Tràng lại mang một kiến trúc kết hợp giữa phương Đông
và phương Tây
Giữa không gian trống của phía sau chánh điện và nhà tổ còn có một hòn non
bộ phác họa cảnh núi non chùa tháp, thiên nhiên hữu tình mang đậm bản sắc Việt
Nam
2

TRẠI RẮN ĐỒNG TÂM

Nằm cách thành phố Mỹ Tho về phía Tây khoảng 9km, Trại rắn Đồng Tâm
(còn gọi là Trung tâm Nuôi trồng Nghiên cứu Chế biến Dược liệu Quân khu 9)
thuộc xã Bình Đức, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang là một trung tâm nuôi rắn
lớn nhất và chữa trị rắn cắn cho bà con khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Nơi
đây từ lâu đã trở thành một địa điểm tham quan hấp dẫn đối với du khách trong
nước và quốc tế.
Được thành lập ngày 27/10/1979 trên một vùng đất đầy mìn và dây kẽm gai
của Mỹ để lại, Trại rắn Đồng Tâm có nhiệm vụ nghiên cứu khoa học, nuôi trồng,
bảo tồn các loại rắn quý và cây con làm thuốc, chế biến thuốc y học dân tộc, cấp
cứu và điều trị rắn độc cắn cho cán bộ và nhân dân trong vùng. Trại rắn Đồng Tâm


đã trở thành một trung tâm khoa học và có nhiều cống hiến trong vấn đề trị bệnh
cho nhân dân nên được nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động năm
1989.
Hiện nay, tổng diện tích của Trại rắn Đồng Tâm lên đến 12ha gồm khu vực

nuôi các loài rắn quý như hổ mang chúa, hổ mang đất, rắn lục dồ, rắn hổ mèo...,
các khu trồng dược liệu, bệnh viện điều trị rắn cắn, phòng nghiên cứu, khu bảo tồn
động vật, bảo tàng rắn...
Rắn hổ mang chúa là loài rắn cực độc, ví như "vua" của các loài rắn, được
xếp bậc "E" trong sách đỏ Việt Nam.Rắn bò nhanh như mây gặp gió nên còn được
gọi là hổ mây.Rắn hổ mang chúa mỗi năm đẻ một lứa và mỗi lứa được một
con.Hiện nay, Trại rắn đồng Tâm có khoảng 200 con rắn hổ mang chúa bố mẹ và
nhiều con non từ 3 tháng tuổi đến một năm.
Rắn hổ mang đất là loài rắn độc, quý được nhà nước bảo vệ và xét bậc "T"
trong sách đỏ Việt Nam.Một gram nọc rắn này có thể giết chết 160 người có trọng
lượng trung bình 60kg.Rắn hổ mèo, loài rắn chủ yếu sống ở miền núi, miền trung
du cũng là loài rắn độc. Khi xem nên tránh xa vì chúng có thể phun nọc xa từ 1,4
đến 1,6 mét. Rắn lục đầu dồ lẩn khuất trong những chiếc lá màu xanh có vẻ hiền
hậu, chậm chạp nhưng khi có động, chúng mổ nhanh như chớp. Nọc độc của loài
này sẽ làm xuất huyết, làm vỡ các mạch máu, làm nạn nhân trụy tim mạch và tử
vong.
Bình quân mỗi năm, Trung tâm tiếp nhận hơn 1000 nạn nhân bị rắn độc cắn.
Với mục đích tất cả vì nhân dân phục vụ, năm 2005, Trại rắn Đồng Tâm được nhà
nước và các bộ, ngành đầu tư hơn 10 tỉ đồng xây dựng khoa cấp cứu rắn độc, nhà
xưởng và các trang thiết bị máy móc để phục vụ tốt hơn nhu cầu điều trị bệnh cho
nhân dân. Từ tháng 3/2006, các bệnh nhân đến đây được chữa trị miễn phí.Mấy
chục năm qua, Trung tâm đã cứu sống hàng chục ngàn nạn nhân bị rắn độc cắn.
Trung tâm có những chuyên gia và đội ngũ y bác sĩ trình độ cao với bề dày kinh
nghiệm điều trị rắn độc cắn. Ngoài điều trị, nơi đây còn trực tiếp công việc lấy nọc


rắn hổ mang, hổ chúa, rắn lục để làm thuốc trị bệnh và điều chế huyết thanh trị rắn
và trồng các cây thuốc Việt Nam. Nơi đây có hàng trăm loài thuốc trị bệnh từ cảm
cúm, nhức đầu, đến trị bệnh tim, gan, dạ dày và điều trị cả rắn độc cắn.
Trại rắn Đồng Tâm còn là điểm tham quan độc đáo, nằm trong tour du lịch

Mỹ Tho - Cù lao Thới Sơn - Trại rắn Đồng Tâm. Các hướng dẫn viên du lịch sẽ
giúp bạn tìm hiểu từng loại rắn từ đặc điểm, sinh lí, cách phân biệt rắn độc hoặc
không độc để chúng ta phòng ngừa tự cấp cứu khi không may bị rắn cắn. Tại đây,
du khách như lạc vào vương quốc của những chú rắn với hàng trăm loài rắn khác
nhau. Từ những chú rắn nước, rắn ráo hiền lành cho đến những ngài rắn hổ mang,
hổ ngựa có nọc độc, sẵn sàng phùng mang ra để đe doạ và cảnh cáo đối phương.
Những chú rắn uốn thân mình quanh những cành cây, gây cho những người đến
tham quan nơi đây một cảm giác hết sức thú vị. Ngoài ra, khách du kịch còn được
chiêm ngưỡng nhiều loài động vật quý hiếm khác như trăn, cá sấu, ba ba…những
loài có nguy cơ bị tuyệt chủng tại Việt Nam. Nơi đây còn có Nhà bảo tàng rắn với
hơn 40 tiêu bản loài rắn và đã được đưa vào sách kỉ lục Việt Nam là Bảo tàng rắn
đầu tiên của Việt Nam.
Ngoài việc tìm hiểu về các loại rắn, đến đây bạn sẽ được tận hưởng không
khí trong yên tĩnh của những vườn cây ăn trái gợi nhớ về một vùng quê yên ả. Mỗi
năm, có khoảng 30 đến 40 ngàn du khách quốc tế và trong nước đến tham quan nơi
đây.
3

TUYẾN HÀNH TRÌNH MỸ THO – CẦU MỸ THUÂN – CẦU CẦN
THƠ

( Đi theo Quốc lộ 1A)
-

Từ TP. Mỹ Tho, chúng ta sẽ đi theo đường Ấp Bắc rồi rẽ vào QL 60.
Tại chỗ đường vòng, đi theo lối ra thứ 3 để lên QL1
Lần lượt đi qua Nhà hàng Trung Lương, Nghĩa trang liệt sĩ Tiền Giang, Thị trấn
Cai Lậy, Cầu Cai Lậy, Bệnh viện đa khoa Cái Bè, Cầu Thông Lưu, Cầu Trà Lọt,



Nghĩa trang liệt sĩ Cái Bè, Cầu Cổ Cò, Cầu An Hữu, Cầu Chéo, Cầu Mỹ Thuận,
Nghĩa Trang liệt sĩ tỉnh Vĩnh Long, Trường đại học Mê Kong, Trường Đại học Cửu
Long, Cầu Ba Càng, Cầu Mù U, Chộ Rạch Múc, Cầu Trà Và Lớn, Cầu Trà Và
-

Nhỏ, Cầu Trà Ôn và cuối cùng là Cầu Cần Thơ.
Những địa điểm thuyết minh:
Cầu Mỹ Thuận là một cây cầu được xây dựng bắc qua sông Tiền, nối liền
hai tỉnh Tiền Giang và Vĩnh Long. Cầu nằm cách Thành phố Hồ Chí Minh 125 km
về hướng Tây Nam, trên Quốc lộ 1A, là trục giao thông chính của vùng đồng bằng
sông Cửu Long. Đầu cầu phía Bắc thuộc xã Hòa Hưng, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền
Giang; đầu cầu phía Nam thuộc xã Tân Ngãi, thành phố Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh
Long. Vượt qua sông Tiền nối với tỉnh Tiền Giang. Cầu Mỹ Thuận là cây cầu dây
văng đầu tiên được xây dựng ở Việt Nam, mở đầu cho công nghệ xây dựng cầu dây
văng bắc qua eo biển hay các con sông lớn ở nước này.
Cầu Mỹ Thuận được khởi công xây dựng vào ngày 6 tháng 7 năm 1997 và
được khánh thành vào ngày 21 tháng 5 năm 2000. Đây là cây cầu treo dây văng
theo hình rẻ quạt (semi-hanp) với hai mặt phẳng dây cách nhau 18,6m do các công
ty Baulderstone Hornibrook của Úc và Cienco 6 của Bộ Giao thông Vận tải thiết
kế và thi công, với chi phí 90,86 triệu đôla Úc, trong đó chương trình AusAid của
chính phủ Úc góp 66% và chính phủ Việt Nam là 34%.
Tổng chiều dài của cầu là 1.535 m, hai cầu dẫn mỗi bên 11 nhịp, mỗi nhịp
40 m. Chiều dài phần cầu chính là 650 m, chia thành 3 nhịp, hai nhịp bên mỗi nhịp
dài 150 m, nhịp giữa dài 350 m. Chiều cao của cầu là 116,5 m và độ cao thông
thuyền là 37,5 m. Mặt cầu rộng 23,6 m chia thành 4 làn xe cơ giới ở giữa và hai làn
cho người đi bộ và xe thô sơ hai bên. Tháp cầu hình chữ H bằng bê tông cốt thép
cao 123,5 m (tính từ đỉnh bệ cọc), 84,43m (tính từ mặt cầu). Toàn cầu có 128 dây
văng chia thành 8 nhóm, mỗi nhóm có 16 dây.
Cầu Mỹ Thuận là một kết nối quan trọng của quốc lộ 1A, nối đồng bằng
sông Cửu Long với thành phố Hồ Chí Minh và sự ra đời của cầu Mỹ Thuận đã phá

thế cô lập giữa hai bên bờ sông Tiền, tạo điều kiện phát triển kinh tế xã hội cho


người dân trong khu vực Tiền Giang và Vĩnh Long nói riêng cũng như Vùng Đồng
bằng sông Cửu Long nói chung.
Cầu Cần Thơ là cây cầu bắc qua sông Hậu, nối thành phố Cần Thơvà tỉnh Vĩnh
Long. Tại thời điểm hoàn thành (2010), đây là cây cầu dây văngcó nhịp chínhdài
nhất tại khu vực Đông Nam Á.
Cầu Cần Thơ được khởi công xây dựng ngày 25 tháng 9 năm 2004. Ban đầu,
công trình được dự kiến hoàn thành vào ngày 14 tháng 12 năm 2008, tuy nhiên sau
sự kiện Sự cố sập nhịp dẫn cầu Cần Thơngày 26 tháng 9 năm 2007, công trình phải
dừng thi công để điều tra tai nạn. Vì vậy tiến độ hoàn thành bị chậm trễ hơn 1 năm.
Cuối cùng, cầu cũng được khánh thành vào lúc 09h00 sáng ngày 24 tháng 4 năm
2010.
Cầu xây dựng dựa vào nguồn vốn vay ODA Nhật Bản Tổng mức đầu tư
khoảng 4.832 tỷ VNĐ (khoảng 37 tỷ yen Nhật). NIPPON KOEI – CHODAI và nhà
thầu chính là liên danh TAISEI – KAJIMA – NIPPON STEEL (TKN). Chủ đầu tư
là Bộ Giao thông vận tải (Bộ trưởng đương nhiệm là Hồ Nghĩa Dũng) Đại diện chủ
đầu tư quản lý dự án làBan quản lý dự án Mỹ Thuận (PMU Mỹ Thuận) (Tổng
Giám đốc đương nhiệm là Kỹ sư cầu đường Dương Tuấn Minh) Tư vấn giám sát
quốc tế Liên danh Nippon Koei - ChoDai, Nhà thầu chính Liên danh Taisei Kajima - Nippon Steel (nhà thầu TKN), Nhà thầu phụ VSL(Thụy Sỹ), Mitsui
Thăng Long (MTSC) (Liên doanh Việt Nhật về kết cấu thép, NM tại Hà Nội).
Tổng chiều dài toàn tuyến là 15,85km (bao gồm: phần đường dẫn vào cầu
phía Vĩnh Long dài 5,41km; phần cầu chính và nhịp dẫn dài 2,75km; phần đường
dẫn vào cầu phía Cần Thơ dài 7,69km). Quy mô mặt cắt ngang cầu có chiều rộng
23,1m (bao gồm: bốn làn xe, mỗi làn rộng 3,5m và hai lề bộ hành, mỗi lề rộng
2,75m). Độ tĩnh không thông thuyền cao là 39m (với chiều rộng tĩnh không thông
thuyền ngang tương ứng là 200m) đảm bảo cho tàu có trọng tải 10.000DWT lưu
thông qua lại. Trụ tháp có chiều cao tính từ mặt nước là 164,80 m và tính từ mặt
cầu là 134,70 m. Trụ có hình chữ Y ngược và hai chân khép vào để thu hẹp diện

tích bệ trụ, hình dạng này rất đẹp và thanh thoát, không như hình chữ H xoạc cẳng,


trụ có biểu tượng như hai bàn tay chắp lại vái lên trời với tâm linh của người Á
Đông.
Cầu Cần Thơ được lưu thông đã rút ngắn thời gian vận chuyển hàng hóa, đi
lại giữa thành phố Hồ Chí Minh và Cần Thơ, đồng thời không còn cảnh bị kẹt xe
hàng giờ ở bến phà vào lúc cao điểm, lễ, tết, từ đó đã tiết kiệm được đáng kể thời
gian. Có thể nói cầu Cần Thơ đã góp phần đáng kể trong việc phát triển vùng kinh
tế trọng điểm ĐBSCL nói riêng và vùng ĐBSCL nói chung.
( Sự cố sập nhịp dẫn cầu Cần Thơ)
Khoảng 8 giờ sáng ngày 26 tháng 9 năm 2007, nhịp cầu dẫn dài 90m về
phía Vĩnh Long đang thi công đã bất ngờ bị sập. Dưới nhịp cầu dẫn có khoảng 100
công nhân, có khả năng bị thiệt mạng, phía trên nhịp cầu có khoảng 150 công nhân
cũng đang thi công đều bị thương. Đây là đoạn cầu dẫn bờ bắc Vĩnh Long bằng
dầm Super T, do liên doanh nhà thầu Taisei, Kajima và Nippon Steel làm thầu
chính.
Theo báo cáo của Bộ Giao thông Vận tải vào tháng 10 năm 2007, số người
chết là 53 người, số người bị thương là 80 người, số người mất tích: 1 người. Đến
ngày 2 tháng 7 năm 2008, Bộ trưởng Xây dựng Nguyễn Hồng Quân đã báo cáo
Chính phủ kết quả điều tra sự cố sập nhịp dẫn cầu Cần Thơ là do lún lệch đài móng
trụ tạm.
Để tưởng niệm những người thiệt mạng do tai nạn, một khu tưởng niệm
được xây dựng trong khuôn viên Bồ Đề Cổ tự (xóm Rạch Tra, ấp Mỹ Hưng II, xã
Mỹ Hòa, Thị xã Bình Minh, tỉnh Vĩnh Long). Khu tưởng niệm có diện tích gần
80m2, nằm cách vị trí cầu Cần Thơ khoảng 200m, được xây dựng bằng kinh phí do
nhà thầu TKN (Nhật Bản) tài trợ. Đây cũng là nơi thờ tự tập trung những người
quá cố khi tham gia xây dựng cầu Cần Thơ. Vào cùng ngày diễn ra lễ khánh thành
cầu Cần Thơ ngày 24 tháng 4 năm 2010, một lễ cầu siêu đã được tổ chức tại chùa
nhằm tưởng nhớ đến những người đã thiệt mạng trong sự cố và cầu cho linh hồn

của họ được siêu thoát.
4

ĐÌNH CỔ


Cách trung tâm thành phố Cần Thơ 5 cây số, nằm bên dốc cầu Bình Thủy
trên tuyến quốc lộ 91, Đình Bình Thủy nằm trên một khu đất rộng diện tích chiếm
khoảng hơn 5.000m2.
Đình được xây cất trên mặt bằng cao ráo, thoáng rộng, mát mẻ, trước cổng
Tam quan có đề hàng chữ Hán to: “Long Tuyền Cổ Miếu”, còn gọi là đình Bình
Thủy.
Đình được xây dựng vào năm 1844, khi đó bang tranh tre. Năm 185 đình
được vua Tự Đức phong sắc. năm 1909 đình được xây dựng lại, mái lợp ngói, gồm
2 khu: khu đình chính và khu “lục ấp”. Khu đình chính có 5 ngôi nhà, hai nhà
vuông là tiền đình và chính điện, ba nhà nối hai nhà vuông với nhau. Khu lục ấp
gồm một nhà hát và khu nhà chuẩn bị đồ cúng lễ. Bên ngoài đình có 2 miếu lớn thờ
Thần Nông và Thần Hổ, gần cổng có 2 miếu thờ thần Rừng và thần khai kênh dẫn
nước.
Đình có các kiến trúc khác với các đình ngoài Bắc: môi tiền đình và chính
điện hình vuông, mỗi chiều có 6 hàng cột mỗi hàng 6 cột. Các cột trong chính điện
được chạm khắc hình rồng, hoa mẫu đơn quấn quanh. Chánh điện có ba mái chồng
lên nhau theo kiến trúc “thượng lầu hạ thiên”. Trên nóc có gắn tượng người, kỳ lân,
cá hóa rồng. Đình thờ Bổn cảnh thần Hoàng và các vị có công với nước như:
Nguyễn Trung Trực, Đinh Công Tráng, Bùi Hữu Nghĩa, Võ Huy Tập…
Hàng năm có lễ hội Đình bình Thủy diễn ra 2 kỳ trong năm: hạ điền (14-15
tháng 12 al) và thượng điền (12 -14 tháng 4 al).
Lễ hôi Bình thủy diễn ra vào dịp thượng điền mở ra trong 3 ngày để thờ
cúng Bổn Cảnh thành hoàng. Đây là lễ hội cầu an, có cúng tế, rước thần trên kiệu
rồng tán phượng, thỉnh sắc cầu thần bằng bè ghép 3 chiếc thuyền trang trí lộng lẫy

và tổ chức hát bội 3 điêm liền.
Vào dịp hạ điền các cô gái trổtài nữ công gia chánh trong cuộc thi làm bánh,
làm mức để dâng tế thần.


Đình Bình thủy là một công trình có giá trị về kiến trúc nghệ thuật. Tuy
được xây dựng vào đầu thế kỷ 20 nhưng kiến trúc của đình còn giữ được nhiều yếu
tố kiến trúc truyền thống của dân tộc. Đình còn giữ được những mảng chạm,
những họa tiết trang trí gần gũi với nghệ thuật dân tộc. Nghệ thuật chạm khắc gỗ ở
nơi đây hết sức tinh tế và sinh động. Tiềm ẩn dưới mái đình này không chỉ là lịch
sử truyền thống cội nguồn của một làng cổ Nam Bộ mà còn là nơi gìn giữ những
giá trị tinh hoa của văn hóa, văn minh sông nước miệt vườn Cần Thơ nói riêng và
Miền Tây Nam Bộ nói chung.
5

NHÀ CỔ BÌNH THỦY

Nhà cổ Bình Thuỷ do gia đình họ Dương (chủ nhân đầu tiên Dương Chấn
Kỷ) xây từ năm 1870 hoàn thành vào năm 1911 tại số 26/1A đường Bùi Hữu
Nghĩa, phường Bình Thuỷ, TP Cần Thơ. Với lối kiến trúc Pháp vẫn còn khá
nguyên vẹn, ngôi nhà là sự kết hợp giao lưu văn hóa Đông -Tây.
Căn nhà rộng năm gian hai chái, ngang 22m, sâu 16m, nằm trên lô đất có
diện tích 6.000m2. Trước sân có hòn non bộ, hoa kiểng. Bên phải là vườn lan, góc
bên trái có cây xương rồng Mexico Kim Lăng Trụ cao khoảng 8m có độ tuổi
khoảng 40. Sau nhà là vườn cây ăn trái. Sân rộng lót gạch tàu.
Bên ngoài căn nhà là 4 bậc thang hình cánh cung tao nhã cùng với trần cao,
trang trí hoa văn hài hoà, mở nhiều cửa lớn nhỏ như tôn thêm vẻ quí phái cho ngôi
nhà cổ.
Tòa nhà có 4 lối dẫn lên nhà chính.Hai lối từ bên hông nhà lên thẳng hai
gian ngoài cùng, hai lối còn lại kiểu Gotique với bốn bậc thang hình cánh cung tao

nhã kết nối với khoảng sân rộng dẫn vào gian giữa. Mặt đứng từ đường có năm
gian, cửa gỗ lá sách theo phong cách Art Nouveau (một loại hình nghệ thuật trang
trí châu Âu thịnh hành vào đầu thế kỷ XX với vòm cửa hình vòng cung), cột gạch
vuông được đắp nổi hoa văn dây lá nho.
Ngôi nhà được chia làm ba phần: Nhà trước, nhà giữa, nhà sau.


Nhà trước gồm 5 gian 2 mái có chiều ngang 22m dùng làm nơi tiếp khách
trong các nghi lễ quan trọng. Nền nhà cao hơn mặt sân 1m có lối vào là 4 cầu thang
hình cánh cung tao nhã, bên trong có 24 chiếc cột gỗ liêm đen bóng. Kết nối giữa
hệ thống cột, xà là những chi tiết gỗ màu nâu chạm trổ hết sức tinh vi.
Ngăn cách giữa nhà trước và nhà giữa là một hệ thống bao lam và liên ba
gồm nhiều con tiện và ô hộc được tạo tác bằng gỗ, chạm khắc tỉ mỉ bởi các nghệ
nhân tài hoa với các chi tiết quen thuộc trong kiến trúc cổ rất gần gũi với đời sống
của người Việt ở Nam Bộ.
Ngôi nhà được bài trí theo phong cách đặc trưng Nam bộ. Bàn thờ uy nghi
ngay gian giữa, khánh thờ được sơn son thếp vàng, giường thờ, tủ chè, sạp gụ,
trường kỷ đều cẩn ốc xà cừ chạm khắc rất tinh tế theo chủ đề sinh hoạt sông nước
miền Tây Nam Bộ. Cùng với gạch lát nền hình hoa hồng đỏ đen được chủ nhân kỳ
công đặt và vận chuyển từ Pháp sang. Tường xây quanh nhà được kết dính bằng
vôi ô dước, mái lợp 3 lớp ngói.
Khi xây dựng, để chống mối mọt và giữ độ lạnh cho ngôi nhà, chủ nhân đã
cho rải đều bên dưới nền gạch một lớp muối hột dày hơn 10cm
Ðặc biệt, ngôi nhà cổ còn chứa trong nó một "kho đồ cổ" quý giá được gìn
giữ từ bao đời nay như: hai bộ bàn ghế xuất xứ từ Vân Nam - Trung Quốc, mặt bàn
bằng đá cẩm thạch, vân xanh, đường kính 1,5m, dầy hơn 6cm, bộ xa lông kiểu
Pháp đời Louis 15 mặt bàn bằng đá cẩm thạch sắc xanh, chùm đèn bạch đăng
TK18, cặp đèn treo TK19... Thú chơi đồ cổ của gia đình họ Dương đất Bình Thuỷ
đã lẫy lừng "lục tỉnh".
Ngôi nhà từng là bối cảnh cho nhiều bộ phim nổi tiếng như Người Tình,

Người đẹp Tây Đô, Những nẻo đường phù sa… và hiện vẫn còn lưu giữ nhiều bút
tích của các diễn viên và đạo diễn nổi tiếng. Với những giá trị cổ khá nguyên vẹn
còn lại, hiện nay, nhà cổ Bình Thủy là điểm tham quan có sức lôi cuốn với du
khách xa gần.


Nhà cổ Bình Thuỷ là một trong các ngôi nhà kiểu Pháp hiếm hoi còn sót lại
khá nguyên vẹn ở Nam Bộ. Năm 2003, nơi đây được Liên Hiệp các hội Unesco
Việt Nam tặng bảng vàng top 100 điểm đến ấn tượng tại VN và Ngôi nhà đã được
Bộ VH, TT& DL công nhận Di tích kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia vào đầu năm
2009. Hiện nay, hậu duệ đời thứ sáu là ông Dương Minh Hiển cùng gia đình tiếp
tục kế thừa và giữ gìn ngôi nhà cổ này để khách đến tham quan miễn phí.

6

BẢO TÀNG CẦN THƠ

Bảo tàng Cần Thơ - Quy mô lớn nhất Ðồng bằng Sông Cửu Long
Bảo tàng Cần Thơ được xem là bảo tàng tổng hợp có quy mô lớn nhất Ðồng bằng
Sông Cửu Long. Bảo tàng trưng bày, giới thiệu các hiện vật về đất nước và con
người Cần Thơ qua từng thời kỳ lịch sử, các thành tựu kinh tế - văn hoá xã hội của
các dân tộc Kinh, Hoa, Khmer trong quá trình dựng nước - giữ nước và phát triển
để có hiện tại và tương lai tươi đẹp của vùng đất Tây Ðô ngày nay.
Bảo tàng Cần Thơ được thành lập vào năm 1976, qua nhiều lần thay đổi đến
năm 1992 chính thức mang tên Bảo tàng Cần Thơ. Nhằm nâng cao hiệu quả phục
vụ quần chúng và nghiên cứu khoa học, năm 1998 Bảo tàng Cần Thơ khởi công
xây dựng mới và thay đổi nội dung trưng bày.
Đến ngày 31/8/2000, Bảo tàng Cần Thơ khánh thành và đưa vào hoạt động
với các nội dung trưng bày chủ yếu:
- Giới thiệu khái quát về những đặc điểm tự nhiên và xã hội của Cần Thơ.

- Cần Thơ - Đất nước - Con người: Giới thiệu vị trí địa lý, đất đai, khí hậu, động
thực vật, cảnh quan, văn hoá Óc Eo, văn hoá 3 dân tộc: Việt - Hoa - Khmer.
- Lịch sử chống giặc ngoại xâm của nhân dân Cần Thơ: giới thiệu về cuộc kháng
chiến chống Pháp, Mỹ.


- Thành tựu Kinh tế - Văn hoá - Xã hội của Cần Thơ từ năm 1975 đến nay.
- Trưng bày chuyên đề: thường xuyên thay đổi nội dung trưng bày, giới thiệu về
lịch sử, văn hoá của Việt Nam và thế giới.
Năm 2006, một cán bộ hưu trí ở thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định chuyển
hàng trăm cổ vật gia bảo của mình về trưng bày tại bảo tàng Cần Thơ. Trong đó có
rất nhiều hiện vật lạ mắt như các loài bướm, côn trùng, hoa cỏ được ép trong các
vật dùng bằng hổ phách trong suốt, vàng óng. Tám bức tượng Phật màu đen cánh
gián. Tượng cao hơn gang tay với các tư thế ngồi đứng khác nhau, được tạc bằng
hổ phách hoá đá, khi có ánh sáng chiếu vào sẽ đổi sang màu xanh ngọc bích. Bảo
tàng hiện đang trưng bày hơn 1.000 hiện vật, di vật quý hiếm
Cùng với những sinh hoạt văn hóa khác, đình Bình Thủy đã tạo nên một bản
sắc riêng của ngôi đình làng ở một vùng đất mới khai phá năm xưa. Nay đình Bình
Thủy vẫn được giữ gìn, trùng tu và bảo vệ tốt.
Đây là một di tích kiến trúc nghệ thuật xưa nhất ở Nam bộ được Bộ Văn hóa
- Thông tin xếp hạng di tích văn hóa cấp Quốc gia vào năm 1989.
7

CHỢ NỔI CÁI RĂNG

Chợ nổi Cái Răng là một trong ba chợ nổi lớn nhất Cần Thơ. Nét độc đáo và
đặc điểm chính của chợ nổi Cái Răng là chuyên buôn bán các loại trái cây, đặc sản
của vùng đồng bằng sông Cửu Long.
“ Chợ đã nổi từ nửa đêm về sáng
Ta vẫn chìm từ giữa bữa hoàng hôn

Em treo bẹo Cái Răng, Ba Láng
Ta thương hồ Vàm Xáng, Cần Thơ”
Chợ nổi Cái Răng nằm trên sông Cái Răng, gần cầu Cái Răng, cách trung
tâm thành phố Cần Thơ khoảng 6 km đường bộ và mất 30 phút nếu đi bằng thuyền
từ Bến Ninh Kiều (thành phố Cần Thơ - thủ phủ của Tây Đô cũ). Cũng như những
chợ nổi khác ở Đồng bằng sông Cửu Long, chợ được hình thành để đáp ứng nhu


cầu mua bán, trao đổi hàng hóa khi đường bộ và các phương tiện lưu thông đường
bộ chưa phát triển.
-

Người ta tụ tập trên sông và bằng các phương tiện như xuồng, ghe, tắc ráng... Ngày
nay, dù mạng lưới giao thông đường bộ đã phát triển rộng khắp nhưng chợ nổi vẫn
tồn tại và phát triển ngày một sầm uất hơn mang lại tiềm năng về kinh tế lẫn du
lịch cho miền sông nước này.

-

Chợ Cái Răng thường họp khá sớm, thường từ lúc mờ sáng và đến khoảng 8, 9 giờ
thì vãn. Những loại hàng hóa được bày bán trên ghe, thường thì mỗi ghe sẽ chuyên
bán một loại mặt hàng. Trước mỗi ghe hàng, thường có một cây xào chống, trên đó
treo loại mặt hàng mà ghe có.
Ví dụ như, nếu ghe chuyên bán khoai lang thì trên cây xào sẽ treo lủng lẳng
vài quả khoai, còn nếu ghe bán xoài thì trên cây xào sẽ có treo vài quả xoài như thể
muốn người mua biết rằng “ Ở đây có bán khoai” hoặc “ Ở đây có bán xoài”.
Những ghe như thế gọi là ghe bẹo.

-


Chợ đông nhất là vào khoảng 7- 8 sáng. Chợ không hoạt động và hoạt động rất ít
vào các ngày Tết Âm Lịch (mồng 1 và mồng 2 Tết, Tết Đoan Ngọ (mồng 5 tháng
Năm âm lịch). Do nhu cầu của người đi chợ nên không chỉ có các xuồng trái cây,
nông sản phẩm mà còn có nhiều loại dịch vụ khác: phở, hủ tiếu, cà phê, quán nhậu
nổi...

-

Các xuồng dịch vụ (thường là thuyền nhỏ) len lỏi phục vụ khách đi chợ và cả
khách tham quan. Đôi khi xảy ra tình trạng giành giật níu kéo khách không được
đẹp mắt.
Là xứ trái cây nhưng nhìn chung giá trái cây được bày bán ở chợ cũng
không phải là quá rẻ so với thành phố và những vùng khác. Tuy nhiên, ưu điểm và
cũng là sức hút của chợ nổi Cái Răng đối với thập khách chính là giữ gìn và phát
huy được nét đặc trưng vùng sông nước và sự tươi ngon của hàng hóa nơi đây.
Không chỉ giữ gìn được nét đẹp văn hóa vùng sông nước, ngày nay chợ nổi
như một điểm du lịch hấp dẫn mà du khách, đặc biệt là du khách nước ngoài rất


thích khám phá và như trải nghiệm. Cứ năm chiếc xuồng vào chợ thì có đến bốn
chiếc chở người ngoại quốc, họ tỏ ra hiếu kì và thích thú từ khung cảnh đến con
người miền sông nước, thậm chí đến cả câu rao hàng ngọt như “ mía lùi” của
những cô gái Tây Đô.
Bên cạnh đó, các thuyền máy ( thuyền dịch vụ) chở du khách tham quan chợ
cũng rất được ưa chuộng. Hầu như từ mờ sáng đến khi chợ vãn, chiếc thuyền nào
cũng chậc ních những người và ngày nào cũng hoạt động. Giá đi thuyền máy thăm
chợ là 20 nghìn đồng/ người, nếu du khách có nhu cầu đi ngang cầu Cần Thơ để
ngắm cầu ( từ dưới sông) vào đúng lúc mặt trời mọc sẽ phụ thu thêm 10 nghìn
đồng/ người.
-


Đây không chỉ mở ra tiềm năng về kinh tế, tạo công ăn việc làm cho bà con sống
quanh sông mà còn có nhiều cơ hội để phát huy thế mạnh du lịch của vùng.
Trước khung cảnh trời- nước mênh mông một vùng, du khách dường như
thấy tâm hồn mình rộng mở và khoáng đạt hơn, cảm nhận được sự khác biệt của
cuộc sống nơi đây, thấy được sự chân thành, giản dị và hiếu khách đến lạ của
những con người vùng sông nước Hậu Giang.
Trở về sau những phút giây ngắn ngủi lênh đênh sông nước ngắm hoa trái
một vùng cảm giác thích thú xen lẫn chút lưu luyến thể hiện trên mỗi gương mặt
khách thập phương. Bởi họ biết rằng mình sắp xa cuộc sống giản dị và bình yên
trên những chiếc ghe chở hàng trên sông, đón chào họ là cuộc sống phố thị tấp nập,
chen chúc đến ngộp thở ngoài kia. Dẫu thế, cuộc sống vẫn trôi cũng như những
con thuyền nơi đây vẫn miệt mài đón khách đến và đưa khách đi…
8

CỒN PHỤNG- BẾN TRE

Đây là một trong bốn cồn nằm trên đoạn sông Mĩ Tho được đặt theo quan
niệm tứ linh mang điềm an lành hạnh phúc là: long, lân, quy, phụng. Cồn Rồng là
“long”, cồn Thới Sơn là “lân”, cồn Quy (nằm phía sông Ba Lai) là “quy”, và Cồn
Phụng (còn gọi là cù lao Đạo Dừa) là “phụng”. Tên Cồn Phụng có từ khi ông
Nguyễn Thành Nam đến đây xây dựng chùa Nam Quốc Phật vào hồi đầu thế kỉ


XX. Khi công trình này đang xây dựng, những người thợ nhặt được một cái chén
cổ có hình con chim Phụng, nên đặt tên là Cồn Phụng. Ngoài ra, sở dĩ nó còn có
tên gọi khác là cù lao Đạo Dừa là do ông Nguyễn Thành Nam khi đến đây xây
chùa Nam Quốc Phật, đã thành lập nên một giáo phái gọi là Đạo Dừa. Đạo Dừa
chủ trương mang lại hoà bình, sống bằng hoa trái.
Giống như một ốc đảo xanh nổi trên sông Tiền, Khu du lịch sinh thái Cồn

Phụng nằm trên một cù lao thuộc xã Tân Thạch, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre
đang là một trong những điểm đến hấp dẫn về du lịch sinh thái đối với du khách
trong nước và quốc tế mỗi khi có dịp về thăm miền tây.
Cồn Phụng còn có tên là cồn Tân Vinh. Cồn Phụng lúc đầu chỉ là một cù lao
nổi giữa sông Tiền vào những năm 1930 với diện tích khoảng 28 ha, nhưng do
lượng phù sa bồi đắp dồi dào mỗi năm mà nay đã lên tới trên 50 ha.
Một điểm mà du khách không thể bỏ qua là tham quan khu di tích Đạo Dừa
trên diện tích khoảng 1.500m². Hiện di tích này được bảo tồn nguyên kiến trúc
được xây dựng từ thời giáo chủ Đạo Dừa – Nguyễn Thành Nam (1909-1990) với
khu sân có 9 con rồng; tháp Hòa Bình (cửu trùng đài), nơi ông Đạo Dừa ngồi giảng
kinh pháp và truyền bá đạo giáo. Tòa tháp có kiến trúc huyền bí bằng những mảng
đắp chạm rồng, phượng được gắn bằng những mảnh vỡ của bát đĩa, ấm chén và
một đỉnh lớn cao chót vót. Trong nhà trưng bày của ông Đạo Dừa còn ghi lại
những bức ảnh của ông lúc sinh thời, đến khi ông qua đời..
Nhìn từ xa, ốc đảo Cồn Phụng nhô cao giữa con sông Tiền hiền hòa, điều
này mang lại một cảm giác thú vị cho du khách những lúc ngồi trên ghe xuồng
thưởng ngoạn cảnh sông nước của miền Tây. Cồn Phụng còn cuốn hút du khách
bởi những nét sinh hoạt đời thường của người dân nơi đây gắn liền với các nghề
thủ công được chế tác từ dừa. Du khách có thể đi thăm các cơ sở sản xuất kẹo dừa,
sản xuất đồ lưu niệm từ cây, vỏ trái dừa…
Cồn Phụng như một làng quê miền Tây thu nhỏ của Đồng bằng sông Cửu
Long. Du khách có thể khám phá và trải nghiệm nhiều nét độc đáo về văn hoá, tập


tục trong đời sống dân dã của người dân xứ dừa Bến Tre. Đất đai ở đây phù sa màu
mỡ, cây trái xum xuê. Nhiều gia đình vẫn giữ nếp sống chủ yếu bằng nghề nuôi
ong lấy mật từ hoa nhãn và một số loài hoa khác. Ngồi trên xe ngựa thăm vườn cây
ăn trái, dừng chân ngồi nghỉ dưới ngôi nhà lợp lá dừa để uống trà với mật ong và
quất, thưởng thức các món ăn trái cây miền nhiệt đới. Ngoài ra, du khách còn được
thưởng thức một đặc sản văn hóa nổi tiếng của người miền Tây, đó là đờn ca tài tử.

Đến với Cồn Phụng, sau bữa cơm trưa với những món ăn dân dã mang đậm
phong vị ẩm thực vùng sông nước Nam bộ, du khách sẽ được ngả lưng trên những
chiếc võng êm ái nhẹ đưa dưới bóng mát của những khu vườn nhãn.
Hiện nay, khu du lịch sinh thái Cồn Phụng đang được đầu tư nâng cấp hệ
thống các nhà hàng, khách sạn, khu vui chơi giải trí, vườn thú hoang dã, làng nghề
truyền thống, trùng tu quần thể kiến trúc Đạo Dừa… để nâng cao chất lượng dịch
vụ và thu hút du khách. Nhờ đó, mỗi năm, Cồn Phụng thu hút hàng chục ngàn lượt
khách trong nước và quốc tế đến tham quan.
9

CỒN THỚI SƠN

Vị trí: Cù lao Thới Sơn nằm ở hạ lưu sông Tiền, thuộc huyện Châu Thành,
tỉnh Tiền Giang, có diện tích khoảng 1.200 ha. Toàn xã Thới Sơn là một vùng
chuyên canh cây ăn trái, quanh năm được phù sa bồi đắp. Để khai thác hiệu quả
tiềm năng sẵn có tại địa phư ơng, công ty Du lịch Tiền Giang đầu tư năm tỷ đồng
để xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng ở các điểm du lịch chính.Các hộ dân
trong khu vực đã đóng góp mặt bằng, nhà cửa và hơn 100 chiếc đò với tổng trị giá
hơn 20 tỷ đồng. Cách tổ chức du lịch theo mô hình này đáp ứng tốt hơn nhu cầu
của khách, đồng thời huy động được vốn và các tiềm lực khác trong dân. Phát triển
du lịch ở cù lao Thới Sơn góp phần tạo thêm việc làm, tăng thu nhập và nâng cao
mức sống.


Sự hấp dẫn, quyến rũ của Thới Sơn ở chỗ, đến mảnh đất này, người ta sẽ
quên sự ồn ào, bí bức của phố phường. Khách đến Thới Sơn, xuống đò chèo xuôi
theo những con rạch ngoằn ngoèo giữa hai hàng dừa nước rậm rạp, giữa hàng thủy
liễu ven sông luôn nghiêng mình ngả bóng đón chào. Nếu muốn tản bộ, sẽ theo
những con đường đá uốn lượn, băng qua những vườn cây trái xum xuê. Khách có
thể ngồi trong những nhà vườn nhấm nháp tách trà mật ong thơm ngọt và lắng

nghe đàn ca tài tử. Đêm Thới Sơn thật huyền diệu với đầy trăng, gió, sóng nước
mênh mang.Khách có thể đi thuyền trên sông, ngắm trăng lên, hoặc cùng bạn ngồi
đối ẩm trong tiếng ca mượt mà, sâu lắng của thôn nữ.
Những ngôi nhà của 6.000 người dân Thới Sơn vẫn giữ được nét cổ kính,
nguyên sơ.Ðiểm du lịch của nhà ông Tám Cho là một tiêu biểu về kiểu nhà xưa.
Ngôi nhà của ông được xây dựng với hàng cột gỗ căm xe; mỗi mái nhà có chín cây
đòn tay bố trí theo thuật phong thủy: Kiên – Trừ – Mãn – Bình – Định – Chấp –
Phá – Nguy – Thành. Trong nhà, cách bài trí cũng theo phong cách cổ với chiếc tủ
thờ cẩn xà cừ lóng lánh, tràng kỷ chạm trổ tinh vi, cùng với đôi liễn chạm câu đối
sơn son thếp vàng… Chung quanh nhà là vườn hoa cảnh với nhiều cây bon-sai
được trồng tỉa công phu. Đến Thới Sơn, khách được tham quan cách làm kẹo dừa
bằng phương pháp thủ công, mua những đồ mỹ nghệ, đồ dùng sinh hoạt gia đình
làm từ cây dừa. Bên cạnh chương trình du lịch sinh thái, người dân Thới Sơn còn
giới thiệu với khách về văn hóa ẩm thực với các món ăn: cá nướng, lẩu cá kèo, cá
lóc hấp bầu, cá tai tượng chiên xù…



×