Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

đánh giá sự tăng trưởng kinh tế việt nam giai đoạn 1986 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (222.1 KB, 36 trang )

A . TỔNG QUAN
I:KHÁI NIỆM
1. Khái niệm
- Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng về quy mô, khối lượng hàng hóa và
dịch vụ được tạo ra trong nền kinh tế trong một khoảng thời gian nhất
định.
- Bản chất: là phản ánh sự thay đổi về lượng của nền kinh tế. Thể hiện ở
sự thay đổi tuyệt đối (quy mô) và tương đối (tốc độ)
• Thay đổi tuyệt đối
∆Y=Y1-Y0
Trong đó: Yo: sản lượng năm gốc.
Y1: sản lượng năm hiện tại
• Thay đổi tương đối
g = (∆Y/Y)*100%
Trong đó: g là tốc độ tăng trưởng
∆Y là mức tăng trong thời gian xét
II: CÁC CHỈ TIÊU ĐO LƯỜNG
Chỉ tiêu phản ánh quy mô, khối Chỉ tiêu phản ánh mức giá trị sản
lượng hàng hóa dịch vụ sản xuất xuất hàng hóa và dịch vụ bình
ra
quân đầu người
GDP: Tổng sản phẩm trong nước
GNP: Tổng sản phẩm quốc dân
GNI : Tổng thu nhập quốc dân
NNP: Sản phẩm quốc dân dòng
NI : Thu nhập quốc dân từ các
yếu tố sản xuất

GDP bq người: Tổng sản phẩm
bình quân đầu người
GNP bq người: Tổng sản phẩm


quốc dân bình quân đầu người

 Tổng sản phẩm trong nước ( GDP)
Tổng sản phẩm trong nước là tổng giá trị hàng hóa và dịc vụ
cuối cùng được tạo ra trên phạm vi lãnh thổ quốc gai trong 1
thời kỳ nhất định ( thường là 1 năm).
Là chỉ tiêu phản ánh năng lực sản xuất cảu nền kinh tế trong 1
thời kỳ nhất định.


Dựa trên cơ sở tiếp cận từ các giai đoạn của quá trình kinh tế là
sản xuất, phân phối và tiêu dùng ta có các phương pháp riêng
để tính tổng sản phẩm trong nước ( GDP)
• Phương pháp giá trị gia tăng: Là tổng giá trị gia tăng của các
đợn vị và cá nhân thường trú trong phạm vi lãnh thổ quốc gia
trong 1 năm.
• Phương pháp phân phối thu nhập:
-Là tổng giá trị các khoản thu nhập được hình thành trong lần
phân phối đầu tiên.
-Bao gồm: các khoản thu nhập của các hộ gia đình, doanh
nghiệp, Chính phủ.
-Công thức:
GDP = W+R+In+Dp+Te+Pr
Trong đó:
GDP
W
R
In
Dp
Te

Pr

Tổng sản phẩm trong nước
Tiền công, tiền lương
Tiền thuê đất và tài nguyên
Lợi tức tiền vay
Khấu hao tư bản
Thuế kinh doanh
Lợi nhuận trước thuế


• Phương pháp tiêu dùng:
-Là tổng giá trị các khoản chi tiêu cuối cùng về hàng hóa và dịch
vụ được tạo ra trên lãnh thổ quốc gia trong vòng 1 năm.
-Bao gồm: các khoản chi tiêu của hộ gia đình, doanh nghiệp, Chính
phủ.
-Công thức:
GDP = C+I+G+NX ( NX = X-M)
Trong đó:
GDP Tổng sản phẩm trong nước
C
Chi mua hàng hóa và dịch vụ của hộ gia
I
đình
G
Chi đầu tư của doanh nghiệp
NX
Chi mau hàng hóa và dịch vụ của Chính
X
phủ

M
Xuất khẩu ròng
Kim nghạch xuất khẩu
Kim ngạch nhập khẩu
 Tổng sản phẩm quốc dân ( GNP)
Tổng sản phẩm quốc dân là tổng giá trị hàng hóa và dịch vụ
cuối cùng mà công dân tạo ra trong 1 thời kỳ nhất định ( thường
là 1 năm)
GDP loại trừ hàng hóa trung gian ( hàng hóa được dử dụng để
sản xuất ra các hàng hóa khác).
GDP tính đến sản lượng do công dân của một quốc gia tạo ra
mặc dù công dân của quốc gia đó sống ở nước ngoài.
Công thức:
GNP = GDP + TNTSR
Trong đó:
GNP
Tổng sản phẩm quốc dân
GDP
Tổng sản phẩm trong nước
TNTSR Phần chênh lệch thu nhập với nhân tố
nước ngoài
• Nếu tiền được chuyển từ ngoài vào lãnh thổ thì TNTSR mang
dấu (+)
• Nếu tiền chuyển từ lãnh thổ ra thì TNTSR mang dấu (-)


GNP phẩn ánh tiềm năng tiêu dùng và tiết kiệm của nền kinh
tế.
 Sản phẩm quốc dân dòng ( NNP)
Sản phẩm quốc dân ròng là phần giá trị còn lại của tổng thu

nhập quốc dân sau khi trừ đi giá trị khấu hao cơ bản
Là phần thu nhập thuần túy của nền kinh tế trong 1 thời kỳ
nhất định
Công thức:
NNP = GNI – Dp
Trong đó:
NNP
GNI
Dp

Sản phẩm quốc dân dòng
Tổng thu nhập quốc dân
Khấu hao tư bản

NNP phản ánh phần giá trị cảu cải thực sự mới được tạo ra
trong nền kinh tế.
 Thu nhập quốc dân từ các yếu tố sản xuất (NI)
Thu nhập quốc dân từ các yếu tố sản xuất là tổng giá trị các
khoản thu nhập từ các yếu tố đầu vào vốn, lao động, tài
nguyên và khả năng quản lý.
Công thức:
NI = W+R+In+Pr
Trong đó:
NI
W
R
In
Pr

Thu nhập quốc dân từ các yếu tố sản xuất

Tiền công, tiền lương
Tiền thuê đất và tài nguyên
Lợi tức tiền vay
Lợi nhuận trước thuế

 Thu nhập quốc dân sử dụng ( DI)
Thu nhập quốc dân sử dụng là tổng giá trị các khoản thu nhập
mà các hộ gia đình có thể chi tiêu và để dành tiết kiệm trong 1
thời kỳ nhất định.
Công thức:
DI = C + Sh
Trong đó:


DI
C
Sh

Thu nhập quốc dân sử dụng
Chi tiêu hàng hóa và dịch vụ của hộ gia
đình
Tiết kiệm của hộ gia đình

 Mức thu nhập bình quân đầu người.
Thu nhập quốc dân bình quân đầu người của một quốc gia hay
lãnh thổ tại một thời điểm nhất định là giá trị nhận được khi lấy
thu nhập quốc dân của quốc gia hay lãnh thổ này tại thời điểm
đó chia cho dân số của nó cũng tại thời điểm đó.
Được đánh giá bằng 3 chỉ tiêu: GDP/người; GNP/ người;
GNP/người

Các chỉ tiêu này được gọi là mức thu nhập bình quân đầu người
, quy mô, và tốc đọ tăng của các chỉ tiêu này tạo ra cơ sở để
nâng cao mức sống dân cư trong từng thời kỳ.
Theo R.Geary thì mức thu nhập bình quân đầu người tính theo
phương pháp sức mua tương đương => như là chỉ số so sánh
mức sống dân cứ giữa các quốc gia.
Ybq = Y/ P
Trong đó:
Ybq
Y
P

(PCI)Mức thu nhập bình quân đầu người
GDP ( GNP, GNI)
Dân số bình quân


 Tốc độ tăng dân số.
Công thức:
gP = (P1 – P0)/P0
Trong đó:
gP
P1
P0

Tố độ tăng dân số
Dân số năm hiện tại
Dân số năm gốc

 Tốc độ tăng trưởng GDP tính theo đầu người

Công thức:
gY/P = gY – gP
Trong đó:
gY/P
gY
gP

Tốc độ tăng trưởng GDP tính theo đầu
người Tốc độ tăng trưởng GDP
Tốc độ tăng dân số

 Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 1 giai đoạn
Công thức:
g bq=
-1
Trong đó:
gbq
Yt
Yo
n

Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân
Thu nhập quốc dân năm hiện tại
Thu nhập quốc dân năm gốc
số năm trong giai đoạn tính cả năm gốc


III. CÁC MÔ HÌNH KINH TẾ
Để giải thích nguồn gốc của tăng trưởng kinh tế các nhà kinh tế học dùng các mô
hình kinh tế.

• Mô hình David Ricardo (1772-1823) với luận điểm cơ bản là đất đai sản
xuất nông nghiệp (R, Resources) là nguồn gốc của tăng trưởng kinh tế.
Nhưng đất sản xuất lại có giới hạn do đó người sản xuất phải mở rộng diện
tích trên đất xấu hơn để sản xuất, lợi nhuận của chủ đất thu được ngày càng
giảm dẫn đến chí phí sản xuất lương thực, thực phẩm cao, giá bán hàng hóa
nông phẩm tăng, tiền lương danh nghĩa tăng và lợi nhuận của nhà tư bản
công nghiệp giảm
• Mô hình hai khu vực tăng trưởng kinh tế dựa vào sự tăng trưởng hai khu vực
nông nghiệp và công nghiệp trong đó chú trọng yếu tố chính là lao động (L
labor), yếu tố tăng năng suất do đầu tư và khoa học kỹ thuật tác động lên hai
khu vực kinh tế. Tiêu biểu cho mô hình hai khu vực là mô hình Lewis, Tân
cổ điển và Harry T. Oshima.
• Mô hình Harrod-Domar nguồn gốc tăng trưởng kinh tế là do lượng vốn (yếu
tố K, capital) đưa vào sản xuất tăng lên
• Mô hình Robert Solow (1956) với luận điểm cơ bản là việc tăng vốn sản
xuất chỉ ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn mà không ảnh
hưởng trong dài hạn, tăng trưởng sẽ đạt trạng thái dừng. Một nền kinh tế có
mức tiết kiệm cao hơn sẽ có mức sản lượng cao hơn không ảnh hưởng đến
tăng trưởng kinh tế trong dài hạn (tăng trưởng kinh tế bằng không (0)).
• Mô hình Kaldor tăng trưởng kinh tế phụ thuộc phát triển kỹ thuật hoặc trình
độ công nghệ.
• Mô hình Sung Sang Park: nguồn gốc tăng trưởng là tăng cường vốn đầu tư
quốc gia cho đầu tư con người.
• Mô hình Tân cổ điển nguồn gốc của tăng trưởng tùy thuộc vào cách thức kết
hợp hai yếu tố đầu vào vốn(K) và lao động (L).


o Trước Keynes, kinh tế học cổ điển và tân cổ điển không phân biệt rành mạch
tăng trưởng kinh tế với phát triển kinh tế. Hơn nữa, ngoại trừ Schumpeter,
các trường phái trên đều không coi trọng vai trò của tiến bộ kỹ thuật đối với

tăng trưởng kinh tế.
 Lý thuyết tăng trưởng kinh tế của kinh tế học vĩ mô Keynes tiêu biểu là mô
hình Harrod-Domar
Mô hình này dựa trên hai giả thiết căn bản:
(1) giá cả cứng nhắc
(2) nền kinh tế không nhất thiết ở tình trạng toàn dụng lao động. Nguồn gốc tăng
trưởng kinh tế là do lượng vốn (yếu tố K, capital) đưa vào sản xuất tăng lên >>>
mất ổn định kinh tế
 Lý thuyết tăng trưởng tân cổ điển xây dựng mô hình của mình dựa trên hệ
giả thiết mà hai giả thiết căn bản là:
(1) giá cả linh hoạt
(2) nền kinh tế ở trạng thái toàn dụng lao động >>>>chỉ nhất thời , nhanh chóng
quay về trạng thái cân bằng
B THỰC TRẠNG NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
1. Mô hình tăng trưởng kinh tế Việt Nam hiện hành
*2007: Cơ hội cùng thách thức không nhỏ khi Việt Nam chính thức trở thành thành
viên của tổ chức thương mại thế giới WTO.
*2008: Lạm phát lên đến 28% do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế toàn cầu.
1.1. GDP:
Trong điều kiện kinh tế toàn cầu hậu khủng hoảng phục hồi chậm, nhưng kinh tế
Việt Nam đã sớm ra khỏi tình trạng suy giảm, từng bước phục hồi và tăng trưởng
khá nhanh. GDP quý I tăng 5,84%; quý II tăng 6,44%; quý III tăng 7,18% và quý


IV tăng 7,34%. Tính chung cả năm, GDP tăng 6,78%, cao hơn chỉ tiêu Quốc hội đề
ra (6,5%), vẫn thuộc nhóm có mức tăng trưởng khá cao trong khu vực và trên thế
giới, trong đó, tất cả các ngành, lĩnh vực đều đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn so với
năm trước. Trong 6,78% tăng chung của nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và
thủy sản tăng 2,78%, đóng góp 0,47 điểm phần trăm; công nghiệp xây dựng tăng
7,7%, đóng góp 3,20 điểm phần trăm; dịch vụ tăng 7,52%, đóng góp 3,11 điểm

phần trăm. Với kết quả này, GDP bình quân đầu người năm 2010 đạt khoảng 1160
USD
1.2 ICORMặc dù tăng trưởng GDP cao nhưng chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế Việt
Nam lại rất thấp. Điều này thể hiện qua hệ số ICOR dự báo lên đến 6.3 lần trong
năm 2010, và tăng trưởng vẫn chủ yếu dựa vào dòng vốn đầu tư và chi tiêu của khu
vực công. Việc tái cơ cấu và nâng cao chất lượng tăng trưởng chưa có nhiều
chuyển biến trong năm 2010. Điều này đã gây nên những lo ngại về tính bền vững
trong tăng trưởng kinh tế của Việt Nam.
-Hiệu quả của vốn đầu tư cũng đang giảm thấp đến mức báo động vơi chỉ số ICOR
tăng mạnh trong giai đoạn 1991 – 2009. Nếu như trong giai đoạn 1991 – 1995, hệ
số ICOR là 3,5 thì đến giai đoạn năm 2007 – 2008, hệ số này là 6,15; năm 2009, hệ
số ICOR tăng vọt lên 8; năm 2010, hệ số này giảm xuống còn 6,2; nhưng vẫn còn
cao hơn nhiều so với khuyến cáo của WB: đối với một nước đang phát triển, hệ số
ICOR ở mức 3 là đầu tư có hiệu quả và nền kinh tế phát triển theo hướng bền
vững. So sánh với các nước trong khu vực, ICOR của Việt Nam gần gấp đôi, có
nghĩa là hiệu suất đầu tư chỉ bằng một nửa.
1.3 Lạm phát
-Lạm phát cao gây bất ổn kinh tế vĩ mô. Trong năm 2010, chỉ số giá tiêu dùng tăng
11,75% so với tháng 12/2009, vượt xa chỉ tiêu lạm phát Quốc hội thông qua đầu


năm là không quá 7% và mục tiêu Chính phủ điều chỉnh là không quá 8%. Trong
đó, nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 16,18%, với quyền số 39,93%, nhóm
này đã đóng góp vào mức tăng chung của chỉ số CPI khoảng 6,46%, hơn một nửa
mức tăng CPI của cả năm. Tiếp đến là nhóm nhà ở, điện, nước, chất đốt, VLXD,
tăng 15,74%, với quyền số 10,01%, nhóm này góp phần làm tăng chỉ số chung
khoảng 1,57%. Nhóm giáo dục có mức tăng cao nhất 19,38%, với quyền số không
lớn là 5,72%, nhưng nhóm này đã đóng góp mức tăng khoảng 1,1% vào mức tăng
chung của chỉ số CPI.
-Nguyên nhân chỉ số CPI tăng mạnh trong năm 2010 là tổng hòa của các nhân tố

như thiên tai, giá cả hàng hóa thế giới tăng, tiền đồng bị mất giá, thâm hụt ngân
sách kéo dài, nhập siêu cao…, nhưng nguyên nhân sâu xa có thể tìm thấy trong
việc lựa chọn thứ tự ưu tiên các mục tiêu phát triển kinh tế. Đối với nhiều nước
đang phát triển như Việt Nam thì tăng trưởng vẫn là ưu tiên số một. Do vậy, suốt
một thời gian dài, Việt Nam đã chấp nhận lạm phát cao để theo đuổi mục tiêu tăng
trưởng kinh tế với chính sách tiền tệ và tài khóa về cơ bản là nới lỏng. Thành tựu
tăng trưởng kinh tế những năm qua là điều đáng ghi nhận, song lạm phát cao, kéo
dài so với nhiều nước trong khu vực là một bất ổn, ảnh hưởng đến tăng trưởng bền
vững của nền kinh tế.
1.4 Năng suất lao động
-Những ngành có năng suất lao động tăng cao nhất phải kể đến là ngành khai thác
(tăng 17%/năm), ngành điện, khí đốt, nước (tăng 11,1%) nhờ áp dụng nhiều tiến bộ
khoa học và công nghệ mới trong sản xuất kinh doanh và quản lý. Hệ số vốn đầu tư
phát triển so với tốc độ tăng GDP đã giảm, chứng tỏ hiệu quả đầu tư đã tăng lên,
mặc dù vẫn còn cao hơn rất nhiều so với các nước trong khu vực như Trung Quốc,
Ấn Độ do chi phí lớn. Xét chung lại, tốc độ tăng năng suất lao động của Việt Nam
thời kỳ 2001 – 2010 đạt bình quân 5.13%


-Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng năng suất của công nghiệp chế tạo và chế biến
(ngành tiềm năng) chỉ bằng 1% tăng năng suất, thấp hơn cả tốc độ tăng trưởng
năng suất của nông-lâm-nghiệp (ngành truyền thống, khó áp dụng công nghệ mới)
=> Thể hiện sự bất ổn
1.5 TFP
TFP phản ảnh hiệu quả sử dụng các nguồn lực vào sản xuất, phản ảnh sự thay đổi
công nghệ, trình độ lành nghề của công nhân, trình độ quản lý… Nâng cao TFP tức
là nâng cao hơn kết quả sản xuất với cùng đầu vào. Điều này là rất quan trọng đối
với người lao động, doanh nghiệp và toàn nền kinh tế. Đối với người lao động,
nâng cao TFP sẽ có góp phần nâng lương, nâng thưởng, điều kiện lao động được
cải thiện, công việc ổn định hơn. Đối với doanh nghiệp thì có khả năng mở rộng tái

sản xuất. Còn đối với nền kinh tế sẽ nâng cao sức cạnh tranh trên trường quốc tế,
nâng cao phúc lợi xã hội. Theo thống kê cho thấy giai đoạn 2004 – 2009, TFP
khoảng 15,1%. Trong khi đó giai đoạn 2003 – 2008 là 15,53%. Như vậy là đóng
góp vào tăng trưởng có giảm. Nếu tính riêng trong ngành công nghiệp tỉ trọng TFP
còn thấp hơn nhiều, lao động cũng thấp, trong khi đó vốn lại cao hơn nhiều.
1.6 Xuất nhập khẩu
-Tính trong 11 tháng đầu năm tổng kim ngạch thương mại của Việt Nam và Trung
Quốc đã đạt 21.3 tỷ USD, trong đó xuất khẩu từ Việt Nam đạt 5.4 tỷ USD, tăng
45%, nhập khẩu đạt 15.9 tỷ USD, tăng 22,8%.
-Kim ngạch thương mại với các nước ASEAN đạt 21.5 tỷ USD, trong đó xuất khẩu
đạt 8.4 tỷ USD, tăng 18%, nhập khẩu đạt 13.1 tỷ USD, tăng 22%.
-Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và EU đạt 13.8 tỷ USD, với 8.8 tỷ
USD xuất khẩu và 5 tỷ USD nhập khẩu.
-Xuất khẩu sang Hòa Kỳ trong 11 tháng đầu năm 2010 đạt 11.6 tỷ USD, chiếm
18% tổng kim ngạch xuất khẩu. Như vậy, Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất
của Việt Nam.


-Có thể thấy Trung Quốc đang dần trở thành đối tác thương mại lớn của Việt Nam.
Năm 2010, nhập khẩu từ Trung Quốc đã chiếm tới 24% tổng kim ngạch nhập khẩu
của Việt Nam. Các mặt hàng nhập khẩu của Trung Quốc đang cạnh tranh gay gắt
với hàng sản xuất trong nước. Bên cạnh đó, rõ ràng là Việt Nam rất khó có thể tiếp
cận được công nghệ nguồn, khi nhập khẩu máy móc thiết bị từ quốc gia này.
1.7 Thể chế kinh tế
-Ngày càng hoàn thiện, đảm bảo mối quan hệ hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế và
tiến bộ công bằng xã hội. Trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, động lực
chung của sự phát triển là đại đoàn kết dân tộc và các động lực kinh tế, chế độ
phân phối yêu cầu giữ vững ổn định chính trị, xã hội, độc lập tự chủ về kinh tế và
chủ động hội nhập kinh tế.
Tuy nhiên vẫn chưa theo kịp nhu cầu phát triển kinh tế, sự bất cập này thể hiện ở

tính chưa đồng bộ. Đó là sự “phân mảnh thể chế_mà cụ thể là 36 tỉnh là 36 nền
kinh tế, 22 bộ và 4 cơ quan ngang bộ trở thành những lô-cốt quyền lực”_TS. Vũ
Thành Tự Anh.
-Chính sách đôi khi hoặc bất cập hoặc chồng chéo hay cảm tính.
1.8 Nợ chính phủ và thâm hụt ngân sách
Thâm hụt ngân sách liên tục cao, nợ công tăng nhanh. Theo Bộ Tài chính, thâm hụt
ngân sách năm 2010 dự kiến giảm 0,4 điểm % GDP xuống còn 5,8% GDP (dự toán
là 6,2% GDP), vẫn ở mức cao so với các nước trong khu vực. Do thường xuyên
trong tình trạng thâm hụt ngân sách nên nợ công tăng rất nhanh trong những năm
vừa qua. Theo Bộ Tài chính, tính đến hết 31/12/2010, dư nợ chính phủ bằng
44,3%, dư nợ quốc gia bằng 42,2% GDP và dư nợ công bằng 56,6% GDP. Mặc dù
tỉ lệ nợ công Việt Nam được coi là vẫn nằm trong tầm kiểm soát, nhưng đã trở nên
cao hơn hẳn so với tỉ lệ phổ biến 30% – 40% ở các nền kinh tế đang phát triển và
mới nổi khác. Nếu xét mức nợ công bình quân đầu người bình quân đầu người
trong vòng 8 năm (từ 2001 đến 2009), mức nợ công bình quân đầu người đã tăng


gần bốn lần, từ 144 USD lên tới 548 USD, tức trung bình hơn 18%/năm, trong khi
tốc độ tăng GDP bình quân đầu người của cùng thời kì chỉ là 6%/năm. Nợ công
tăng nhanh trong bối cảnh thâm hụt ngân sách cao và kéo dài đã đe dọa tính bền
vững của quản lí nợ công và gây áp lực lên lạm phát. Điều này mâu thuẫn với
nguyên tắc cơ bản của quản lí nợ là nợ hôm nay được trang trải bằng thặng dư
năng suất ngày mai. Đây cũng là nguyên nhân chính khiến xếp hạng tín nhiệm
quốc gia của Việt Nam đều bị các cơquan xếp hạng tín dụng hạ thấp.
1.9 Môi trường kinh doanh
-Bước đầu đổi mới theo nền kinh tế thị trường với 3 khu vực là nhà nước, tư nhân
và đầu tư nước ngoài
-Các doanh nghiệp nhà nước có quy mô lớn nhưng hoạt động kém hiệu quả, đang
nắm giữ 75% giá trị tài sản quốc gia, 20% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, 60% lượng
vốn tín dụng ngân hàng trong nước, hơn 70% tổng vốn vay nước ngoài nhưng hiệu

quả kinh doanh thấp. Chưa đến 40% doanh nghiệp nhà nước có mức lãi bằng hoặc
cao hơn lãi suất cho vay của ngân hàng thương mại.
-Đóng góp của nhà nước vào ngân sách là 17%; việc làm 24%; GDP 27,8%; sản
xuất công nghiệp 20,1%.
1.10 Chỉ số phát triển con người
-Nhờ chú trọng các công tác giáo dục – đào tạo, chăm sóc sức khỏe con người, hạn
chế tỷ lệ sinh bằng cách phát động các phong trào kế hoạch hóa gia đình, nên chỉ
số phát triển con người của Việt Nam đã được cải thiện đáng kể.
-Đời sống kinh tế, sinh hoạt của người dân ngày càng được cải thiện. Đến năm
2008 ở Việt Nam đã có 89,4% xã đã có điện, 94,6% xã có đường trải nhựa, 98,9%
xã có trường tiểu học và 99% các xã có trạm y tế. Nhiều mục tiêu đề ra đã đạt được
hoặc vượt mức như tỷ lệ chết ở trẻ em dưới 1 tuổi chỉ còn 2,1%, tỷ lệ suy dinh
dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi còn 25%, tỷ lệ thôn bản có cán bộ y tế cộng đồng đạt
79,8%. Tuổi thọ của người dân (năm 2006) đạt 71,3 tuổi. Phần lớn người dân Việt


Nam đã có những tiện nghi tối thiểu cho sinh hoạt hằng ngày như điện, nước sạch,
ti vi… Tỷ lệ hộ dân có phương tiện đi lại bằng xe máy, ô-tô và sử dụng các phương
tiện sinh hoạt cao cấp như điện thoại di động, máy tính cá nhân,… ngày càng có xu
hướng tăng nhanh.
2. Tăng trưởng của kinh tế VN so với các nước trong khu vực – lý luận và thực
tiễn :
Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong thời thời kỳ đổi mới luôn đạt mức tăng
trưởng cao đứng thứ 2 Châu Á và trên thế giới (chỉ sau Trung Quốc), được cộng
đồng quốc tế đánh giá cao. Tuy vậy về tốc độ cũng như chất lượng tăng trưởng còn
nhiều điều phải làm sáng tỏ nếu như chúng ta so sánh tốc độ và chất lượng tăng
trưởng của Việt Nam với các nước trong khu vực. Vấn đề đặt ra là với tốc độ và
chất lượng tăng trưởng như vậy đã tương xứng với tiềm năng của Việt Nam hay
chưa? So với các nước trong khu vực hiện nay chúng ta đang ở đâu ? Làm thế nào
để tăng trưởng bền vững và nâng cao chất lượng tăng trưởng để Việt Nam thu hẹp

khoảng cách phát triển với các nước trong khu vực
2.1. Lý luận về tăng trưởng kinh tế và so sánh quốc tế
Tăng trưởng kinh tế là một trong những chỉ số kinh tế vĩ mô đặc biệt quan trọng và
nó thường được đo bằng sự tăng trưởng tổng sản phẩm quốc dân (GNP) hoặc tổng
sản phẩm quốc nội (GDP).
Có rất nhiều yếu tố trực tiếp hoặc gián tiếp ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế cả
về chất và lượng. Có thể liệt kê các yếu tố quan trọng sau đây ảnh hưởng đến chất
lượng tăng trưởng như : Khối lượng và chất lượng lao động đã thực hiện; Số lượng
và chất lượng lao động có thể sử dụng; Khối lượng và chất lượng công cụ lao
động; Sự phối hợp của các nhân tố sản xuất trong một không gian cụ thể; Phương
thức sản xuất, khoa học - công nghệ; Tổ chức; Tài nguyên tự nhiên; Cơ sở hạ tầng;
Môi trường tự nhiên và môi trường sống v.v... Các yếu tố này tạo thành năng lực


sản xuất kinh tế quốc dân hay tiềm năng sản xuất kinh tế quốc dân của một quốc
gia.
Tăng trưởng kinh tế được tính bằng:
- Sự tăng trưởng của đại lượng tuyệt đối tổng sản phẩm quốc dân (GNP) hoặc tổng
sản phẩm quốc nội (GDP)
- Sự tăng lên của GNP hoặc GDP bình quân đầu người.
Về lý luận cần làm rõ và phân biệt khái niệm tăng trưởng về chất (hay chiều sâu)
và tăng trưởng về lượng (hay về chiều rộng).
Nếu GNP bình quân đầu người luôn tăng thì quá trình tăng trưởng được xem là
tăng trưởng về chất. Trường hợp giá trị tuyệt đối GNP tăng lên nhưng giá trị GNP
bình quân đầu người không tăng, thậm chí giảm được xem là quá trình tăng trưởng
về lượng.
Trong phân tích và so sánh kinh tế vĩ mô với các nước, tăng trưởng kinh tế được đo
bằng GNP (GDP) bình quân đầu người là một chỉ số rất quan trọng và chịu ảnh
hưởng của sự gia tăng dân số. Tốc độ gia tăng GDP bình quân đầu người sẽ bằng
tốc độ tăng trưởng GDP trừ đi tốc độ gia tăng dân số.

Có một thực tế, mặc dù kinh tế tăng trưởng thậm chí là sự tăng trưởng về chất như
một tín hiệu tích cực của sự phát triển nhưng không có nghĩa là mức sống của
người dân đã được nâng lên một cách tương ứng. Bởi vì mức sống của người dân
tăng lên ngoài sự tăng trưởng kinh tế về chất còn chịu ảnh hưởng của các yếu tố
khác như:
- Sự phân phối GDP giữa các nhóm kinh tế xã hội và các hộ gia đình, giữa các
vùng và địa phương, giữa tiêu dùng cá nhân, tiêu dùng cộng đồng, đầu tư và sự
tăng trưởng của ngoại thương.
- Chính sách thuế, tiền tệ, lạm phát.


Từ những điều trên cho thấy, khi nghiên cứu về tăng trưởng kinh tế không thể tách
rời mà cần phải đặt nó trong mối liên hệ và chế ước lẫn nhau với những đại lượng
kinh tế khác nhau như:
- Tăng trưởng kinh tế, lạm phát, thất nghiệp, chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
- Tăng trưởng kinh tế, khối lượng tiền trong lưu thông, hệ thống thuế và các cân
bằng về kinh tế biểu hiện qua các thị trường: Thị trường lao động, thị trường vốn,
thị trường tiêu dùng, thị trường hàng hoá đầu tư, thị trường dịch vụ, thị trường tiền
tệ.
- Tăng trưởng kinh tế với cán cân thanh toán và phân phối.
Mặt khác, khi nghiên cứu tăng trưởng, phải quan tâm tới chất lượng tăng trưởng,
tăng trưởng kinh tế phải đảm bảo tính bền vững trong sự tương tác với các yếu tố
xã hội và môi trường. Tăng trưởng kinh tế phải tạo ra nhiều việc làm, không tạo ra
sự chênh lệch giầu nghèo bất hợp lý, không huỷ hoại hay làm ô nhiễm môi trường.
Ngoài ra, phải xem xét sự tác động hay sự đóng góp của 3 yếu tố đầu vào là vốn,
lao động, năng suất các nhân tố tổng hợp TFP (Total Farotor Productivity)vào sự
tăng trưởng; nếu đóng góp của TFP vào sự tăng trưởng càng cao thì chất lượng
tăng trưởng càng tốt và ngược lại.
Chất lượng tăng trưởng ở các nền kinh tế phát triển người ta còn xem xét ở chất
lượng tăng trưởng bậc cao. Tại một cuộc hội thảo của Hội đồng kinh tế xã hội của

Liên hợp quốc TGĐ IMF Micheal Camdessus năm 1990 đã nêu định nghĩa chất
lượng tăng trưởng kinh tế bậc cao như sau: "Tăng trưởng kinh tế chất lượng bậc
cao là sự tăng trưởng động bền vững có sức đề kháng trước các cơn sốc kinh tế từ
bên ngoài".
Như vậy, sự tăng trưởng phải đồng hành với sự ổn định về tài chính, tạo ra điều
kiện bền vững cho sự phát triển của nền KTQD là sự đảm bảo tăng trưởng đầu tư,
đặc biệt là đầu tư vào nguồn nhân lực, đảm bảo các khía cạnh kinh tế - xã hội, môi
trường của sự phát triển.


Việc so sánh trình độ phát triển kinh tế của nước này với nước khác là việc không
phải dễ vì khó có một chỉ tiêu tổng hợp nào có thể biểu diễn tổng quát trình độ phát
triển của một nước. Tuy nhiên khảo sát một nhóm các chỉ tiêu cơ bản thì tiêu chí
thường được đem ra so sánh là GNP (GDP) bình quân đầu người được xem là quan
trọng nhất. Tất nhiên để chính xác hơn phải tính GNP (GDP) bình quân đầu người
theo tỉ giá so sánh ngang bằng sức mua PPP (Purchasing Power Parity).
Tuy nhiên ở đây còn có 2 vấn đề cần phải đề cập: Thứ nhất là vấn đề phân phối.
Nếu việc phân phối thu nhập quá bất bình đẳng thì ý nghĩa của việc tăng GNP
(GDP) bình quân đầu người sẽ giảm đi. Thứ 2 là liên quan đến môi sinh, môi
trường, điều kiện làm việc.
Cho nên hiện nay ngoài thu nhập người ta còn tính đến chỉ số phát triển nguồn
nhân lực HDI (Human Development Index).
So với Thái Lan năm 2002 GDP bình quân đầu người của Việt Nam đạt 21,4%
nhưng đến năm 2003 con số đó đã tụt xuống 20,99%. Nếu so với cả khối Asean thì
GDP bình quân đầu người của Việt Nam năm 2002 bằng 38,0% nhưng đến năm
2003 đã tụt xuống 37,96%. Như vậy, mặc dù kinh tế Việt Nam có tăng trưởng
nhưng so với các nước trong khu vực đã có tín hiệu tụt hậu.
Theo Tác giả Đào Ngọc Lâm (TCTK Báo Thanh niên 29/3/2006): Với tính toán sơ
bộ GDP bình quân đầu người và tốc độ tăng trưởng như hiện nay để GDP bình
quân đầu người của Việt Nam bằng mức bây giờ của các nước sau đây thì Việt

Nam cần một số năm như sau: Indonesia: 5 năm; Philippine: 8 năm; Thái Lan: 20
năm; Malaysia: 24 năm; Brunei: 38 năm; Singapore: 40 năm. Tất nhiên tác giả giả
thiết là các nước này đứng yên( nghĩa là Gy =Gn), song thực tế sau khủng hoảng
1997-1998 các nước này cũng có mức tăng khá.
2.2 Những vấn đề thực tiễn về so sánh kinh tế Việt Nam với các nước trong
khu vực đầu thế kỷ XXI


- Trên Báo Thanh niên số 86 ngày 27/3/2006 nhà sử học Dương Trung Quốc có bài
"Nước Việt Nam ta nhỏ hay không nhỏ" và sau đó được Báo Thanh Niên làm đầu
đề diễn đàn để bạn đọc tham gia phân tích, tranh luận nhằm nhận chân giá trị của
dân tộc và kiến nghị các giải pháp chấn hưng dân khí, góp phần thúc đẩy tiến trình
phát triển của đất nước. Qua diễn đàn có thể thấy nhiều ý kiến đa dạng và trái chiều
nhau, một số thì lạc quan, một số thì quá bi quan về tiến trình phát triển của đất
nước. Dưới góc độ khoa học hãy phân tích một cách khách quan đầy đủ và chính
xác để nhận dạng thực trạng kinh tế của Việt Nam so với các nước trong khu vực,
trình độ phát triển kinh tế của Việt Nam hiện đang nằm ở đâu? Muốn vậy hãy so
sánh Việt Nam với Thái Lan, Trung Quốc và Ấn Độ.
Chúng ta so sánh với Thái Lan vì ở trong cùng một khối Asean, có dân số gần
tương đương nhau và nhất là vào thập niên 50 hai nước có cùng trình độ phát triển.
Theo tài liệu của ECAFE tiền thân của ESCAP thuộc UN, vào năm 1954 GNP bình
quân đầu người của Việt Nam là 117 USD trong khi đó Thái Lan vào năm 1952 là
108 USD (Indonexia là 88USD; Hàn Quốc là 55 USD vào năm 1955.)
Chọn Trung Quốc và Ấn Độ làm đối tượng so sánh với Việt Nam bởi vì tuy là 2
nước khổng lồ nhưng có thể chế chính trị, kinh tế, văn hoá tương đồng với Việt
Nam và cũng đều đi lên từ một nước nông nghiệp lạc hậu mặc dù không phân tích
cụ thể như Thái Lan. Đặc biệt Trung Quốc lại cũng chuyển đổi từ kinh tế kế hoạch
hoá tập trung sang cơ chế kinh tế thị trường như Việt Nam.
Bảng 1: Tốc độ tăng trưởng của Việt Nam, Thái Lan, Trung Quốc, Ấn Độ và
ASEAN.

Năm
1998
2000
2002
2004
2005

Việt Nam
5,83
6,76
7,04
7,69
8,40

Thái Lan
-10,51
4,76
5,41
6,1
-

ASEAN
-8,93
5,50
4,26
-

Trung Quốc
7,8
8,0

8,3
9,25
9,8

Ấn Độ
5,8
5,4
5,0
6,4
6,7


Bảng 2: GDP bình quân đầu người của một số nước (USD) 1996 2005
Nước

1996

1997 1998

1999

2000

2001

2002

2003

2004


2005

năm
Singapore
Thái Lan
Việt Nam
ASEAN
Trung

25127
3134
337
1505

2514
2056
361
1429

20611
2046
374
1079

22757
2029
403
1128
856


20553
1887
415
1058
924

20823
2050
439
1155
992

22070
2291
481
1267
1100

25193
2490
540
1272

25600
637
-

450


466

482

555

631

-

20892
1900
361
947

Quốc
Ấn Độ

Không thể phủ nhận được những thành tựu nổi bật về kinh tế xã hội trong 20 năm
đổi mới tại Việt Nam. Đó là có thời gian tăng trưởng liên tục, qui mô GDP đã tăng
gấp 3,7 lần năm 1985, tốc độ tăng trưởng bình quân trong đổi mới đạt bình quân
6,8% cao gần gấp hai lần trước đổi mới 1977-1985 (3,8%). Từ năm 1991 sản xuất
không những đảm bảo tiêu dùng ngày càng cao mà còn có tích luỹ. Uy tín và vị thế
của Việt Nam trên trường Quốc tế đã được nâng lên một tầm cao mới. Tuy vậy qua
so sánh tăng trưởng kinh tế và sự phát triển kinh tế với một số nước trong khu vực
chúng ta rút ra được một số nhận xét sau đây:
*. Xuất phát điểm của kinh tế Việt Nam thấp
Tăng trưởng GDP trong thời gian qua rất đáng tự hào kể cả về thời gian tăng
trưởng và tốc độ tăng trưởng. Thời gian tăng trưởng cho đến nay đã đạt 25 năm
liên tục vượt kỷ lục của Hàn Quốc 23 năm tính đến năm 1997 (1997/1998 xảy ra

khủng hoảng toàn châu Á và kinh tế Hàn Quốc bị sụt giảm) và chỉ thua kỷ lục của
Trung Quốc đang nắm giữ là 27 năm.
Theo số liệu của TCTK: Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong 20 năm
đổi mới như sau:
Thời kỳ :1986-1990 : Đạt xấp xỉ : 4,5% ; 1991-1995 : Đạt 8,2%;


1996- 2000: Đạt :7,0% ; 2001- 2005: Đạt :7,5%
Như vậy tốc độ tăng bình quân của 20 năm đổi mới đạt 6,8% và thời kỳ 1991 2005 đạt 7,5%.
Bảng 3: Chỉ số xếp hạng năng lực cạnh tranh tăng trưởng năm 2004
Thái Lan

Trung Quốc

77/104
Chỉ số xếp hạng môi trường kinh tế vĩ mô 58
Chỉ số về mức độ chi tiết lãng phí của 68

34/104
23
16

46/104
24
30

Chính phủ
Chỉ số về tham nhũng
Chỉ số về xếp hạng công nghệ
Chỉ số về CNTT


52
43
55

60
62
62

Các chỉ số xếp hạng

Việt Nam

97
92
86

Như vậy kể cả về tốc độ và thời gian kinh tế Việt Nam tăng trưởng chỉ sau Trung
Quốc và qua Bảng 1 chúng ta thấy tốc độ tăng trưởng của Việt Nam cao hơn so với
Ấn Độ. Chính vì thế trong thời gian qua có nhiều đánh giá quá lạc quan là Việt
Nam sắp "hoá rồng, hóa hổ". Nhưng theo Bảng 2 xét về quy mô GDP bình quân
đầu người của Việt Nam là quá thấp chỉ nhỉnh hơn 1/3 bình quân chung của cả khối
ASEAN và gần bằng 1/5 của Thái Lan; nếu so với Singapore thì họ gấp chúng ta
44 lần và vì vậy ở trên Báo Thanh niên ngày30/3/2006 có người đánh giá quá bi
quan rằng phải sau 197 năm nữa Việt Nam mới bằng Singapore như bây giờ . Năm
2005 GDP bình quân đầu người Việt Nam đạt 637 USD nếu theo chuẩn nghèo mới
của Liên hợp quốc (2USD/ngày) thì mới đạt 87% chuẩn nghèo quốc tế và đứng thứ
8/11 nước trong khu vực, nghĩa là chỉ hơn Lào, Campuchia và Mianma và thứ
39/52 nước châu Á và thứ 142/200 nước trên thế giới. Nếu tính theo PPP cũng mới
đạt 2739USD và đạt các vị trí tương ứng là 7/11; 36/52 và 130/200 và mới đạt 60%

mức bình quân khu vực.
Bảng 4 : Tỉ trọng đóng góp của 3 yếu tố đầu vào đối với tăng trưởng kinh tế của
một số nước châu Á 1960 - 1994 (% năm)


Tên nước
Tăng trưởng GDP Vốn
Lao động
Trung Quốc
7,5
41,3
36,0
Thái Lan
7,5
49,3
26,6
Việt Nam (1992- 1997)
68,78
16,94
Việt Nam(1998-2004 )
60,20
25,37
Hàn Quốc
8,3
51,8
30,1
Nhật Bản ( 1950 - 1973)
9,2
33,7
27,1

Bảng 5: Tỷ trọng đóng góp của 3 yếu tố đầu vào đối với tăng trưởng GDP của Việt
Nam (%) 1992 - 2004
Các yếu tố
Tăng trưởng
Vốn
Lao động
TFP


1992 - 1997
100
68,78
16,94
14,28

1998 - 2004
100
60,20
25,37
14,43

Khảo sát tốc độ tăng trưởng giai đoạn 1991- 2015

Trong 10 năm 1991- 2000, tốc độ tăng GDP của nước ta có 4 năm đạt trên 8% là
1992 (8,7%), 1993 (8,08%), 1994 (8,83%) và 1997 (8,15%), có 2 năm đạt trên 9%
là 1995 (9,54%) và 1996 (9,34%); năm thấp nhất là 1999 (4,17%).
Trong thập niên 2001- 2010 tốc độ tăng GDP nhìn chung giảm so với 10 năm trước
đó, có 3 năm trên 7% là 2002 (7,08%), 2003 (7,34%), 2004 (7,79%); có 3 năm trên
8% là 2005 (8,44%), năm 2006 (8,23%) và 2007 (8,46%); năm thấp nhất là 2009
(5,32%.)

Trong 5 năm 2011-2015 tốc độ tăng GDP dưới 7%: 2011 (6,24%), 2012 (5,25%),
năm 2013 (5,42%), 2014 (5,98%) và 2015 (6,68%).
Như vậy, giai đoạn 1991 - 2015 có 12 năm nước ta đã đạt được tốc độ tăng trưởng
kinh tế khá cao, trong đó có 3 năm trên 7%, 7 năm trên 8% và 2 năm trên 9%; có
hai giai đoạn 6 năm liên tiếp 1992 - 1997 và 2002 - 2007 đạt được tốc độ tăng
trưởng trên 7%. Tuy vậy, trong một thập kỷ gần đây từ 2006 đến 2016 tốc độ tăng
GDP hàng năm chỉ bằng 2/3 của 17 năm trước đó.

TFP
22,7
24,1
14,28
14,43
29,6
39,2


Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm trong 5 kế hoạch 5 năm như sau: giai đoạn
1991 - 1995: 8,2%; giai đoạn 1996 - 2000: 7,0%; giai đoạn 2001- 2005: 7,5%; giai
đoạn 2006- 2010: 7,0% và giai đoạn 2011- 2015: 5,8%.
Những số liệu thống kê trên đây cho thấy rằng, nước ta có đủ tiềm năng đạt được
tốc độ tăng GDP trên 7%/năm, nếu từ thực tiễn 1/4 thế kỷ phát triển kinh tế thị
trường rút ra những bài học trong điều hành kinh tế vĩ mô có liên quan đến đầu tư
và tăng trưởng.
Việc kéo dài tình trạng giảm sút tốc độ tăng trưởng gần một thập niên của nền kinh
tế nước ta đã gây hậu quả ngày càng nghiêm trọng như thu nhập thực tế của dân cư
tăng chậm, cuộc sống của tầng lớp dân cư thu nhập thấp rất khó khăn, thu ngân
sách không đủ bù chi, bội chi ngân sách ở mức 5% kéo dài nhiều năm làm cho nợ
công gần đụng trần, ngân sách hàng năm dành để trả nợ nước ngoài tăng nhanh, tỷ
trọng đầu tư công trong chi ngân sách giảm.



Đối chiếu với một số nước Châu Á

Giáo sư Trần Văn Thọ, Việt kiều tại Nhật Bản, người có nhiều năm nghiên cứu
kinh tế Việt Nam vừa xuất bản cuốn “Cú sốc thời gian và kinh tế Việt Nam” viết
“Ở cấp quốc gia, yếu tố thời gian còn quan trọng hơn nữa. Lãnh đạo đất nước nếu
quyết tâm tiến hành cải cách nhanh chóng để phá bỏ rào cản phát triển, tận dụng cơ
hội của thời đại thì trong một thời gian ngắn có thể đưa đất nước lên hàng một
quốc gia tầm cỡ, được thế giới nể trọng”.
Nhật Bản là nước thua trận trong thế chiến thứ hai, xây dựng lại đất nước từ đống
tro tàn, chỉ cần 15 năm đã đạt mức thu nhập trung bình cao và thêm 13 năm sau đó
trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới do gần ba thập niên Nhật Bản có tốc dộ
tăng trưởng GDP bình quân trên 9%/năm.
Hàn Quốc bị tàn phá nặng nề trong chiến tranh Triều Tiên (1950- 1953), với khởi
điểm ban đầu không hơn nhiều so với Việt Nam lúc đó, đã đạt được tốc độ tăng


trưởng GDP 7,8%/năm trong thời gian 20 năm 1961- 1980, ngày nay đã trở thành
cường quốc công nghiệp, dẫn đầu thế giới nhiều sản phẩm công nghệ thông tin.
Đài Loan là hòn đảo với đội quân Quốc Dân Đảng thất trận phải chạy khỏi đại lục,
rất khó khăn khi đối đầu với nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, đã đạt được tốc
độ tăng trưởng GDP 9,7%/năm trong hai thập niên 1961- 1980, trở thành “một con
rồng Châu Á”.
Thái Lan mặc dù tình hình chính trị và xã hội không thật ổn định, đã xảy ra một số
cuộc đảo chính quân sự lật đổ chính thể dân sự, nhưng vẫn duy trì được tốc độ tăng
trưởng GDP 8,1%/năm từ 1980 đến 1995.
Cũng có một số quốc gia thất bại, từ một nước có trình độ phát triển cao trong khu
vực dần tụt hậu, bị các nước đi sau vượt qua, trở thành nước chậm phát triển. Đó là
trường hợp Philippines, giữa năm 50 của thế kỷ trước GDP/ người cao hơn Hàn

Quốc, đến năm 1976 mới đạt mức thu nhập trung bình thấp và duy trì cho đến nay,
trong khi Hàn Quốc đã vượt lên khá xa.
Những yếu tố chính của các quốc gia thành công là ý chí và tài năng của các nhà
lãnh đạo đất nước, một chính phủ có chiến lược phát triển thích ứng với thời đại,
biết khai thác tài năng của dân tộc, với bộ máy nhà nước và đội ngũ công chức có
hiệu năng.
Nhật Bản không thể không ghi nhớ công lao của ông Ikeda Hayato, vị Thủ tướng
đã biến giấc mơ của mình thành giấc mơ của dân tộc. Người Hàn Quốc trân trọng
di sản của Tổng thống Park Chung Hee, người đã đặt nền móng cho việc biến một
nước nghèo trở thành một cường quốc công nghiệp. Trong khi đó, người Singapore
coi Ông Lý Quang Diệu là kiến trúc sư đã biến một hòn đảo lạc hậu thành quốc
đảo phát triển với thu nhập tính theo đầu người vào loại cao nhất thế giới, đang xây
dựng quốc gia thông minh nhờ vào “Bí quyết hóa rồng”, như chính tên của cuốn
nhật ký của nhà lãnh đạo này.


Cần và có thể gia tăng tốc độ tăng trưởng


Tác giả quyển “Cú sốc thời gian và kinh tế Việt Nam” giả định, trong 25 năm vừa
qua nếu kinh tế Việt Nam đạt được tốc độ tăng trưởng hàng năm cao như Nhật
Bản, Hàn Quốc, Đài Loan thì hiện nay đã có thể đã gia nhập nhóm nước thu nhập
cao.
Tất nhiên lịch sử không quay trở lại, nhưng nhìn lại lịch sử và đối chiếu với các
dân tộc khác sẽ cho chúng ta thấy tầm quan trọng của việc khôi phục tốc độ tăng
trưởng, để rút ngắn thời gian thực hiện mục tiêu đuổi kịp và san bằng khoảng cách
về trình độ phát triển của các nước tiên tiến trong khu vực.
Vậy có khả năng đạt được tốc độ tăng trưởng cao hơn không? Câu trả lời là hoàn
toàn có thể nếu trong điều hành kinh tế vĩ mô coi trọng hơn nữa và áp dụng đồng
bộ hệ thống giải pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực của quốc gia.

Theo Viện Chiến lược phát triển, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, với tỷ lệ vốn đầu tư/GDP
cao như của Việt Nam, nếu hiệu quả kinh tế đạt được như Nhật Bản, Hàn Quốc,
Đài Loan trong hai thập niên đầu của công nghiệp hóa thì tốc độ tăng trưởng kinh
tế trung bình hàng năm của nước ta đạt trên 10%. Trong khi tỷ lệ vốn đầu tư/GDP
của các “Con rồng Châu Á” dưới 30%, trong đó Hàn Quốc là 23,3%, Đài Loan
26,2% thì Việt Nam có nhiều năm trên 40%, nhưng do hiệu quả sử dụng vốn thấp
nên tốc độ tăng trưởng kinh tế không cao.
Theo đánh giá của nhiều chuyên gia kinh tế, mặc dù Việt Nam đang phải đối mặt
với những khó khăn và thách thức lớn, nhưng so với một số nước ASEAN thì có
lợi thế lớn: ở vào giai đoạn dân số vàng, đội ngũ lao động khéo tay, cần cù và thích
nghi với công nghệ hiện đại, công nghệ thông tin, có ý chí làm giàu nhất là giới trẻ
trong trào lưu khởi nghiệp, ổn định chính trị, an ninh kinh tế, hội nhập sâu với thế
giới. Không có lý do gì để không tin rằng, khi công cuộc cải cách được tiến hành
nhanh hơn, đồng bộ và hiệu quả hơn, khi sự phân bố nguồn lực hợp lý hơn, việc sử
dụng nguồn lực có hiệu quả hơn, thì chỉ cần duy trì tỷ lệ vốn đầu tư/GDP 30-32%
cũng có thể đạt được tốc độ tăng trưởng 9-10%/năm.


Chương trình Phát triển Liên hiệp quốc (UNDP) nhận định: nếu Việt Nam thực sự
quyết tâm nâng cao năng suất lao động, cải cách giáo dục, cải cách ba lĩnh vực
kinh tế (ngân hàng, doanh nghiệp quốc doanh, đầu tư công), cải cách hành chính và
chấp nhận vai trò quan trọng của khu vực kinh tế tư nhân thì hoàn toàn có thể trở
thành con hổ kinh tế mới của châu Á trong tương lai. Việt Nam sẽ “giàu trước khi
già”, vì theo dự báo đến năm 2030 Việt Nam sẽ có tỷ lệ người trên 65 tuổi cao hơn
Malaysia, Indonexia, Ấn Độ, đến năm 2050 thậm chí còn cao hơn Mỹ.
Báo cáo tại Quốc hội trong kỳ họp cuối năm 2016, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu
tư Nguyễn Chí Dũng đã nhận định rất đúng rằng: “Thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế
nếu chỉ dựa vào số lượng nguồn lực chưa đủ, điều quan trọng phải sử dụng hiệu
quả nguồn lực trước hết là nguồn lực của Nhà nước. Huy động thêm nguồn lực là
cần thiết nhưng mục tiêu của kế hoạch... cần tập trung vào các giải pháp tái cơ cấu,

nâng cao chất lượng, hiệu quả, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, trước hết là
hiệu quả của đầu tư”.
Định hướng và giải pháp đã rõ ràng, vấn đề quyết định là chỉ đạo kinh tế vĩ mô của
Chính phủ trong việc phân bố ngân sách nhà nước vào lĩnh vực và ngành kinh tế có
hiệu quả, giảm thiểu thất thoát, lãng phí trong đầu tư công, kiên quyết sửa chữa hệ
thống phân bố nguồn lực quốc gia sai lệch, tập trung quá nhiều nguồn lực cho
những ngành khai thác tài nguyên, công nghiệp cổ điển, thâm dụng lao động, giá
trị gia tăng thấp, chuyển trọng tâm sang các ngành công nghệ cao, dịch vụ hiện đại.
2.3 Nhận xét và đánh giá
• Nhìn lại năm 2016, đánh giá về kinh tế Việt Nam?
Trong bối cảnh kinh tế thế giới hồi phục khó khăn, rủi ro nhiều, kinh tế Việt Nam
đã có những dấu hiệu cải thiện cả ở góc độ sản xuất kinh doanh cũng như ổn định
kinh tế vĩ mô.


×