Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Giải pháp nhằm hạn chế lượng vốn chết dưới dạng vàng trong dân thông qua hệ thống tài chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (317.76 KB, 27 trang )

HỌC VIỆN NGÂN HÀNG

TÀI CHÍNH HỌC
Giải pháp nhằm hạn chế lượng
vốn "chết" dưới dạng vàng trong
dân thông qua hệ thống tài chính

Nhóm 1
Ca 2 Thứ 3, Thứ 4
Giảng Viên:

NĂM HỌC: 2016-2017


MỤC LỤC:
I. Lý luận chung về hệ thống tài chính

2.2.1. Lượng vàng nắm giữ trong dân

04
04
04
04
05
06
06
07
09
10
11
13


13
13
15
15
15
17
19
19
20
20
20

2.2.2. Tình hình huy động vàng thông qua hệ thống tài chính trước đây

20

1.1.

Các quan niệm về hệ thống tài chính

1.1.1.

Quan niệm thứ nhất

1.1.2.

Quan niệm thứ hai

1.1.3.


Quan niệm thứ ba

1.2.

Tổ chức hệ thống tài chính Việt Nam hiện nay

1.2.1.

Thị trường tài chính

1.2.2.

Tổ chức tài chính

1.2.3.

Các công cụ tài chính

1.2.4.

Cơ sở hạ tầng tài chính

1.3.

Vai trò của hệ thống tài chính trong huy động vốn

II. Thực trạng về việc nắm giữ vàng trong dân ở Việt Nam hiện nay
2.1.

Thực trạng vốn trong dân


2.1.1. Lượng vốn trong dân
2.1.2. Các hình thức sử dụng vốn trong dân
2.2.

2.3.

Thực trạng nắm giữ vàng trong dân

Nguyên nhân của tình trạng vốn “chết” dưới dạng vàng trong dân

2.3.1. Tập quán, thói quen
2.3.2. Do lạm phát
2.3.3. Do thiếu niềm tin vào đồng nội tệ
2.3.4. Hạn chế về hiểu biết và nhận thức trong đầu tư, kinh doanh, hiểu
biết chung về nền kinh tế
2.3.5. Chưa có nhiều kênh đầu tư, công cụ đầu tư hấp dẫn

NHÓM 1

2


2.3.6. Nền kinh tế chậm phát triển
2.3.7. Thị trường vàng không được kiểm soát một cách nghiêm ngặt
III. Giải pháp nhằm hạn chế lượng vốn “chết” dưới dạng vàng
thông qua hệ thống tài chính
3.1. Dự báo xu hướng việc nắm giữ vàng trong dân
3.2.
Giải pháp huy động vốn thông qua hệ thống tài chính nhằm hạn

chế lượng vốn “chết” dưới dạng vàng trong dân hiện nay

21
21
22
22
24

I. Lý luận chung về hệ thống tài chính:
NHÓM 1

3


1.1.

Các quan niệm về hệ thống tài chính:
1.1.1. Quan điểm 1:
Căn cứ vào mục tiêu kiểm soát lãi suất, hệ thống tài chính(HTTC) được chia
thành hai mô hình là HTTC được kiểm soát và HTTC tự do
*HTTC được kiểm soát:- Lãi suất được ấn định
- Không tồn tại yếu tố cạnh tranh về mặt lãi suất.
*HTTC tự do:- Lãi suất chịu tác động của thị trường
- Tồn tại sức ép về cạnh tranh lãi suất.
Theo quan điểm này, HTTC đã nhấn mạnh đén vai trò kiểm soát của nhà nước,
đặc biệt là kiểm soát đối với lãi suất.Cho đến nay , thực tế đã chứng minh việc đề
cao hay xem nhẹ quá mức vai trò kiểm soát của nhà nước đối với lãi suất đều gây
ra những hậu quả khôn lường.
1.1.2. Quan điểm 2:
Hệ thống tài chính là tổng thể các hoạt động tài chính trong các lĩnh vực

khác nhau của nền kinh tế quốc dân, nhưng có quan hệ hữu cơ với nhau trong quá
trình tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ nhằm đáp ứng nhu cầu khác nhau của cá
chủ thể kinh tế - xã hội.
Xuất phát từ các chủ thể kinh tế , trong quan điểm này thị trường tài chính
được chia thành nhiều phần khác nhau , bao gồm : Ngân sách nhà nước , Bảo hiểm,
Tài chính hộ gia đình và các tổ chức XH, Tài chính doanh nghiệp, Tín dụng.
Ví dụ về một số chủ thể :
-Ngân sách Nhà nước
Ngân sách Nhà nước ngắn liền với các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước,
đồng thời là phương tiện vật chất cần thiết để hệ thống chính quyền nhà nước thực
hiện được nhiệm vụ của mình. Trong điều kiện của nền Kinh tế thị trường. Ngân
sách Nhà nước còn có vai trò to lớn trong điều tiết vĩ mô của nền kinh tế – xã hội.
Đó là vai trò định hướng phát triển sản xuất, điều tiết thị trường, bình ổn giá cả,
điều chỉnh đời sống xã hội.. Để thực hiện được các vai trò đó, ngân sách nhà nước
phải có các nguồn vốn được tập trung từ các tụ điểm vốn thông qua các chính sách
thu thích hợp. Ngân sách Nhà nước thực hiện các khoản chi cho tiêu dùng thường
NHÓM 1

4


xuyên và chi đầu tư kinh tế. Việc cấp phát vốn Ngân sách Nhà nước cho các mục
đích khác nhau sẽ làm tăng nguồn vốn ở các tụ điểm nhận vốn
-Tài chính dân cư và các tổ chức xã hội
Đây là một tụ điểm vốn quan trọng trong hệ thống tài chính. Hoạt động tài
chính của các nước có nền kinh tế phát triển và hoạt động tài chính ở nước ta
những năm gần đây đã chỉ ra rằng: nếu có những biện pháp thích hợp, chúng ta có
thể huy động được một khối lượng vốn đáng kể từ các hộ gia đình để phục vụ cho
sự nghiệp phát triển kinh tế, đồng thời còn góp phần to lớn vào việc thực hiện các
chính sách về định hướng tích lũy và tiêu dùng của nhà nước.

Tuy nhiên vì nhiều lí do chủ quan và khách quan thì việc tổ chức và quản lý
hệ thống tài chính theo quan điểm này không còn phù hợp với nền kinh tế hội nhập
sâu và rộng vào nền kinh tế thế giới.
1.1.3. Quan điểm 3:
Hệ thống tài chính đước xét theo các thức luân chuyển và cung ứng vốn của
nền kinh tế.
Với quan điểm này, HTTC bao gồm : Thị trường tài chính, Các định chế tài
chính trung gian, Cơ sở hạ tầng pháp lý kĩ thuật , Các tổ chức giám sát và điều
hành tài chính.
Quan niệm này phản ánh tổng hợp về hệ thống tài chính trong đó nhấn mạnh
các cách thức thúc đẩy sự luân chuyển vốn từ người có vốn sang người cần vốn
một các nhanh nhạy , hiệu quả và an toàn nhằm thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng
bền vững.Theo quan điểm này các chủ thể trong nền kinh tế đóng vai trò là người
cung ứng vốn và hấp thụ vốn, từ đó có thể vừa tạo điều kiện vừa tác động đến tính
hiệu quả hoạt động của hệ thống tài chính.
Ba quan niệm về hệ thống tài chính nêu trên đã chỉ ra rằng:
- Quan niệm thứ nhất phản ánh hệ thống tài chính nhưng nhấn mạnh đến vai
trò của nhà nước trong việc kiểm soát các dòng tài chính.
- Quan niệm thứ hai phản ánh hệ thống tài chính nhưng nhấn mạnh đến vai
trò của các chủ thể kinh tế trong việc tạo lập và sử dụng nguồn tài chính.

NHÓM 1

5


- Quan niệm thứ ba phản ánh một cách tổng hợp về hệ thống tài chính trong
đó nhấn mạnh các cách thức thúc đẩy sự luân chuyển vốn từ người có vốn sang
người cần vốn một cách nhanh nhạy, hiệu quả và an toàn nhằm thúc đẩy nền kinh
tế tăng trưởng bền vững. Theo quan điểm này các chủ thể trong nền kinh tế đóng

vai trò là người cung ứng vốn và hấp thụ vốn, từ đó vừa tạo điều kiện, vừa tác động
đến tính hiệu quả hoạt động của hệ thống tài chính.
1.2.

Tổ chức hệ thống tài chính Việt Nam hiện nay:
Hệ thống tài chính giữ vai trò cực kỳ quan trọng trong nền kinh tế với chức
năng chủ yếu là huy động và phân bổ các nguồn lực trong nền kinh tế. Hệ thống tài
chính vừa là kênh tiết kiệm cho khu vực hộ gia đình, vừa là kênh đầu tư cho khu
vực doanh nghiệp, và cũng là kênh dẫn truyền các chính sách kinh tế vĩ mô của
chính phủ. Các chức năng này của hệ thống tài chính được phổ biến ở hầu hết các
nền kinh tế. Tuy nhiên, hình thức và tổ chức của hệ thống tài chính thường rất đa
dạng ở các quốc gia khác nhau do phụ thuộc vào trình độ phát triển cũng như cơ
cấu của nền kinh tế. Bài viết này chủ yếu tóm lược một số thông tin cơ bản về 4
thành tố cấu thành chính của hệ thống tài chính Việt Nam tính đến đầu năm 2013,
bao gồm: thị trường tài chính, các tổ chức tài chính, các công cụ tài chính và cơ sở
hạ tầng tài chính.

1.2.1.

Thị trường tài chính:
Có rất nhiều cách chia thị trường tài chính khác nhau. Các thuật ngữ về thị
trường tài chính hay được dùng ở Việt Nam ở thời điểm hiện tại gồm: thị trường
vốn, thị trường tiền tệ, thị trường ngoại hối. Sau đây là một số cách chia khác nhau.
Phân loại:
- Dựa vào thời hạn của tín dụng, thị trường tài chính được chia làm hai loại
là thị trường tiền tệ (nơi giao dịch các công cụ tài chính có thời hạn dưới 1 năm) và
thị trường vốn (nơi giao dịch các công cụ tài chính có thời hạn trên 1 năm). Ở các
nền kinh tế phát triển nói chung, thị trường tiền tệ thường do các ngân hàng thực
hiện. Đối với nhu cầu vốn trung và dài hạn chủ yếu thực hiện theo hình thức trực
tiếp trên thị trường chứng khoán. Ngược lại, đối với Việt Nam có đặc thù riêng,

hầu hết vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn đều do các ngân hàng thương mại cung
cấp, các loại thị trường khác đang có quy mô rất nhỏ. Hay nói cách khác, ở Việt
Nam, việc huy động và phân bổ vốn chủ yếu thực hiện qua các trung gian tài
chính, trong đó các ngân hàng thương mại đóng vai trò chính.

NHÓM 1

6


- Dựa trên loại tín dụng, Việt Nam đã có thị trường tín phiếu, thị trường trái
phiếu, thị trường cổ phiếu; thị trường vay nợ ngân hàng. Trong đó, thị trường vay
nợ ngân hàng là phổ biến nhất.
- Thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp: Việt Nam cũng đã có thị trường sơ
cấp là nơi phát hành chứng khoán lần đầu tiên. Trên thị trường thứ cấp, hiện có
nhiều loại tài sản tài chính được giao dịch, bao gồm trên 700 mã cổ phiếu (thuộc
nhiều lĩnh vực khác nhau như tài chính, ngân hàng, bất động sản, vận tải, thủy
sản...), 4 chứng chỉ của quỹ đầu tư, rất nhiều loại trái phiếu chính phủ, trái phiếu
của các tổ chức tài chính (như BIDV, ACB, VPB...), và các doanh nghiệp Việt Nam
(như Vincom, Hoàng Anh Gia Lai, Công ty Tân Tạo, Tập đoàn Sông Đà...).
- Thị trường tập trung và thị trường phi tập trung: Ở Việt Nam, số lượng các
doanh nghiệp giao dịch trên thị trường tập trung rất ít, trong khi các giao dịch trên
thị trường phi tập trung là chủ yếu.
- Thị trường chính thức và phi chính thức: Ngoài thị trường tài chính chính
thức, nơi mà các ngân hàng, các công ty tài chính, các công ty chứng khoán... hoạt
động, ở Việt Nam còn có thị trường phi chính thức là các hợp tác xã tín dụng, các
tổ chức tín dụng vi mô ở nông thôn, hụi... hoạt động. Các loại hình tín dụng phi
chính thức này đóng một vai trò đáng kể trong phát triển kinh tế xã hội Việt Nam.”
1.2.2.


Tổ chức tài chính:
- Ngân hàng Trung ương: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (Ngân hàng Nhà
nước) là cơ quan của Chính phủ và là ngân hàng trung ương của nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam. Ngân hàng Nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà
nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng; là ngân hàng phát hành tiền, ngân hàng
của các tổ chức tín dụng và ngân hàng làm dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ. Hoạt
động của Ngân hàng Nhà nước nhằm ổn định giá trị đồng tiền, góp phần bảo đảm
an toàn hoạt động ngân hàng và hệ thống các tổ chức tín dụng, thúc đẩy phát triển
kinh tế - xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Ngân hàng Nhà nước là một
pháp nhân, có vốn pháp định thuộc sở hữu nhà nước; có trụ sở chính tại Thủ đô Hà
Nội.
- Các tổ chức tín dụng:
+ Các ngân hàng thương mại: Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh tế,
hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, tín dụng, nó cung cấp một số dịch vụ
cho khách hàng và ngược lại nó nhận tiền gửi của khách hàng với các hình thức
khác nhau.

NHÓM 1

7


+ Ngân hàng chính sách xã hội: là ngân hàng quốc doanh được thành lập
trên cơ sở tổ chức lại Ngân hàng Phục vụ Người nghèo thuộc Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam.
+ Các công ty tài chính: tổ chức tài chính là tổ chức có chức năng cung cấp
các dịch vụ tài chính cho các khách hàng hoặc các thành viên. Có lẽ dịch vụ tài
chính quan trọng nhất mà các tổ chức tài chính cung cấp là hoạt động như
các trung gian tài chính. Phần lớn các tổ chức tài chính được đặt dưới sự kiểm soát
chặt chẽ của nhà nước.

+ Các quỹ tín dụng
+ Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước và các tổ chức hoạt động trên thị trường
chứng khoán Uỷ ban chứng khoán nhà nước: Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước khi
mới thành lập là cơ quan trực thuộc Chính phủ, năm 2004 chuyển thành cơ quan
trực thuộc Bộ tài chính. Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước có nhiệm vụ chính trong
việc tổ chức và giám sát các hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam.
+ Các công ty chứng khoán: Hoạt động với chức năng là các tổ chức môi
giới trên thị trường chứng khoán như lập các thủ tục phát hành, bảo lãnh phát hành
chứng khoán…
+ Ngân hàng chỉ định thanh toán: Trên thị trường có một ngân hàng chỉ định
thanh toán là Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
+ Ngân hàng lưu ký chứng khoán: Việt Nam hiện có 7 ngân hàng lưu ký
chứng khoán, trong đó có 6 chi nhánh ngân hàng nước ngoài và một ngân hàng
Việt Nam (Ngân hàng TMCP Tiên Phong).
+ Công ty quản lý quỹ đầu tư: Tính đến đầu năm 2013, có 47 công ty quản
lý quỹ đầu tư chứng khoán đang hoạt động.
+ Các công ty niêm yết: Tính đến đầu năm 2013, có trên 700 công ty cổ
phần niêm yết trên cả hai sàn chứng khoán trong tổng số hơn 1.033 công ty đại
chúng đã đăng ký công bố thông tin.
+ Ngoài ra còn có 24 quỹ đầu tư, với quy mô vốn điều lệ khoảng gần 14,5
nghìn tỷ đồng, đóng vai trò đáng kể trên thị trường chứng khoán nói riêng, thị
trường tài chính nói chung.
+ Các công ty bảo hiểm
+ Tiết kiệm bưu điện: Đây là tổ chức thực hiện các loại hình huy động tiết
kiệm nhỏ lẻ dựa trên hệ thống bưu cục rộng khắp của Tổng công ty Bưu chính
Viễn thông Việt Nam. Tháng 2/2011, được sự cho phép của Thủ tướng Chính phủ,
NHÓM 1

8



Tổng công ty Bưu chính Việt Nam đã tham gia góp vốn vào Ngân hàng TMCP
Liên Việt bằng giá trị Công ty Dịch vụ Tiết kiệm Bưu điện và bằng tiền.
+ Quỹ hỗ trợ phát triển và các quỹ đầu tư phát triển của các tỉnh, thành phố:
Quỹ hỗ trợ phát triển là tổ chức cấp tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước (tín
dụng chỉ định) cho các dự án.
1.2.3.

Các công cụ tài chính:
Trong các giáo trình thường chia các công cụ tài chính trên thị trường vốn,
thị trường tiền tệ, thị trường ngoại hối, công cụ tài chính phái sinh ... Việc chia này
cũng có tính chất tương đối vì nhiều loại công cụ tài chính được giao dịch trên
nhiều thị trường khác nhau. Ví dụ: các loại công cụ tài chính phái sinh có thể được
giao dịch trên thị trường tiện tệ, thị trường vốn, thị ngoại hối, thị trường nông sản...
hay ở Việt Nam, trái phiếu chính phủ vẫn có thể giao dịch trên thị trường tiền tệ,..
Hiện tại trên thị trường tài chính Việt Nam có các loại công cụ tài chính sau:
+ Các khoản cho vay của các ngân hàng và các tổ chức tài chính khác: Phần
này chiếm tỷ trọng chủ yếu trong việc phân phối vốn cho nền kinh tế.
+ Trái phiếu chính phủ: Các trái phiếu chính phủ được đấu thầu và giao dịch
chủ yếu qua Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội. Ngoài ra trái phiếu chính phủ còn
được phát hành thông qua hệ thống các kho bạc nhà nước địa phương.
+ Tín phiếu kho bạc: Loại này do Kho bạc nhà nước phát hành và được đấu
giá chủ yếu thông qua thị trường mở của Ngân hàng nhà nước. Đây là một công cụ
huy động nguồn vốn cho chi tiêu ngân sách rất quan trọng của chính phủ.
+ Trái phiếu đô thị: Do các chính quyền địa phương (tỉnh, thành phố) phát
hành.
+ Trái phiếu công ty: Loại này tương đối ít, chủ yếu do các ngân hàng
thương mại, các tổ chức tài chính và một số công ty lớn phát hành.
+ Chứng chỉ tiền gửi: Theo phân loại trong các giáo trình thì chứng chỉ tiền
gửi là công cụ tài chính của thị trường tiền tệ, nhưng đặc trưng của Việt Nam,

chứng chỉ tiền gửi là một loại giấy tờ có giá do các ngân hàng phát hành có thời
hạn trên 1 năm với những đặc điểm tương tự như trái phiếu. Loại hình giấy tờ có
giá do các ngân hàng thương mại phát hành có thời hạn dưới một năm được gọi là
kỳ phiếu.
+ Cổ phiếu: Hiện ở Việt Nam đã có rất nhiều công ty cổ phần nên loại hình
này tương đối phổ biến.

NHÓM 1

9


+ Hợp đồng mua lại chứng khoán: Các hợp đồng mua lại đã hình thành và
đặc biệt trở nên phổ biến trong giai đoạn 2006-2007 gắn với giai đoạn phát triển
nóng của thị trường chứng khoán.
+ Phiếu nợ thương mại (thương phiếu): Hiện đã có Luật các Công cụ chuyển
nhượng (2005) quy định về việc phát hành, lưu thông, trao đổi, chuyển nhượng và
chiết khấu thương phiếu. Tuy nhiên nhìn chung đến nay, công cụ này vẫn rất hiếm
khi được doanh nghiệp phát hành.
+ Hối phiếu có ngân hàng chấp thuận: Hiện loại hình này thực hiện trong các
giao dịch ngoại thương.
+ Vay thế chấp mua bất động sản: Hiện ở Việt Nam đã có công cụ này và các
ngân hàng thương mại cổ phần đi đầu trong việc cho vay theo phương thức này.
- Các loại công cụ tài chính phái sinh:
+ Hợp đồng kỳ hạn (Forward contract): Hiện trên thị trường Việt Nam có
loại hình giao dịch này và chủ yếu là các hợp đồng mua bán ngoại tệ.
+ Hợp đồng tương lai (Future contract): Hiện ở Việt Nam chưa có.
+ Hoán đổi (Swap): Hiện ở Việt Nam đã có loại hình này, nhưng lượng giao
dịch rất hạn chế. Các giao dịch chủ yếu được thực hiện trên thị trường ngoại hối.
Các loại hình hoán đổi khác như lãi suất... hầu như chưa xuất hiện.

+ Quyền chọn: Hiện một số ngân hàng Việt Nam đã có loại hình giao dịch
này, nhưng khối lượng giao dịch là rất hạn chế. Chưa có tổ chức tài chính nào thực
sự bán quyền chọn mà chỉ thực hiện dưới hình thức là các trung gian.
1.2.4.

Cơ sở hạ tầng tài chính:
- Hệ thống luật pháp và quản lý của nhà nước: Tính đến thời điểm hiện tại,
với bối cảnh và điều kiện thực tiễn ở Việt Nam thì hệ thống luật pháp được đánh
giá là tương đối đầy đủ để hệ thống tài chính hoạt động. Hiện đã có Luật Ngân
sách Nhà nước, Luật Ngân hàng Nhà nước, Luật các Tổ chức tín dụng, Luật Kinh
doanh bảo hiểm, Luật Chứng khoán. Tuy nhiên vấn đề quản lý nhà nước chưa thực
sự đồng bộ và thống nhất. Một số tổ chức có quy mô hoạt động tín dụng rất lớn
nhưng không chịu sự chi phối của Luật các Tổ chức tín dụng và chịu sự giám sát
rất hạn chế của Ngân hàng Nhà nước như Ngân hàng Phát triển Việt Nam (tiền
thân là Quỹ Hỗ trợ phát triển) và các quỹ đầu tư phát triển địa phương.
- Nguồn lực và thông lệ giám sát: Theo đánh giá thì nguồn lực và các thông
lệ giám sát chưa đáp ứng nhu cầu cho hệ thống tài chính hoạt động lành mạnh, phát
triển bền vững và hội nhập quốc tế.
NHÓM 1

10


- Cung cấp thông tin: Hiện nay các ngân hàng nói riêng, các tổ chức tài
chính nói chung đang từng bước áp dụng các chuẩn mực kế toán quốc tế. Các quy
định về kiểm toán vẫn chưa thực sự đầy đủ và được tuân thủ một cách nghiêm
ngặt. Hiện vẫn chưa có hệ thống lưu trữ thông tin tín dụng và tổ chức xếp loại tín
dụng đủ độ tín cậy. Hiện trung tâm thông tin tín dụng (CIC) của Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam đang đảm nhận nhiệm vụ này. Tuy nhiên để trở thành một tổ chức
có độ tin cậy cao thì CIC còn rất nhiều việc phải làm.

- Hệ thống thanh toán: Trước năm 2000, hầu hết các tổ chức tài chính ở Việt
Nam sử dụng hệ thống thanh toán phân tán. Nhưng từ năm 2000 đến nay, các tổ
chức tài chính, nhất là các ngân hàng thương mại đã xây dựng hệ thống thanh toán
tập trung. Từ năm 2002, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã triển khai hệ thống
thanh toán liên ngân hàng. Đây là một bước tiến trong việc áp dụng công nghệ
thanh toán của hệ thống tài chính Việt Nam.
1.3.

Vai trò của hệ thống tài chính trong huy động vốn:
- Hệ thống tài chính và sơ đồ dòng vốn:

Trung gian tài chính

Người cần vốn
Người có vốn
- Hộ gia đình- Hộ gia đình
- Doanh nghiệp
- Doanh nghiệp
- Chính phủ - Chính phủ

TTTCTT

- Các chủ thể- Các
khácchủ thể khác

Sơ đồ Sự vận động của dòng vốn

NHÓM 1

11



+ Theo chiều mũi tên, dòng vốn được chuyển từ người có vốn sang người cần vốn
thông qua hai kênh: thị trường tài chính trực tiếp và trung gian tài chính. Vốn được vận
động từ người có vốn sang người cần vốn thông qua thị trường tài chính được gọi là kênh
dẫn vốn trực tiếp. Thị trường tài chính là nơi diễn ra hoạt động mua bán quyền sử dụng
nguồn tài chính. Ở đây, người có vốn và người cần vốn gặp gỡ nhau một cách trực tiếp,
giá cả của quyển sử dụng nguồn tài chính được hình thành theo quan hệ cung cầu nên vừa
có lợi cho người có vốn, vừa có lợi cho người cần vốn. Bên cạnh đó, kênh dẫn vốn gián
tiếp được thực hiện thông qua sự vận động vốn từ người có vốn sang người cần vốn qua
trung gian tài chính. Qua kênh này, người có vốn và người cần vốn không gặp nhau một
cách trực tiếp mà phải thông qua các trung gian tài chính như các ngân hàng thương mại,
công ty tài chính, quỹ bảo hiểm… Các trung gian tài chính là người chắp nối thông tin
giữa người có vốn và người cần vốn tham gia vào quá trình phân bổ vốn. Với hoạt động
chuyên nghiệp, các trung gian tài chính sàng lọc bớt các rủi ro xảy ra, từ đó đảm bảo an
toàn cho người có vốn và người cần vốn. Tuy nhiên, hoạt động này lại làm giảm lợi
nhuận của người có vốn và làm tăng chi phí của người cần vốn.
+ Dòng luân chuyển vốn cũng được thực hiện từ người có vốn qua thị trường tài
chính sang trung gian tài chính. Dòng vốn này thể hiện các trung gian tài chính cũng là
một chủ thể cần vốn, họ có thể phát hành chứng khoán ra thị trường tài chính để huy
động vốn. Việc huy động vốn của các trung gian tài chính theo cách này làm tăng tính
thanh khoản của họ, tuy nhiên lại làm tăng chi phí so với huy động vốn từ tiền gửi vì đây
là cách huy động vốn mang tính chủ động. Ngược lại, dòng vốn cũng được luân chuyển
từ trung gian tài chính sang người cần vốn qua thị trường tài chính. Dòng vốn này thể
hiện hoạt động đầu tư của các trung gian tài chính trên thị trường tài chính. Các trung
gian tài chính có thể đầu tư mua cổ phiếu, trái phiếu khi họ thấy có lợi. Hoạt động này
làm tăng lợi nhuận cho các trung gian tài chính nhưng lại tiềm ẩn rủi ro cao.
=> Như vậy, dòng vốn trong xã hội được luân chuyển theo các cách thức khác
nhau. Mỗi cách thức luân chuyển vốn đều mang lại những điểm lợi và bất lợi cho người
có vốn và người cần vốn. Xét trên góc độ tổng thể, sự vận động đa dạng của các dòng

vốn đã làm cho vốn trong xã hội được sử dụng một cách triệt để và kích thích đồng vốn
“chảy” được đến nơi có hiệu quả sử dụng vốn cao nhất, từ đó tạo điều kiện cho nền kinh
tế tăng trưởng.

NHÓM 1

12


II. Thực trạng về việc nắm giữ vàng trong dân ở
Việt Nam hiện nay:
2.1.
Thực trạng vốn trong dân:
2.1.1. Lượng vốn trong dân:

- Nhìn tổng thể trong năm 2014, vốn huy động từ dân cư là không hề nhỏ. Theo
thống kê, lượng vàng dự trữ trong khu vực dân cư xấp xỉ 10 tỉ USD, tiền mặt và các
ngoại tệ khác chiếm xấp xỉ 80% tổng vốn huy động của toàn bộ hệ thống ngân hàng.
Thực tế khi phát hành trái phiếu chính phủ từ khu vực dân cư có thể huy động hàng ngàn
tỉ đồng. Nhiều hộ kinh doanh đã trở thành đơn vị kinh tế năng động trong lĩnh vực kinh
doanh ở địa phương. Ở một mức độ nhất định thì các hộ gia đình sẽ là một số các nguồn
tập trung và phân phối vốn quan trọng trong nền kinh tế.
- Theo các nguồn số liệu thống kê trong giai đoạn 2015: So với khu vực kinh tế
nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (FDI), khu vực kinh tế tư nhân đóng góp
hơn 40% GDP cả nước, 30% giá trị tổng sản lượng công nghiệp, chưa tới 5% vốn từ dân,
gần 80% tổng mức lưu chuyển hàng hóa bán lẻ và dịch vụ, 64% tổng lượng hàng hóa và
100% giá trị sản lượng hàng hóa vận chuyển. Trong thời gian tới, theo dự báo của Tổng
cục Thống kê, khu vực kinh tế tư nhân vẫn đóng góp khoảng 30% ngân sách và khoảng
40% GDP của cả nước.
- Tổng doanh thu bảo hiểm năm 2016 trên địa bàn Hà Nội là 4.450 tỷ đồng trong

đó bảo hiểm nhân thọ đạt doanh thu 2.124 tỷ đồng. Tổng số hợp đồng bảo hiểm có hiệu
lực năm 2008 là 423.667 hợp đồng bảo hiểm với số dân Hà Nội là 3,4 triệu người vậy thì
chỉ có 12% dân số tham gia bảo hiểm nhân thọ. Tỷ lệ này là quá thấp so với các nước
trong khu vực và trên thế giới.
- Trong nước ta: Vốn dân cư của Hà Nội (đơn vị: tỷ VNĐ)
2010

2011

Tổng nguồn vốn
74,477
92,500
huy động
Dân cư
33,263
41,230
(Số liệu theo IMF)

NHÓM 1

2012

2013

147,175

172,160

56,288


64,750

13


Đồ thị biểu thị tỉ lệ gia tăng lượng vốn trong dân từ tháng 01/2016 đến tháng 1/2017
2.1.2. Các hình thức sử dụng vốn trong dân:

- Đầu tư vào ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng: người dân gửi tiết
kiệm (nhà cửa, tiền mặt, đất đai, vàng bạc, ngoại tệ mạnh,…), không những vậy người
dân có thể mua cổ phiếu ngân hàng (hiện tại ngân hàng đẩy mạnh việc cổ phần hóa) hoặc
có thể mua kỳ phiếu, các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng và các tổ chức tài chính. Qua
đó tăng vốn ban đầu của người dân.
- Đầu tư vào thị trường chứng khoán: người dân có thể mua cổ phiếu để sinh lãi
nhưng trên thực tế đầu tư vào thị trường chứng khoán nếu không phải doanh nghiệp hoặc
“tay chơi chuyên nghiệp” thì khi chọn sai cổ phiếu tỉ lệ thua lỗ là khá cao trên thị trường
này. Nhưng thị trường chứng khoán vẫn là một kênh đầu tư an toàn đặc biệt hơn, hạn chế
được rủi ro trong thời kỳ nền kinh tế tăng trưởng nhưng vẫn đem lại mức lợi tức tương
đối so với các kênh đầu tư khác.
- Đầu tư vào lĩnh vực bảo hiểm: khi mua bảo hiểm người dân có thể kiểm soát
được rủi ro tuyệt đối. Không những thế mà người dân bảo vệ được tài chính, tích lũy mà
còn mang lại hiệu suất tài chính cao, an toàn. Ngoài ra, khi mua bảo hiểm, người dân còn
có quyền lợi là được lựa chọn đầu tư phí bảo hiểm vào những quỹ đầu tư mà người dân

NHÓM 1

14


cho là phù hợp để tối đa hóa lợi ích mang lại. Nhà đầu tư không nhất thiết là chuyên gia

đầu tư.
- Đầu tư bất động sản: Trên thị trường bất động sản là khả năng sinh lợi dài hạn.
Với đặc thù của thị trường Việt Nam trong những năm qua là quá trình đô thị hóa vô cùng
mạnh mẽ xung quanh các thành phố, khu kinh tế trọng điểm. Thị trường bất động sản
đang ấm dần, lãi vay mua nhà của các ngân hàng rất hấp dẫn. Tuy nhiên, đầu tư trên thị
trường này cần một lượng vốn rất lớn, mất nhiều thời gian để thực hiện giao dịch và đặc
biệt tính thanh khoản của bất động sản là thấp nhất so với các loại hình đầu tư khác.
- Đầu tư trên thị trường vàng, USD (ngoại tệ): Vàng là kim loại quý hiếm thông
thường sẽ giữ được giá trị và có xu hướng tăng lợi nhuận theo thời gian. Được xem là
kênh đầu tư an toàn khi nền kinh tế bất ổn định, là một công cụ phòng thủ lạm phát.
Nhưng có những thời điểm giá vàng, USD có thể biến động mạnh do biến động cung cầu,
biến động kinh tế vĩ mô cũng như chính sách điều hành thị trường vàng. Do vậy đầu tư
vàng vẫn chứa đựng nhiều rủi ro tiềm ẩn trong ngắn hạn.
2.2.
Thực trạng nắm giữ vàng trong dân:
2.2.1. Lượng vàng nắm giữ trong dân:

Thị trường vàng Việt Nam hiện nay có quy mô khoảng 40 tỷ USD, tuy nhiên, xét
trên bình diện thị trường vàng thế giới, thị trường vàng Việt Nam vẫn rất nhỏ bé. Theo
đánh giá của Hội đồng Vàng Thế giới, thị trường vàng Việt Nam là một thị trường nhiều
tiềm năng, tuy nhiên vẫn còn kém phát triển, mang nặng tính thủ công, chưa áp dụng
được các công nghệ sản xuất và nghiệp vụ kinh doanh hiện đại trên thị trường quốc tế.
Trong khi thị trường vàng thế giới đang phát triển nhanh chóng với các hình thái đầu tư
hiện đại, cho phép các nhà đầu tư tiếp cận dễ dàng, nhanh chóng, với chi phí thấp hơn
nhiều so với đầu tư vàng vật chất, thì thị trường vàng Việt Nam lại giới hạn ở các giao
dịch vàng vật chất. Những khác biệt này, ở các góc độ nhất định, đã có tác động không
nhỏ tới vấn đề quản lý tiền tệ, ổn định kinh tế vĩ mô và huy động nội lực phát triển kinh
tế xã hội. Trong bối cảnh giá vàng thế giới vẫn biến động khó lường, yêu cầu cấp thiết
hiện nay là phải đổi mới việc quản lý vàng và phát triển thị trường vàng Việt Nam theo
thông lệ quốc tế.

- Theo số liệu của Hiệp hội kinh doanh vàng Việt Nam, hiện nay Việt Nam có
khoảng 12.000 doanh nghiệp kinh doanh vàng. Cứ tính trung bình mỗi doanh nghiệp có
số vốn kinh doanh khoảng 800 lượng vàng 9999 thì tổng số vàng mà các doanh nghiệp
kinh doanh vàng đang nắm giữ khoảng 9,6 triệu lượng vàng 9999. Lúc đó, với số lượng
500 tấn vàng, tương đương 13,33 triệu lượng vàng 9999, số vàng nằm ở các doanh
nghiệp này chiếm khoảng 72%. Ngoài ra theo tính toán, dựa vào Báo cáo tài chính của
các ngân hàng thương mại quý I/2016, số lượng vàng SJC trong hệ thống ngân hàng
chiếm dưới 1% trong tổng số 500 tấn vàng.
- Do đó, còn khoảng gần 27% trong số 500 tấn vàng là nằm trong dân. Tuy nhiên,
số lượng vàng này không phải nằm ở két sắt của người dân mà do thời gian qua họ cũng
đã bán ra phần lớn trong số đó để kinh doanh, nhất là trong thời kỳ đỉnh điểm giá vàng
lên cao cùng với thời điểm thị trường chứng khoán tăng trưởng tốt và bất động sản sôi
NHÓM 1

15


động. Cùng với đó, chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước trong thời gian vừa qua
phù hợp nên đã triệt tiêu tâm lý đầu cơ vàng trong dân. Vì thế, số vàng còn nằm trong két
sắt của người dân hiện thực chất chỉ còn khoảng 5 - 10% của 500 tấn.

Mua vàng đem về nhà cất
- Quy định người dân không còn được gửi tiết kiệm bằng vàng, ngân hàng sẽ thu
phí khi giữ hộ vàng, việc mua bán vàng miếng trở nên khó khăn hơn kể từ khi Nghị định
số 24/2012/NĐ-CP ngày 3/4/2012 của Chính phủ về quản lý hoạt động kinh doanh vàng
được ban hành đã phần nào thu hẹp thị trường vàng miếng.
- Tuy nhiên, nhu cầu vàng trong dân vẫn lớn và lượng vàng tích trữ của người tiêu
dùng từ trước đến nay là rất cao. Vàng là một loại hàng hóa không chỉ người dân ưa thích
tích trữ, mà các ngân hàng trung ương trên thế giới cũng ưa thích tích trữ bên cạnh dự trữ
ngoại hối.

- Việc người dân mua vàng xong đem về nhà cất sẽ không tốt cho nền kinh tế.
Đáng chú ý là vào những thời điểm giá vàng tiệm cận 33 triệu đồng/lượng, sức mua tăng
rất cao.
- Dù mãi lực vàng trong nước không còn mạnh như trước đây, nhưng nhu cầu về
vàng, nhất là nữ trang vẫn tăng khoảng 15 - 20%/năm. Tuy nhiên, trong 3 năm trở lại đây,
kể từ khi Nghị định 24 ra đời, hoạt động kinh doanh vàng miếng của các doanh nghiệp có
phần hạn chế, người mua cũng không còn thực hiện dễ dàng như trước, do mạng lưới
kinh doanh vàng miếng bị thu hẹp.
- Trong khi đó, tập quán giữ vàng của người dân châu Á, trong đó có Việt Nam đã
có từ lâu và chưa hề phai nhạt. Điều đáng nói là khi Nhà nước hạn chế điểm bán vàng
miếng, thị trường đã xuất hiện những hình thức kinh doanh vàng khá rủi ro khác để đáp
ứng nhu cầu của người dân. Chẳng hạn, thị trường đã xuất hiện vàng SJC giả hiệu để đáp
ứng lỗ hổng thiếu vàng SJC.
- Điều này khiến người mua chịu nhiều rủi ro khi mua các loại vàng nguyên liệu
không thương hiệu và chất lượng không được kiểm soát nghiêm túc.
NHÓM 1

16


- Theo ước tính của các chuyên gia về kinh tế tài chính nguồn vốn trong dân cư
được sử dụng qua điều tra của bộ kế hoạch đầu tư và tổng cục thống kê như sau:





44% của dân là để dành mua vàng, ngoại tệ
20% là mua nhà đất, cải thiện điều kiện sinh hoạt
17% là tiền gửi tiết kiệm chủ yếu là ngắn hạn

19% là dùng trực tiếp cho các dự án đầu tư, chủ yếu là ngắn hạn

2.2.2. Tình hình huy động vàng thông qua hệ thống tài chính trước đây:

- Mới đây, Ngân hàng Nhà nước đã chính thức được giao nghiên cứu thực hiện các
giải pháp huy động vàng trong dân. Một giải pháp huy động và sử dụng hay được đề cập
nhất và xem ra khả thi nhất đó chính là Ngân hàng Nhà nước phát hành chứng chỉ huy
động vàng và trả lãi cho số vàng huy động được này.
- Về phương án sử dụng, Ngân hàng Nhà nước sẽ giao (hoặc cho vay) số vàng này
cho Bộ Tài chính để Bộ này đem làm tài sản thế chấp vay nước ngoài lấy ngoại tệ về
phục vụ cho các dự án phát triển kinh tế xã hội. Thêm vào đó, Ngân hàng Nhà nước cần
đưa ra quy định người gửi vàng không được phép rút vàng trước hạn, thay vì hình thức
tiết kiệm như trước đây. Từ đó, vốn vàng có thể được sử dụng làm một nguồn lực dài hạn
cho đầu tư phát triển hoặc làm tài sản thế chấp các ngân hàng hoặc tổ chức tài chính nước
ngoài để vay ngoại tệ với lãi suất thấp đem về phục vụ các dự án phát triển kinh tế - xã
hội quốc gia.
- Hoạt động huy động vàng của doanh nghiệp cũng được VGTA (VIETNAM
GOLD TRADERS ASSOCIATION - Hiệp hội kinh doanh vàng Việt Nam) cho là đúng
với các quy định hiện hành của pháp luật. Hơn nữa, khi huy động vàng từ người dân,
doanh nghiệp không cho vay lại, không thu phí giữ hộ mà chỉ dùng làm nguyên liệu để
sản xuất vàng trang sức. Do đó, doanh nghiệp vay vốn bằng vàng không tạo tâm lý đầu
cơ tích trữ trong dân, không ảnh hưởng đến lộ trình giảm “vàng hoá” trong nền kinh tế vì
thực tế với số lãi chỉ 1-1,2%/năm là rất thấp so với lãi suất tiền gửi tại các ngân hàng
thương mại thì người dân sẽ không đổ xô đi mua vàng để cho doanh nghiệp vay kiếm lời.
VGTA cũng cho biết, tổng số lượng vàng mà các doanh nghiệp là thành viên của Hiệp hội
vay của người dân trong năm 2015 cũng chỉ trong khoảng 20.000 lượng, tương đương
750 kg vàng. Do đó, việc vay mượn vàng này không gây ảnh hưởng đến thị trường vàng
trong nước cũng như chủ trương chống “vàng hóa” của Ngân hàng Nhà nước.
- Tuy nhiên, thực tế cho thấy rằng, để huy động vàng có rất nhiều cái khó và bất
lợi bởi chi phí huy động cao và huy động vào để làm gì cũng cần phải được nghiên cứu

kỹ. Một vấn đề khác cũng được quan tâm đó chính là việc chuyển đổi chất lượng vàng
phải cân nhắc vì sau khi huy động, nếu trả vàng lại cho người tiêu dùng thì cũng phải có
sự đánh giá về độ tuổi cũng như chất lượng của vàng…
- Có ý kiến cho rằng, Việt Nam cần huy động vàng và đem nguồn lực này thế chấp
để vay ngoại tệ nước ngoài, tăng nguồn dự trữ ngoại tệ cho quốc gia. Về chuẩn vàng thì
sau khi huy động vàng sẽ được quy ra thành vàng 9999. Do đây là chuẩn vàng của quốc
NHÓM 1

17


tế nên sau khi trả lại cho người dân cũng như quốc tế thì trả bằng vàng với chuẩn trên.
Như vậy, sẽ không cần phải phụ thuộc vào giá cả của vàng, mà chủ yếu từ tỷ giá.
- Ý kiến khác vẫn nghiêng về phía cần tạo lập một thị trường vàng theo cơ chế
kinh tế thị trường nên sớm muộn cũng phải tính đến việc huy động vàng. Bởi nếu tạo
điều kiện cho người dân có một nơi an toàn để gửi vàng và có sinh lời, dù mức sinh lời
chỉ ở mức thấp thì họ vẫn tin tưởng để gửi, thay vì cất trữ ở nhà khi ngân hàng không huy
động vàng như trước. Trong khi, với người tiêu dùng, họ hoàn toàn không bỏ vàng, vì đó
là thói quen và tập tục đã ăn sâu trong văn hóa của người Việt, làm vật bảo đảm, giá trị
của cuộc sống.
- Vừa qua, sự biến động của thị trường vàng cũng có phần ảnh hưởng đến đồng
tiền chung. Tuy nhiên, Ngân hang Nhà nước đã kiểm soát rất tốt, đưa vào nề nếp thị
trường này. Như vậy, việc triển khai giải pháp để tái huy động vàng là cần thiết để huy
động được nguồn lực vốn lớn trong dân. Quan trọng là nghiên cứu giải pháp đưa ra để
làm sao phù hợp với thị trường, khuyến khích người dân gửi vàng như trước, dù lãi suất
người dân nhận lại ở mức thấp.
- Lợi ích rõ ràng là huy động được một nguồn lực tài chính lớn, quan trọng trong
dân thay vì để bất động, mà người dân cũng tiếp tục được sở hữu vàng, bảo đảm cuộc
sống, cũng tránh được các phức tạp do huy động và kinh doanh của các Ngân hàng
thương mại. Trong từng thời điểm, Ngân hàng Nhà nước trực tiếp nhập vàng để bình ổn

giá, đáp ứng các yêu cầu sử dụng và sau khi đã kiểm soát được các yếu tố nhạy cảm về
ngoại hối thì nên cho phép kinh doanh vàng tài khoản thay cho thị trường vàng vật chất.
- Tất cả những công cụ huy động cũng như điều hành thị trường đều là của Ngân
hàng Nhà nước nên việc huy động cũng như xuất, nhập khẩu là có thể điều tiết được khi
giá thế giới xuất thấp thì nhập khẩu, ngược lại giá tăng cũng có thể xuất để thu USD. Tuy
việc chủ trì huy động vàng là từ Ngân hàng Nhà nước nhưng để huy động được nguồn
vàng cũng cần qua “cánh tay” các Ngân hàng thương mại, vì họ có nguồn lực để huy
động vàng trong dân. Các Ngân hàng thương mại làm theo ủy thác của Ngân hàng Nhà
nước như áp biên độ, lãi suất cũng như quyền lợi mà các Ngân hàng thương mại nhận lại
trong việc thực hiện huy động vàng. Bởi chỉ các Ngân hàng thương mại có hệ thống
mạng lưới rộng và nguồn nhân lực để huy động. Tuy nhiên, cũng cần có biện pháp để
kiểm soát khi huy động và sử dụng nguồn vàng huy động này để đạt hiệu quả cao. Vì
thực trạng của thị trường trước đây đã phần nào cho thấy, một số ngân hàng đã huy động
vàng sau đó bán ra để kiếm lời. Đến khi giá vàng tăng mạnh, các ngân hàng đã mất cân
đối. Do đó, nguồn vốn huy động vàng trong dân cần được sử dụng đúng mục đích dưới
sự kiểm soát của Ngân hàng Nhà nước thì sẽ có lợi cho cả phía huy động và người gửi
tiết kiệm vàng, tạo nên làn sóng lưu động hóa nguồn vốn của người dân khi nhu cầu vàng
vẫn cao.
- Việc kiểm tra chất lượng vàng trong huy động vốn cũng không quá khó, vì các
Ngân hàng thương mại có đủ cơ sở vật chất, con người để kiểm định được chất lượng
nguồn vàng huy động. Tuy nhiên, việc cho vay vốn bằng vàng cũng phải cân nhắc, không
NHÓM 1

18


nên đẩy mạnh cho vay vàng. Bởi thực tế trước đây đã cho thấy, nhiều người vay vàng
không trả được nợ khi giá vàng tăng mạnh, khiến nợ xấu ngân hàng tăng.
2.3.
Nguyên nhân của tình trạng vốn “chết” dưới dạng vàng trong dân:

2.3.1. Tập quán, thói quen:

Ở cấp độ văn hóa và trong văn hóa dân gian, vàng ở Ấn Độ hiện vẫn là thứ trang sức đa
giá trị ( của hồi môn, tích trữ, đẳng cấp giàu nghèo…) , ở Trung Quốc xưa và nay vàng là
bản vị của sự tiết kiệm, lặng lẽ vươn lên trở thành “lão gia”, “đại gia” của người dân. Còn
như ở Việt Nam ta, vàng là nguồn dự trữ để một đời người đàn ông cần phải thực hiện ba
việc quan trọng ( tậu trâu, cưới vợ, làm nhà), và để thực hiện trách nhiệm của các bậc
sinh thành trước con cái như: chút vốn cho con gái lấy chồng, chia của cho các con trước
khi về với ông bà tổ tiên… và để chứng tỏ mình với cộng đồng. Nó có thể được xem là
một phần của giá trị văn hóa và có thể nói đó là nét văn hóa đặc trưng của văn hoá
phương Đông ( các trang trí thờ tự,các đồ trang sức,các đồ trang sức đa dạngvề hình khối
và biểu tượng cho phụ nữ và nam giới….) và vàng trong dân hầu hết không mang ý nghĩa
trao đổi thường xuyên khi nó chưa thật sự cần đến.Mặc dù người Việt Nam chưa đủ giàu
để tích trữ đến hàng nghìn cây vàng trong nhà,nhưng có thể đủ cho con số nhiều tấn khi
nói về những người giàu và khả năng tích trữ của họ hiện nay khi kinh tế nước ta có sự
tăng trưởng mạnh ở những năm gần đây.Nhiều người dân Việt Nam coi vàng là phương
tiện tích lũy đáng tin cậy và vẫn tiếp tục mua vào mặc dù giá cả vàng bất ổn.Theo thống
kê cho thấy, Việt Nam là quốc gia tiêu thụ vàng lớn thứ 4 tại Châu Á,sau Trung Quốc,Ấn
Độ và Thái Lan. Trước đây, vàng vừa được dùng như một loại tiền, vừa như một phương
tiện cất giữ, trong một số trường hợp, vàng thậm chí còn quan trọng hơn tiền giấy. Trong
suốt quá trình lịch sử, vàng luôn có một sức hấp dẫn đặc biệt với người Việt Nam, được
sử dụng rộng rãi cho mục đích đầu tư và là phương thức thanh toán thay thế cho tiền mặt
trong những giao dịch lớn. Nhiều người coi vàng là một phương tiện tích lũy đáng tin cậy
và vẫn tiếp tục mua vào cho dù gía bất ổn. Điều này làm cho lượng vàng trong dân tăng
lên rất nhiều. Những năm gần đây, vàng còn được sử dụng như một biện pháp chống lại
lạm phát và suy thoái kinh tế thế giới.
2.3.2. Do lạm phát:

Lạm phát quá nhanh trong những năm gần đây đã khiến người Việt lao vào giữ vàng.
Chỉ trong vòng 5 năm, Việt Nam đã phải đối mặt với hai đợt lạm phát cao. Tỷ lệ lạm phát

đạt đỉnh 23% vào tháng 8/2011, và Việt Nam đã phải mất gần một năm để đưa tỷ lệ này
xuống dưới 10%. Nắm giữ vàng như hầm trú ẩn an toàn trước những rủi ro lạm phát và
tác động do sức mua sụt giảm được coi là một biện pháp hữu hiệu để bảo vệ tài sản. Cũng
có chung nhận định như vậy, những người sở hữu đất trước đây thường định giá đất bằng
vàng (song song với VND) nhằm tránh tình trạng mất giá.
2.3.3. Do thiếu niềm tin vào đồng nội tệ:

NHÓM 1

19


Người Việt trở nên ưa chuộng vàng và USD. Kể từ cuối năm 2008, tiền đồng đã bị mất
giá 23% do áp lực lạm phát và nền kinh tế có vị thế yếu trên trường quốc tế. Điều này đã
là suy giảm niềm tin và nhu cầu đối với đồng nội tệ, dẫn đến tiền đồng đã yếu càng trở
nên yếu hơn. Bài học mà người Việt rút ra được từ giai đoạn khắc nghiệt này đó là nên
nắm giữ các loại “tiền tệ mạnh”, như vàng và USD.
2.3.4. Hạn chế về hiểu biết và nhận thức trong đầu tư, kinh doanh, hiểu biết chung

về nền kinh tế:
- Hiện nay, người dân Việt Nam đang dần “táo bạo” hơn trong vấn đề đầu tư kinh doanh,
nhưng liệu có đủ? Nếu so sánh mặt bằng chung các quốc gia trong khu vực, người Việt
Nam vẫn tỏ ra yếu kém hơn rất nhiều, vẫn khá dè dặt dù có vốn.
- Chương trình giáo dục phổ thông không có nội dung khuyến khích phát triển tinh thần
kinh doanh cho học sinh. Trong khi ở nước khác, ở bậc giáo dục phổ thông, đa số học
sinh đã được dạy, được học cách kinh doanh. Bên cạnh đó, dịch vụ hỗ trợ kinh doanh
chưa phát triển tương xứng.
- Để nâng cao tinh thần khởi sự kinh doanh, các chương trình hướng nghiệp, giáo dục
kinh doanh cần được giới thiệu và phổ biến ở các bậc phổ thông. Đồng thời, rèn luyện
các kỹ năng làm việc trong doanh nghiệp, bao gồm cả người chủ và người làm thuê phải

được đào tạo trong tất cả các trường đại học và trường nghề một cách thực tế hơn nữa.
2.3.5. Chưa có nhiều kênh đầu tư, công cụ đầu tư hấp dẫn:

- Trong khi tiền gửi ngân hàng thiếu hấp dẫn về tích lũy tài sản; bất động sản có
khả năng đóng băng; chứng khoán còn nhiều rủi ro, khó thu hút người mới,… Điều này
cho thấy rằng, Việt Nam đang thiếu những kênh đầu tư, những công cụ đầu tư hấp dẫn,
đảm bảo sự an toàn, tính minh bạch đồng thời sinh lời cao.
- Chính vì vậy, vàng trở thành một “sự đầu tư” an toàn, “vô thưởng, vô phạt” và ít
rủi ro. Cũng từ đây, cần đặt ra một vấn đề cấp thiết: Chúng ta nên làm gì? Và một môi
trường kinh doanh lý tưởng nào sẽ được ra đời?
2.3.6. Nền kinh tế chậm phát triển:

- Trong những năm qua, nền kinh tế Việt vẫn có sự tăng trưởng “ổn định” nhưng
chưa thực sự bứt phá để đưa nền kinh tế phát triển ngoạn mục. Có thể thấy, đồng tiền Việt
Nam trở nên dần mất giá hơn.
- Một nguyên nhân nữa, nếu như trước đây, người ta áp dụng chế độ bản vị là vàng
thì ngày nay, dường như sự thay đổi, phát triển chóng mặt về cả kinh tế, chính trị, văn hoá
thì việc chế độ bản vị vàng không còn tồn tại ở bất kỳ quốc gia nào trên thế giới và thay
vào đó là bản vị pháp định và bản vị tiền tệ.
- Lạm phát tăng cao cũng là lý do tại sao người dân tích trữ vàng. Bởi khi dù tiền
mất giá thì giá trị của vàng vẫn nguyên vẹn. Chính vì vậy, người dân giữ vàng để chống
lại sự lạm phát của nền kinh tế. Đây cũng là điều vô cùng dễ hiểu khi mà người ta luôn
thích sự an toàn.
NHÓM 1

20


- Kinh tế tăng trưởng còn chậm, chưa bền vững, nhiều vấn đề nội tại chưa được
khắc phục triệt để (nợ công, nợ xấu cao; tham nhũng, tiêu cực; tài nguyên thiên nhiên bị

tàn phá,…) dẫn đến không tạo được niềm tin trong dân để họ chịu bán vàng lấy vốn bỏ
vào đầu tư kinh doanh.
- Từ đây, một chính sách vĩ mô phải được đưa ra để thúc đẩy sự phát triển trong
nền kinh tế, đồng thời khắc phục những vấn đề bất cập phát sinh rủi ro trong nền kinh tế
là điều rất cần thiết.
2.3.7. Thị trường vàng không được kiểm soát một cách nghiêm ngặt:

Vàng gần như là một “loại hàng hoá” dễ dàng để mua hay chuyển từ tay người này
sang tay người khác. Chính vì thế, nhà nước cần kiểm soát chặt chẽ hơn về lượng vàng
trong nền kinh tế, nguồn gốc của vàng, đồng thời xây dựng một chính sách nhà nước hợp
lý nhằm độc quyền về vàng trong nền kinh tế để giảm bớt đi những hệ quả vốn “chết”
quá nhiều do vàng nằm ở trong dân với số lượng lớn.

III. Giải pháp hạn chế lượng vốn chết dưới
dạng vàng trong dân:
3.1. Dự báo xu hướng nắm giữ vàng trong dân:
Khi điều hành vĩ mô tốt hơn,thị trường tài chính có sự biến đổi theo chiều
hướng tích cực,ngân hàng minh bạch hơn thì người dân sẽ đem gửi vàng ,còn
không thì những giải pháp huy động của Ngân hàng nhà nước cũng sẽ vô ích,vì
người dân tự biết “ chọn mặt gửi vàng”.Cách đây không lâu,trên một số trang điện
tử và cả báo in đã có hàng loạt bài viết và đưa ra thông tin khảo sát về 1000 tấn
vàng đang nằm ở trong dân.Số vàng ấy nếu thật sự có thì quả là điều đáng mừng,vì
NHÓM 1

21


dân ta nhiều người,nhiều gia đình đã có của ăn của để. Nhưng sau đó, theo thông
tin mới nhất từ báo VnExpress.net lại cho biết khoảng 500 tấn vàng có nguy cơ
nằm “chết” trong dân. Con số này cho thấy lượng vốn “chết “ dưới dạng vàng

trong tay người dân là rất lớn.Nhiều người cho rằng ,lượng vàng “chết” này nhiều
đến vậy là do người dân bị thiếu niềm tin.Trong thời buổi hiện nay, lạm phát cao,
ngân hàng hoạt động trì trệ, kinh tế lâm vào tình trạng khủng hoảng thì việc cất giữ
vàng có vẻ là sự lựa chọn thông minh nhất.Số vàng này không chảy vào hệ thống
ngân hàng nên không sinh lời,trong khi nhà nước lại không tận dụng được nguồn
vốn vàng.Việc hàng trăm tấn vàng đang được người dân cất giữ không đưa vào lưu
thông là sự lãng phí rất lớn,do đó cần có phương án huy động nguồn lực này để
phục vụ phát triển kinh tế-xã hội. Nếu tính giá vàng ở mức 35.2 triệu đồng/ lượng
thì có khỏang 17-21 tỷ USD đang “nằm không” .Tuy nhiên ,việc xác định vàng
được hiểu là giá trị nguồn lực dự trữ trong dân với các thông số khảo sát từ lượng
trao đổi của các thương hiệu vàng trong nước cũng một phần mang ý nghĩa thực
.Thế nhưng,không thể coi đó là giá trị tài chính động,bởi nó không tham gia hết
vào trao đổi vật chất,hàng hóa mà nó phần lớn trong giá trị văn hóa tích trữ mà
thôi.
Qua tìm hiểu,đa số khách hàng mua vào là những người đang có tiền, nhàn rỗi
nên mua vàng để tích trữ,hoặc qua khảo sát nhận thấy giá lên cao nên cũng mua
vàng “chơi” theo tâm lý đám đông. Sau đây là một số ý kiến và quan điểm của
người dân về việc mua và tích trữ vàng theo nguồn thông tin từ một số bài báo.
Anh Đỗ Trung Quân trú tại Phương Mai –Cầu Giấy-Hà Nội chia sẻ với phóng
viên báo điện tử Giáo Dục Việt Nam: “Trước đây thấy giá vàng biến động mạnh
nên vợ chồng chúng tôi đã bàn bạc và quyết định mua tích trữ được vài cây
vàng.Nếu bây giờ bán ra thì cũng đã có lãi nhưng theo quan sát,vàng vẫn có khả
năng tăng giá, nên tôi đang có giữ thêm một thời gian ,đợi khi nào giá vàng lên cao
NHÓM 1

22


hơn thì mới bán ra.Hơn nữa,khi mình bỏ tiền túi ra mua,thì dù giá vàng có xuống
đi chăng nữa cũng không sợ “ .Sau khi tham khảo ý kiến người dân,có rất nhiều

người có đồng quan điểm với anh Quân, họ đều muốn kiếm thêm ít thu nhập từ
việc mua-bán vàng. Chị Cúc ở Đại La cho biết :” Thấy giá cả cứ lên xuống bất ổn
như thế này,nên đầu tư vào vàng tôi cũng thấy lo lắng. Nhưng cứ để tiền “chết”
trong nhà,mà nhìn giá vàng tăng tôi cũng không thể chịu được,đành làm liều vậy”
Theo ghi nhận của phóng viên,có khá đông khách hàng vẫn có tâm lý tích trữ
vì họ dự đoán rằng giá vàng sẽ tiếp tục tăng.Cô Minh (Quang Trung-Hà Đông)khách hàng đang giao dịch tại cửa hàng Bảo Tín Minh Châu :”Về hưu rồi,tôi muốn
mua vàng để tích trữ vì vừa bảo toàn được giá trị,lại an tâm .Giá vàng đang tăng
nên tôi dồn tiền lại để mua một,hai chỉ để dành “ Theo lời của cô Minh ,cô đã mua
vàng ở thời điểm giá chỉ ở mức thấp là 26-27 triệu đồng/ lượng, giá đang ở mức
chót vót,nhưng bây giờ cô cũng không có dự định bán số vàng đang có hiện nay.Cô
Minh nói thêm, “Cô cứ để đó không bán ra,giá vàng chắc là không giảm đâu,cứ để
đấy đến đời con cháu,biết đâu lại lên mức cao gấp mấy lần bây giờ,lại được một tài
sản kếch xù chứ “ .Mặc dù mục đích và cách sử dụng vàng của mọi người dân về
cơ bản là khác nhau nhưng tất cả lại cùng dẫn đến một vấn đề đáng được quan tâm
đó là lượng “vàng chết” trong dân quá cao. Thực trạng này không phải chỉ xảy ra ở
Việt Nam, cũng không phải tự nhiên bùng phát lên từ Việt Nam mà nó còn xảy ra ở
nhiều nước trên thế giới, ngay cả ở những nước phát triển mạnh, nó còn có sự tác
động và ảnh hưởng giữa các nước với nhau. Đó có thể là sự ảnh hưởng giữa các
nước trong cùng một nhóm hoặc đó là sự tác động từ nước lớn đến nước nhỏ, từ
nước xuất khẩu đến nước nhập khẩu.
3.2. Giải pháp huy động vốn thông qua hệ thống tài chính nhằm hạn chế lượng vốn
“chết” dưới dạng vàng trong dân hiện nay:

NHÓM 1

23


- Ngân hàng nhà nước phát hành chứng chỉ huy động vàng và trả lãi cho số
vàng huy động được này

Ngân hàng nhà nước sẽ giao (hoặc cho vay) số vàng này cho Bộ Tài chính
để bộ đem làm tài sản thế chấp vay nước ngoài lấy ngoại tệ về phục vụ cho các dự
án phát triển kinh tế xã hội. ”ung”hi ổn định trạng thái vàng của các NHTM,
NHNN cần nghiên cứu thực hiện chủ trương tiếp tục huy động vàng trong dân,
nhưng lần này không phải để NHTM kinh doanh mà NHNN sẽ phát hành chứng
chỉ vàng dài hạn để gom vàng về Ngân hàng Trung ương, bên cạnh đó sẽ phải xây
dựng quy chế chặt chẽ về nghĩa vụ, quyền lợi của NHNN và NHTM. Số vàng huy
động được sẽ ”ung làm tài sản thế chấp các ngân hàng hoặc tổ chức tài chính nước
ngoài để vay ngoại tệ với lãi suất thấp đem về phục vụ các dự án phát triển kinh tếxã hội quốc gia.
- Ổn định nền kinh tế vĩ mô
Sự ổn định kinh tế vĩ mô sẽ làm cho người dân không còn mong muốn giữ
vàng. Khi đồng VND ổn định, người dân sẽ không mặn mà tìm đến vàng hay ngoại
hối làm nơi trú ẩn.
Với hàng loạt văn bản đưa các biện pháp quyết liệt triển khai từ cuối năm
2011 đến nay, công tác quản lý thị trường vàng đã cơ bản đạt được mục tiêu đề ra.
Đến nay thị trường vàng đã được sắp xếp lại một cách cơ bản; trật tự, kỷ cương
trên thị trường đã được xác lập, quyền và lợi ích hợp pháp của người dân đã được
đảm bảo; vai trò quản lý nhà nước đối với thị trường vàng đã được nâng cao; toàn
bộ quan hệ huy động, cho vay vốn bằng vàng đã chuyển hoàn toàn sang quan hệ
mua, bán vàng.

NHÓM 1

24


Tình trạng “vàng hóa” trong nền kinh tế đã từng bước được ngăn chặn; tình
trạng sử dụng vàng làm phương tiện thanh toán về cơ bản đã được chấm dứt, sức
hấp dẫn của vàng miếng đã giảm đáng kể, cung cầu vàng miếng chuyển dịch từ
trạng thái thiếu hụt nguồn cung sang xu hướng cân bằng, một phần nguồn vốn

nhàn rỗi bằng vàng trong nền kinh tế đã được chuyển hóa thành tiền.
Mặc dù thị trường vàng thế giới biến động phức tạp nhưng thị trường vàng trong
nước diễn biến ổn định, không còn tình trạng người dân đổ xô đi mua vàng như
giai đoạn trước đây; biến động của giá vàng trong nước không ảnh hưởng đến sự
ổn định của tỷ giá, thị trường ngoại hối và kinh tế vĩ mô.
- Thực hiện phương pháp kích cầu, kích cung
Nhà nước thực hiện các phương pháp kích thích tiêu dùng của người dân.
Giảm giá các mặt hàng hóa, người dân sẽ tăng cường tham gia thị trường tiêu thụ.
Khi lượng tiền mặt trong dân giảm đi nhiều và có thể cạn, bắt buộc họ phải sử
dụng đến lượng vàng được dự trữ. Lúc đó, lượng vốn chết trong dân sẽ được mang
ra để sử dụng.
Nhà nước cũng có thể sử dụng phương pháp kích cung đối với nền kinh tế.
Giảm thuế suất, chi phí nguyên vật liệu, tăng các nguồn đầu tư chính phủ để sản
xuất các mặt hàng hóa,… Như vậy, sẽ kích thích các nhà sản xuất tạo ra nhiều sản
phẩm để buôn bán, kinh doanh, lượng cung tăng đột biến khiến nhu cầu tiêu dùng
của người dân cũng tăng lên. Thậm chí, người dân còn có thể sẵn sàng đem số
vàng dự trữ để sử dụng cho những mục đích tiêu dùng.
- Kích thích các doanh nghiệp đưa ra phương án kinh doanh khả thi, hấp
dẫn, rõ ràng

NHÓM 1

25


×