Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Nghiên cứu về hiệp định về thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung (CEPT) đồng thời làm rõ những tác động của hiệp định trên đến sự phát triển của thương mại việt nam (khu vực mậu dịch tự do asean)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.13 KB, 27 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
ASEAN là tổ chức liên kết của khu vực Đông Nam Á, được tạo dựng với mục tiêu thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế, ủng hộ hòa bình khu vực và phát triển văn hóa giữa các thành
viên. Được thành lập vào ngày 8 tháng 8 năm 1967 với sự gia nhập của 10 nước thành
viên trong khu vực Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam.
AFTA đã đưa ra những điều luật chung về cắt giảm thuế quan trong khu vực. Theo Hiệp
định về Thuế quan Ưu đãi có Hiệu lực Chung (CEPT), sáu quốc gia gia nhập ASEAN
trước sẽ xóa bỏ khoảng 98% tổng số dòng thuế của mình đối với các quốc gia thành viên
khác vào năm 2006. Thời hạn dành cho bốn quốc gia gia nhập sau là năm 2013.
Việc tham gia và thực hiện hiệp định chung về ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung
CEPT/AFTA đóng một phần vai trò và ý nghĩa không nhỏ trong nền kinh tế thương mại
của các nước thành viên trong khu vực AFTA nói chung và của Việt Nam nói riêng.
Chính vì thế việc nghiên cứu về Hiệp định về Thuế quan Ưu đãi có Hiệu lực Chung
(CEPT) là rất cần thiết cho sự phát triển kinh tế khu vực cũng như nước nhà.
Phạm vi nghiên cứu: Các nước trong Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN
Mục đích nghiên cứu: Nghiên cứu về Hiệp định về Thuế quan Ưu đãi có Hiệu lực Chung
(CEPT) đồng thời làm rõ những tác động của hiệp định trên đến sự phát triển của thương
mại Việt Nam. Từ đó đề xuất phương án thúc đẩy, khuyến khích mặt tiêu cực đồng thời
đưa ra giải pháp khắc phục những mặt tiêu cực hạn chế do hiệp định mang lại.

1


CHƯƠNG I : TỔNG QUAN VỀ CEPT/AFTA
1.1 Khái niệm và bối cảnh ra đời
Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN (viết tắt là AFTA từ các chữ cái đầu của ASEAN Free
Trade Area) là một hiệp định thương mại tự do (FTA) đa phương giữa các nước trong
khối ASEAN. Theo đó, sẽ thực hiện tiến trình giảm dần thuế quan xuống 0-5%, loại bỏ
dần các hàng rào phi thuế quan đối với đa phần các nhóm hàng và hài hòa hóa thủ tục hải
quan giữa các nước.
Vào đầu những năm 90, khi chiến tranh lạnh kết thúc, những thay đổi trong môi trường


chính trị, kinh tế quốc tế và khu vực đã đặt kinh tế các nước ASEAN trước những thách
thức to lớn không dễ dàng vượt qua nếu không có sự liên kết chặt chẽ và nỗ lực vủa toàn
hiệp hội, những thách thức đó là:
- Quá trình toàn cầu hoá kinh tế thế giới diễn ra nhanh chóng và mạnh mẽ, đặc biệt trong
lĩnh vực thương mại, chủ nghĩa bảo hộ truyền thống trong ASEAN ngày càng mất đi sự
ủng hộ của các nhà hoạch định chính sách trong nước cũng như quốc tế.
- Sự hình thành và phát triển các tổ chức hợp tác khu vực mới đặc biệt như Khu vực Mậu
dịch Tự do Bắc Mỹ và Khu vực Mậu dịch Tự do châu Âu của EU, NAFTA sẽ trở thành
các khối thương mại khép kín, gây trở ngại cho hàng hoá ASEAN khi thâm nhập vào
những thị trường này.
- Những thay đổi về chính sách như mở cửa, khuyến khích và dành ưu đãi rộng rãi cho
các nhà đầu tư nước ngoài, cùng với những lợi thế so sánh về tài nguyên thiên nhiên và
nguồn nhân lực của các nước Trung Quốc, Việt Nam, Nga và các nước Đông Âu đã trở
thành những thị trường đầu tư hấp dẫn hơn ASEAN, đòi hỏi ASEAN vừa phải mở rộng
về thành viên, vừa phải nâng cao hơn nữa tầm hợp tác khu vực.
Để đối phó với những thách thức trên, năm 1992, theo sáng kiến của Thái Lan, Hội nghị
Thượng đỉnh ASEAN họp tại Singapore đã quyết định thành lập một Khu vực Mậu dịch
Tự do ASEAN (gọi tắt là AFTA).. Ban đầu chỉ có sáu nước là Brunei, Indonesia,
Malaysia, Philippines, Singapore và Thái Lan (gọi chung là ASEAN-6). Các nước
Campuchia, Lào, Myanma và Việt Nam (gọi chung là CLMV).
“CEPT” có nghĩa là Chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung và là mức thuế có
hiệu lực dành ưu đãi cho ASEAN, được áp dụng cho các loại hàng hoá có xuất xứ từ các
quốc gia thành viên ASEAN và đã được xác định để đưa vào Chương trình CEPT.

2


1.2. Mục tiêu và nguyên tắc hoạt động
a. Mục tiêu
AFTA đưa ra nhằm đạt được những mục tiêu kinh tế sau:

Tự do hoá thương mại trong khu vực bằng việc loại bỏ các hàng rào thuế quan trong nội
bộ khu vực và cuối cùng là các rào cản phi quan thuế. Điều này sẽ khiến cho các doanh
nghiệp sản xuất của ASEAN càng phải có hiệu quả và khả năng cạnh tranh hơn trên thị
trường thế giới. Đồng thời, người tiêu dùng sẽ mua được những hàng hoá từ những nhà
sản suất có hiệu quả và chất lượng trong ASEAN, dẫn đến sự tăng lên trong thương mại
nội khối.
Thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào khu vực bằng việc tạo ra một khối thị trường
thống nhất, rộng lớn hơn.
Làm cho ASEAN thích nghi với những điều kiện kinh tế quốc tế đang thay đổi, đặc biệt
là với sự phát triển của các thỏa thuận thương mại khu vực (RTA) trên thế giới.
b. Nguyên tắc hoạt động
nguyên tắc hoạt đồng của AFTA
Nguyên tắc thứ nhất là nguyên tắc tự nguyện: theo đó các quốc gia sẽ tự nguyên tham gia
và không chịu sự gò bó ép buộc của bất kì quốc gia nào.
2. 10 – X : nguên tắc 10 – X X ở đây có nghĩa là các nước tham gia sau có sự phát triển
kinh tế kém hơn sẽ được ưu tiên và ưu đãi hơn ở nhiều khoản mục : thời hạn giảm thuế

3. Nguyên tắc công khai, phân biệt đối xử, giữ nguyên hiện trạng: công khai tức là mọi
cuộc họp các chương trình hợp tác đều được công khai minh bạch và tất cả các quốc gai
trong khu vực đều có quyền được biết. phân biệt đối xử là việc ưu đãi hơn đối với những
quốc gia kém phát triển hơn
4. Cùng hỗ trợ nhau phát triển, sự phát triển của các nước trong khu vực thì vẫn không
đồng đều liên minh lại thành một khu vực có sự ảnh hưởng đến nhau, cần phải hỗ trợ
nhau cùng phát triển vì lợi ích chung
Cơ chế chính để thực hiện AFTA là Hiệp định thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung
(Common Effective Preferential Tariff – CEPT). Về thực chất, CEPT là một thỏa thuận
giữa các nước thành viên ASEAN về việc giảm thuế trong nội bộ khối xuống còn 0 – 5%
3



thông qua những kế hoạch giảm thuế khác nhau. Trong vòng 5 năm sau khi đạt mức thuế
ưu đãi cuối cùng, các nước thành viên sẽ tiến hành xóa bỏ các hạn ngạch nhập khẩu và
những hang rào phi thuế quan khác.
Nguyên tắc của hiệp định CEPT/AFTA là cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, quan hệ có
đi có lại

1.3 Nội dung và triển vọng hợp tác
a. Nội dung

-

Khu vực AFTA hình thành dựa trên một số nội dung cơ bản sau:
Chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung.
Thống nhất và công nhận tiêu chuẩn hàng hóa giữa các nước thành viên.
Công nhận việc cấp giấy xác nhận xuất xứ hang hóa.
Xóa bỏ những quy định hạn chế đối với hoạt động thương mại.
Tăng cường hoạt động kinh tế vĩ mô.

Để xây dựng AFTA thành công, các nước đã ký kết Hiệp định ưu đãi thuế quan có hiệu
lực chung CEPT là nội dung đồng thời là công cụ quan trọng nhất nhằm biến ASEAN
thành khu vực mậu dịch tự do và thực hiện thành công mục tiêu AFTA. Nội dung của
Hiệp định CEPT bao gồm 10 điều. EPT (Chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực
chung) là một cơ chế thuộc AFTA cho phép đến 2003, 98% dòng thuế hàng hoá của các
nước thành viên có 40% nguồn gốc khu vực sẽ được giảm thuế suất đến 0-5% khi lưu
hành trong khu vực. Ngoại lệ cho Việt Nam đến 2006, Lào và Mianma đến 2008 và
Campuchia đến 2010 (mỗi quốc gia có 10 năm sau khi gia nhập để thực hiện chương
trình này). Sau mốc đó, chỉ các mặt hàng thuộc ngoại lệ chung và một số mặt hàng nông
sản nhạy cảm mới được loại trừ.
Các nước thành viên có thể không thực hiện CEPT đối với các mặt hàng trong 3 trường
hợp sau:

1/ Các mặt hàng loại trừ tạm thời (cơ bản sẽ giảm thuế suất xuống 0-5 % nhưng được tạm
thời bảo hộ gia hạn thời gian thực hiện);
2/ các mặt hàng nông sản nhạy cảm (hạn cuối thực hiện CEPT là 2010);
3/ Các ngoại lệ chung (chỉ các sản phẩm mà quốc gia xét thấy cần thiết để bảo vệ an ninh
quốc gia, đạo đức xã hội, bảo vệ sức khoẻ, đời sống của nhân dân, của các sinh vật, bảo

4


vệ các sản phẩm nghệ thuật, lịch sử, giá trị khảo cổ học. Tỷ lệ các mặt hàng này chiếm
khoảng 1% trong số các mặt hàng thuế của ASEAN).
Tuy nhiên, quy định này đã được một số nước vận dụng để phục vụ mục đích khác như
bảo hộ sản xuất, đảm bảo thu ngân sách…Do đó, ASEAN sẽ tăng cường rà soát, kiểm tra
để đưa các mặt hàng không phù hợp vào thực hiện giảm thuế quan và loại bỏ hàng rào
phi quan thuế.
Theo kế hoạch dài hạn, các nước thành viên ASEAN sẽ nhất trí áp dụng tỷ lệ thuế quan
0% đối với hầu hết tất cả các mặt hàng nhập khẩu đến 2010, riêng 4 quốc gia thành viên
mới hạn cuối là 2015.
 Các điều khoản chung :

1. Tất cả các Quốc gia thành viên sẽ tham gia Chương trình CEPT.
2. Việc xác định các sản phẩm để đưa vào Chương trình CEPT sẽ dựa trên cơ sở nhóm
sản phẩm, tức là ở mức HS 6 chữ số.
3. Một sản phẩm được coi là có xuất xứ từ các Quốc gia thành viên ASEAN nếu trong
thành phần của sản phẩm đó có chứa ít nhất 40% hàm lượng có xuất xứ từ bất cứ một
Quốc gia thành viên ASEAN nào.
4. Tất cả các sản phẩm chế tạo, bao gồm hàng tư liệu sản xuất và nông sản chế biến sẽ
nằm trong Chương trình CEPT. Những sản phẩm này sẽ nghiễm nhiên được đưa vào
Chương trình cắt giảm thuế quan theo qui định tại Điều 4 của Hiệp định. Đối với những
sản phẩm thuộc diện PTA, sẽ áp dụng chương trình cắt giảm thuế quan quy định tại Điều

4A của Hiệp định này, có xem xét tới mức thuế quan sau khi đã áp dụng mức ưu đãi
(MOP) kể từ ngày 31/12/1992.
5. Tất cả các sản phẩm thuộc diện PTA không nằm trong danh mục cắt giảm thuế theo
Chương trình CEPT thì sẽ tiếp tục được hưởng MOP hiện có tính từ ngày 31/12/1992.
6. Các quốc gia thành viên đã thực hiện cắt giảm thuế từ 20% và thấp hơn xuống 0-5%
đối với các sản phẩm đã được thoả thuận, mặc dù đã được hưởng quy chế tối huệ quốc
(MFN), vẫn sẽ được hưởng các ưu đãi. Các Quốc gia thành viên có mức thuế quan ở mức
thuế MFN là 0-5%, sẽ được coi là đã hoàn thành các nghĩa vụ theo Hiệp định này và
cũng được hưởng các ưu đãi.
 Cơ chế trao đổi nhượng bộ của kế hoạch CEPT

5


Những nhượng bộ khi thực hiện CEPT của các quốc gia được trao đổi trên nguyên tắc có
đi có lại.
Muốn hưởng nhượng bộ về thuế quan khi xuất khẩu hàng hoá trong khối, một sản phẩm
cần có điều kiện sau:
Sản phẩm đó phải nằm trong danh mục cắt giảm thuế của cả nước xuất khẩu và nước
nhập khẩu, và phải có mức thuế quan (nhập khẩu) bằng hoặc thấp hơn 20%.
Sản phẩm đó phải có chương trình cắt giảm thuế được Hội đồng AFTA thông qua.
Sản phẩm đó phải là một sản phẩm của khối ASEAN tức là phải thoả mãn yêu cầu hàm
lượng xuất xứ từ các nước thành viên ASEAN ít nhất là 40%.
Giá trị nguyên vật liệu, bộ phận, các sản phẩm là đầu vào nhập khẩu từ các mức từ không
phải là thành viên ASEAN là giá CIF tại thời điểm nhập khẩu. Giá trị nguyên vật liệu, bộ
phận,sản phẩm là đầu vào không xác định được xuất xứ xuất khẩu là giá xác định ban
đầu trước khi đưa vào chế biến trên lãnh thổ của nước xuất khẩu, là thành viên của
ASEAN.
Nếu một sản phẩm có đủ điều kiện trên sẽ được hưởng mọi ưu đãi mà quố gia nhập khẩu
đưa ra (sản phẩm được hưởng ưu đãi hoàn toàn). Nếu sản phẩm thoả mãn các yêu cầu

trên trừ việc có mức thuế quan nhập khẩu bằng hoặc thấp hơn 20% (tức là sản phẩm đó
có thuế suất trên 20%) thì sản phẩm đó chỉ được hưởng thuế suất CEPT cao hơn 20%
trước đó hoặc thuế suất MFM tuỳ thuộc thuế suất nào thấp hơn.
Để xác định các sản phẩm có điều kiện hưởng ưu đãi thuế quan theo chương trình CEPT
hay không, mỗi nước thành viên hàng năm xuất bản tài liệu trao đổi ưu đãi CEPT của
nước mình, trong đó thuế của các sản phẩm có mức thuế quan theo CEPT và các sản
phẩm đủ điều kiện hưởng ưu đãi thuế quan của các nước thành viên khác.
b. Triển vọng hợp tác của AFTA
- Về trình độ hợp tác thương mại giữa các nước ASEAN: Hình thành khu vực mậu dịch
tự do cho toàn khu vực, sau đó có thế trở thành một đồng minh thuế quan, một thị trường
chung và cao hơn nữa là một hiệ định kinh tế khu vực. Đến năm 2015, AFTA sẽ trở thành
một liên hiệp thuế quan.
- Hợp tác ngày càng có hiệu quả sang các lĩnh vực mới như TMDV, TM quyền sở hữu trí
tuệ, lập khu đầu tư ASEAN

6


- Thương mại nội khối sẽ không ngừng gia tăng, khai thác tốt được khả năng bổ sung cho
nhau và liên kết năng cao được khả năng cạnh tranh
- Mở rộng hợp tác thương mại ra bên ngoài khu vực không ngừng gia tăng và chi phối
mạnh mẽ đến buôn bán nội khối và thể chế hợp tác
1.2. Cam kết của Việt Nam trong CEPT/AFTA
Việt Nam gia nhập ASEAN (7/1995) và ký Hiệp định CEPT vào thời điểm mà các nước
thành viên khác đã có 3 năm để thực hiện. Theo quy chế của ASEAN đối với một thành
viên mới, thời hạn để Việt Nam hoàn thành quá trình tham gia thiết lập AFTA (bắt đầu
thực hiện cắt giảm thuế, thời hạn chuyển dần từ danh mục loại trừ tạm thời sang danh
mục cắt giảm thuế quan cũng như ra hạn chế để hoàn thành cắt giảm thuế quan) sẽ muộn
hơn các nước thành viên khác 3 năm. Có nghĩa là, Việt Nam bắt đầu giảm thuế từ
01/01/1996 và kết thúc vào năm 2006. Các mặt hàng trong danh mục loại trừ tạm thời sẽ

chuyển dần sang danh mục cắt giảm thuế quan theo 5 bước, mỗi bước áp dụng cho 20%
số mặt hàng của danh mục loại trừ tạm thời và bước đầu tiên được bắt đầu thực hiện từ
năm 1998 và bước kết thúc 2003. So với các nước thành viên khác, Hiệp định CEPT
được các nước thành viên thoả thuận và ký kết năm 1992 song việc thực hiện chỉ bắt đầu
01/01/1994. Như vậy các nước đã có khoảng thời gian 2 năm để thực hiện tất cả các vấn
đề liên quan và đối với Việt Nam thời gian để chuẩn bị cho việc tham gia Hiệp định
CEPT là không quá nửa năm. Cũng có quan điểm cho rằng Việt Nam có đủ thời gian để
chuẩn bị vì Việt Nam là quan sát viên của ASEAN từ tháng 7 năm 1992. Nhưng thực tế ý
đồ chỉ đạo các Bộ, ngành chuẩn bị để tham gia ASEAN, và nhất là tham gia thực hiện
AFTA chỉ được đưa ra từ giữa năm 1995. Thời gian chuẩn bị như vậy là rất bị động, nhất
là nêu liên hệ với thời gian đệ trình các danh mục hàng hóa theo chương trình CEPT là
trong tháng 12/1995.
Để có thể phân tích rõ tình hình thực hiện AFTA của Việt Nam, trước hết cần làm rõ về
mặt tổ chức tham gia thực hiện AFTA. Như chúng ta đã biết AFTA được thực hiện thông
qua các yếu tố:





Chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung CEPT.
Thống nhất và công nhận tiêu chuẩn hàng hóa giữa các nước thành viên.
Công nhận việc xóa những quy định hạn chế đối với ngoại thương.
Hoạt động tư vấn kinh tế vĩ mô.

Và thực tiễn thực hiện AFTA của Việt Nam trong thời gian vừa qua cũng sẽ được phân
tích cụ thể theo 3 lĩnh vực cho các ngành phụ trách:


Lĩnh vực cắt giảm thuế quan.

7


Lĩnh vực loại bỏ các hạn chế định lượng (Qrs) và các rào cản phi thuế quan khác
(NTBs).
• Lĩnh vực hợp tác hải quan.


Tham gia thực hiện khu vực thương mại tự do ASEAN, Việt Nam gặp không ít khó khăn
trong việc xây dựng chương trình cắt giảm thuế quan theo Hiệp định CEPT do xuất phát
điểm nền kinh tế Việt Nam thấp hơn so với các nước thành viên khác.
Bảng 1: Cơ cấu thuế suất của biểu thuế nhập khẩu Việt Nam (1999)
0% - 5%

6% - 10%

11% - 20%

21% - 60%

Trên 61%

Số
nhóm
mặt
hàng

Tỷ
trọng
(%)


Số
nhóm
mặt
hàng

Tỷ
trọng
(%)

Số
nhóm
mặt
hàng

Tỷ
trọng
(%)

Số
nhóm
mặt
hàng

Tỷ
trọng
(%)

Số
nhóm

mặt
hàng

Tỷ
trọng
(%)

1700

53.1

199

9.31

636

19.81

546

17

25

10.78

Nguồn: biểu thuế xuất nhập khẩu, Bộ Tài chính.
Trong tổng hơn 3000 nhóm mặt hàng của Biểu thuế nhập khẩu hiện hành của Việt Nam,
hơn một nửa tổng số nhóm mặt đã phù hợp với mức thuế tiêu chuẩn đặt ra cho chương

trình CEPT, điều đó có nghĩa là về thực chất Việt Nam chỉ phải thực hiện giảm thuế cho
gần 50% của tổng số nhóm mặt hàng trong biểu thuế nhập khẩu hiện hành. So với các
nước thành viên ASEAN khác khi bắt đầu thực hiện chương trình cắt giảm thuế theo
Hiệp định về chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung thì tỷ lệ thuế suất từ 0%5% của Việt Nam nhiều hơn rất nhiều ( như Indonesia khi bắt đầu tham gia chương trình
CEPT chỉ có 9% tổng số nhóm mặt hàng có thuế suất dưới 5%, Thái Lan có 27%,
Philipin có 32%). Đây là một thuận lợi khi Việt Nam tham gia thực hiện chương trình cắt
giảm thuế quan theo quy định của Hiệp định CEPT.
Tuy nhiên, trong cơ cấu biểu thức nhập khẩu của Việt Nam, mức thuế suất thấp chủ yếu
áp dụng cho các mặt hàng là nguyên vật liệu đầu vào phục vụ cho sản xuất, xuất khẩu. Tỷ
trọng lớn của số các thuế suất trong khoảng 0 - 5% phù hợp với điều kiện của Việt Nam
trong giai đoạn khi nhiều nguyên vật liệu là đầu vào mà sản xuất trong nước chưa đủ khả
năng đáp ứng. Các thuế suất trên 60% được áp dụng chủ yếu đối với các mặt hàng xa xỉ
phẩm, đồ dùng thiết bị với mục đích điều chỉnh tiêu dùng.

8


Cho đến thời điểm 01/01/1996 Việt Nam chỉ áp dụng đối với các hàng hóa nhập khẩu với
một loại thuế chung nhất là thuế nhập khẩu với mức thuế suất tương đối cao so với các
nước khác, nhất là hàng hóa xa xỉ phẩm.
Về mặt số học đơn thuần, hiện nay các nước ASEAN chiếm khoảng 30% tổng kim ngạch
của Việt Nam trong khi số thu từ thuế nhập khẩu của Việt Nam chiếm đến 1/4 trong tổng
số thu ngân sách. Do đó nếu dự kiến thương mại giữa ASEAN và Việt Nam vẫn giữ ở
mức hiện nay trong khi giảm toàn bộ thuế suất của thuế nhập khẩu xuống mức thuế
chung là 5% trong các điều kiện hiện hành về các chính sách thì số thuế sẽ giảm đi đáng
kể cho việc giảm nguồn thu từ thuế nhập khẩu đánh vào hàng hóa ASEAN từ các nước
ASEAN. Trên tinh thần CEPT/AFTA là xây dựng các danh mục hàng hóa để thực hiện
chương trình cắt giảm thuế và để thực hiện phương án chung, thực hiện AFTA của Việt
Nam, trong thời gian qua chúng ta đã tiến hành nghiên cứu, phân loại các ngành sản xuất
trong nước theo 3 nhóm dựa trên khả năng cạnh tranh, ưu thế, tiềm năng những khó khăn

vướng mắc hiện tại... để xây dựng tiến trình giảm thuế quan cụ thể cho từng ngành hàng
một cách hiệu quả nhất.
Nhóm ngành hàng có thế mạnh xuất khẩu.
Nhóm các ngành hàng có thể cạnh tranh với hàng nhập khẩu trong tương lai.
Nhóm các ngành có tiềm năng cạnh tranh kém.
1.2.1. Lịch trình giảm thuế cho các ngành hàng có thế mạnh xuất nhập khẩu
Đây là những nhóm hàng bao gồm những hàng mà trong thời gian trước mắt những lợi
thế so sánh của Việt Nam dựa trên nguồn tài nguyên đa dạng phong phú, nguồn dao động
dồi dào, có thể tiếp thu tay nghề nhanh có thể tác dụng nhiều nhất. Cụ thể là ngành hàng
nông sản (với các mặt hàng gạo, cà phê, chè hạt điều...), cao su sơ chế, thuỷ sản, dệt may.
Sau đây là một số mặt hàng cụ thể quan trọng trong nhóm các mặt hàng có thế mạnh xuất
khẩu.
a. Hàng nông sản:
 Mặt hàng gạo:

Lịch trình dựa vào tham gia CEPT của gạo
2003

2004

2005

2006

10%

10%

10%


5%
9


Mặt hàng gạo tuy là thế mạnh xuất khẩu của Việt Nam, đang cần được mở rộng thị
trường xuất khẩu nhưng được đưa vào thực hiện CEPT theo lịch trình chậm nhất vì
những lý do sau :
Lý do kinh tế: Mặt hàng này sẽ vẫn còn cần Nhà nước quản lý chặt chẽ cung cầu và giá
cả trên thị trường trong nước vì là mặt hàng có ảnh hưởng trực tiếp đến đại bộ phận dân
chúng, nhất là nông dân. Việc bảo hộ cho nông dân cần được trực tiếp duy trì trong thời
gian nhiều năm nữa, tránh những bất ổn không lường trước được đối với mặt hàng này
trong cả khâu sản xuất lẫn tiêu thụ. Tránh những khả năng có thể gạo Thái Lan, nhất là
loại gạo chất lượng tràn vào xâm nhập thị trường nước ta vì Thái Lan là nước mạnh nhất
về xuất khẩu gạo trong ASEAN và đã đưa mặt hàng này vào thực hiện CEPT.
Lý do kỹ thuật: Ba nước Philipin, Inđônêxia, Malaixia là những thị trường mà nước ta có
thể đẩy mạnh xuất khẩu gạo thì đều đã để gạo trong danh mục nhạy cảm cao và chỉ đưa
gạo vào cắt giảm theo CEPT từ 2010 và kết thúc 2020. Do đó, nếu ta đưa gạo vào thực
hiện CEPT sớm hơn từ nay đến năm 2010 cũng không được ưu đãi của các nước này, mặt
khác khi đó sản xuất trong nước sẽ trực tiếp bị sức ép cạnh tranh của gạo Thái Lan là đối
thủ đang mạnh hơn.
Có thể tăng lượng gạo xuất khẩu sang ASEAN qua việc đàm phán thương mại song
phương hoặc theo kênh hợp tác kinh tế chung trong ASEAN chứ chưa khai thác được khả
năng tăng xuất khẩu sang ASEAN theo cơ chế CEPT trước năm 2010.
 Mặt hàng cà phê

Lịch trình đưa vào CEFT
Năm

1998


1999

2000

2001

2002

2003

Sơ chế

15%

15%

15%

10%

10%

5%

Thành phẩm

45%

35%


25%

20%

20%

20%

2004

2005

2006

15%

10%

5%

Cà phê có lịch trình cắt giảm nêu trên được xây dựng căn cứ vào các lý do sau:
Lý do kinh tế: - Cà phê sơ chế là thế mạnh xuất khẩu của Việt Nam và đang được xuất
khẩu sang các nước ASEAN khác. Cà phê thành phẩm có bước cắt giảm chậm hơn là vì
khâu chế biến của ta còn kém, cần có thêm thời gian để các doanh nghiệp tập trung đầu
tư thích đáng cho khâu này, đảm bảo tăng dần sức cạnh tranh với hàng của ASEAN.

10


Lý do kỹ thuật: Theo quy định đối với danh mục cắt giảm các mặt hàng hiện có thuế suất

từ 20% trở xuống phải đạt từ 0%-5% vào 2003: các mặt hàng hiện có thuế suất trên 20%
phải hạ xuống tới 20% hoặc thấp hơn vào năm 2001.
 Chè: Lịch trình cắt giảm giống cà phê.

b. Ngành thủy sản:
Xuất khẩu của khu vực địa phương ngày càng tăng chiếm tới 73% kim ngạch xuất khẩu
thủy sản (1996). Giá trị xuất khẩu hàng năm 21%. Năm 1996, xuất khẩu đạt 550 triệu
USD, trong đó ASEAN chiếm 12% kim ngạch xuất khẩu hải sản. Việt Nam đứng 19 trên
thế giới về tổng sản lượng thứ 30 về kim ngạch xuất khẩu, thứ 5 về sản lượng tôm nuôi.
Từ năm 1991-1995 trung bình hàng năm tổng sản lượng tăng 6,4%, giá trị xuất khẩu tăng
21%.
Lịch trình đưa thủy sản tham gia CEPT: Hầu hết các mặt hàng thủy sản đều được đưa vào
danh mục cắt giảm (trừ mặt hàng để làm giống)

1997

1998

1999

2000

2001

2002

2003

20%


15%

15%

15%

10%

10%

5%

Lý do kinh tế: Tuy ASEAN không phải là thị trường chính nhưng thủy sản vẫn là thế
mạnh xuất khẩu trong khu vực của ta. Tận dụng ưu đãi của các nước ASEAN theo CEPT
cho hàng thủy sản xuất khẩu của Việt Nam, nâng cao hiệu quả xuất khẩu.
Lý do kỹ thuật: Các nước đều đã đưa hàng thủy sản vào cắt giảm nên theo lịch trình này
thì theo lịch trình này thì hàng xuất khẩu của ta sẽ được hưởng mức ưu đãi nhiều trong
khi ta chỉ cắt giảm thuế nhập khẩu ở mức vừa phải.
c. Ngành dệt may:
Trong 5 năm qua toàn ngành dệt may đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 11% năm: xuất
khẩu tăng 59%, chiếm 13,2% tổng kim ngạch xuất khẩu. Khả năng cạnh tranh của ngành
dệt may nước ta so với các nước khác trong khu vực được đánh giá tương đối tốt. Việt
Nam có lợi thế về nguồn nhân công dồi dào, có khả năng tiếp thu nhanh công nghệ tiên
tiến, giá công lao động thấp nhất.

11


Ngành may mặc đã được đổi mới khá nhiều về thiết bị, công nghệ, nên chất lượng sản
phẩm và giá thành có thể cạnh tranh được với các nước trong khu vực.

Tơ tằm và lụa có khả năng cạnh tranh tốt so với các nước trong khu vực, có thể tăng
cường hơn nữa xuất khẩu sang ASEAN.
Lịch trình đưa vào tham gia CEFT:
 Sợi

1997

1998

1999

2000

2001

2002

2003

20%

20%

15%

15%

15%

10%


5%

 Vải

2002

2003

2004

2005

2006

40%

35%

30%

20%

5%

 May mặc

1997

1998


1999

2000

2001

2002

2003

2004

2005

2006

50%

45%

40%

35%

20%

20%

20%


15%

10%

5%

Lý do: Sợi đa số các loại sợi được cắt giảm trước là những mặt hàng Việt Nam không
nhập từ ASEAN... nên lịch trình này thực tế sẽ hầu như không ảnh hưởng đến số thu và
sản xuất trong nước.
- Vải giày dép: có lịch trình cắt giảm gần như muộn nhất để tránh cạnh tranh trong lĩnh
vực này của hàng từ ASEAN, kéo dài hạn bảo hộ cho sản xuất trong nước và hạn chế ảnh
hưởng gián thu. Hơn nữa, hiện nay mặt hàng giày dép của Việt Nam sản xuất hầu như chỉ
xuất khẩu sang thị trường qua khu vực ASEAN.
- May mặc: lĩnh vực này có thể cạnh tranh được trên thị trường trong khu vực được đưa
vào cắt giảm sớm để tranh thủ ưu đãi CEPT; tăng tỷ trọng xuất khẩu trực tiếp, năng cao
hiệu quả xuất khẩu.
d. Mặt hàng cao su ( cao su tự nhiên )
Từ năm 1991-2000 xuất khẩu cao su của Việt Nam tăng trưởng bình quân 18,6%/năm.
Nhìn chung việc xuất khẩu cao su sơ chế có hiệu quả rất cao do giá thành sản xuất thấp.
12


So với các nước ASEAN khác như Inđônêxia, Malaixia và Thái Lan là những nước xuất
khẩu cao su lớn trên thế giới, sản lượng cao su của nước ta còn rất nhỏ, chỉ xấp xỉ 1/10
đến 1/17 sản lượng hàng năm của ta còn hạn chế về số lượng, cơ cấu chủng loại sản phẩm
và khách hàng truyền thống. Năm 1998, ASEAN chiếm 17% kim ngạch xuất khẩu cao su
trong đó riêng Singapo chiếm 13%. Các mặt hàng cao su sơ chế đến nay đã đưa vào thực
hiện CEPT, với thuế suất hiện hành rất thấp (1%) nên thực tế sẽ không phải cắt giảm
thuế.

2.1.2. Lịch trình giảm thuế cho các ngành hàng có thể cạnh tranh với hàng nhập khẩu
trong tương lai
Lịch trình giảm thuế nhìn chung sẽ được dự kiến với tiến trình chậm nhất cho
phần lớn các ngành hàng trong nhóm này để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong
nước có thể phát triển lên một mức độ nhất định trước khi phải đối đầu với môi trường
cạnh tranh với hàng nhập khẩu từ các nước ASEAN. Khi các mặt hàng này được đưa vào
giảm thuế, các chính sách thương mại khác thông qua tỷ giá và biện pháp bảo hộ phi thuế
quan sẽ giữ một vai trò rất quan trọng góp phần giảm thu cho ngân sách đồng thời tạo
điều kiện trực tiếp bảo hộ cho các doanh nghiệp sản xuất trong nước. Sau đây là lịch trình
cụ thể của một số mặt hàng thuộc các ngành hàng có thể cạnh tranh với hàng nhập khẩu
trong tương lai.
a. Ngành rau quả
 Rau quả tươi

Năm

1997

1998

1999

2000

2001

2002

Rau


20%

20%

15%

15%

10%

5%

Củ

20%

20%

20%

15%

15%

30%

20%

Quả


2003

2004

2005

15%

10%

10%

5%

20%

20%

20%

10%

2006

5%

 Rau quả chế biến

2002


2003

2004

2005

2006

40%

30%

20%

15%

5%

b. Ngành thực phẩm chế biến
Lịch trình đưa vào tham gia CEFT
13


Mỡ và dầu động vật loại chưa tinh chế, men, axit béo công nghiệp...
1998

1999

2000


2001

2002

2003

10%

10%

10%

10%

10%

5%

Thịt các loại mỡ động vật hoặc thực vật loại đã tinh chế, thịt cá chế biến...
2000

2001

2002

2003

2004

2005


2006

15%

15%

15%

15%

10%

10%

5%

Ngành sữa
Lịch trình đưa vào tham gia CEFT
2003

2004

2005

2006

20%

15%


15%

5%

d. Ngành điện tử
Lịch trình đưa vào tham gia CEFT
Thiết bị điện công suất lớn, thiết bị chuyên dùng, phụ tùng, thiết bị điện kỹ thuật cao sẽ
được tiến hành cắt giảm:
1997

1998

1999

2000

2001

2002

2003

20%

15%

15%

15%


10%

10%

5%

10%

10%

10%

10%

10%

10%

5%

Thiết bị công suất vừa và nhỏ, các thiết bị nghe nhìn đồ điện gia dụng...
Năm

2002

2003

2004


2005

2006

Biến thế, ác quy đèn

30%

25%

20%

15%

5%

50%

45%

25%

5%

55%

45%

25%


5%

Cát sét
Ti vi

60%

e. Ngành hàng cơ khí
Đa số máy móc công cụ, phức tạp, thiết bị kỹ thuật, phụ tùng, dụng cụ thô sơ...
1997

1998

1999

2000

2001

2002

2003
14


20%

15%

15%


15%

10%

10%

5%

Máy móc gia dụng cao cấp, một số máy công cụ, đồ cơ khí đơn giản là những mặt hàng
trong nước đã sản xuất được
Năm

2000

2001

2002

2003

2004

2005

2006

40%

35%


25%

5%

20%

15%

15%

15%

Quạt các loại

50%

40%

30%

5%

Máy giặt

40%

35%

25%


5%

Ô tô tải dưới 5 tấn

60%

40%

30%

5%

Kim khí gia dụng
Bơm chất lỏng

25%

20%

20%

f. Ngành tàu thuyền
Hầu như một mức thuế được áp dụng hiện nay là 0%, chỉ có một mức 5% nên việc đưa
nhóm hàng này vào thực hiện không đòi hỏi phải giảm thuế.
g. Ngành hóa chất
Mặt hàng thuốc trừ sâu đã có thuế suất thấp (2-3%)
Mặt hàng phân bón hóa học đã có thuế suất thấp 0% nhưng có thể nâng lên vượt quá 5%.
Cao su tự nhiên và cao su tổng hợp, các sản phẩm cao su dùng trong công nghiệp, xăm
lốp của ô tô 20 tấn.


1998

1999

2000

2001

2002

2003

20%

20%

15%

15%

10%

5%

Các loại xăm lốp ô tô của phần lớn các loại ô tô còn lại:
2002

2003


2004

2005

2006

30%

25%

20%

10%

5%

h. Ngành xi măng
Lịch trình đưa vào tham gia CEFT
15


2003

2004

2005

2006

15%


15%

10%

5%

1.2.3. Lịch trình giảm thuế cho các ngành hàng có tiềm năng cạnh tranh kém
Lịch trình cắt giảm ngành hàng này với tiến trình chậm nhất, tuy nhiên các giải pháp về
định hướng chuyển dịch đầu tư phải bắt đầu xúc tiến trong thời gian sớm nhất. Nếu
không có sự chuẩn bị trước cho các doanh nghiệp sẽ khó tránh khỏi tình trạng doanh
nghiệp bị giải thể kèm theo nhiều vấn đề về kinh tế.
a. Ngành thép
Lịch trình đưa vào tham gia CEFT
Năm

1997

1998

1999

2000

2001

2002

2003


20%

15%

15%

15%

10%

10%

5%

15%

10%

10%

10%

5%

Thép xây dựng và loại thép hình
2003

2004

2005


2006

30%

20%

10%

5%

b. Ngành giấy
Giấy nguyên liệu, giấy bao gói, giấy kỹ thuật
1997

1998

1999

2000

2001

2002

2003

20%

15%


15%

15%

10%

10%

5%

Giấy in, giấy viết, giấy vệ sinh, giấy bao gói
1997

1998

1999

2000

2001

2002

2003

2004

2005


2006

30%

30%

30%

30%

30%

30%

25%

20%

10%

5%

c. Mặt hàng đường
1997

2003

2004

2005


2006

16


25%

35%

30%

25%

5%

35%

45%

40%

35%

5%

Kể từ 1/1/2015 khi thuế quan với hầu hết hàng hóa giao dịch trong khối về 0, doanh
nghiệp Việt Nam sẽ có điều kiện thuận lợi hơn khi thâm nhập thị trường các nước thành
viên ASEAN nhưng cũng đồng thời phải đối mặt với cạnh tranh mạnh mẽ hơn từ các đối
thủ khu vực.


CHƯƠNG II : NHỮNG TÁC ĐỘNG CỦA CEPT/AFTA ĐẾN PHÁT TRIỂN
THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
2.1 Những cơ hội thuận lợi cho Việt Nam khi tham gia vào AFTA

17


Những năm gần đây đầu tư của các nước ASEAN đang có xu hướng tăng nhanh. Sự tham
gia của Việt Nam vào AFTA sẽ tạo ra thuận lợi cho sự phát triển kinh tế phục vụ cho sự
nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước.
 Tăng cường quan hệ thương mại với các nước

Việc tham gia vào chương trình này là điều kiên thuận lợi để Việt Nam tăng nhanh tốc độ
tăng trưởng kinh tế và thương mại, thúc đẩy nhanh chóng quá trình công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước.
Tham gia AFTA cũng là bước đi cơ bản để Việt Nam tham gia vào các tổ chức kinh tế có
quy mô rộng lớn hơn như diễn đàn hợp tác kinh tế Thái Bình Dương APEC, tổ chức
thương mại thế giới WTO. AFTA, APEC, WTO. Nâng cao vị thế của Việt Nam trong
quan hệ quốc tế nhất là trong đàm phán đa phương.
 Mở rộng thị trường ưu đãi

ASEAN là thị trường rộng lớn với khoảng trên 530 triệu dân sẽ là thị trường tiềm năng
cho việc tiêu thụ hàng hoá tại Việt Nam. Hiện nay, khoảng 30% kim ngạch nhập khẩu là
từ các nước thành viên ASEAN. Các mặt hàng được nhà nước ưu tiên nhập khẩu là máy
móc thiết bị và nguyên vật liệu phục vụ cho nhu cầu xã hội. Khi tham gia AFTA và thực
hiện chương trình CEPT thì các mặt hàng này sẽ được giảm thuế nhập khẩu xuống 0-5%.
Như vậy, luồng hàng nhập khẩu được mở rộng nhanh chóng, ASEAN ảnh hưởng rất lớn
thành phẩm của các cơ sở sản xuất sử dụng nguyên liệu nhập khẩu từ các nước ASEAN .
Do cơ cấu danh mục hàng hoá tham gia CEPT bao gồm cả nông sản thô và nông sản chế

biến, nếu Việt Nam tăng cường sản xuất hàng nông sản thì sự cắt giảm thuế sẽ trở thành
yếu tố kích thích cho các doanh nghiệp sản xuất mặt hàng này để xuất khẩu sang các
nước trong khu vực và ngoài khu vực.
Một trong những quy định về sản phẩm được hưởng quy chế hệ thống ưu đãi thuế quan
phổ cập (GSP) của Mỹ là “ trị giá nguyên vật liệu cho phép nhập để sản xuất hàng hoá đó
phải dưới 65% toàn bộ giá trị của sản phẩm đó khi vào lãnh thổ hải quan của Mỹ” và “trị
giá một sản phẩm được chế tạo ở hai hoặc trên hai nước là hội viên của một Hiệp hội
kinh tế, Liên minh thuế quan khu vưc mậu dịch tự do thì được coi sản phẩm của một
nước”. Vì vậy, việc Việt Nam gia nhập AFTA tạo điều kiện cho Việt Nam có thể nhập
nguyên liệu của các nước ASEAN khác để sản xuất mà sản phẩm đó vẫn được hưởng
GSP.
 Thu hút vốn đầu tư nước ngoài

18


Tham gia vào AFTA, Việt Nam có điều kiện thu hút được nhiều vốn đầu tư từ những
nước thừa vốn và đa dạng có sự dịch chuyển mạnh sang các ngành có hàm lượng kỹ thuật
cao, sử dụng ít nhân công như: Singapo, Malaysia, Thái Lan. Việt Nam cũng có điều kiện
để tiếp thu công nghệ và đào tạo kỹ thuật cao ở các ngành cần nhiều lao động mà các
nước đó đang cần chuyển giao, tranh thủ nguồn vốn và những tiến bộ khoa học kỹ thuật
của các nước trong khu vực để khai thác và sử dụng có hiệu quả tài nguyên đất nước, xây
dựng cơ sở hạ tầng, phục vụ công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đó cũng
là cách “đi tắt, đón đầu” phù hợp của chúng ta.
 Chuyển dịch cơ cấu kinh tế

Tham gia AFTA sẽ tạo sức ép và động lực để các doanh nghiệp Việt Nam đổi mới cơ cấu
tổ chức, cách thức sản xuất, phương pháp quản lý để nâng cao chất lượng, hạ giá thành
sản phẩm tăng sức cạch tranh nền kinh tế từ đó có cơ hội để phát triển công nghiệp, nông
nghiệp, thương mại và dịch vụ tạo nên cơ cấu kinh tế thích hợp. Trong tổng kim ngạch

xuất khẩu của Việt Nam sang ASEAN hiện nay, tỷ trọng hàng công nghiệp chế biến mới
chỉ đạt 18%, nông sản thực phẩm 48%, nhiên liệu 34%. Trong đó trọng tâm ưu đãi của
chương trình CEPT lại là các mặt hàng công nghiệp chế biến. Việc thực hiện chương
trình CEPT sẽ là cơ hội để Việt Nam chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng nâng cao
tỷ trọng hàng công nghiệp chế biến, giảm dần tỷ trọng các mặt hàng thô, sơ chế. Đây
cũng là cơ hội để Việt Nam tổ chức lại sản xuất theo mô hình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
hướng tới xuất khẩu.
Những thuận lợi và lợi thế so sánh của Việt Nam chủ yếu là những nhân tố
khách quan nhưng những khó khăn chủ yếu là những yếu tố bắt nguồn từ chính nội lực
nền kinh tế. Điều này chứng tỏ rằng, trong quá trình hội nhập khu vực, nền kinh tế Việt
Nam rất dễ bị tổn thương, trở thành thách thức to lớn đòi hỏi chúng ta phải vượt lên
những trì trệ, ách tách của chính mình để tìm ra cách đi hợp lý để chiến thắng trong cuộc
chạy đua và cạnh tranh kinh tế về lâu dài để các liên kết giữa Việt Nam với các nước
thành viên ASEAN được bền chặt hơn trên cơ sở bình đẳng hai bên cùng có lợi .

2.2 Những tác động cũng nhưu thách thức đối với thương mại Việt Nam
Tham gia AFTA và CEPT là một cơ hội để chúng ta mở rộng sự tiếp xúc với thị trường
hàng hoá, vốn tài chính, công nghệ, khoa học, kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý… Tuy
nhiên, cơ hội và thách thức vẫn là “cặp phạm trù” thường song hành với nhau. Đó là sức
19


ép sẽ ngày càng tăng đối với các doanh nghiệp trong cũng như ngoài khu công nghiệp,
khu chế xuất. Với quy chế của AFTA, hàng hoá của các nước thành viên ASEAN sẽ nhập
vào thị trường nước ta ngày càng nhiều với thuế suất giảm dần đến 0% tạo nên sự cạnh
tranh ngày càng quyết liệt trong quá trình quốc tế hoá thương mại.
 Về sức cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ

Việc hạ thấp hàng rào thuế quan và phi quan thuế theo AFTA đối với Việt Nam ngay lập
tức sẽ gây ra một cuộc cạnh tranh gay gắt mà các ngành công nghiệp non trẻ của Việt

Nam sẽ gặp khi phải đối mặt với các loại hàng hoá nhập khẩu giá hạ từ các nước ASEAN
ngay tại thị trường trong nước.
Khả năng cạnh tranh của hàng hoá phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó quan trọng nhất
là chất lượng, chủng loại và mẫu mã giá cả. Tham gia AFTA sẽ có một tác động trực tiếp
tới yếu tố giá cả của hàng hoá, bởi vì với việc cắt giảm thuế, đơn giản hoá các thủ tục
buôn bán, thì giá bán của hàng hoá sẽ hạ hơn.
Trình độ phát triển kinh tế của Việt Nam vẫn còn thấp, chuyển dịch cơ cấu diễn ra chậm,
sức cạnh tranh của hàng hoá kém, đặc biệt về mẫu mã, chất lượng. Tham gia AFTA, các
doanh nghiệp Việt Nam sẽ đứng trước sự thua kém về thế thương lượng cạnh tranh do
nghèo vốn, kỹ thuật thấp, chất lượng yếu và không có khả năng cạnh tranh về giá cả. Đó
là chưa kể kinh nghiệm thương trường do nghèo vốn, kỹ thuật thấp, chất lượng yếu và
không có khả năng cạnh tranh về giá cả của các doanh nhân Việt Nam còn yếu. Tuy
nhiên, thách thức này cũng có thể coi như một cơ hội hối thúc sự trỗi dậy của các doanh
nghiệp Việt Nam trước xu thế tự do hoá thương mại.Hội nhập một mặt tạo thêm rất nhiều
cơ hội thâm nhập thị trường quốc tế đồng thời cũng dần dần phải mở cửa thị trường Việt
Nam cho hàng hoá các nước nhập vào (theo nguyên tắc có đi có lại). Nếu không chuẩn bị
tốt, chủ động chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh mà cứ đầu tư
dàn trải, không đổi mới công nghệ thì không thể nào nâng cao sức cạnh tranh. Đây là sức
ép lớn không chỉ với Việt Nam mà ngay cả các nước có sức mạnh kinh tế cũng phải chấp
nhận đương đầu, thậm chí có lúc phải từ bỏ một số ngành nghề để tạo cơ hội phát triển
cho những ngành có lợi thế so sánh hơn đồng thời có kế hoạch và biện pháp cụ thể để chủ
động thích ứng và vượt lên.
Trước yêu cầu phải tháo gỡ dần hàng rào thuế và phi thuế để mở đường cho thương mại
phát triển, một mặt chúng ta phải tính toán để có chính sách bảo hộ hợp lý sản xuất trong
nước (bảo hộ có điều kiện, có chọn lọc, có thời gian, có lộ trình).
Thực tế 2/3 thành viên của WTO là các nước đang phát triển, một số nước thành viên của
các tổ chức khu vực cũng đang ở trình độ phát triển thấp, có những nét tương đồng với
20



Việt Nam. Vấn đề đặt ra là ta không ngồi chờ mà luôn có biện pháp thích hợp với từng
ngành, từng thời kỳ nhằm nâng cao nội lực của nền kinh tế, và khả năng cạnh tranh.
 Về khả năng của các doanh nghiệp

Hiện nay các doanh nghiệp lớn của nước ta vẫn chủ yếu là các doanh nghiệp nhà nước
hoạt động trong cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung nay chuyển sang nền kinh tế thị
trường nhiều thành phần, các doanh nghiệp này vẫn chưa thực sự thích ứng với cơ chế
mới. Các doanh nghiệp khác, mới được thành lập trong thời kỳ đổi mới kinh tế, chủ yếu
là doanh nghiệp tư nhân có quy mô rất nhỏ dù có sự mềm dẻo linh hoạt trong hoạt động.
Trong điều kiện như vậy, áp dụng các nguyên tắc về đãi ngộ tối huệ quốc và đãi ngộ quốc
gia đối với chúng ta sẽ rất khó khăn. Mặt khác, Việt Nam chưa có đẩy đủ các thông tin về
các chương trình hợp tác đã và đang có thực hiện của ASEAN. Đội ngũ cán bộ quản lý và
kỹ thuật của Việt Nam chưa được chuẩn bị tốt và trang bị đầy đủ về kiến thức, phương
pháp làm việc và ngoại ngữ để thích ứng với các hoạt động phối hợp của ASEAN.
Quả vậy, doanh nghiệp ta thường có quy mô nhỏ, vốn ít, khả năng tổ chức thị trường yếu,
một số vẫn chưa bỏ được tư tưởng ỷ lại vào sự trợ giúp của Nhà nước. Nếu không sắp
xếp lại, tăng cường khả năng tích tụ và tập trung vốn, hoàn thiện cơ chế quản lý và định
chế tài chính cho các doanh nghiệp thì chúng ta càng khó khăn, đặc biệt khi phải áp dụng
chế độ đãi ngộ quốc gia tức là không phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp nội địa với
các doanh nghiệp nước ngoài ở nước ta. Tuy nhiên đây cũng là quá trình buộc các doanh
nghiệp phải tích tụ và tập trung quy mô thích hợp để tồn tại và phát triển.
Đối với các doanh nghiệp, việc thực hiện các nguyên tắc về không phân biệt đối xử
(MFN) dành cho các doanh nghiệp của các nước thành viên sẽ đặt ra những thách thức
gay go. Theo nguyên tắc này, các doanh nghiệp nước ngoài sẽ được phép thành lập các
công ty và triển khai hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, thương mại và dịch vụ trên thị
trường Việt Nam, đương nhiên theo lộ trình từng bước.
 Về hệ thống chính sách kinh tế thương mại

Về mặt số học đơn thuần, hiện nay các nước ASEAN chiếm khoảng 1/3 tổng kim ngạch
nhập khẩu của Việt Nam trong khi số thu từ thuế nhập khẩu của Việt Nam chiếm đến 1/4

trong tổng số thu ngân sách. Do đó nếu dự kiến thương mại giữa các nước ASEAN và
Việt Nam vẫn giữ ở mức hiện nay trong khi giảm toàn bộ thuế suất thuế nhập khẩu xuống
mức thuế suất chung là 5% trong các điều kiện hiện hành về các chính sách thì số thu từ
thuế có thể sẽ giảm đi đáng kể do việc giảm nguồn thu từ thế nhập khẩu đánh vào hàng
hoá từ các nước ASEAN.
21


Thực hiện các nguyên tắc và chuẩn mực chung của quốc tế tuy còn gặp nhiều khó khăn
nhưng Việt Nam có khả năng và tìm thấy chính lợi ích của mình trong việc thực hiện các
nguyên tắc ấy. Việc thực hiện nghĩa vụ đối với khu vực Thương mại Tự do ASEAN
(AFTA) trong những năm qua phần nào đã minh chứng được điều này.
Khả năng cạnh tranh của hàng hoá sản xuất trong nước còn yếu về giá cả, chất lượng,
hình thức mẫu mã do quy mô sản xuất nhỏ, công nghệ lạc hậu, tổ chức quản lý kém, năng
suất lao động thấp.
Cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam có nhiều bất lợi, chủ yếu là các mặt hàng nông sản,
nguyên liệu thô, và công nghiệp nhẹ, nếu như không có những biện pháp cần thiết về đầu
tư nâng cao năng lực sản xuất, công nghệ chế biến và chất lượng sản phẩm, đa dạng hoá
diện sản phẩm, cải tiến mẫu mã hợp lý và mở rộng quy mô sản xuất thì cũng không cạnh
tranh được với hàng của ASEAN tại các thị trường EU, Bắc Mỹ và Đông Bắc Á.
Khả năng tiếp cận thị trường và tạo lập nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp Việt Nam còn
hạn chế. Hiện nay còn nhiều doanh nghiệp đề thiếu một chiến lược sản xuất kinh doanh
dài hạn và ổn định, cũng như chưa đề ra được một kế hoạch chi tiết dài hạn về phát triển
thị trường.
Hệ thống luật pháp, chính sách chế độ quản lý còn nhiều bất cập, đặc biệt là các cơ quan
quản lý còn chưa quan tâm đúng mức đến việc hỗ trợ tháo gỡ khó khăn giúp cho doanh
nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh như về cơ chế, vốn, thị trường.
Việc tham gia AFTA nói riêng sẽ tạo cho Việt Nam cơ hội gia nhập và khai thác triệt để
hơn nữa một mảng thị trường thế giới rộng mở song những thách thức phải đương đầu
cũng rất lớn, những thách thức đó cần phải được nhìn nhận và đánh giá một cách nghiêm

túc, chính xác để có phương án vượt qua một cách có hiệu quả nhằm đảm bảo cho hội
nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam nói chung được thành công

CHƯƠNG III: ĐỀ XUẤT MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM HẠN CHẾ CÁC TÁC
ĐỘNG TIÊU CỰC CỦA CEPT/ AFTA TỚI PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI Ở VIỆT
NAM
Bên cạnh những thuận lợi, tiềm năng phát triển khi Việt Nam tham gia khu vực thương
mại tự do ASEAN- AFTA, thực hiện hiệp định ưu đãi về thuế quan CEPT vẫn còn tồn tại
22


các tác động tiêu cực đến nền kinh tế nói chung và họat động thương mại nói riêng. Để
khắc phục những khó khăn, thách thức đó, thúc đẩy thương mại Việt Nam ngày càng phát
triển, nhóm đề xuất một số giải pháp và kiến nghị.
3.1. Biện pháp nhằm hạn chế những tác động tiêu cực của CEPT/ AFTA tới phát
triển thương mại ở Việt Nam
3.1.1 Đối với Nhà nước
- Việt Nam cần sắp xếp điều chỉnh lại các chính sách kinh tế của mình cho phù hợp với
các nước thành viên khác và thiết lập một cơ cấu cơ sở hạ tầng cơ bản để tận dụng sự hỗ
trợ, giảm bớt các khó khăn về tài chính và cơ sở hạ tầng, củng cố cơ chế hành chính hỗ
trợ cho thương mại từ AFTA.
- Tạo sự chuyển dịch cơ cấu sản xuất và xuất khẩu theo hướng tạo ra được nhiều chủng
loại hàng hóa có sức cạnh tranh và nằm trong danh mục cắt giảm của CEPT để các doanh
nghiệp có thêm thuận lợi về yếu tố giá cả.
- Tiếp tục cải thiện một cách đồng bộ và toàn diện môi trường đầu tư, hoàn thiện cơ chế
đàm phán thương mại quốc tế đẩy mạnh công tác nghiên cứu cơ bản phục vụ xây dựng
phương án đàm phán thương mại quốc tế, nâng cao hiệu quả đàm phán thương mại quốc
tế; hoàn thiện môi trường pháp lý thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh khuyến khích doanh
nghiệp đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, giảm thiểu tác động bất lợi của hội nhập và
đảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô trong quá trình hội nhập ASEAN ngày càng sâu rộng hơn.

Khi đã gia nhập AFTA các nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư vào Việt Nam, họ sẽ không
chỉ nghĩ đến một thị trường với hơn 90 triệu dân, mà còn tính đến cả thị trường ASEAN
với trên 600 triệu người. Nếu như trước đây, Việt Nam không phải là thành viên của
AFTA, để vượt qua hàng rào thuế quan và các hạn chế nhập khẩu vào thị trường Việt
Nam, các nhà đầu tư nước ngoài buộc phải đầu tư tại nước sở tại. Nhưng nay Việt Nam
đã là thành viên AFTA, nếu môi trường đầu tư vào Việt Nam không hấp dẫn, thì thay vì
đầu tư Việt Nam, các nhà đầu tư nước ngoài có thể sẽ đầu tư vào các nước ASEAN khác,
hoặc đơn giản hơn, chỉ cần mở rộng hoặc tăng thêm công suất của các nhà máy sẵn có tại
các nước AFTA, đặc biệt là đối với các dây chuyền sản xuất đã gần hết khấu hao nhưng
vẫn vận hành tốt, rồi từ đó bán hàng sang Việt Nam. Vì vậy, Việt Nam cần cải thiện các
chính sách về thuế, ổn định chính trị, xã hội, luật đầu tư nước ngoài thông thoáng, nâng
cao trình độ lao động giá rẻ và có tay nghề cao… để tận dụng được những cơ hội thu hút
đầu tư từ các nước khác mà AFTA đem lại.

23


- Tạo môi trường thuận lợi và đầu tư thích đáng, đồng thời áp dụng các biện pháp bảo hộ
hợp lý trong thời gian cho phép để các ngành có tiềm năng phát triển có thể cạnh tranh
không những trên thị trường trong nước mà còn trong khu vực và trên thế giới.
- Chuyển dịch cơ cấu hàng hóa xuất khẩu một cách hợp lý theo hướng hiện đại, nâng nhanh tỉ
trọng các sản phẩm xuất khẩu có giá trị gia tăng cao, sản phẩm chế biến sâu, các sản phẩm có
hàm lượng công nghệ cao, các sản phẩm kinh tế xanh, thân thiện với môi trường; Hạn chế tối
đa xuất khẩu tài nguyên chưa qua chế biến sâu, giảm nhanh tỉ trọng sản phẩm thô và sơ chế
trong cơ cấu hàng xuất khẩu; xác định được những mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam để
đáp ứng nhu cầu của những thị trường “ngách” trong từng thị trường thành viên ASEAN.
- Cùng với việc đẩy mạnh hơn hoạt động thương mại với các thị trường khác nhất là Mỹ,
EU, Nhật Bản cần quyết liệt bám sát thị trường ASEAN để mở rộng thị trường, nâng cao
thị phần và đặc biệt phải coi trọng tính bền vững và hiệu quả.
3.1.2. Đối với các doanh nghiệp.

- Đổi mới và hiện đại hóa công nghệ với chi phí thấp.
Thực hiện giải pháp này theo hướng hợp tác để nghiên cứu chế tạo; nhập các thiết bị
nước ngòai, học tập nguyên tắc tự thiết kế, thiết kế lại, cải tiến cho phù hợp với điều kiện
sản xuất và chế tạo tại Việt Nam. Đối với các công nghệ hoặc thiết bị khó nhập khẩy hoặc
nhập khẩu quá đắt, các doanh nghiệp cần hợp tác với cơ quan nghiên cứu khoa học, kỹ
thuật của Nhà nước cùng đầu tư nghiên cứu để thiết kế và chế tạo; nên đổi mới công nghệ
và thiết bị theo hướng tập trung ở một và khâu then chốt có ảnh hưởng quyết định nhất;
tận dụng khả năng đóng góp của các chuyên gia kỹ thuật, công nghệ người Việt Nam ở
nước ngoài. Ngoài ra cần chú trọng đến khâu nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới,
hiện đại hóa khâu thiết kế sản phẩm sản phẩm, tìm kiếm các nguồn nhập khẩu các yếu tố
đầu vào trung gian thực sự cần thiết để sản xuất sản phẩm có chi phí thấp, nâng cao chất
lượng để sản phẩm của doanh nghiệp có sức cạnh tranh, hấp dẫn trên thị trường.
- Đẩy mạnh đào tạo đội ngũ cán bộ, công nhân viên.
Đây là vấn đề được thường xuyên nhấn mạnh bởi nhân tố con người luôn là nhân tố
quyết định. Nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực ở đây để khẳng định tầm quan trọng, cần đặc
biệt ưu tiên để đảm bảo thắng lợi cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Đào tạo cán bộ ở
các doanh nghiệp cần được quy hoạch, để đào tạo theo năng lực, sở trường dựa trên yêu
cầu công việc. Đào tạo lại và đào tạo mới cần kết hợp để đáp ứng được những nhu cầu
mới phát sinh trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Trước mắt cần lưu ý tới ba loại
cán bộ sau đây:
24


+ Đào tạo công nhân lành nghề ở từng lĩnh vực, dây chuyền sản xuất.
+ Đào tạo cán bộ có trình độ kinh doanh quốc tế giỏi.
+ Đào tạo cán bộ pháp lý, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế và thương mại quốc tế, để đủ
trình độ tư vấn, trợ lý giúp giám độc trong kinh doanh và hợp tác quốc tế.
- Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong hoạt động thương mại ở thị trường
ASEAN để tham gia sâu và hiệu quả hơn vào các khâu có giá trị gia tăng cao trong chuỗi giá
trị toàn cầu, phát triển mạnh các hệ thống phân phối hàng Việt Nam ở trong nước và từng bước

mở rộng ra nước ngoài để nâng cao tính chủ động và hiệu quả xuất khẩu.
Cơ cấu sản phẩm của các nước ASEAN xuất ra thị trường thế giới khá tương đồng với
Việt Nam. Và họ cũng được hưởng những lợi ích tương tự. Do đó, tham gia AFTA, Việt
Nam tiếp tục phải chấp nhận cạnh tranh rất quyết liệt với các thành viên khác trong hiệp
hội không chỉ trên thị trường khu vực.
- Nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
Trong xu thế tự do hóa thương mại và bối cảnh chung của các doanh nghiệp Việt Nam
hiện nay, hiệu quả hoạt động doanh nghiệp có thể được hiểu là mức độ mà doanh nghiệp
trong nước tiếp cận được tốt nhất với thực tiễn quốc tế trong hoạt động kinh doanh của
mình. Thực tiễn quốc tế đã chỉ ra rằng doanh nghiệp muốn đạt được hiệu quả hoạt động
không chỉ dựa vào ưu thế về công nghệ mà phải dựa vào ưu thế tổng hợp. Khai thác có
hiệu quả các lợi thế so sánh quốc gia trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp nhằm tạo ra các sản phẩm thỏa mãn tốt nhu cầu trong nước và quốc tế cả về chất
lượng, mẫu mã, đặc biệt là về giá cả.
- Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Tăng cường đầu tư cho đào tạo và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ sự
nghiệp phát triển nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa hiệu quả, bền vững, hội nhập kinh
tế quốc tế. Đổi mới chương trình đào tạo nguồn nhân lực của các trường có đào tạo các
chuyên ngành Kinh tế nông nghiệp; phát triển nông thôn; trồng trọt, chăn nuôi, khoa học
nông nghiệp; bảo quản chế biến nông sản.... theo hướng đào tạo gắn lý thuyết với thực
hành, thực tế; tăng cường các kiến thức pháp luật, ngoại ngữ, hội nhập kinh tế quốc tế,
chú trọng bồi dưỡng năng lực tổ chức, quản lý, lãnh đạo. Tăng cường hợp tác quốc tế
trong đào tạo nguồn nhân lực cho ngành nông nghiệp, đáp ứng yêu cầu nguồn nhân lực
chất lượng cao trong hoạt động sản xuất và tiêu thụ nông sản hàng hóa.

25


×