Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Những bất cập, hạn chế trong chính sách thuế ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (130.11 KB, 20 trang )

NHỮNG BẤT CẬP, HẠN CHẾ TRONG CHÍNH SÁCH
THUẾ Ở VIỆT NAM.


I: Tổng quan chung về thuế.



II: Thực trạng, những bất cập và hạn chế trong chính
sách thuế ở Việt Nam.



III: Giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách thuế ở Việt
Nam.


NHÓM 8
1.

Hoàng Thị Vững – Nhóm Trưởng

2.

Đỗ Hồng Hải

3.

Trịnh Thu Thảo

4.



Trần Thị Lan Hương

5.

Đỗ Minh Tiến

6.

Nguyễn Thị Lệ

7.

Nguyễn Thùy Linh

8.

Phạm Thị Thư


I. TỔNG QUAN CHUNG VỀ THUẾ
1. Khái niệm thuế
Thuế là một khoản đóng góp bắt buộc của các tầng lớp dân cư trong xã hội cho
Nhà nước theo pháp luật quy định về mức độ và thời hạn, không mang tính hoàn trả
trực tiếp, nhằm sử dụng cho mục đích chung của toàn xã hội.
Một cách khái quát, thuế là một khoản phải nộp theo một quy tắc nào đó. Do vậy,
thuế cũng tương tự với học phí ở trường, với lệ phí khi qua cầu – là những khoản mà
người sử dụng phải nộp có quy tắc cụ thể.
2. Đặc điểm của thuế
a. Tính bắt buộc

Tính bắt buộc là thuộc tính cơ bản vốn có của thuế để phân biệt giữa thuế với các
hình thức động viên tài chính khác của ngân sách nhà nước.
Đặc điểm này cho ta thấy rõ nội dung kinh tế của thuế là những quan hê tiền tệ được
hình thành một cách khách quan và có một ý nghĩa xã hội đặc biệt- việc động viên
mang tính chất bắt buộc của nhà nước.Phân phối mang tính chất bắt buộc dưới hình
thức thuế là một phương thức phân phối của nhà nước, theo đó một bộ phân thu nhập
của người nộp thuế được chuyển giao cho nhà nước mà không kèm theo một sự cấp
phát hoặc những quyền lợi nào khác cho người nộp thuế, mà hành động đóng thuế là
hành động thực hiện nghĩa vụ của người công dân.
b. Tính không hoàn trả trực tiếp
Tính chất không hoàn trả trực tiếp của thuế được thể hiện ở chỗ: thuế được hoàn
trả gián tiếp cho người nộp thuế thông qua việc cung cấp các dịch vụ công cộng của
nhà nước. Sự không hoàn hảo trả trực tiếp được thể hiện kể cả trước và sau thu thuế.
Trước khi thu thuế, nhà nước không hề cung ứng trực tiếp một dịch vụ công cộng nào
cho người nộp thuế. Sau khi nộp thuế, nhà nước cũng không có sự bồi hoàn trực tiếp
nào cho người nộp thuế.
c. Tính pháp lí cao
Thuế là một công cụ tài chính có tính pháp lý cao, được quyết định bởi quyền lực
chính trị của nhà nước và quyền lực ấy được thể hiện bằng pháp luật.


3. Phân loại thuế
Thuế

Thuế đánh vào hàng hóa, dịch
vụ
Ví dụ: GTGT, TTĐB, thuế nhập
khẩu,...

Thuế đánh vào thu nhập


Thuế đánh vào tài sản

Ví dụ: thuế TNDN, thuế TN cá

Ví dụ: Thuế sử dụng đất, thuế chuyển

nhân,...

quyền SDĐ, thuế tài nguyên,...

* Phân loại theo tính chất:
_ Thuế gián thu: Là loại thuế gián tiếp đánh vào thu nhập của người tiêu dùng,
trong đó người nộp thuế không đồng thời là người chịu thuế.
_ Thuế trực thu: Là loại thuế trực tiếp đánh vào thu nhập của các thành phần dân
cư, trong đó người nộp thuế đồng thời là người chịu thuế.
* Phân loại theo mối tương quan với thu nhập:
_Thuế lũy tiến là sắc thuế có tỷ lệ ngày càng tăng theo thu nhập chịu thuế.
_Thuế tỷ lệ là sắc thuế mà thuế suất không thay đổi.
_Thuế lũy thoái là sắc thuế mà tỷ lệ giảm dần khi thu nhập chịu thuế tăng lên.
4. Nguyên tắc đánh thuế
Thứ nhất, đánh thuế phải đảm bảo công bằng. Nguyên tắc này được hiểu là mọi đối
tượng có năng lực chịu thuế đều phải nộp thuế và mọi người có điều kiện liên quan
đến thuế như nhau phải được đối xử về thuế như nhau.
Thứ hai, đánh thuế phải đảm bảo cân bằng lợi ích giữa nhà nước và người nộp
thuế. Việc đánh thuế vừa phải đảm bảo nguồn thu cho ngân sách nhà nước vừa phải
đảm bảo người nộp thuế không phải nôp số thuế quá lớn.
Thứ ba, đánh thuế phải đảm bảo dễ hiểu, đạt hiệu quả. Nội dung của nguyên tắc
này là các loại thuế phải đảm bảo rõ ràng, dễ hiểu cho mọi đối tượng và có tính ổn
định đồng thời hệ thống thuế phải được tổ chức sao cho chi phí quản lí thuế không cao

hơn mức mà mục tiêu đề ra cho phép.
Thứ tư, đánh thuế phải đảm bảo không xảy ra tình trạng một đối tượng tính thuế
phải chịu một loại thuế nhiều lần.


5. Vai trò của thuế đối với nền kinh tế quốc dân
a. Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách Nhà nước
Một nền tài chính quốc gia lành mạnh phải dựa chủ yếu vào nguồn thu từ nội bộ
nền kinh tế quốc dân.Tất cả các nhu cầu chi tiêu của Nhà nước đều được đáp ứng qua
các nguồn thu từ thuế, phí và các hình thức thu khác như: vay mượn, viện trợ nước
ngoài, bán tài nguyên quốc gia, thu khác..vv.. Song thực tế các hình thức thu ngoài
thuế đó có rất nhiều hạn chế, bị ràng buộc bởi nhiều điều kiện. Do đó thuế được coi là
khoản thu quan trọng nhất vì khoản thu này mang tính chất ổn định và khi nền kinh tế
càng phát triển thì khoản thu này càng tăng. Ở nước ta, thuế thực sự trở thành nguồn
thu chủ yếu của Ngân sách Nhà nước từ năm 1990. Điều này được thể hiện qua tỷ
trọng số thuế trong tổng thu ngân sách .
Biều đồ: Tình hình tỉ lệ thuế và phí trong tổng thu ngân sách nhà nước ta trong thời
gian qua ( Tài liệu của Tổng cục thuế ).
Năm

Tổng số thuế và phí ( tỷ
% So với tổng thu NSNN
đồng)

% So với GDP

1990 5906

73.7


14.0

1991 9844

92.7

12.83

1992 18514

88.0

16.75

1993 28695

90.5

21.0

1994 36629

89.6

21.51

Qua biểu trên ta thấy số thu thuế và phí đã chiếm phần chủ yếu trong tổng thu NSNN
và tăng nhanh qua các năm, đã bảo đảm về cơ bản yêu cầu chi thường xuyên ngày
càng tăng của NSNN, giảm bội chi ngân sách, giảm lạm phát, từng bước góp phần ổn
định trật tự xã hội, giành một phần để tăng chi cho tích luỹ. Như vậy, chứng tỏ thuế là

nguồn thu quan trọng nhất của NSNN.
b. Thuế, một công cụ góp phần điều chỉnh các mục tiêu kinh tế vĩ mô của Nhà
nước
Chính sách thuế được đặt ra không chỉ nhằm mang lại số thu đơn thuần cho ngân
sách mà yêu cầu cao hơn là qua thu góp phần thực hiện chức năng việc kiểm kê, kiểm
soát, quản lý hướng dẫn và khuyến khích phát triển sản xuất, mở rộng lưu thông đối
với tất cả các thành phần kinh tế theo hướng phát triển của kế hoạch nhà nước, góp
phần tích cực vào việc điều chỉnh các mặt mất cân đối lớn trong nền kinh tế quốc dân.


c. Thuế kích thích sự tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm
Để thực hiện các mục tiêu này, một trong những công cụ quan trọng mà nhà nước
sử dụng là chính sách thuế. Nội dung điều tiết của thuế gồn hai mặt: Kích thích và hạn
chế. Nhà nước đã sử dụng chính sách thuế một cách linh hoạt trong từng thời kỳ nhất
định, bằng việc tác động vào cung-cầu nhằm điều chỉnh chu kỳ kinh doanh- một đặc
trưng vốn có của nền kinh tế thị trường.
d. Thuế thực hiện vai trò tái phân phối các nguồn tài chính, góp phần đảm bảo
công bằng xã hội
Nhà nước dùng thuế để điều tiết phần chênh lệch giữa người giàu và người nghèo,
thông qua việc trợ cấp hoặc cung cấp hàng hoá công cộng. Thông qua thuế thu nhập,
Nhà nước thực hiện vai trò điều chỉnh vĩ mô trong lĩnh vực tiền lương và thu nhập,
hạn chế sự phân hoá giàu nghèo và tiến tới công bằng xã hội. Một khía cạnh khác của
chính sách thuế nhằm điều chỉnh thu nhập là các khoản thuế đánh vào tiêu dùng: Thuế
tiêu thụ đặc biệt, thuế Giá trị gia tăng.
e. Thuế là công cụ kiềm chế lạm phát
Nguyên nhân của lạm phát có thể do cung cầu làm cho giá cả hàng hoá tăng lên
hoặc do chi phí đầu vào tăng. Thuế được sử dụng để điều chỉnh lạm phát, ổn định giá
cả thị trường. Nếu cung nhỏ hơn cầu thì nhà nước dùng thuế để điều chỉnh bằng cách
giảm thuế đối với các yếu tố sản xuất, giảm thuế thu nhập để kích thích đầu tư sản
xuất ra nhiều khối lượng sản phẩm nhiều hơn. Đồng thời tăng thuế đối với hàng hoá

tiêu dùng để giảm bớt cầu. Nếu lạm phát do chi phí tăng, gia tăng thất nghiệp, sự trì trệ
của tốc độ phát triển kinh tế, giá cả đầu vào tăng, nhà nước dùng thuế hạn chế tăng chi
phí bằng cách cắt giảm thuế đánh vào chi phí, kích thích tăng năng suất lao động.
f. Thuế góp phần bảo hộ sản xuất trong nước và tạo điều kiện hoà nhập nền kinh
tế thế giới
Bảo hộ hợp lý nền sản xuất trong nước tránh khỏi sự cạnh tranh khốc kiệt từ bên
ngoài được coi là hết sức cần thiết đối với các nước. Điều này được thể hiện rõ nét
thông qua thuế xuất nhập khẩu. Để kích thích sản xuất trong nước phát triển, kích
thích sản xuất hàng hoá xuất khẩu, nhà nước đánh thuế rất thấp hoặc không đánh thuế
vào hàng xuất khẩu. Khuyến khích xuất khẩu hàng hoá đã qua chế biến, hạn chế xuất
khẩu nguyên liệu thô. Đánh thuế nhập khẩu thấp đối với hàng hoá máy móc thiết bị
trong nước chưa sản xuất được và đánh thuế nhập khẩu cao đối với hàng hoá máy móc
thiết bị trong nước đã sản xuất được hoặc hàng hoá tiêu dùng xa xỉ.


II. THỰC TRẠNG, NHỮNG BẤT CẬP VÀ HẠN CHẾ
TRONG CHÍNH SÁCH THUẾ Ở VIỆT NAM
1. Thực trạng và những bất cập trong chính sách thuế ở Việt Nam
a. Thực trạng
Thủ tục hành chính còn rườm rà, gây khó khăn cho người nộp thuế, một số quy
định về thủ tục hồ sơ chưa đồng bộ với các văn bản pháp luật khác.
Luật Quản lí hiện hành chủ yếu vẫn đảm nhiệm sứ mệnh giải quyết tình thế cho các
luật về chính sách thuế, nên không mang tính thực tiễn cao, chưa đáp ứng được
nguyện vọng của người nộp thuế, bởi vì nộp thuế không chỉ là nghĩa vụ mà còn là
quyền của ngươi dân, doanh nghiệp đóng góp với nhà nước xã hội.
Ví dụ: Tại điều 32, luật quản lí thuế quy định thời hạn nộp hồ sơ khai thuế chậm
nhất là ngày thứ 10 kể từ ngày phát sinh thuế đối với các loại thuế đối với các loại
thuế khai và nộp từng lần phát sinh. Tuy nhiên ngày phát sinh nghĩa vụ thuế là thời
điểm nào,cụ thể như thế nào lại chưa có văn bản hướng dẫn chưa đảm bảo tính rõ
ràng, minh bạch.

Mô hình cải cách chính sách theo cơ chế một cửa, một cửa liên thông ở một số nơi
còn lúng túng, chưa thực sự hợp lí trong một số lĩnh vực, sự phối hợp giữa các cấp,
các ngành còn chưa nhất quán, thiếu đồng bộ, thời gian giải quyết vẫn còn dài ở một
số thủ tục, trụ sở làm việc, cơ sở vật chất một số nơi chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
được giao.


Đối với luật thuế thu nhập doanh nhiệp:

Tại khoản 2.4,mục 4 phần c thông tư 130/2008/TT_BTC có quy định chi phí của
doanh nghiệp mua bán hàng hóa, dịch vụ không có hóa đơn, được phép lập bảng kê
thu mua hàng hóa nhưng phải kèm theo chứng từ thanh toán cho cơ sở, người bán
hàng. Nhưng điều này rất khó thực hiện đối với các doanh ngiệp, nhất là đối với doanh
nghiệp trong lĩnh vực nhà hàng. Họ thường xuyên phải mua các nguyên vật liệu nông
sản như rau củ quả hay các đồ gia vị. Trên thực tế các doanh nghiệp này rất khó có thể
lập bảng kê chi tiết đi kèm với chứng từ thanh toán cho các đối tượng này do tập quán
buôn bán lẻ.
_Miễn giảm thuế: Là yếu tố ngoại lệ được quy định trong các Luật thuế. Chế độ
giảm thuế, miễn thuế được áp dụng đối với các pháp nhân và thể nhân là đối tượng
nộp thuế nhưng có các dấu hiệu và sự kiện được dự liệu trong Luật thuế thì được giảm


một phần số thuế phải nộp hoặc được miễn nộp thuế theo thời hạn do từng Luật thuế
quy định.
=>Là một trong những bất cập lớn nhất của hệ thống thuế thu nhập doanh nghiệp
tại Việt Nam.
Khoản 4 mục 2 phần H thông tư 130 có quy định về mức thuế suất ưu đãi 20%
trong thời gian 10 năm áp dụng đối với doanh nghiệp thành lập từ dự án đầu tư tại địa
bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn. Do đó thời gian ưu đãi thuế là quá dài, các
doanh ghiệp có thể lách luật bằng cách thành lập doanh nghiệp tại địa bàn kinh tế khó

khăn bằng cách đặt trụ sở ở đó để hưởng ưu đãi thuế nhưng công việc kinh doanh
chính không diễn ra ở đó.
_Chuyển lỗ: Doanh nghiệp sau khi quyết toán thuế mà bị lỗ thì chuyển toàn bộ và
liên tục số lỗ vào thu nhập (thu nhập chịu thuế đã trừ thu nhập miễn thuế) của những
năm tiếp theo. Thời gian chuyển lỗ tính liên tục không quá 5 năm, kể từ năm tiếp sau
năm phát sinh lỗ.
=>Là vấn đề nhạy cảm và dễ tạo cơ hội cho các doanh nghiệp lách luật nhất.
Bằng nhiều phương pháp doanh ngiệp hoàn toàn có thể biến lãi thành lỗ hòng trốn
thuế.
Ví dụ: Doanh nghiệp tăng tối đa các khoản trích lập dự phòng cho hàng tồn kho,
chứng khoán, đầu tư ngắn hạn, dài hạn để tang chi phí và giảm thu nhập chịu thuế.
Một cách phổ biến hơn đó là hình thức chuyển giá của những công ti mẹ hoặc chi
nhánh ở nước ngoài. Về nguyên tắc đóng thuế TNDN, nếu lãi thì doanh nghiệp phải
nộp thuế, nếu lỗ thì không phải nộp. Vì vậy, không nên có quy định chuyển trong luật
thuế…


Đối với luật thuế TNCN:

Trong điều kiện cơ sở hạ tầng về kinh tế, xã hội của nước ta còn thấp, các chính sách
an sinh xã hội, quy định pháp lí về thanh toán, kiểm soát nguồn thu chưa đồng bộ,
người dân chưa có thói quen sử dụng tiền mặt trong sinh hoạt thì tính khả thi của Luật
thuế TNCN còn chưa cao. Vì thế có một bộ phận rất lớn người dân hoạt động sản xuất
kinh doanh tự do, không thực hiện luân chuyển tiền qua hệ thống ngân hàng, cơ quan
thuế không thể kiểm soát được thu nhập của họ là bao nhiêu để đánh thuế. Luật thuế
TNCN do đó chỉ đánh thuế với những người làm công ăn lương, cán bộ công chức.
Điều đó dẫn đến những bất bình đẳng trong việc đóng thuế, vi phạm tính công bằng, đi
ngược lại với mục đích của luật là phân phối thu hập, giảm khoảng cách giàu nghèo.



Kết luận: Cả 2 bất cập trên gây ra sự bất bình đẳng giữa những doanh nghiệp hạch
toán đúng và những doanh nghiệp cố tình hạch toán sai. Điều này vi phạm tiêu chí
công bằng và đồng thời cũng vi phạm tính hiệu quả của một sắc thuế.
b. Những bất cập
*Bất cập về sự cân bằng giữa thành thị và nông thôn
Người dân sống tại các khu đô thị luôn chịu áp lực giá, phí, lệ phí, thuế,… cao hơn
các vùng khác. Bên cạnh đó, bản thân các điều tra xã hội cho thấy Hà Nội hay TP. Hồ
Chí Minh đều đã lọt vào danh sách có giá sinh hoạt đắt đỏ trong khu vực và thế giới.
* Bất cập trong quy định đối tượng miễn thuế
Thứ nhất, khoản 1 điều 4 Luật thuế TNCN 2007 quy định “thu nhập từ chuyển
nhượng bất động sản giữa vợ với chồng, cha đẻ mẹ đẻ với con đẻ, cha vợ mẹ vợ với
con rể….” thì được miễn thuế. Lợi dụng điều này nhiều trường hợp đã sử dụng mối
quan hệ bắc cầu để trốn thuế, gay thất thu cho ngân sách nhà nước.
Ví dụ: 2 chị em dâu chuyển nhượng bất động sản chonhau là đối tượng phải nộp
thuế. Nhưng để lách luật, người chị dâu làm thủ tục chuyển nhượng cho bố chồng, sau
đó bố chồng lại chuyển nhượng cho người em dâu. Cả hai lần chuyển nhượng này đều
thuộc đối tượng được miễn thuế. Vì thế 2 chị em dâu đã tránh được việc nộp thuế, gây
thất thu cho ngân sách nhà nước.
*Bất cập trong cách tính thuế và căn cứ tính thuế
Tại khoản 3, mục 2, phần B, thông tư số 84/TT _BTC ban hành ngày 30/9/2008
quy định giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất là giá thực tế ghi trên hợp đồng, tại
thời điểm chuyển nhượng nhưng không thấp hơn giá đất do UBND tỉnh, thành phố
quy định. Thực tế trên thị trường bất động sản, giá đất mua bán thường cao hơn giá đất
do UBND tỉnh,TP quy định. Nhưng vì lợi ích của cá nhân người mua và người bán
nên họ thường thỏa thuận ghi giá trên hợp đồng chuyển nhượng thấp hơn thực tế. Kết
quả là đôi bên mua bán đất cùng có lợi, chỉ riêng Nhà nước chịu thất thu thuế.

*Tạo lỗ hổng để cá nhân và doanh ngiệp trốn thuế
Theo quy định, hàng đồng bộ thường có mức thuế suất thuế nhập khẩu cao hơn so
với linh kiện nhập khẩu. Lợi dụng điểm này, một số doanh nghiệp tuy nhập khẩu hàng

đồng bộ, nhưng chia nhỏ ra thành hàng linh kiện, nhập khẩu làm nhiều lần để lách
thuế.


Ví dụ : Đơn cử như trường hợp Công ty Chế tạo máy (TP.HCM), khai báo nhập
khẩu phụ tùng máy phát điện MECC là Roto. Sau đó doanh nghiệp tiếp tục mở tờ khai
hải quan nhập khẩu phụ tùng của máy phát điện MECC là Stato. Kết quả kiểm tra của
cơ quan hải quan cho thấy, nếu gộp toàn bộ linh kiện nhập khẩu tại 2 tờ khai này lại sẽ
là máy phát điện đồng bộ. Nếu thực hiện trót lọt, doanh nghiệp đã trốn được 250 triệu
đồng tiền thuế.
Không chỉ tách tờ khai, một số doanh nghiệp còn có chiêu thức tinh vi hơn, đó là
nhập hàng hóa đồng bộ, nhưng tháo rời, chia nhỏ cho nhiều công ty khác nhau (có
quan hệ với nhau) cùng nhập khẩu hàng. Vẫn Hải quan TP.HCM đã phát hiện một
doanh nghiệp nhập khẩu mặt hàng bộ phận của micro, nhưng thiếu thiết bị lọc; còn
một công ty khác nhập khẩu mặt hàng thiết bị lọc của micro. Cả 2 doanh nghiệp này
có cùng đối tác mua hàng, đóng hàng nhập khẩu cùng container…
Rõ ràng, hàng hóa của 2 doanh nghiệp này là một thiết bị hoàn chỉnh. Năm 2011,
Công ty TNHH Luxx Việt Nam nhập khẩu (qua cảng Đình Vũ, Hải Phòng) bộ linh
kiện đèn compact nhưng doanh nghiệp khai báo là linh kiện rời. Kết quả xác minh của
cơ quan hải quan cho thấy, toàn bộ lô hàng trên là linh kiện đồng bộ. Số thuế bị ấn
định truy thu cho lô hàng này lên tới trên 824 triệu đồng. Phân loại áp mã tính thuế
hàng hóa đang trở thành lĩnh vực gây ra nhiều tranh cãi giữa hải quan và doanh
nghiệp. Cùng một mặt hàng, nhiều doanh nghiệp khai tên khác nhau, áp mã khác nhau
và kéo theo đó là mức thuế chênh nhau một trời một vực.
Phân loại áp mã tính thuế hàng hóa đang trở thành lĩnh vực gây ra nhiều tranh cãi
giữa hải quan và doanh nghiệp. Cùng một mặt hàng, nhiều doanh nghiệp khai tên khác
nhau, áp mã khác nhau và kéo theo đó là mức thuế chênh nhau một trời một vực.
Ví dụ: Cùng mặt hàng có tên tiếng Anh là "Silver target", có doanh nghiệp khai báo
là "bạc khối" (nguyên liệu dùng để sản xuất đĩa CD-R) với mức thuế nhập khẩu 30%;
nhưng lại có doanh nghiệp khai là "hộp khuôn bạc" với mức thuế suất thuế nhập khẩu

ưu đãi 0%.
Chỉ riêng Đội thủ tục hàng hóa nhập khẩu Hải quan TP.HCM từ đầu năm đến nay
đã lập 169 biên bản chứng nhận doanh nghiệp khai sai mã hàng hóa, với số thuế điều
chỉnh tăng trên 3,6 tỉ đồng. Hoặc như tại Hải quan Hải Phòng, tính từ năm 2010 đến
hết tháng 3/2012, các chi cục hải quan cửa khẩu đã phát hiện, xử lý 570 vụ gian lận
liên quan đến phân loại, áp mã hàng hóa, truy thu trên 33 tỉ đồng.
*Cá nhân bị trộm mã số thuế để kê khai, khấu trừ thuế mà không biết.


Người lương cao né nghĩa vụ nộp thuế bằng cách gửi lương cho đồng nghiệp thu
nhập thấp. Trong khi đó, một số cá nhân trộm mã số thuế của người khác để phân tán
khoản thu của mình.
Ví dụ: Chị Hoa đang công tác trong lĩnh vực xây dựng tại Hà Nội . Kể từ khi
ngành này khó khăn, lương của chị chỉ còn 2 triệu đồng mỗi tháng. Chị đang nuôi một
con nhỏ, vì vậy thu nhập trên 5,6 triệu đồng một tháng chị mới phải nộp thuế thu nhập
cá nhân. Biết được tình trạng của chị, một đồng nghiệp trong công ty có thu nhập lên
tới 50 triệu đồng một tháng do nhận được hợp đồng làm thêm ngoài đã mang lương
đến "gửi" chị để tránh phải nộp thuế ở bậc cao.
Gần đây cũng nổi lên những cáo buộc các ca sĩ trốn thuế khi mà cát xê lên tới hàng
trăm triệu đồng một show nhưng ngành Thuế tổng kết mỗi năm thì số thuế phải nộp
của đối tượng này chỉ vài triệu đến vài chục triệu đồng.


2. Những hạn chế trong chính sách thuế
a. Ưu điểm của chính sách thuế
Chính sách thuế đã bắt đầu phát huy được tác dụng quản lý, điều tiết vĩ mô nền
kinh tế. Hệ thống thuế được áp dụng thống nhất đã tạo ra môi trường bình đẳng về
pháp luật cho sự cạnh tranh lành mạnh giữa các thành phần kinh tế, góp phần thúc đẩy
nền kinh tế phát triển. Chính sách thuế từng bước tạo ra sự công bằng về nghĩa vụ nộp
thuế giữa các đối tượng khác nhau, góp phần thúc đẩy đầu tư vốn, cải tiến công nghệ,

tăng năng suất lao động, giảm giá thành…
_ Thuế xuất, nhập khẩu và thuế giá trị gia tăng
Chính sách thuế đã góp phần khuyến khích xuất khẩu. Hàng hóa xuất khẩu không
phải chịu thuế giá trị gia tăng, đồng thời được hoàn lại toàn bộ số thuế giá trị gia tăng
đã nộp ở đầu vào.
_Thuế thu nhập cá nhân
Luật thuế TNCN được ban hành đã đảm bảo được nguyên tắc công bằng và khả
năng nộp thuế, thể hiện ở chỗ: Người có thu nhập cao hơn thì nộp thuế nhiều hơn,
người có thu nhập như nhau nhưng hoàn cảnh khó khăn hơn thì nộp thuế ít hơn, mỗi
cá nhân dù có thu nhập từ các nguồn khác nhau đều được điều chỉnh thống nhất trong
một chính sách thuế.
_Thuế sử dụng đất nông nghiệp (Thuế SDĐNN)
Nghị quyết của Quốc hội về miễn, giảm thuế SDĐNN từ năm 2003 đến năm 2010
là một chủ trương lớn được đa số cử tri cả nước tán thành. Thực sự, với người nông
dân mức sống của họ thấp hơn nhiều so với mặt bằng chung cả nước. Chủ trường của
Đảng và Nhà nước về miễn, giảm thuế SDĐNN lần này là Nhà nước đầu tư trực tiếp
phần thuế cho hộ nông dân nhằm giúp họ có điều kiện đầu tư mở rộng sản xuất, ổn
định cuộc sống…
b. Hạn chế của chính sách thuế
_Thuế giá trị gia tăng
Bên cạnh những kết quả đạt được, Luật thuế GTGT hiện hành còn bộc lộ một số hạn
chế cần được tiếp tục hoàn thiện để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ phát triển kinh – xã hội
của đất nước trong tình hình mới.


Một là về diện hang hóa, dịch vụ không chịu thuế GTGT: Luật thuế GTGT hiện
hành quy định 28 nhóm hàng hóa, dịch vụ không chịu thuế GTGT. Quy định này là
phù hợp với điều kiện thực tiễn của nước ta thời gian qua, tuy nhiên trong quá trình
thực hiện và cùng với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, một số hang
hóa, dịch vụ nếu tiếp tục áp dụng không chịu thuế GTGT sẽ không còn phù hợp do

không đảm bảo tính liên hoàn trong việc khấu trừ thuế đầu vào, đầu ra của doanh
nghiệp
Hai là về thuế suất thuế GTG: Năm 1997, khi ban hành Luật thuế GTGT, ngoài
thuế suất 0%, còn có 3 mức thuế suất: 5%, 10% và 20%. Từ ngày 1/4/2004 áp dụng
luật sửa đổi bổ sung bỏ thuế suất 20% chỉ còn 2 thuế 5% và 10%. Trong đó 5% là mức
thuế suất ưu đãi, được áp dụng đối với hang hóa, dịch vụ là đầu vào của sản xuất nông
nghiệp hoặc phục vụ nhu cầu thiết yếu của người dân. Tuy nhiên trong quá trình thực
hiện, trước những khó khăn của nền kinh tế, diện áp dụng mức thuế suất 5% cũng
được mở rộng và chưa theo đúng nguyên tắc nêu trên.
Ba là về điều kiện được khấu trừ, được hoàn thuế: Thực tiễn quản lí thuế thời gian
qua cho thấy quy định về khấu trừ, hoàn thuế chưa đầy đủ, chưa chặt chẽ, dễ bị lợi
dụng khấu trừ khống hoặc hoàn thuế khống thông qua việc sử dụng hóa đơn ghi chép
không trung thực với thực tế giao dịch và các loại hóa đơn bất hợp pháp khác để gian
lận trong khấu trừ, làm giảm số thuế GTGT phải nộp hoặc tăng số thuế GTGT được
hoàn khống rút tiền ngân sách, gây bất bình đẳng về nghĩa vụ thuế giữa các đối tượng
nộp thuế, ảnh hưởng đến môi trường đầu tư.
Bốn là về hình thức văn bản: Với nhiều văn bản Luật cùng quy định về thuế GTGT
nên chưa tạo thuận lợi cho việc tra cứu áp dụng pháp luật.
_ Thuế xuất, nhập khẩu
Cách thức áp mã số tùy tiện, miễn, giảm thuế vô lối cho doanh nghiệp này mà
không cho doanh nghiệp khác... không chỉ làm nhà nước thất thu lớn mà còn làm méo
mó môi trường kinh doanh.
Điều nguy hiểm là những chính sách hướng dẫn không rõ ràng, không nhất quá từ
cấp bộ cho tới cấp tổng cục xuống các cục, chi cục hải quan sẽ tạo ra những kẽ hở lớn
cho cán bộ, công chức ngành này nhũng nhiễu.
Việc áp dụng giá tối thiểu tuy dễ thực hiện, đảm bảo chống gian lận về giá, nhưng
lại không phù hợp với thông lệ quốc tế. Nhiều trường hợp không chính xác, mang tính
áp đặt của Nhà nước nên có tình trạng lạm thu hoặc thất thu.



Luật hiện hành chỉ quy định hình thức thu thuế theo tỉ lệ (ví dụ thu 30% giá trị/kg
táo) chưa quy định hình thức thu thuế theo mức thu tuyệt đối (ví dụ thu 5000 đ/kg táo).
Hình thức thu thuế theo tỉ lệ tuy có ưu điểm là dễ áp dụng, nhưng trong trường hợp đối
tượng nộp thuế khai thấp giá trị tính thuế, nhưng cơ quan hải quan không có đủ cơ sở
để xác định chính xác trị giá nhập khẩu mà người mua phải thanh toán cho người bán.
_ Thuế thu nhập cá nhân
Thứ nhất, phạm vi điều chỉnh chưa bao quát và áp dụng chưa đồng bộ, thống nhất
đối với các nguồn thu nhập. Các khoản thu nhập của cá nhân từ đầu tư gián tiếp như
lãi tiền gửi tiết kiệm, trái phiếu, kỳ phiếu, cổ tức, lãi vốn tạm thời chưa thu thuế; trong
khi đó các khoản thu nhập khác như thu nhập từ chuyển nhượng tài sản (các loại
chứng khoán, bất động sản), quà tặng, thừa kế... không thuộc đối tượng chịu thuế hoặc
quản lý thu kém hiệu quả. Điều này không đảm bảo tính công bằng, hiệu quả của thuế
và không phù hợp với thông lệ quốc tế về thuế TNCN. Đây là một trong những
nguyên nhân dẫn đến mức động viên từ thuế TNCN ở nước ta còn khá thấp so với các
nước đang phát triển khác.
Thứ hai, nghĩa vụ thuế còn khá cao, chưa công bằng giữa các loại thu nhập và đối
tượng nộp thuế. Bên cạnh đó, chính sách thuế hiện hành chưa quy định các khoản
chiết giảm gia cảnh một cách hợp lý, có hệ thống để đảm bảo tính công bằng về nghĩa
vụ nộp thuế giữa các cá nhân có hoàn cảnh gia đình khác nhau. Vì vậy, tạo gánh nặng
thuế đối với cá nhân độc thân và cá nhân có gia đình hay người phụ thuộc khi họ phải
chịu chung một mức thu nhập chịu thuế.
Thứ ba, cơ chế quản lý thuế còn một số bất cập, chưa được cải cách kịp thời. Hiện
tượng trốn thuế, lậu thuế còn khá phổ biến đối với các cá nhân có nhiều nguồn thu
nhập, cá nhân hành nghề tự do (ca sỹ, nghệ sỹ, người cung cấp các dịch vụ tư vấn độc
lập). Thực tế hiện nay cho thấy chế độ sử dụng và lưu giữ hoá đơn, chứng từ, sổ sách
kế toán còn chưa được áp dụng rộng rãi, minh bạch và công khai ở cấp độ cá nhân, hộ
kinh doanh. Mặc dù thực tế có quy định quyền và nghĩa vụ của cơ quan thuế, người
nộp thuế và các tổ chức, cá nhân có liên quan, nhưng trên thực tế phát sinh nhiều vấn
đề vượt khỏi tầm kiểm soát của cơ quan thuế, đặc biệt là vấn đề xác định thu nhập,
quyền định đoạt tài sản, thu hồi giấy phép kinh doanh trong trường hợp có hành vi vi

phạm pháp luật về thuế, các quy định về khiếu nại, tố cáo. Do đó, trên thực tế, chính
sách thuế đối với thu nhập của cá nhân hiện hành nhìn chung còn chưa phát huy được
vai trò vốn có của nó trong việc tham gia quản lý và kiểm soát thu nhập của các cá
nhân trong xã hội.
_ Thuế thu nhập doanh nghiệp


Hệ thống thuế nước ta dành rất nhiều chính sách ưu đãi thuế nhằm thu hút đầu tư.
Tuy nhiên những bất cập trong miễn giảm thuế đã vô tình tạo ra những kẽ hở cho một
số doang nghiệp lợi dụng để trốn thuế, gây thất thu thuế cho Nhà nước. Chẳng hạn
một số địa phương được “đặc cách” ưu đãi quá nhiều, trong khi thực sự những địa bàn
đó không còn quá khó khăn. Có thể kể đến là Long An, Phú Thọ, Bình Phước, Trà
Vinh... Quy định ưu đãi liên tục được duy trì suốt từ những năm 1999. Trong khi thực
sự nhiều huyện, xã ở các địa bàn này đã phát triển nhanh và thay đổi rất nhiều. Chính
điều này đã gây ra tình trạng nhiều doanh nghiệp lách luật bằng cách thành lập trụ sở ở
các tỉnh này để lấy ưu đãi miễn giảm thuế trong nhiều năm trong khi thực sự họ chỉ
hoạt động ở các thành phố lớn.
Ngoài ra còn kể đến những qui định ưu đãi không kín kẽ như ưu đãi đầu tư mở
rộng, thành lập mới, ưu đãi về ngành nghề đã khiến cho các văn bản pháp luật ưu đãi
của Việt Nam trở nên hỗn tạp, tạo ra kẽ hở cho nhiều doanh nghiệp lợi dụng.
_Thuế sử dụng đất nông nghiệp
Thực tế cho thấy, lợi dụng quan điểm vì người nghèo này của Nhà nước, mà một số
nơi đã trục lợi. Thực tế người dân nghèo không được miễn giảm gì cả, mà số tiền thuế
miễn giảm cũng chẳng được đưa vào ngân sách mà lại chảy vào túi một số kẻ chức
trách. Đây là thực tế mà Đảng, Nhà nước ta đang ra sức loại bỏ.


_ Thuế tiêu thụ đặc biệt
Đối tượng không thuộc diện chịu thuế TTĐB quá rộng. Điều đáng lưu ý là khi thi
hành Luật thuế TTĐB đã phát sinh việc lợi dụng các quy định này để trốn thuế. Ví dụ:

máy bay, du thuyền...
Mức thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt còn thấp, chưa đủ tác dụng điều tiết, hạn chế
tiêu dùng đối với hầu hết các mặt hàng, dịch vụ thuộc diện xa xỉ như: rượu, bia, ô tô,
mô tô phân khối lớn, máy bay, du thuyền, kinh doanh vũ trường, massage, karaoke,
casino, sân golf....
BIỂU THUẾ TIÊU THỤ ĐẶC BIỆT
STT Hàng hoá, dịch vụ

Thuế suất (%)

1

Thuốc lá điếu, xì gà và các chế phẩm khác từ cây thuốc lá

65

2

Rượu theo độ cồn

25 – 45

3

Bia

45 – 50

4


Xe ô tô theo chỗ ngồi

10 - 60

5

Tàu bay

30

6

Du thuyền

30

7

Xăng các loại, nap-ta, chế phẩm tái hợp và các chế phẩm khác
10
để pha chế xăng

8

Bài lá

40

9


Vàng mã, hàng mã

70


III. NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN
CHÍNH SÁCH THUẾ Ở VIỆT NAM
Sửa đổi, bổ sung đồng bộ các sắc thuế, phí hiện hành
1. Thuế giá trị gia tăng
Trong điều kiện Việt Nam gia nhập WTO, thuế giá trị gia tăng cần được hoàn thiện
trên một số nội dung chính:
_ Thu hẹp đối tượng không thuộc diện chịu thuế giá trị gia tăng, vừa đảm bảo tính
trung lập của sắc thuế này, vừa khai thác nguồn thu trong điều kiện hội nhập.
_ Hoàn thiện các quy định về thuế suất thuế giá trị gia tăng.
_ Hoàn thiện phương pháp tính thuế là cần thiết vì tính thực tế của phương pháp
tính trực tiếp trên giá trị gia tăng rất thấp.
_Hoàn thiện các quy định về hoàn thuế giá trị gia tăng.
2. Thuế xuất, nhập khẩu.
_Thứ nhất, hoàn thiện hệ thống văn bản pháp lý liên quan đến thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu
_Thứ hai, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ quản lý điều hành công tác thuế xuất
khẩu, nhập khẩu
_Thứ ba, nâng cao ý thức pháp luật cho doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu, nhập
khẩu
3. Thuế thu nhập cá nhân.
_ Ban hành luật và hoàn thiện luật thuế thu nhập cá nhân.
_ Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức thuế.
_ Thu thuế thu nhập cá nhân thông qua hệ thống ngân hàng.
_ Khuyến khích việc thanh toán và chi trả thu nhập qua tài khoản séc.
_ Thực hiện quyết toán thuế cho từng đối tượng nộp thuế.

_ Đào tạo năng lực và phẩm chất cho đội ngũ cán bộ thuế.
_ Thiết lập hệ thống tính thuế thu nhập cá nhân tự động.
4. Thuế thu nhập doanh nghiệp.
_Cải cách hành chính để áp dụng cơ chế tự khai, tự nộp thuế thuận tiện hơn.
_Cải tổ bộ máy quản lý thuế.


_Tăng cường hoạt động của bộ phận thống kê, nghiên cứu chính sách thuế.
_Phát triển công nghệ thông tin đáp ứng yêu cầu cải cách và hiện đại hóa trong
quản lý thuế.
5. Thuế tiêu thụ đặc biệt
Thứ nhất, nên mở rộng đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt đối với các loại hàng
hóa, dịch vụ như các thiết bị điện, điện tử gia dụng cao cấp, điện thoại di động và dịch
vụ kinh doanh nó, vật dụng cao cấp làm bằng pha lê, thảm len, mỹ phẩm cao cấp,…
không phân biệt đó là hàng hóa sản xuất trong nước và hàng nhập khẩu.
Thứ hai, về thuế suất, sự điều tiết cần đặt trong mối quan hệ với các sắc thuế khác.
Thứ ba, không nên áp dụng chế độ miễn giảm thuế tiêu thụ đặc biệt cho các cơ sở
sản xuất hàng hóa thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt.
_Phát triển hệ thống thanh toán không dùng tiền mặt quan các ngân hàng, tổ chức
tín dụng bằng phương pháp bắt buộc và khuyến khích tự nguyện.


KẾT LUẬN
Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước. Chính sách thuế là một bộ
phận trọng tâm của chính sách tài chính quốc gia, liên quan đến việc huy động và phân
bổ các nguồn lực tài chính của xã hội. Hoàn thiện hệ thống thuế, làm cho hệ thống
thuế phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
cũng là nhằm mục tiêu tăng thu cho ngân sách nhà nước. Nhưng thông qua công tác
quản lý thu trong thực tế, thuế tác động mạnh mẽ và sâu sắc đến cung - cầu trên thị
trường, từ đó tác động trực tiếp làm thay đổi cơ cấu kinh tế, thay đổi chất lượng sản

phẩm. Thuế tác động trực tiếp và thường xuyên đến mọi tổ chức, cá nhân trong xã hội,
vì vậy thuế là một trong những công cụ có hiệu lực của nhà nước để quản lý và điều
tiết vĩ mô nền kinh tế.
Trong tiến trình hoàn thiện chính sách thuế cần quán triệt sâu sắc và toàn diện quan
điểm của Đảng và Nhà nước về đổi mới chính sách thuế. Tăng cường tính hiệu quả
của hệ thống thuế trên cơ sở hình thành một cơ cấu thuế vừa hiện đại, vừa phù hợp với
một nền kinh tế đang chuyển đổi trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Chính sách
thuế phải góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh, tăng cường đầu tư đổi mới công
nghệ đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện Việt Nam hội
nhập kinh tế quốc tế. Hệ thống thuế hiện đại theo thông lệ quốc tế yêu cầu phải đảm
bảo đơn giản, ổn định và có tính luật pháp cao. Hoàn thiện cơ chế quản lý và tổ chức
hành thu thuế, tiến tới tương đồng với khu vực về trình độ quản lý.


CÁC WEBSITE:
/> />www.nationmaster.com
www.webketoan.vn
/>
~The end~



×