Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

thuế, hệ thống thuế, thực trạng và các giải pháp cho hệ thống thuế của việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (250.51 KB, 22 trang )

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU
Thuế được hình thành từ rất lâu đời và tồn tại song song cùng với Nhà nước. Hoạt động dưới
nhiều hình thức với rất nhiều tên gọi khác nhau, từ thời phong kiến, Pháp thuộc cho đến nay, hệ
thống thuế đã phát triển và ngày càng hoàn thiện cùng với sự phát triển của đất nước. Nếu như
trước đây, dưới thời phong kiến, chúng ta có thuế thân, thuế muối, thuế lương thực, thuế đinh,…
thì giờ đã được loại bỏ và thay thế bằng rất nhiều loại thuế phù hợp và tiến bộ hơn: thuế TNDN,
thuế TNCN, thuế TTĐB, thuế môn bài,… Các loại thuế trước đây chủ yếu dùng để bóc lột nhân
dân, phục vụ tầng lớp thống trị thì ngày nay đã được cải tiến với mục tiêu hàng đầu là để phục vụ
nhân dân và phát triển đất nước.
Để hiểu kĩ hơn, bài thuyết trình sẽ làm rõ về thuế, hệ thống thuế, thực trạng và các giải pháp
cho hệ thống thuế của Việt Nam.


1.

Hệ Thống thuế và tính chất của một hệ thống thuê tối ưu

1.1.
Hê thống thuế
1.1.1. Khái niệm

Hệ thống thuế ở Việt Nam là một hệ thống thuế gồm khoảng 8 loại thuế và khoảng hơn
100 loại phí và lệ phí được quản lý tập trung.
Mọi nguồn thu từ thuế và lệ phí ở Việt Nam đều do Quốc hội Việt Nam hoặc Ủy ban
Thường vụ Quốc hội đặt ra bằng luật và pháp lệnh, và được thu bởi Tổng cục Thuế Việt Nam
thông qua các cơ quan thu của nó là các cục thuế, chi cục thuế, phòng thuế, đội thuế, bởi Tổng
cục Hải quan Việt Nam thông qua các cơ quan của nó là cục hải quan, chi cục hải quan, và các
cán bộ chuyên môn được ủy quyền khác ở khắp các địa phương trong cả nước. Đối với các phí
và lệ phí, các cơ quan thu thuộc các bộ, ngành, chính quyền địa phương có liên quan được ủy


quyền thu.
Về danh nghĩa, mức thuế (thuế suất) do Quốc hội Việt Nam quy định. Song trên thực tế,
các mức thuế là do Chính phủ đề nghị với sự tư vấn của Bộ Tài chính mà cụ thể hơn nữa là Tổng
cục Thuế. Đối với một số sắc thuế, như thuế xuất nhập khẩu, Quốc hội cho phép Chính phủ tự
điều chỉnh khi cần thiết. Riêng các phí và lệ phí là nguồn thu của chính quyền địa phương, chính
quyền địa phương có quyền quyết định mức.
Hệ thống thuế ở Việt Nam không chia thành các sắc thuế quốc gia và các sắc thuế địa
phương như ở nhiều nước. Tuy nhiên, Luật Ngân sách Nhà nước số 01/2002/QH11 có quy định
một số sắc thuế là nguồn thu mà chính quyền trung ương được hưởng 100%, một số sắc thuế và
lệ phí mà chính quyền địa phương được hưởng 100%, và một số sắc thuế mà chính quyền các
cấp chia nhau tùy theo tình hình từng địa phương.


1.1.2. Đặc điểm

Thuế có những thuộc tính tương đối ổn định qua từng giai đoạn phát triển và biểu hiện
thành những đặc trưng riêng có của nó, qua đó giúp ta phân biệt thuế với các công cụ khác.
Những đặc trưng đó là:
a. Tính bắt buộc

Tính bắt buộc là thuộc tính cơ bản vốn có của thuế để phân biệt giữa thuế với các hình thức
động viên tài chính khác của ngân sách nhà nước.
Đặc điểm này cho ta thấy rõ nội dung kinh tế của thuế là những quan hệ tiền tệ được hình
thành một cách khách quan và có một ý nghĩa xã hội đặc biệt - việc động viên mang tính chất bắt
buộc của nhà nước. Phân phối mang tính chất bắt buộc dưới hình thức thuế là một phương thức
phân phối của nhà nước, theo đó một bộ phân thu nhập của người nộp thuế được chuyển giao
cho nhà nước mà không kèm theo một sự cấp phát hoặc những quyền lợi nào khác cho người nộp
thuế, mà hành động đóng thuế là hành động thực hiện nghĩa vụ của người công dân.
b. Tính không hoàn trả trực tiếp


Tính chất không hoàn trả trực tiếp của thuế được thể hiện ở chỗ: thuế được hoàn trả gián tiếp cho
người nộp thuế thông qua việc cung cấp các dịch vụ công cộng của nhà nước. Sự không hoàn
hảo trả trực tiếp được thể hiện kể cả trước và sau thu thuế. Trước khi thu thuế, nhà nước không
hề cung ứng trực tiếp một dịch vụ công cộng nào cho người nộp thuế. Sau khi nộp thuế, nhà
nước cũng không có sự bồi hoàn trực tiếp nào cho người nộp thuế.
c. Tính pháp lý cao

Thuế là một công cụ tài chính có tính pháp lý cao, được quyết định bởi quyền lực chính trị của
nhà nước và quyền lực ấy được thể hiện bằng pháp luật.


1.1.3. Các nguyên tắc cơ bản trong đánh thuế
• Nguyên tắc lợi ích và nguyên tắc khả năng thanh toán.
• Nguyên tắc công bằng ngang và nguyên tắc công bằng dọc.
• Nguyên tắc xuất xứ và nguyên tắc điểm đến.
• Nguyên tắc nguồn phát sinh thu nhập và nơi cư trú
1.1.4. Các loại thuế trong hệ thống thuế ở VN
• Thuế giá trị gia tăng hàng hóa nhập khẩu.
• Thuế xuất - nhập khẩu.
• Thuế tiêu thụ đặc biệt hàng hóa nhập khẩu.
• Thuế thu nhập doanh nghiệp của các đơn vị hạch toán toàn ngành.
• Thuế từ dầu khí.
• …

Việc phân chia nguồn thu các sắc thuế mà chính quyền địa phương được hưởng giữa các
chính quyền tỉnh, huyện, xã trong một tỉnh do chính quyền tỉnh quy định.Theo danh mục lệ phí
và phí ban hành kèm theo Pháp lệnh phí và lệ phí số 38/2001/PL-UBTVQH10, có khoảng 73 loại
phí và 42 loại lệ phí.



1.2.
Tính chất của một hệ thống thuế tối ưu
1.2.1. Tính hiệu quả kinh tế

Hệ thống thuế không nên gây quá nhiều méo mó đến việc phân bổ nguồn lực có hiệu quả
của thị trường. Hiệu quả đối với nền kinh tế là hệ thống thuế phải đạt được mục tiêu với chi phí
thấp nhất.
Hiệu quả đối với số thu NSNN:





Đảm bảo tăng thu cho NSNN, loại trừ dần các trường hợp gây thâm hụt không đáng có.
Luôn luôn hoàn chỉnh và hoàn thiện hệ thống thuế: đơn giản, rõ ràng.
Hệ thống thông tin về thuế phải tốt, mạch lạc.
Cần có hệ thống giải pháp đối phó với các hiện tượng trốn thuế. Trốn thuế không bao giờ bị thủ

tiêu hoàn toàn, nhưng cần phải thu hẹp.
1.2.2. Chi phí quản lí thuế
Chi phí hành chính thuế gồm: chi phí quản lý của cơ quan thuế và những chi phí của
người nộp thuế; …
Việc tổ chức thực hiện hệ thống thuế làm phát sinh chi phí đáng kể như:


Chi phí trực tiếp (chi phí hành chính): Tổ chức cơ quan thuế, tiền lương, hệ thống thông tin quản



lý…

Chi phí gián tiếp (chi phí tuân thủ): Chi phí thời gian, ghi chép sổ sách, dịch vụ kế toán, luật sư
thuế… (Theo GS.Joel Slemrod (ĐH Michigan): chi phí gián tiếp ít nhất gấp bốn lần chi phí trực
tiếp.)
Người nộp thuế có thể tính toán chính xác được hiệu quả kinh doanh, nghĩa vụ nộp thuế
cũng như dễ dàng thực hiện các thủ tục về thuế.
Hệ thống thuế phải đơn giản để việc quản lí dễ dàng và ít tốn kém. Vì mục tiêu cơ
bản của tất cả các loại thuế là để tăng nguồn thu NSNN nên những loại thuế nào mà chi phí để
thu chúng còn lớn hơn nguồn thu do chúng tạo ra thì nên được loại bỏ, trừ phi chúng còn phục
vụ một mục đích ưu tiên nào khác.


1.2.3. Tính linh hoạt

Hệ thống thuế phải có khả năng thích ứng một cách dễ dàng với những thay đổi trong
hoàn cảnh kinh tế. Người nộp thuế phải dự đoán trước được khi họ tham gia vào một hoạt động
thuế nào đó thì trách nhiệm thuế mà họ phải trả trong tương lai là bao nhiêu . Có khả năng dễ
thích ứng với sự thay đổi của hoàn cảnh kinh tế thì mới. Khi hoạch định chính sách thuế phải
đảm bảo can thiệp ở mức độ, thời điểm và đối tượng thích hợp mới có thể tạo ra sự ổn định và
đáp ứng mục tiêu.
1.2.4. Tính công bằng

Trong các tiêu chuẩn xây dựng hệ thống thuế thì tiêu chuẩn công bằng là tiêu chuẩn hàng
đầu đóng vai trò vô cùng quan trọng và thể hiện rất rõ khi thuế là công cụ phân phối thu nhập
đảm bảo công bằng xã hội.
Tiêu thức để đánh giá tính công bằng của một hệ thống thuế phải dựa trên nguyên tắc
công bằng theo chiều ngang và nguyên tắc công bằng theo chiều dọc.
-

Hệ thống thuế được coi là công bằng theo chiều ngang: nếu các cá nhân về mọi mặt đều


-

như nhau thì được đối xử ngang nhau trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế.
Hệ thống thuế được coi là công bằng theo chiều dọc, nếu người có khả năng nộp thuế
nhiều hơn thì phải nộp thuế cao hơn những người khác.


2.

Phân loại thuế

Là việc sắp xếp các sắc thuế thành những nhóm theo những tiêu thức nhất định nhằm đáp
ứng yêu cầu về nghiên cứu, phân tích kinh tế, xây dựng và quản lý hệ thống thuế. Phân loại thuế
có ý nghĩa quan trọng trong quản lý thu thuế từ khâu xây dựng chính sách thuế đến triển khai
thực hiện. Tùy theo điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của mỗi quốc gia mà hệ thống thuế bao gồm
các loại thuế khác nhau, dưới đây là một số cách phân loại chủ yếu:
2.1.

Phân loại thuế theo tính chất kinh tế

Đây là cách phân loại truyền thống đã hình thành từ rất lâu, các sắc thuế thường được chia
thành thuế trực thu và thuế gián thu. Sự phân loại này phụ thuộc vào đối tượng chịu thuế, mối
quan hệ giữa người nộp thuế và Nhà nước.
-

Thuế gián thu: là loại thuế đánh vào việc tiêu thụ các hàng hóa, dịch vụ và được xác định
là một khoản cấu thành trong giá cả hàng hóa, dịch vụ. Qua đó, mối quan hệ giữa người
chịu thuế và Nhà nước được thể hiện một cách gián tiếp. Trong mối quan hệ này, khoản
thuế gián thu sẽ được chuyển cho người tiêu dùng gánh chịu và khoản thuế gián thu này
được doanh nghiệp thu hộ cho Nhà nước, người nộp thuế và người chịu thuế khác nhau,

hay nói cách khác doanh nghiệp nộp thuế hộ, người tiêu dùng là người chịu thuế, các loại
thuế gián thu hiện hành như: thuế Giá trị gia tăng, thuế Tiêu thụ đặc biệt, thuế Xuất

-

nhập khẩu…
Thuế trực thu: đã hình thành từ thế kỷ XVII đến nửa đầu thế kỷ XIX và chỉ được áp dụng
rộng rãi vào thế kỷ XX. Thuế trực thu thường được hiểu là một loại thuế đánh trực tiếp
lên một khoản thu nhập như: tiền lương, lợi tức cổ phần hoặc trên tài sản như ruộng đất,
nhà cửa của người nộp thuế. Hay nói cách khác, thuế trực thu là loại thuế mà người trực
tiếp nộp thuế đồng thời là người chịu
thuế.

Tại các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, các sắc thuế trực thu có vai trò quan trọng
trong việc tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước và điều tiết thu nhập giữa các tầng lớp dân cư
như thuế Thu nhập cá nhân, thuế Tài sản. Ngoài ra, còn có những sắc thuế trực thu khác mà vị trí
của từng sắc thuế khác nhau ở từng nước như thuế Di sản và tặng vật.


2.2.

Phân loại thuế theo đối tượng tính thuế

Với cách phân loại này, hệ thống thuế được chia thành 3 loại: thuế đánh vào hàng hóa, dịch
vụ; thuế đánh vào thu nhập và thuế đánh vào tài sản.
2.3.

Phân loại thuế theo cơ chế phân cấp quản lý ngân sách

Dựa vào tiêu thức này, thuế thường được phân thành: thuế trung ương và thuế địa phương.

-

Thuế trung ương: là những loại thuế ngân sách trung ương được hưởng 100%: thuế Xuất
Nhập khẩu, thuế Giá trị gia tăng ở khâu nhập khẩu, thuế Tiêu thụ đặc biệt khâu nhập

-

khẩu…
Thuế địa phương: là những loại thuế ngân sách địa phương được hưởng 100%: thuế Giá
trị gia tăng trong nước, thuế Tiêu thụ đặc biệt trong nước, thuế Thu nhập đối với người có
thu nhập cao,…


3.

Thực trạng thất thu thuế

“Thất thu thuế là một hiện tượng thực tế khách quan vốn có của bất kỳ hệ thống thuế khóa
nào. Nó phản ánh hai mặt của một vấn đề: lợi ích của Nhà nước và lợi ích của Doanh nghiệp
(hay lợi ích của cá nhân).”
Thất thu thuế có biểu hiện và diễn biến rất đa dạng, nhưng khái quát chung thì được chia làm
hai loại: thất thu thực tế và thất thu tiềm năng.
Thất thu thực tế là những khoản thu được quy định rõ ràng trong luật thuế nhưng vì một số
lý do nào đó đã không được nộp vào ngân sách đúng quy định.
Thất thu tiềm năng là những khoản đáng ra phải động viên vào ngân sách nhưng lại không
thu được vì chưa có quy định của pháp luật.
Các dạng thất thu thuế:
-

Thất thu thuế từ phía đối tượng nộp thuế

Thất thu thuế từ phía cán bộ và cơ quan thuế
Thất thu thuế từ phía nhà nước


3.1.

Thực trạng ở Việt Nam

Thuế suất các sắc thuế ở mức trung bình
Bảng trên dẫn một số sắc thuế chủ yếu gồm thuế TNDN, thuế TNCN và thuế GTGT, cho
thấy mức thuế suất hiện tại của Việt Nam ở mức trung bình so với khu vực Đông Nam Á và thấp
hơn so với các nước phát triển.
Tuy nhiên tình trạng thất thu thuế ở Việt Nam xảy ra ở hầu hết các ngành kinh tế như: Công
nghiệp, dịch vụ, nông lâm thủy hải sản, y tế, giáo dục…
VD: Theo báo cáo của Tổng cục Thuế, thu thuế nội địa cả năm 2014 vượt dự toán, đạt trên
681.000 tỷ đồng, nhưng nợ thuế là 70.200 tỷ đồng.
 Số nợ thuế chiếm 10% tổng thu thuế nội địa.

Cơ quan thuế cũng đã thanh tra, kiểm tra chống gian lận, thất thu thuế với khoảng gần 68.000
doanh nghiệp và đã kiến nghị xử lý thu vào ngân sách tới trên 12.200 tỷ đồng. Sau khi kiểm tra
2900 doanh nghiệp kêu lỗ, doanh nghiệp có dấu hiệu chuyển giá và có hoạt động giao dịch liên
kết, đã giảm lỗ hơn 5.800 tỷ đồng, đồng thời truy thu, truy hoàn và phạt 1.700 tỷ đồng.


VD: Tình hình trốn thuế của các doanh nghiệp FDI
Việt Nam kể từ năm 1986 đã khá thành công trong việc thu hút nguồn vốn FDI. FDI đã thúc
đẩy tăng trưởng công nghiệp và xuất khẩu.. và đồng thời gia tăng đáng kể cho nguồn thu của
Chính phủ. Nhưng bên cạnh đó, do các chính sách miễn giảm thuế và tình trạng trốn thuế của
một số công ty mà Chính phủ Việt Nam hàng năm dã bị thất thoát 20 triệu Đô la Mỹ.


Nguồn: Báo cáo Thuế của AAV và VTA 2014
Biểu đồ trên cho thấy tỷ suất thuế TNDN giảm dần từ 32% vào năm 1997 xuống còn
25% vào năm 2009 và còn 22% năm 2014. Cho tới tháng 1 năm 2016 chỉ còn 20%.
Thông qua các chính sách ưu đãi Thuế cho các DN FDI mà Chính phủ cũng đã mất đi một
phần thuế. Số liệu năm 2012 – Năm cuối cùng có số liệu công bố - số tiền mà Chính phủ đã mất
đi do các DN FDI tránh thuế đã lên tới 20 triệu Đô la Mỹ, chủ yếu thông qua hình thức chuyển
giá.
Hiện tượng DN FDI kê khai lỗ đang khá phổ biến (khoảng 50% tổng số DN FDI đang
hoạt động trên cả nước, trong đó có nhiều DN kê khai lỗ liên tục trong 3 năm). Điển hình tại tỉnh
Bình Dương - địa phương thu hút FDI khá tốt, năm 2010, trong tổng số 1.490 DN có tới 754 DN
FDI kê khai lỗ, chiếm 50,6%. Đáng chú ý, dù làm ăn thua lỗ trong thời gian dài nhưng nhiều DN
vẫn không ngừng mở rộng đầu tư.
Từ năm 2006 đến nay, hiện tượng chuyển giá của các DN FDI ngày càng tinh vi hơn, với
việc điều chuyển lợi nhuận từ nơi có thuế suất cao sang nơi có thuế suất thấp hơn để tránh thuế.
Những vụ việc chuyển giá “đình đám” thời gian qua của Coca - Cola, Adidas, Metro Cash &
Carry, Keangnam và Nestlé... liên tục báo lỗ.
Tuy nhiên, con số trên chỉ phản ánh một góc của bức tranh về thực trạng trốn thuế của
DN FDI. Báo cáo của 63 cục thuế, hơn 100 chi cục thuế trên cả nước thực sự khiến không ít
người phải giật mình. Cụ thể, kết quả thanh tra tại 870 DN FDI có tới 720 DN vi phạm.


Đáng lưu ý là tại một số đơn vị, tỷ lệ vi phạm lên đến 100% như Cục thuế Bắc Giang
thanh tra 16 DN thì cả 16 đều vi phạm. Tỷ lệ này diễn ra tương tự tại Hòa Bình (16/16), Gia Lai
(15/15)…

Hành vi vi phạm, thủ đoạn của các DN FDI đã được lực lượng thanh tra làm rõ. Cụ thể,
quá trình thu thập các thông tin, dữ liệu, thanh tra phát hiện các nhà đầu tư nước ngoài thường
góp vốn vào DN trong nước bằng máy móc, thiết bị công nghệ lạc hậu hoặc đã khấu hao hết
nhưng được đẩy giá lên rất cao so với giá trị thực. Bằng cách này đã giúp nâng khống giá trị vốn
góp, gây thất thu cho ngân sách và bất lợi cho DN trong nước.

Một hình thức chuyển giá khác được các DN FDI áp dụng là bán hàng hóa, nguyên vật
liệu cho các bên có quan hệ liên kết với giá thấp hơn nhiều so với giá bán cho các bên không có
quan hệ liên kết. Theo đánh giá của một lãnh đạo Bộ Tài chính, đây là hành vi phổ biến nhất. Bởi
với lợi thế nắm giữ phần vốn lớn tại các DN VN, bên liên kết nước ngoài có quyền định đoạt giá
chuyển giao hàng hóa, nguyên liệu để chuyển được nhiều lợi nhuận trước thuế ra nước ngoài.


Bên cạnh đó, một hình thức chuyển giá khác thông qua chi trả lãi vay vốn sản xuất kinh
doanh cũng được các nhà “ảo thuật” FDI vận dụng. Hành vi này thông qua giá bán hàng hóa dịch
vụ xuất khẩu cho nước ngoài, chủ yếu bao tiêu sản phẩm qua công ty mẹ với giá bán hoặc giá gia
công thấp hơn giá vốn dẫn đến kết quả sản xuất kinh doanh của DN FDI liên tục lỗ nhiều năm.
Để tiếp tục hoạt động và mở rộng kinh doanh, công ty mẹ thực hiện hình thức hỗ trợ vốn hoặc
cho vay không tính lãi.
3.2.

Thực trạng ở một vài quốc gia trên thế giới

Không chỉ ở Việt Nam, các quốc gia khác trên Thế giới cũng xảy ra tình trạng thất thu thuế.
Như ở Nhật Bản, thất thu thuế đến từ mảng thuế của các hộ kinh doanh cá thể. Chính phủ
Nhật chủ trương “buông” hộ kinh doanh cá thể, gây ra thất thu thuế ở mảng này, nhưng so với
bình diện quốc gia thì không lớn, không cần thiết tập trung nhân lực chống thất thu. [6]
Hay như ở Mỹ, theo dữ liệu của nhóm Nghiên cứu lợi ích công (PIRG), trong năm 2014, Bộ
Tài chính Hoa Kỳ và chính quyền các bang đã mất khoảng chừng 110 tỷ đô la Mỹ tiền thuế chỉ
tính riêng các công ty lớn của Mỹ (Những công ty lớn nhất trong nhóm Fortune 500) chuyển tiền
sang các tài khoản ở các nơi như Cayman Islands, Bermunda và các “thiên đường Thuế” khác.
[7]
Các nước lân cận Việt Nam trong khu vực Châu Á cũng duy trì nguồn vốn FDI, nhưng tình
trạng nộp thuế TNDN của họ lại rất cao.

4. Thất thu thuế từ các hành vi gian lận thuế:

4.1. Các hành vi gian lận thuế từ các doanh nghiệp nội địa
a. Bỏ ngoài sổ sách kế toán:
Theo đó, người nộp thuế thường sử dụng đồng thời hai hệ thống sổ sách kế toán, một hệ
thống sổ kế toán nội bộ phản ánh đầy đủ các giao dịch kinh tế, hệ thống kế toán còn lại chỉ phản
ánh một phần các giao dịch kinh tế để khai thuế. Một số vụ trốn thuế bị phanh phui thời gian qua
cho thấy hành vi này khá phổ biến và gây thất thu ngân sách.


b. Tạo giao dịch bán hàng giả mạo
Mục tiêu của thủ đoạn này là chiếm đoạt tiền NSNN thông qua hoàn thuế hoặc tiếp tay
cho hành vi tham nhũng NSNN của một bộ phận công chức được giao nhiệm vụ mua sắm tài
sản, hàng hóa, dịch vụ cho cơ quan nhà nước. Thủ đoạn này cũng liên quan đến hành vi giao dịch
mua hàng giả mạo sẽ phân tích dưới đây nhằm giúp cho bên mua tăng thuế GTGT đầu vào được
khấu trừ và giảm chi phí tính thuế thu nhập DN.


c. Tạo giao dịch mua hàng giả mạo
Theo thống kê của Tổng cục Hải quan, tính trung bình hằng năm có khoảng 10.000 mẫu
hàng hóa được phân tích phân loại. Trong đó, mẫu khai đúng chiếm khoảng 47%, sai khoảng
53%, giảm thuế khoảng 7,4%.
Đây là hành vi trốn thuế khá phổ biến hiện nay, thực tế DN không có khoản chi này
nhưng đã tự tạo ra chứng từ để hợp pháp hóa khoản chi không có thực, vì thế có thể gọi đây là
chi khống. Chi khống thể hiện qua những bảng kê thanh toán giả mạo với chữ ký giả, hợp đồng
lao động giả,…
d. Ghi giá bán thấp hơn giá thực tế
Hành vi này được gọi là “down” giá. Đây là hành vi ghi giá bán trên hóa đơn và kê khai
doanh thu tính thuế thấp hơn giá khách hàng thực tế thanh toán. Hành vi này thường gặp ở các
DN kinh doanh nhà hàng khách sạn, vận tải tư nhân, xăng dầu, kinh doanh vật liệu xây dựng, bán
ô tô và xe máy, hàng trang trí nội thất... Các công ty xây dựng (nhà dân và đơn vị xây dựng vãng
lai) khi thi công các công trình ở các địa phương khác hay xây nhà tư nhân thường khai báo

không trung thực, không kê khai hoặc giấu bớt một phần công trình. Hành vi gian lận này làm
giảm thuế GTGT và thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) phải nộp, gây ảnh hưởng không nhỏ
đến số thu ngân sách hàng năm.
e. Hạch toán kế toán và kê khai thuế sai quy định
Mục tiêu chủ yếu của hành vi hạch toán kế toán sai quy định pháp luật là che giấu doanh
thu tính thuế, hạch toán tăng chi phí tính thuế thu nhập DN và tăng thuế GTGT đầu vào được
khấu trừ. Các kiểu hạch toán sai chế độ kế toán rất đa dạng. Khi bị kiểm tra phát hiện, cán bộ kế
toán có thể lấy cớ là hạch toán nhầm để tránh bị phạt vì hành vi trốn thuế. Kế toán có thể hạch
toán giảm trừ doanh thu thông qua các hình thức giảm giá, chiết khấu không đúng quy định. Kế
toán có thể hạch toán sai tài khoản kế toán để che giấu doanh thu.


4.2. Các hành vi gian lận thuế đối với hàng hoá xuất nhập khẩu
a. Buôn lậu:
Đây là hành vi buôn bán trái phép qua biên giới những loại hàng hoá cấm, không khai
báo, tránh sự quản lý của hải quan và trốn nghĩa vụ thuế. Hàng nhập lậu chủ yếu là hàng tiêu
dùng, nhu yếu phẩm...
b. Khai sai chủng loại hàng hoá, thiếu số lượng:
Lợi dụng sự thông thoáng về thủ tục hải quan cũng như nguồn lực có hạn của cơ quan hải
quan, nhiều chủ hàng đã thực hiện hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu nhưng không khai báo đầy đủ
các mặt hàng hoặc khai sai tên hàng. Người nộp thuế còn trốn lậu thuế bằng cách nhập khẩu
hàng hóa là sản phẩm hoàn chỉnh nhưng lại tháo bớt một số bộ phận để trở thành hàng hóa chưa
hoàn thiện nhằm hưởng thuế suất thấp của hàng linh kiện.
c. Khai sai xuất xứ hàng hóa nhập khẩu:
Lợi dụng việc áp dụng thuế suất ưu đãi hoặc thuế suất ưu đãi đặc biệt đối với các hàng
hóa có xuất xứ từ các nước, vùng lãnh thổ khác nhau, các chủ hàng hóa cố tình khai sai xuất xứ
hàng hóa nhập khẩu và làm các giấy chứng nhận xuất xứ giả để được hưởng các mức thuế suất
ưu đãi, ưu đãi đặc biệt.
d. Gian lận trong giá tính thuế:
Các hành vi gian lận thường được thực hiện dưới các hình thức sau:

-

Khai báo thấp trị giá đối với những mặt hàng chịu thuế suất cao, chịu thuế tiêu thụ đặc

-

biệt, những mặt hàng hay biến động về giá.
Khai báo thấp trị giá của các lô hàng nhập khẩu giống hệt nhau.
Khai tăng trị giá tính thuế so với giá trị thực tế của hàng hóa nhập khẩu để tăng vốn đầu
tư và chuyển lợi nhuận ra nước ngoài….
e. Giả mạo mục đích xuất khẩu, nhập khẩu để được hưởng ưu đãi thuế:

-

Chứng từ thường hay được các chủ hàng giả mạo với mục trốn lậu thuế thường là các
chứng từ nộp thuế hoặc các hồ sơ hải quan. Trong đó, các trường hợp phổ biến là trốn lậu
thuế qua việc thực hiện chính sách ưu đãi đối với các dự án đầu tư; gian lận thông qua
việc lợi dụng hình thức tạm nhập tái xuất và tạm xuất tái nhập...


5.

Các vai trò của thuế trong quản lý nhà nước

Chính sách thuế được đặt ra không chỉ nhằm mang lại số thu đơn thuần cho ngân sách mà
yêu cầu cao hơn là qua thu góp phần thực hiện chức năng việc kiểm kê, kiểm soát, quản lý
hướng dẫn và khuyến khích phát triển sản xuất, mở rộng lưu thông đối với tất cả các thành phần
kinh tế theo hướng phát triển của kế hoạch nhà nước, góp phần tích cực vào việc điều chỉnh các
mặt mất cân đối lớn trong nền kinh tế quốc dân.
Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, người ta thường xác định 4 mục tiêu cơ bản của

kinh tế vĩ mô mà mọi chính phủ phải theo đuổi. Bốn mục tiêu đó là:
-

Đảm bảo thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế một cách hợp lý .
Tạo được công ăn việc làm đầy đủ cho người lao động.
Ổn định giá cả, tiền tệ, chống lạm phát.
Thực hiện sự cân bằng cán cân thanh toán quốc tế.

Với 4 mục tiêu trên ta có thể thấy rõ Thuế là một công cụ hết sức quan trọng nhằm biến 4
mục tiêu đó thành hiện thực.
5.1. Thuế kích thích sự tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm
Để thực hiện các mục tiêu này, một trong những công cụ quan trọng mà nhà nước sử
dụng là chính sách thuế. Nội dung điều tiết của thuế gồn hai mặt: Kích thích và hạn chế. Nhà
nước đã sử dụng chính sách thuế một cách linh hoạt trong từng thời kỳ nhất định, bằng việc tác
động vào cung-cầu nhằm điều chỉnh chu kỳ kinh doanh– một đặc trưng vốn có của nền kinh tế
thị trường.
Khi nền kinh tế suy thoái, tức là khi đầu tư ngừng trệ, sản xuất và tiêu dùng đều giảm thì
nhà nước dùng thuế để kích thích đầu tư và khuyến khích tiêu dùng.


Bằng việc giảm thuế đánh vào sản xuất, giảm thuế đối với hàng sản xuất ra để khuyến
khích tạo lợi nhuận, kích thích việc đầu tư vào sản xuất.



Bằng việc giảm thế đánh vào tiêu dùng nhằm khuyến khích tiêu dùng.



Để hạn chế và gây áp lực đối với việc lưu giữ vốn không đưa vào đầu tư, có thể tăng thuế

đánh vào thu nhập về tiền gửi tiết kiệm và thu nhập về tài sản dự trữ, từ đó sẽ khuyến khích việc
đưa vốn vào đầu tư, sản xuất kinh doanh.


Khi nền kinh tế hưng thịnh, để ngăn chặn nguy cơ một nền kinh tế “nóng” phát triển dẫn đến lạm
phát và khủng hoảng thừa thì nhà nước dùng thuế để giảm tốc độ đầu tư ồ ạt và giảm bớt mức tiêu
dùng của xã hội. Song việc tăng thuế phải được xem xét trong một giới hạn cho phép để đảm bảo
vừa tăng nguồn thu cho NSNN vừa điều chỉnh cơ cấu ngành nghề hợp lý.
Như vậy, có thể thấy sự tác động của thuế có ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế, đến việc điều
tiết kinh tế thị trường của Nhà nước. Thông qua thuế, Nhà nước thực hiện định hướng phát triển sản
xuất. 5.2. Thuế thực hiện vai trò tái phân phối các nguồn tài chính, góp phần đảm bảo công
bằng xã hội
Kinh tế thị trường làm ra tăng sự phân hoá giàu nghèo, sự phân hoá này có những khi bất
hợp lý và làm giảm tính hiệu quả kinh tế-xã hội. Do vậy, cần phải có những biện pháp phân phối
lại của cải xã hội nhằm hạn chế sự phân hoá này, làm lành mạnh xã hội.
Nhà nước dùng thuế để điều tiết phần chênh lệch giữa người giàu và người nghèo, thông
qua việc trợ cấp hoặc cung cấp hàng hoá công cộng. Thông qua thuế thu nhập, Nhà nước thực
hiện vai trò điều chỉnh vĩ mô trong lĩnh vực tiền lương và thu nhập, hạn chế sự phân hoá giàu
nghèo và tiến tới công bằng xã hội. Một khía cạnh khác của chính sách thuế nhằm điều chỉnh thu
nhập là các khoản thuế đánh vào tiêu dùng: Thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế Giá trị gia tăng.
Với những hàng hóa dịch vụ thiết yếu việc giảm thuế sẽ có lợi cho người nghèo hơn và
sự chênh lệch về thu nhập cũng được giảm bớt. Trái lại những mặt hàng xa xỉ, cao cấp việc tăng
thuế sẽ góp phần phân phối lại một bộ phận thu nhập của người giàu trong xã hội. Tuy nhiên, khi
sử dụng công cụ thuế để điều chỉnh thu nhập, mức thu nên xây dựng hợp lý tránh tình trạng điều
tiết quá lớn làm giảm khát vọng làm giàu của nhà kinh doanh và giảm khả năng tăng trưởng kinh
tế của đất nước.
5.3.Thuế là công cụ kiềm chế lạm phát
Nguyên nhân của lạm phát có thể do cung cầu làm cho giá cả hàng hoá tăng lên hoặc do
chi phí đầu vào tăng. Thuế được sử dụng để điều chỉnh lạm phát, ổn định giá cả thị trường. Nếu
cung nhỏ hơn cầu thì nhà nước dùng thuế để điều chỉnh bằng cách giảm thuế đối với các yếu tố

sản xuất, giảm thuế thu nhập để kích thích đầu tư sản xuất ra nhiều khối lượng sản phẩm nhiều
hơn. Đồng thời tăng thuế đối với hàng hoá tiêu dùng để giảm bớt cầu. Nếu lạm phát do chi phí
tăng, gia tăng thất nghiệp, sự trì trệ của tốc độ phát triển kinh tế, giá cả đầu vào tăng, nhà nước


dùng thuế hạn chế tăng chi phí bằng cách cắt giảm thuế đánh vào chi phí, kích thích tăng năng
suất lao động.
Lạm phát ở Việt Nam

Biểu đồ lạm phát Việt Nam 2006-2015
Nhận xét: Những chính sách thuế này đều mang lại hiệu quả tốt, kiềm hãm lạm phát
nhanh, chứng tỏ sức mạnh của thuế trong điều tiết lạm phát trong nền kinh tế.
5.4. Thuế góp phần bảo hộ sản xuất trong nước và tạo điều kiện hoà nhập nền kinh tế thế
giới


Bảo hộ hợp lý nền sản xuất trong nước tránh khỏi sự cạnh tranh khốc kiệt từ bên ngoài
được coi là hết sức cần thiết đối với các nước. Điều này được thể hiện rõ nét thông qua
thuế xuất nhập khẩu. Để kích thích sản xuất trong nước phát triển, kích thích sản xuất
hàng hoá xuất khẩu, nhà nước đánh thuế rất thấp hoặc không đánh thuế vào hàng xuất
khẩu. Khuyến khích xuất khẩu hàng hoá đã qua chế biến, hạn chế xuất khẩu nguyên liệu
thô.Đánh thuế nhập khẩu thấp đối với hàng hoá máy móc thiết bị trong nước chưa sản
xuất được và đánh thuế nhập khẩu cao đối với hàng hoá máy móc thiết bị trong nước đã
sản xuất được hoặc hàng hoá tiêu dùng xa xỉ.




Tuy nhiên xu hướng hội nhập kinh tế đang phát triển mạnh mẽ ở Việt Nam và trên thế
giới.Việt Nam cần hòa nhập kinh tế thế giới,để phát triển kinh tế,kêu gọi nhiều đầu tư

FDI là điều cần thiết.Điều này liên quan mật thiết tới chính sách điều chỉnh thuế nhập
khẩu của Việt Nam.

Bằng việc tham gia vào các cam kết thương mại tự do (TPP), cắt giảm thuế nhập khẩu,Việt
Nam dần hòa nhập vào nên kinh tế thế giới, điều này sẽ mang lại nhiều cơ hội cho nền kinh tế
Việt Nam, cũng như mang lại thách thức cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam. Đòi hỏi
chính sách thuế sáng suốt của Việt Nam để có thể vừa bảo vệ được các doanh nghiệp trong nước,
vẫn mở cửa hội nhập phát triển đất nước.
6. Giải pháp nâng cao vai trò của thuế trong quản lý nhà nước
6.1.

Những giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò của thuế đối với phát triển kinh tế- xã
hội, tạo điều kiện hòa nhập nền kinh tế thế giới
a, Xây dựng chiến lược phát triển kinh tế- xã hội phù hợp với tầm nhìn dài hạn gắn với

hội nhập quốc tế một cách sâu rộng và toàn diện nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo nguồn
thu ổn định, bền vững, đáp ứng yêu cầu chi ngân sách của địa phương.
b, Chủ động, quyết liệt trong công tác chỉ đạo, điều hành của các cấp chính quyền địa
phương trên địa bàn đối với chính sách, pháp luật thuế trong hội nhập quốc tế.
c, Hoàn thiện hệ thống thuế phù hợp với pháp luật thuế quốc tế, nâng cao năng lực chủ
động hội nhập quốc tế về thuế
d, Xây dựng một cơ chế quản lý thuế hợp lý và phù hợp với hội nhập quốc tế
6.2.

Nhóm giải pháp về nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác thu, nộp thuế
a, Đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác tham mưu, quản lý, điều hành thu

-

Thực hiện tốt công tác phân tích, dự báo

Phối hợp chặt chẽ với chính quyền các cấp, các ban, ngành, cơ quan, thuế trong công tác
quản lý thuế, chống thất thu ngân sách.


-

Thường xuyên tham mưu cho cấp ủy chính quyền trong công tác thu cũng như các biện
pháp chỉ đạo nhằm tháo gỡ kịp thời các khó khăn, vướng mắc tại cơ sở để công tác thu có
hiệu quả.
b, Hoàn thiện và đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác kê khai thuế

-

Tăng cường công tác quản lý kê khai, bổ sung thêm các doanh nghiệp của một ngành

-

thực hiện kê khai thuế qua mạng.
Tăng cường kiểm tra rà soát tình hình kê khai thuế của các tổ chức, cá nhân. Xử lý

-

nghiêm các trường hợp vi phạm chế độ kê khai thuế.
Tăng cường công tác theo dõi, đôn đốc, xử lý kịp thời đối với các đơn vị không còn hoạt
động, xử lý nghiêm những đơn vị vi phạm thủ tục về đăng ký thuế theo quy định của luật
quản lý thuế.
c, Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra thuế

-


Đẩy nhanh tiến độ thực hiện các kế hoạch thanh tra, kiểm tra thuế.
Tăng cường thanh tra các doanh nghiệp lớn, các DN nhiều năm có số lỗ lớn, hoàn thuế,

-

các DN thuộc các dự án đầu tư trong lĩnh vực đất đai…
Xử lý truy thu quyết liệt đối với trường hợp đã kiểm tra, thanh tra kiểm toán.
Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan liên quan trong hoạt động chống chuyển giá để
tiến hành thanh tra, kiểm tra ngăn chặn hoạt động này.
d, Nâng cao hiệu quả công tác quản lý và đôn đốc thu nợ thuế.

6.3.

Giải pháp nâng cao vai trò nhà nước trong quản lý thuế với các doanh nghiệp ở Việt




Nam
Tiếp tục hoàn thiện các văn bản pháp quy
Đổi mới cơ cấu tổ chức và tăng cường sự phối hợp giữa các bộ phận chức năng trong






quản lý thuế
Nâng cao trình độ, nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ quản lý thuế
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý thuế

Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý thuế
Tăng cường phối hợp các cơ quan chức năng thực hiện quản lý, tham gia phòng, chống
các hành vi gian lận thuế.

KẾT LUẬN


Hệ thống quản lý thu thuế kém hiệu quả là tồn tại của Việt Nam cũng như của các quốc
gia đang phát triển nói chung. Việc hoàn thiện hệ thống quản lý thu thuế, tăng hiệu quả của thu
thuế, đảm bảo công bằng giữa các đối tượng nộp thuế luôn là biện pháp tăng thu thuế hiệu quả ở
bất cứ quốc gia nào trong đó có Việt Nam.



×