Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

tiểu luận môn TÀI CHÍNH CÔNG tín dụng nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (314.79 KB, 17 trang )


MỞ ĐẦU
Thuật ngữ "tín dụng" xuất phát từ chữ La tinh: “creditum” có nghĩa là sự tin tưởng,
tín nhiệm. Trong tiếng Anh được gọi là "credit", tiếng Nga được gọi là "kpegum", theo
ngôn ngữ dân gian ở Việt Nam, tín dụng có nghĩa là sự vay mượn.
Tín dụng đã xuất hiện cùng với sự phân công lao động xã hội, sản xuất và trao đổi
hàng hoá. Trong quá trình trao đổi hàng hoá đã hình thành sự nợ nần lẫn nhau, những
quan hệ vay mượn để thanh toán. Như vậy tín dụng là quan hệ kinh tế giữa người cho vay
và người đi vay, là sự vận động của quy luật giá trị. Các hoạt động tín dụng rất đa dạng và
phong phú. Ví dụ như căn cứ vào chủ thể tham gia tín dụng, thì đã có thể chia tín dụng
thành 4 hình thức, đó là: tín dụng thương mại, tín dụng ngân hàng, tín dụng nhà nước và
tín dụng tiêu dùng. Đây cũng là các hình thức tín dụng tiêu biểu và được quan tâm trong
nền kinh tế thị trường. Và với phạm vi đề tài tiểu luận này, nhóm chỉ trình bày một vài
vấn đề về tín dụng nhà nước.
Tín dụng nhà nước là quan hệ tín dụng giữa nhà nước với doanh nghiệp, các tổ chức
kinh tế - xã hội và các cá nhân. Tín dụng nhà nước xuất hiện nhằm thỏa mãn những nhu
cầu chi tiêu của ngân sách nhà nước trong điều kiện nguồn thu không đủ để đáp ứng; nó
còn là công cụ để nhà nước hỗ trợ cho các ngành kinh tế yếu kém, ngành mũi nhọn và
khu vực kinh tế kém phát triển, và là công cụ quan trọng để nhà nước quản lý, điều hành
vĩ mô.
Tín dụng nhà nước sẽ đóng vai trò như một khoản chi của ngân sách nhà nước
(thông qua tổ chức thực hiện tín dụng nhà nước) cho đầu tư phát triển, cho vay với lãi suất
thấp (lãi suất ưu đãi) hơn mặt bằng lãi suất thị trường, theo kế hoạch hoặc mục tiêu, định
hướng của nhà nước để khuyến khích các nhà đầu tư bỏ một phần vốn của mình, cùng với
phần vốn vay lãi suất ưu đãi từ tín dụng nhà nước tham gia đầu tư hình thành nên tài sản
cố định, cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội để phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội.
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, sự tồn tại của tín dụng nhà nước, hay nói cách khác,
vai trò của tín dụng nhà nước đối với nền kinh tế là một đòi hỏi khách quan trong sự phát
triển của mỗi quốc gia trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Đặc biệt, đối với các nền
kinh tế đang phát triển, khi mà khu vực ngoài nhà nước còn hạn chế về khả năng tích tụ
vốn, khả năng thực hiện các dự án có quy mô vốn lớn, thời gian thu hồi vốn lâu, phục vụ


cho tiện ích công cộng..., tín dụng nhà nước càng có vai trò quan trọng, nhất là các dự án
phát triển cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế. Là một nước đang phát triển, với cơ sở hạ tầng
nghèo nàn, lạc hậu, lại bị tàn phế nặng nề trong các cuộc chiến tranh, để thực hiện quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển cơ sở hạ tầng, phục vụ phát triển
kinh tế ở Việt Nam là một đòi hỏi cấp thiết và tất yếu.


Trang 2


NỘI DUNG
I. KHÁI QUÁT VỀ TÍN DỤNG NHÀ NƯỚC
Tín dụng là một phạm trù kinh tế và nó cũng là sản phẩm của nền kinh tế hàng hóa.
Tín dụng ra đời, tồn tại qua nhiều hình thái kinh tế - xã hội. Quan hệ tín dụng được phát
sinh ngay từ thời kỳ chế độ công xã nguyên thủy bắt đầu tan rã. Khi chế độ tư hữu về tư
liệu sản xuất xuất hiện, cũng là đồng thời xuất hiện quan hệ trao đổi hàng hóa. Thời kỳ
này, tín dụng được thực hiện dưới hình thức vay mượn bằng hiện vật - hàng hóa. Xuất
hiện sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất, làm cho xã hội có sự phân hóa: giàu, nghèo, người
nắm quyền lực, người không có gì....Khi người nghèo gặp phải những khó khăn không thể
tránh thì buộc họ phải đi vay, mà những người giàu thì câu kết với nhau để ấn định lãi
suất cao, chính vì thế, tín dụng nặng lãi ra đời. Trong giai đoạn tín dụng nặng lãi, tín dụng
có lãi suất cao nhất là 40-50%, do việc sử dụng tín dụng nặng lãi không phục vụ cho việc
sản xuất mà chỉ phục vụ cho mục đích tín dụng nên nền kinh tế bị kìm hãm động lực phát
triển. Về sau, tín dụng đã chuyển sang hình thức vay mượn bằng tiền tệ.
Cho vay, còn gọi là tín dụng, là việc một bên (bên cho vay) cung cấp nguồn tài
chính cho đối tượng khác (bên đi vay) trong đó bên đi vay sẽ hoàn trả tài chính cho bên
cho vay trong một thời hạn thỏa thuận và thường kèm theo lãi suất. Do hoạt động này làm
phát sinh một khoản nợ nên bên cho vay còn gọi là chủ nợ, bên đi vay gọi là con nợ.
Do đó, Tín dụng phản ánh mối quan hệ giữa hai bên - Một bên là người cho vay, và
một bên là người đi vay. Quan hệ giữa hai bên ràng buộc bởi cơ chế tín dụng, thỏa thuận

thời gian cho vay, lãi suất phải trả,...
Thực chất, tín dụng là biểu hiện mối quan hệ kinh tế gắn liền với quá trình tạo lập
và sử dụng quỹ tín dụng nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu vốn tạm thời cho quá trình tái
sản xuất và đời sống, theo nguyên tắc hoàn trả.
Đặc điểm của tín dụng:
Phân phối của tín dụng mang tính hoàn trả;
Hoạt động của tín dụng có sự vận động đặc biệt của giá cả.
1. Khái niệm tín dụng nhà nước
Tín dụng nhà nước là quan hệ tín dụng giữa nhà nước với doanh nghiệp, các tổ chức
kinh tế - xã hội và các cá nhân. Tín dụng nhà nước xuất hiện nhằm thỏa mãn những nhu
cầu chi tiêu của ngân sách nhà nước trong điều kiện nguồn thu không đủ để đáp ứng; nó
còn là công cụ để nhà nước hỗ trợ cho các ngành kinh tế yếu kém, ngành mũi nhọn và
khu vực kinh tế kém phát triển, và là công cụ quan trọng để nhà nước quản lý, điều hành
vĩ mô.
Tín dụng Nhà nước bao gồm: tín dụng ngắn hạn và tín dụng dài hạn.
- Tín dụng ngắn hạn: là khoản vay ngắn hạn của Kho bạc Nhà nước để bù đắp các
khoản bội chi tạm thời, thời hạn dưới 1 năm. Tín dụng ngắn hạn của Nhà nước được thực
hiện bằng cách phát hành kỳ phiếu kho bạc (còn gọi là tín phiếu). Việc phát hành được
Trang 3


thực hiện bằng hai cách: (1) Phát hành để vay vốn Ngân hàng Trung ương và (2) Phát
hành để vay vốn cá nhân và nhà doanhnghiệp.
- Tín dụng dài hạn: Là các khoản vay dài hạn của kho bạc Nhà nước, thường từ 5
năm trở lên. Tín dụng Nhà nước dài hạn được thực hiện bằng cách phát hành công trái
(trái phiếu). Theo thời gian công trái chia ra hai loại: Trái phiếu thời hạn 5 năm hoặc 10
năm và trái phiếu vĩnh viễn. Theo phạm vi phát hành, công trái cũng chia ra hai loại: Trái
phiếu quốc nội và trái phiếu quốc tế. Lãi suất công trái được Nhà nước qui định lúc phát
hành và chi trả hàng năm.
2. Bản chất và đặc điểm của tín dụng nhà nước

Tín dụng nhà nước ra đời, thoạt tiên để bù đắp thiếu hụt ngân sách Nhà nước cho
các khoản tiêu dùng thường xuyên và không tham gia vào chu trình tái sản xuất của nền
kinh tế. Qua quá trình phát triển, chức năng bù đắp thiếu thụ ngân sách Nhà nước của tín
dụng nhà nước được sử dụng tích cực hơn nhằm bù đắp những khoản chi cho đầu tư phát
triển nền kinh tế, tăng thêm nguồn lực tài chính cho nhà nước để thực thi các chính sách
quản lý vĩ mô nền kinh tế. Tín dụng nhà nước là một dạng của tín dụng nói chung. Chức
năng cơ bản của tín dụng nhà nước là bù đắp thiếu hụt ngân sách và phân phối lại các
nguồn vốn để thoả mãn nhu cầu đầu tư của các chủ thể theo kế hoạch, định hướng của nhà
nước. Tuy nhiên, tín dụng nhà nước lại là một hình thức tín dụng đặc biệt vừa mang tính
kinh tế vừa mang tính xã hội và chính trị. Sự kết hợp hài hoà lợi ích kinh tế, chính trị và
xã hội là đặc trưng của tín dụng nhà nước và là mục tiêu hoạt động, tiêu chuẩn đánh giá
hiệu quả hoạt động của công tác quản lý tín dụng nhà nước. Lợi ích kinh tế thể hiện trực
tiếp trên lợi tức tiền vay, thể hiện gián tiếp qua việc thụ hưởng các tiện nghi công cộng, có
thêm việc làm do đầu tư của Nhà nước mang mại. Đối với vay nợ nước ngoài, lợi ích kinh
tế không chỉ thể hiện trên lợi tức tiền vay mà còn mang lại cho nước chủ nợ nhiều lợi ích
khác nhau về thuế quan, về xuất nhập khẩu hàng hoá... Lợi ích chính trị, xã hội của tín
dụng nhà nước thể hiện ở lòng tin của dân chúng đối với Chính phủ, ở trách nhiệm và mối
quan tâm của Chính phủ đối với dân chúng chẳng hạn như cho vay đầu tư, giải quyết việc
làm, xoá đói giảm nghèo. Trong quan hệ đối ngoại, lợi ích chính trị thể hiện qua mối quan
hệ chính trị, ngoại giao giữa nước chủ nợ và nước con nợ. Với đặc tính kinh tế và xã hội
trên đây, tín dụng nhà nước thường có các đặc điểm sau:
- Chủ thể là nhà nước, các pháp nhân và thể nhân;
- Hình thức đa dạng, phong phú;
-Tín dụng nhà nước chủ yếu là loại hình trực tiếp, không thông qua tổ chức trung
gian
- Nguồn vốn để cho vay là vốn của ngân sách Nhà nước được cân đối để cho vay
đầu tư hoặc nguồn vốn huy động theo kế hoạch của nhà nước để phục vụ đầu tư phát triển
theo chủ trương của nhà nước.
- Tổ chức tín dụng làm nhiệm vụ quản lý, huy động và cho vay là hệ thống những
đơn vị, cơ quan chuyên môn của nhà nước, được thành lập theo quyết định của Chính phủ


Trang 4


- Đối tượng của tín dụng nhà nước là những tổ chức, cá nhân, các dự án đầu tư theo
các chương trình, mục tiêu, định hướng theo chủ trương của nhà nước nhằm chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.
- Hoạt động không vì mục đích lợi nhuận
- Về lãi suất huy động thường thấp nhất trên thị trường vốn vì nó có độ an toàn cao
nhất còn lãi suất cho vay là lãi suất ưu đãi,do nhà nước điều tiết phù hợp với yêu cầu, đặc
điểm, điều kiện cụ thể của đất nước và chủ trương khuyến khích đầu tư phát triển kinh tế xã hội của nhà nước trong từng thời kỳ.
Như vậy tín dụng nhà nước vừa có nội dung kinh tế vừa có nội dung xã hội và
chính trị đồng thời là công cụ tài chính hữu hiệu của Nhà nước nhằm thực hiện các mục
tiêu kinh tế, chính trị và xã hội.
3. Vai trò của tín dụng Nhà nước
3.1. Tín dụng Nhà nước là một công cụ sắc bén trong việc lành mạnh hoá nền tài
chính - tiền tệ quốc gia
Đối với lĩnh vực tài chính, tín dụng Nhà nước có tác dụng tích cực trong việc tạo
dựng và phân bổ nguồn vốn một cách hiệu quả cho các hoạt động đầu tư thuộc trách
nhiệm của tài chính quốc gia. Nếu việc sử dụng nguồn vốn được thực hiện không có hiệu
quả dưới hình thức cấp phát thì khả năng huy động nguồn vốn và can thiệp vào nền kinh
tế của Nhà nước rất hạn chế. Nếu huy động vốn bằng các hình thức tăng thuế, phí, lệ phí...
thì không những mục đích huy động nguồn vốn khó có thể đạt được, mà nền sản xuất có
thể sẽ bị bóp méo. Trong cả hai trường hợp, sự phát triển của nền tài chính quốc gia đều
bị đe doạ. Ngược lại, vấn đề lại được giải quyết một cách hiệu quả bằng cơ chế tín dụng.
Tính chất đòn bảy đi từ cơ chế sử dụng nguồn vốn hiệu quả tới hoạt động huy động vốn.
Trên thị trường, động cơ đầu tư vào tín dụng nhà nước cũng tăng lên do các nguy cơ về
lạm phát tiềm ẩn (hình thành do vấn đề chi tài chính quốc không hiệu quả, tiền tệ hoá
thâm hụt ngân sách...) không còn nữa. Như vậy, tính cưỡng chế trong hoạt động vay
mượn của Nhà nước trên thị trường không cần thiết nữa. Thực tế, với các công cụ nợ của

Nhà nước hiện nay như trái phiếu, tín phiếu... Nhà nước đã có thể tập trung một cách
nhanh chóng một khối lượng vốn theo nhu cầu với thời hạn dài và chi phí không cao. Khả
năng này sẽ giúp Nhà nước chủ động trong việc điều tiết vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế, kéo theo sự cải thiện tiềm lực tài chính quốc gia. Đối với lĩnh vực tiền tệ, vai trò của
tín dụng nhà nước cũng hết sức quan trọng. Việc xoá bỏ cơ chế tiền tệ hoá thâm hụt ngân
sách là nền tảng cho việc lành mạnh hoá khu vực tiền tệ - ngân hàng, góp phần duy trì sự
ổn định giá trị đồng nội tệ. Không dừng lại ở đó, cơ chế tín dụng nhà nước ra đời còn là
cơ sở để tách các hoạt động tín dụng mang tính kinh tế - xã hội khỏi hoạt động có tính
thương mại của khu vực trung gian tài chính, chuyển hoạt động kinh doanh của các tổ
chức trung gian tài chính sang cơ chế thị trường hoàn toàn. Việc tách bạch tín dụng chính
sách và tín dụng ngân hàng còn có tác dụng tích cực trong việc hạn chế rủi ro về tính
thanh khoản của ngân hàng thương mại.
3.2. Tín dụng nhà nước góp phần điều chỉnh cơ cấu kinh tế.
Trang 5


Mục tiêu đầu tiên được đặt ra đối với tín dụng nhà nước là thực hiện chức năng điều
tiết vĩ mô nề kinh tế - vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế hỗn hợp. Nếu như khủng
hoảng thừa, khủng hoảng thiếu, suy thoái kinh tế theo chu kỳ, phân hoá giàu nghèo... là
các hệ quả của cơ chế thị trường, thì đây chính là mục tiêu phải giải quyết của tín dụng
nhà nước. Để có thể giải quyết được những vấn đề này, tín dụng Nhà nước một mặt phải
tập trung vào những lĩnh vực, ngành nghề cần thiết cho phát triển kinh tế bền vững, nhằm
trực tiếp hoặc gián tiếp lôi kéo các tác nhân thị trường phát triển các lĩnh vực, ngành
nghề, điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo hướng mong muốn... Mặt khác, tín dụng nhà nước sẽ
tập trung vào những ngành nghề, lĩnh vực công nghệ mới, có tác dụng thúc đẩy tăng năng
suất lao động, tăng sản phẩm xã hội... nhằm cải thiện đời sống, rút ngắn khoảng cách với
các nước, cũng như không tụt hậu hoặc đi lệch xu hướng phát triển kinh tế thế giới, khu
vực.
3.3. Tín dụng nhà nước góp phần nâng cao hiệu quả đầu tư, xoá bao cấp về đầu


Nâng cao hiệu quả của hoạt động đầu tư là vấn đề tiên quyết đối với tín dụng Nhà
nước. Chỉ có hiệu quả của các dự án đầu tư tín dụng Nhà nước mới tạo nền tảng cho sự
phát triển của các hoạt động tín dụng nhà nước nói riêng, thị trường nợ của Chính phủ và
thị trường tài chính nói chung. Để đảm bảo tính hiệu quả của hoạt động đầu tư, các cơ
chế, chính sách quản lý tín dụng được Nhà nước đưa rất chặt chẽ nhằm kiểm tra, giám sát
trước và trong khi cho vay một cách nghiêm ngặt. Dưới các áp lực này, chủ đầu tư buộc
phải tăng cường công tác hạch toán kế toán, phải chứng minh và chịu sự giám sát chặt chẽ
của cơ quan quản lý nguồn vốn tín dụng nhà nước về khả năng tạo ra nguồn thu nhập cao
hơn chi phí đầu tư để không chỉ bù đắp được các khoản chi phí đã bỏ ra mà phải trả lãi
của khoản tín dụng.
3.4. Tín dụng nhà nước giúp các doanh nghiệp mở rộng đầu tư, phát triển sản
xuất kinh doanh
Cơ chế kinh tế thị trường luôn được tạo ra lệnh pha giữa nhu cầu và khả năng thanh
toán của các tổ chức, đơn vị kinh tế. Tín dụng ra đời như là một đòi hỏi tất yếu khách
quan để giải quyết sự lệch pha này và như vậy nó có tác dụng duy trì sự liên tục cũng như
khả năng mở rộng đầu tư, phát triển sản xuất của các đơn vị kinh tế. Đối với tín dụng nhà
nước, tác dụng mở rộng đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh thể hiện ở các khía cạnh.
Thứ nhất, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thuộc diện đầu tư tín dụng của
Nhà nước sẽ có động cơ mở rộng sản xuất kinh doanh dưới các hình thức đầu tư mới hoặc
đổi mới thiết bị công nghệ, tăng quy mô... thông qua việc trực tiếp nhận được các khoản
tín dụng của Nhà nước hoặc sự bảo lãnh, bảo hiểm tín dụng hay hỗ trợ lãi suất của Nhà
nước.
Thứ hai, Hoạt động đầu tư của Nhà nước sẽ lôi kéo các thành phần kinh tế trong
nền kinh tế mở rộng sản xuất kinh doanh thông qua việc tạo ra các cơ sở hạ tầng thiết yếu
cho sản xuất, hoặc phát triển một số khâu nào đó của chu trình sản xuất.Vấn đề có nghĩa
sâu rộng hơn nữa là sự phát triển của cơ chế tín dụng nhà nước đã tạo ra một thị trường tài
chính năng động, thực hiện tốt chức năng chu chuyển, điều hoà các nguồn tài chính trong
Trang 6



nền kinh tế - vấn đề thiết yếu đối với việc duy trì liên tục và mở rộng phát triển nền sản
xuất hàng hoá.
II. CÁC HÌNH THỨC SỬ DỤNG VỐN TÍN DỤNG
1. Tạm ứng ngân sách nhà nước
Ngân sách Nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước được dự toán và
thực hiện trong một khoảng thời gian nhất định do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
quyết định để đảm bảo thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước.
Tạm ứng ngân sách là việc cơ quan tài chính hoặc Kho bạc Nhà nước cho cơ quan,
đơn vị và ngân sách cấp dưới được tạm ứng ngân sách để thực hiện nhiệm vụ theo dự toán
ngân sách được giao.
Nguồn vốn của hệ thống Kho bạc Nhà nước được hình thành có tính chất tạm thời.
Vì vậy các Kho bạc Nhà nước tỉnh, thành được sử dụng các nguồn vốn này ứng cho địa
phương để giải quyết các nhu cầu chi cấp bách của Ngân sách địa phương trong những
thời điểm thu của ngân sách chưa tập trung đủ để chi. Kho bạc Nhà nước chỉ tạm ứng cho
Ngân sách Nhà nước ở các địa phương trong những trường hợp cần chi trả sau:
- Chi các khoản có tính chất thường xuyên: lương, phụ cấp, học bổng, sinh hoạt phí,
thương binh xã hội thuộc Ngân sách địa phương đài thọ.
- Chi các khoản không có tính chất thường xuyên nhưng đã được ghi trong kế hoạch
do Chính phủ giao và Uỷ ban nhân dân tỉnh phê duyệt, bao gồm: Chi đầu tư các công
trình kinh tế xã hội, các khoản chi cần thiết, cấp bách khác của Ngân sách địa phương.
Điều kiện tạm ứng ngân quỹ nhà nước cho ngân sách cấp tỉnh:
- Nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh hoặc công văn phê duyệt của Thường trực
Hội đồng nhân dân tỉnh trong trường hợp giữa hai kỳ họp Hội đồng nhân dân tỉnh về việc
tạm ứng ngân quỹ nhà nước cho dự án.
- Mức đề nghị tạm ứng phải nằm trong mức bội chi ngân sách cấp tỉnh được Quốc
hội quyết định hằng năm theo quy định của Luật ngân sách nhà nước và các văn bản
hướng dẫn Luật ngân sách nhà nước.
- Mức đề nghị tạm ứng phải nằm trong hạn mức vay còn lại của ngân sách cấp tỉnh
theo quy định tại Luật ngân sách nhà nước và các văn bản hướng dẫn Luật ngân sách nhà
nước.

- Ngân sách cấp tỉnh không có dư nợ tạm ứng ngân quỹ nhà nước quá hạn tại thời
điểm đề nghị tạm ứng và thời điểm rút vốn.
- Mức tạm ứng theo quy định của Nhà nước và thời gian tạm ứng là 1 tháng. Hết
thời gian tạm ứng nếu Sở Tài chính không chủ động trả nợ, Kho bạc Nhà nước tỉnh, thành
phố được quyền trích tồn quỹ của Ngân sách địa phương để thu hồi nợ. Mọi khoản tạm
ứng trong năm đều phải được thu hồi và quyết toán trong phạm vi năm ngân sách.
Mức tạm ứng ngân quỹ nhà nước cho ngân sách cấp tỉnh:
Trang 7


- Mức tạm ứng ngân quỹ nhà nước tối đa cho từng ngân sách cấp tỉnh được xác
định bằng chênh lệch giữa hạn mức dư nợ vay của ngân sách cấp tỉnh và tổng dư nợ vay
của ngân sách cấp tỉnh tại thời điểm đề nghị tạm ứng.
- Hạn mức dư nợ vay của ngân sách cấp tỉnh được xác định theo quy định tại
Khoản 6 Điều 7 Luật ngân sách nhà nước và các văn bản hướng dẫn Luật ngân sách nhà
nước.
- Tổng dư nợ vay của ngân sách cấp tỉnh tại thời điểm đề nghị tạm ứng bao gồm tất
cả các khoản vay của ngân sách cấp tỉnh, cụ thể: trái phiếu chính quyền địa phương, vay
lại từ nguồn vốn vay nước ngoài của Chính phủ, vay của các tổ chức tài chính, tín dụng
nhà nước theo các chương trình mục tiêu; tạm ứng ngân quỹ nhà nước và các khoản vay
trong nước khác theo quy định của pháp luật.
- Mức tạm ứng ngân quỹ nhà nước cụ thể cho từng ngân sách cấp tỉnh do Bộ
trưởng Bộ Tài chính quyết định.
Thời hạn tạm ứng ngân quỹ nhà nước: Thời hạn tạm ứng ngân quỹ nhà nước tối đa
cho ngân sách nhà nước (bao gồm ngân sách trung ương và ngân sách cấp tỉnh) là 12
tháng kể từ ngày Bộ trưởng Bộ Tài chính ký Quyết định phê duyệt tạm ứng ngân quỹ nhà
nước.
Thu hồi tạm ứng ngân quỹ nhà nước: Căn cứ thời hạn hoàn trả tạm ứng ngân quỹ
nhà nước quy định tại Quyết định của Bộ trưởng Bộ Tài chính phê duyệt tạm ứng ngân
quỹ nhà nước cho ngân sách cấp tỉnh, Ủy ban nhân dân tỉnh bố trí nguồn ngân sách hoàn

trả tạm ứng đầy đủ, đúng hạn.
Kho bạc Nhà nước tỉnh, thành phố có quyền đình chỉ việc tạm ứng tiền nếu Sở Tài
chính không đảm bảo hoàn trả đúng thời hạn quy định hoặc sử dụng vốn không theo đúng
mục đích, đối tượng đã ghi trong giấy đề nghị tạm ứng.
Nguyên tắc tạm ứng ngân quỹ nhà nước cho ngân sách cấp tỉnh:
- Việc tạm ứng ngân quỹ nhà nước cho ngân sách trung ương và ngân sách cấp tỉnh
phải được thực hiện một cách an toàn và hiệu quả; đảm bảo không ảnh hưởng đến khả
năng thanh toán, chi trả của Kho bạc Nhà nước.
- Việc tạm ứng ngân quỹ nhà nước cho ngân sách cấp tỉnh phải được cấp có thẩm
quyền quyết định và tuân thủ các quy định của Luật ngân sách nhà nước, các văn bản
hướng dẫn Luật ngân sách nhà nước và các văn bản có liên quan khác.
- Tạm ứng ngân quỹ nhà nước được thực hiện tại Kho bạc Nhà nước (trung ương)
và Kho bạc Nhà nước cấp tỉnh; Kho bạc Nhà nước cấp huyện không được tạm ứng ngân
quỹ nhà nước cho ngân sách địa phương cũng như bất kỳ đối tượng khác trái quy định.
- Mọi khoản tạm ứng ngân quỹ nhà nước cho ngân sách trung ương và ngân sách
cấp tỉnh phải được hoàn trả đầy đủ, đúng hạn, đúng quy định, trừ trường hợp được gia hạn
tạm ứng do Bộ trưởng Bộ Tài chính phê duyệt.
- Các khoản tạm ứng ngân quỹ nhà nước sử dụng không đúng mục đích đã được
phê duyệt sẽ không được tiếp tục rút vốn và bị thu hồi trước hạn.
Trang 8


2. Cho vay tài trợ và cho vay theo mục tiêu chỉ định của Chính phủ
Chi Ngân sách Nhà Nước cho đầu tư phát triển là một khoản chi quan trọng và
chiếm tỉ lệ đáng kể trong tổng chi tiêu của Ngân sách Nhà Nước. Vốn Ngân sách được
phân bổ, tập trung cho các công trình trọng điểm, các công trình xây dựng kết cấu hạ tầng
kinh tế xã hội, các cơ sở sản xuất kinh doanh trọng yếu phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại
hoá đất nước và các vùng còn nhiều khó khăn về phát triển kinh tế xã hội.
Ngoài ra, đứng trước yêu cầu phải sử dụng hết tiềm năng sức sản xuất của nền kinh
tế, Nhà Nước ưu tiên dành một số vốn nhất định để cho vay đầu tư qua nghiệp vụ tín dụng

Nhà Nước. Việc đầu tư này đòi hỏi đối tượng sử dụng vốn tín dụng Nhà Nước phải có khả
năng sử dụng được tài nguyên nhanh chóng, phải có các cơ sở sản xuất thực tế chưa sử
dụng hết năng lực sản xuất, có đội ngũ lao động với tay nghề cao hoặc có các tài nguyên
quý hiếm mà giá trị sản phẩm của nó có thể đem lại sự bù đắp nhanh chóng cho số vốn
được Nhà Nước đầu tư. Các hoạt động đầu tư phải đi đôi với các dự án có tiềm năng.
Dự án là căn cứ quan trọng để bỏ ra vốn đầu tư, xây dựng kế hoạch đầu tư, theo
dõi, đôn đốc và kiểm tra quá trình thực hiện đầu tư. Dự án là căn cứ để thuyết phục các tổ
chức tài chính đưa ra quyết địn tài trợ. Cơ quan chức năng của Nhà Nước phê duyệt và
cấp giấy phép đầu tư, đồng thời cũng là căn cứ để xử lý tranh chấp liên quan đến dự án.
Dự án còn được coi là công cụ quan trọng trong quản lý vốn, vật tư, lao động trong quá
trình thực hiện đầu tư. Vai trò của hoạt động cho vay vốn theo chỉ định của Chính
Phủ.Cho vay vốn thực hiện theo dự án chỉ định của Chính Phủ đóng vai trò rất quan trọng
trong việc quản lý vĩ mô, điều tiết nền kinh tế của Nhà Nước trong giai đoạn hiện nay. Vai
trò này được thể hiện rõ thông qua hiệu quả của dự án được Chính Phủ cho vay:
Thứ nhất, cho vay vốn thực hiện dự án theo chỉ định của Chính Phủ góp phần hỗ trợ
tích cực cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đảm bảo phát triển nhanh và bền vững của nền kinh tế. Việc chỉ định cho vay là một cách
để Nhà Nước tham gia quản lý và điều tiết nền kinh tế.
Thứ hai, cho vay vốn thực hiện dự án theo chỉ định của Chính Phủ nhằm động viên,
thúc đẩy các doanh nghiệp tích cực tìm kiếm thị trường, đổi mới công nghệ, nâng cao
năng lực sản xuất hàng hóa giảm bớt nhập siêu. Các dự án đầu tư lĩnh vực này đòi hỏi
công nghệ cao với quy mô lớn, thời gian thu hồi vốn dài, rủi ro lớn. Nếu không có sự hỗ
trợ của Nhà Nước thông qua việc chỉ định vay vốn thì sẽ rất khó khăn cho các doanh
nghiệp trong việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng thương mại.
Thứ ba, việc cho vay nhằm cung cấp vốn thực hiện các dự án ở các khu vực, ngành
khó khăn nhằm khai thác tài nguyên tại chỗ, giải quyết việc làm, ổn định kinh tế, chính trị
xã hội, tạo nên sự ổn định chung của đất nước và tạo cho sự phát triển bền vững. Trong
nền kinh tế luôn có một số đối tượng được coi là đặc biệt khó khăn, cần sự hỗ trợ ở mức
độ nhất định. Đó có thể là các dự án phát triển kinh tế, xây dựng cơ sở hạ tầng, thủy lợi,
giao thông ở vùng sâu vùng xa, các ngành sản xuất truyền thống để phát triển.

Cùng với mục tiêu trên, để thực hiện mục tiêu công bằng xã hội, Nhà nước còn áp
dụng chính sách cho các hộ dân vay vốn để phát triển sản xuất, giải quyết việc làm. Đối
tượng vay vốn là người nghèo, người chưa có việc làm, người thuộc diện xã hội phải ưu
Trang 9


đãi. Chính sách này có ý nghĩa chính trị to lớn, thể hiện trách nhiệm cuả Nhà Nước đối
với nhân dân. Mặ khác nó tác động và tạo động và tạo điều kiện để tầng lớp dân cư này
biết kinh doanh, sử dụng vốn có hiệu quả, không ỷ lại vào sự bao cấp của Nhà Nước. Nhà
Nước cho vay vốn với lãi suất ưu đãi, thời hạn cho vay dài, phù hợp với tiến trình thực
hiện dự án, thủ tục đơn giản. Đầu tư phát triển qua tín dụng Nhà Nước phải đảm bảo
nguyên tắc:
-Thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội và chính sách Tài chính Nhà nước; phát triển
sản xuất kinh doanh, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập…
-Bảo tồn và sinh lợi vốn – một nguyên tắc cơ bản của nghiệp vụ tín dụng, số vốn
cho vay phải được thu hồi, tái tạo vốn cho quá trình cho vay tiếp theo, đồng thời vốn thu
hồi phải bằng hoặc lớn hơn vốn cho vay.
3. Cho nước ngoài vay
Nguồn vốn của chính phủ cho nước ngoài vay được trích từ nguồn ngân sách nhà
nước. Cho vay của chính phủ bằng tín dụng nhà nước được thực hiện theo hai phương
thức sau đây:
-

Cho vay trực tiếp giữa hai nhà nước (song phương)

-

Cùng nhiều nước phố hợp cho nước khác vay (đa phương)

Các khoản vay chủ yếu được thực hiện dưới hình thức viện trợ phát triển chính thức

(official devolopment assistance). Đặc điểm của loại vốn này là mức ưu đãi về lãi suất,
thời hạn vay dài và khối lượng vay tương đối lơn. Với mục tiêu trợ giúp các nước đang
phát triển nó mang tính ưu đãi cao hơn bất kì nguồn tài trợ nào khác. Cho vay ra nước
ngoài của chính phủ ngoài tạo ra nguồn thu cho ngân sách nhà nước từ một số lợi tức cho
vay còn đem lại cho chính phủ chủ nợ những quyền lợi khác về chính trị, kinh tế, ngoại
giao.
Vay từ hỗ trợ phát triển chính thức thức (vay ODA) là khoản vay nhân danh Nhà
nước, Chính phủ Việt Nam từ nhà tài trợ là chính phủ nước ngoài, tổ chức tài trợ song
phương, tổ chức liên quốc gia hoặc tổ chức liên chính phủ có yếu tố không hoàn lại
(thành tố ưu đãi) đạt ít nhất 35% đối với khoản vay có ràng buộc 25% đối với khoản vay
không ràng buộc. (Khoản 13 Điều 3 Luật quản lý nợ công 2009). Theo cách hiểu chung
nhất, ODA là tất cả các khoản hỗ trợ không hoàn lại và các khoản tín dụng ưu đãi (cho
vay dài hạn và lãi suất thấp của các Chính phủ, các tổ chức thuộc hệ thống Liệp hợp quốc,
các tổ chức phi Chính phủ (NGO), các tổ chức tài chính quốc tế (IMF, ADB, WB...) giành
cho các nước nhận viện trợ. ODA được thực hiện thông qua việc cung cấp từ phía các nhà
tài trợ các khoản viện trợ không hoàn lại, vay ưu đãi về lãi suất và thời hạn thanh toán
(theo định nghĩa của OECD, nếu ODA là khoản vay ưu đãi thì yếu tố cho không phải đạt
25% trở lên). Về thực chất, ODA là sự chuyển giao một phần GNP từ bên ngoài vào một
quốc gia, do vậy ODA được coi là một nguồn lực từ bên ngoài Thực hiện chỉ thị của Thủ
tướng Chính phủ, căn cứ nhiệm vụ được giao, trong thời gian qua các Bộ, cơ quan và các
địa phương đã thực hiện được nhiều việc, góp phần cải thiện tình hình thực hiện ODA và
giải ngân.
III. THỰC TRẠNG
Trang 10


Vốn tín dụng do Nhà nước bảo lãnh, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước,
vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhà nước và các nguồn vốn khác do Nhà nước
quản lý. Đầu tư bằng nguồn vốn Nhà nước vào các chương trình, dự án có vai trò quan
trọng trong việc phát triển kinh tế, xã hội, tạo động lực thúc đẩy phát triển đất nước; góp

phần nâng cao vị thế chính trị và kinh tế của quốc gia trên trường quốc tế.
Thời gian qua, vốn đầu tư của Nhà nước đã tập trung cho đầu tư phát triển các hệ
thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật, kinh tế và xã hội. Đầu tư vào cơ sở hạ tầng đã ở mức cao
trong GDP, khoảng hơn 10%. Trong đó, đầu tư bằng vốn ngân sách nhà nước chiếm ¾
tổng đầu tư cơ sở hạ tầng. Điều này đã góp phần quan trọng trong việc tạo ra sự tăng
trưởng cao và ổn định về kinh tế trong nhiều năm qua; tạo ra những yếu tố và năng lực
sản xuất, dịch vụ to lớn của một số ngành quan trọng (hệ thống giao thông đường bộ quốc
gia; hệ thống cảng biển, cảng hàng không quốc gia; hệ thống giao thông và viễn thông
nông thôn; một số cơ sở đào tạo, nghiên cứu khoa học và công nghệ quan trọng của quốc
gia); duy trì và phát triển hệ thống các cơ sở khám chữa bệnh từ Trung ương đến địa
phương, bước đầu đáp ứng được một phần nhu cầu cơ bản của xã hội; tỷ lệ hộ nghèo đã
giảm nhanh chóng từ 15,5% năm 2006 xuống chỉ còn 9,45% năm 2010.
Tuy nhiên, hệ số ICOR (hệ số hiệu quả đầu tư theo hiệu suất vốn – sản lượng) tính
theo tích lũy tài sản gộp của Việt Nam đã tăng gấp đôi (từ mức 2,73 trong các năm 19901995 lên đến 5,4 trong các năm 2006-2010). Điều này cho thấy hiệu suất đầu tư chưa cao,
còn thất thoát, lãng phí, không tạo ra năng lực sản xuất. Mức chi ngân sách nhà nước ở
Việt Nam trong những năm gần đây lên mức khá cao, trên 30% giai đoạn 2005-2010,
trong khi các nước ở cùng mức độ phát triển trong khu vực (Indonesia, Philippin, Thái
Lan), chỉ có ở mức trên dưới 20% GDP. Tình trạng các dự án đầu tư chậm tiến độ vẫn còn
phổ biến. Còn không ít dự án đầu tư có hiệu quả thấp hoặc không có hiệu quả, không đáp
ứng được yêu cầu phát triển kinh tế và xã hội, cá biệt có những dự án, nội dung đầu tư
trùng lắp, chồng chéo, gây cản trở hoặc làm mất hiệu quả của các dự án đã được đầu tư
trước đó.
Một số Bộ, ngành, địa phương trong một số dự án cụ thể đã không chấp hành
nghiêm các quy định về quản lý đầu tư sử dụng vốn nhà nước, dẫn đến tình trạng phân bổ
vốn đầu tư dàn trải, nợ đọng, kéo dài tiến độ thực hiện, gây lãng phí, thất thoát trong đầu
tư. Một số các dự án đầu tư vi phạm quy định pháp luật về đầu tư. Kết quả thanh tra, kiểm
tra cho thấy các công trình, dự án đều có sai phạm trong khâu lập thủ tục đầu tư, thiết kế,
đấu thầu, sử dụng vốn có đầu tư sai mục đích, nghiệm thu, thanh toán khống, quyết toán
sai so với khối lượng thực tế đã thi công, đơn giá, định mức… gây thất thoát, lãng phí.
Việc xử lý các sai phạm trong quản lý đầu tư và xây dựng chưa kịp thời, nghiêm

minh. Việc quy trách nhiệm cho các đối tượng có liên quan trong quá trình đầu tư dự án
không rõ ràng, cụ thể, không đủ sức răn đe nên chưa có tác động tích cực trong việc hạn
chế, đẩy lùi tình trạng lãng phí, tham ô, thất thoát trong đầu tư, xây dựng. Vì vậy, đã làm
xói mòn lòng tin của người dân vào các cơ quan bảo vệ pháp luật trong lĩnh vực quản lý
đầu tư công.
Mặc dù đã phân cấp triệt để về quản lý đầu tư công cho các Bộ, ngành và cấp tỉnh,
song nguồn nhân lực ở các địa phương chưa được đào tạo, chuẩn bị cho việc phân cấp đầu
Trang 11


tư; năng lực của các Chủ đầu tư, Ban quản lý dự án, Tư vấn lập dự án, Tư vấn giám sát thi
công chất lượng công trình… không đáp ứng các điều kiện quy định của pháp luật hiện
hành.
IV. NGUYÊN NHÂN VÀ ĐỀ XUẤT
1. Nguyên nhân
Thực trạng trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có các nguyên nhân chủ
yếu sau:
Thứ nhất, do đầu tư phân tán, vốn ưu tiên được phân bổ vào quá nhiều dự án; các
dự án thường bị thiếu vốn và kéo dài tiến độ, làm tăng chi phí đầu tư và chậm đưa công
trình vào sử dụng; đầu tư phân tán, dàn trải dẫn đến dư thừa công suất, tỷ suất sử dụng
công trình không đạt như dự kiến, chi phí vận hành không giảm; đầu tư thiếu đồng bộ,
thiếu quy hoạch, thiếu kế hoạch chi tiết, đầu tư các dự án không cần thiết dẫn tới công
trình cụ thể hoàn thành mà không đưa vào sử dụng được hoặc công trình dở dang, không
hoàn thành được, lãng phí vốn đầu tư.
Thứ hai, quản lý và giám sát đầu tư còn yếu kém làm thất thoát vốn đầu tư và chưa
đảm bảo chất lượng và hiệu quả công trình như dự kiến; phân cấp quyết định và sử dụng
vốn đầu tư chưa kèm với giám sát, kiểm soát chất lượng và hiệu quả đầu tư.
Thứ ba, cơ chế khuyến khích, ưu đãi đầu tư và quản lý đầu tư chưa hợp lý, còn dàn
trải, chưa có mục tiêu và điều kiện ràng buộc rõ ràng, cụ thể; chưa hướng được đầu tư vào
các ngành công nghệ cao, ngành có lợi thế cạnh tranh, có tác động và đóng góp lớn cho

tăng trưởng kinh tế.
Thứ tư, do doanh nghiệp nhà nước còn được bao cấp về một số nhân tố sản xuất,
nhất là đất đai, tín dụng; giá đất và tài sản cố định trong nhiều trường hợp chưa tính đúng
và tính đủ nên chưa tính đúng, tính đủ chi phí kinh doanh. Một số doanh nghiệp nhà nước
vẫn là một công ty đóng, chưa thể chủ động huy động vốn chủ sở hữu từ các nhà đầu tư
bên ngoài. Vì vậy, doanh nghiệp nhà nước hiện vẫn dựa nhiều vào vốn tín dụng và tài
nguyên thiên nhiên để đầu tư mở rộng quy mô kinh doanh. Hệ quả là đòn bẩy tài chính
luôn cao và có thể còn gia tăng; không thể chủ động trong đầu tư phát triển; rủi ro và
nguy cơ bất ổn kinh doanh là rất lớn. Quản trị ở các công ty sở hữu nhà nước còn yếu
kém; quyền chủ sở hữu nhà nước chưa được thực hiện đầy đủ, kém hiệu lực, ít hiệu quả;
cơ chế "hành chính chủ quản" phân tán, thiếu minh bạch, thiếu trách nhiệm giải trình.
Thứ năm, tình trạng thiếu trách nhiệm, không sâu sát thực tế, chỉ quan tâm đến lợi
ích cục bộ, lợi ích nhóm, bệnh thành tích theo nhiệm kỳ, thiếu tuân thủ các quy định về
chuẩn bị đầu tư, thẩm quyền quyết định đầu tư, vi phạm quy hoạch đã được phê duyệt…
là những nguyên nhân dẫn đến những quyết định đầu tư chưa đúng. Tăng GDP chạy theo
số lượng, tìm mọi cách tăng lượng vốn đầu tư, trước hết là đầu tư công diễn ra phổ biến
trong tổ chức thực hiện đầu tư. Bố trí đầu tư vượt quá khả năng cho phép, phân bổ đầu tư
cho cả những dự án chưa đủ thủ tục, những dự án chưa cần thiết, bất chấp hiệu quả làm
phát sinh đầu tư dàn trải, nợ đọng lớn. Trong nhiều dự án, chủ đầu tư quản lý đầu tư xây
Trang 12


dựng tách rời người vận hành công trình sau khi công trình được đưa vào sử dụng nên chủ
đầu tư thường buông lỏng trách nhiệm kiểm soát nhà thầu; có trường hợp chủ đầu tư, nhà
thầu câu kết với nhau để thực hiện các hành vi sai trái.
Thứ sáu, năng lực, trình độ chuyên môn của cán bộ, công chức chưa ngang tầm, yếu
kém trong công tác chỉ đạo, điều hành gây thất thoát, lãng phí trong quá trình triển khai
thực hiện đầu tư. Ý thức chấp hành pháp luật, kỷ cương, phẩm chất, trình độ cán bộ, công
tác chỉ đạo, điều hành, quản lý dự án đầu tư xây dựng còn kém. Lãnh đạo không ít bộ,
ngành, địa phương chưa ý thức đầy đủ về những hạn chế, yếu kém của mình trong công

tác đầu tư xây dựng. Báo cáo của các bộ, địa phương về đầu tư vẫn nặng về thành tích,
chưa thẳng thắn nhìn nhận hết mức độ nghiêm trọng về các sai phạm, thất thoát, lãng phí
trong đầu tư xây dựng cũng như chưa làm rõ trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân.
Thứ bảy, công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm toán chưa thường xuyên, liên tục, công
tác giám sát, đánh giá đầu tư chưa được coi trọng. Công tác giám sát nội bộ hiệu quả thấp.
Hầu như rất ít vụ tham nhũng gây thất thoát, lãng phí được phát hiện thông qua giám sát
nội bộ hoặc giám sát của đại diện chủ sở hữu hoặc giám sát của cơ quan quản lý nhà
nước.
Thứ tám, tư duy ỷ lại vào đầu tư của ngân sách nhà nước còn nặng nề. Các bộ, địa
phương ít chủ động, sáng tạo trong việc huy động các nguồn vốn khác như đầu tư nước
ngoài, đầu tư tư nhân để tham gia đầu tư phát triển các công trình kết cấu hạ tầng. Khi vốn
ngân sách không đáp ứng được tiến độ thi công, nhất là trong điều kiện giá xây dựng đang
tăng cao như hiện nay, thì việc huy động dự án vào sản xuất, kinh doanh bị chậm, không
phát huy được hết công suất.
Thứ chín, việc hoạch định chính sách và ban hành các văn bản pháp luật chưa đáp
ứng được yêu cầu thực tế. Trong quá trình xây dựng chính sách, pháp luật, việc lấy ý kiến
của các đối tượng thuộc sự điều chỉnh của chính sách, pháp luật còn bị động. Hệ thống
các văn bản dưới luật liên quan đến hoạt động đầu tư (đất đai, xây dựng, thuế…) đã gây
trở ngại cho việc thực hiện đầu tư theo hướng đơn giản hóa. Hiện tượng phân tán, chồng
chéo, trùng lắp về thủ tục hành chính giữa các cơ quan có thẩm quyền giải quyết các thủ
tục hành chính về đầu tư vẫn chưa được giải quyết kịp thời, gây trở ngại, đẩy chi phí đầu
tư lên cao, làm môi trường đầu tư kinh doanh của Việt Nam kém tính hấp dẫn, cạnh tranh.
2. Đề xuất
Ổn định môi trường KT –XH và hoàn thiện hệ thống pháp luật:
+ Tiếp tục xây dựng đồng bộ và hoàn thiện các loại thị trường đi đôi với xây dựng
khuôn khổ pháp lý về thể chế, để thị trường hoạt động năng động, có hiệu quả, có kỷ
cương trong môi trường cạnh tranh lành mạnh, công khai, minh bạch, hạn chế và kiểm
soát độc quyền kinh doanh.
+ Nhà nước cần tập trung làm tốt chức năng hoạch định chiến lược, quy hoạch và
kế hoạch định hướng phát triển; đổi mới thể chế quản lý, cải thiện môi trường đầu tư, kinh

doanh; điều tiết thu nhập hợp lý; xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ.
+ Tăng cường kiểm tra giám sát thực hiện; giảm mạnh sự can thiệp bằng biện pháp
hành chính vào hoạt động sản xuất, kinh doanh. Đơn giản hóa các thủ tục hành chính;
Trang 13


công khai hóa và thực hiện đúng trách nhiệm và quyền hạn của các cơ quan nhà nước
trong quan hệ với doanh nghiệp và nhân dân.
+ Tiếp tục rà soát, hoàn thiện cơ chế, chính sách và các quy chế nghiệp vụ về tín
dụng, đầu từ, bảo đảm tiền vay, ngoại hối, huy động vốn, kế toán và thanh toán,…; nâng
cao tính tự chịu trách nhiệm của từng bộ phận nghiệp vụ, từng cá nhân và người đứng đầu
các đơn vị, tổ chức.
+ Đề xuất xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật và văn bản hướng dẫn có liên
quan để tăng cường tính pháp lý, tạo sự đồng bộ, nhất quán và hoàn chỉnh của hệ thống
chính sách và pháp luật về tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước.
+ Tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước được hoạch định đảm bảo bình đẳng
giữa các thành phần kinh tế; hỗ trợ có hiệu quả phục vụ mục tiêu tăng trưởng, công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; đa dạng hóa các hình thức hỗ trợ để đáp ứng nhu cầu
đa dạng hóa của các nhà đầu tư, chuyển dần từ ưu đãi về lãi suất sang ưu đãi về mức hỗ
trợ, thời gian hỗ trợ.
Hoàn thiện chính sách tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước theo hướng minh
bạch hóa, nâng cao tính tự chủ và chịu trách nhiệm.
+ Về đối tượng hỗ trợ: Cần thể hiện một cách rõ ràng và kiên định các định hướng
chiến lược phát triển Kinh tế – Xã hội theo ngành, vùng lãnh thổ; danh mục các đối tượng
phải đảm bảo tính ổn định tương đối phù hợp với kế hoạch phát triển Kinh tế – Xã hội
theo chu kỳ 5 năm. Theo đó, các đối tượng cần tập trung theo các lĩnh vực công nghiệp
trọng điểm, có lợi thế so sánh của quốc gia gắn kết chặt chẽ, phù hợp và phân biệt theo
từng vùng lãnh thổ.
+ Về lãi suất cho vay: Việc quyết định lãi suất cần do chính cơ quan cho vay quyết
định trên cơ sở đánh giá mức độ rủi ro của dự án.

+ Về huy động vốn: Cần trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho Ngân hàng phát
triển Việt Nam trong việc quyết định và lãi suất huy động theo kế hoạch tổng thể hàng
năm (bao gồm cả việc huy động nội tệ và ngoại tệ) nhằm đảm bảo tính năng động, huy
động đủ vốn đáp ứng nhu càu đầu tư phát triển của đất nước. Sự hỗ trợ của Nhà nước là
việc đảm bảo khả năng thanh toán cho Ngân hàng phát triển Việt Nam và bảo lãnh cho
các khoản huy động vốn của Ngân hàng phát triển Việt Nam.
+ Về trích dự phòng rủi ro và xử lý rủi ro: Trao quyền chủ động cho Ngân hàng phát
triển Việt Nam trong việc trích lập dự phòng rủi ro và xử lý rủi ro, phù hợp với thông lệ
hoạt động ngân hàng trong nước cũng như quốc tế.
+ Về các hình thức hỗ trợ: cần đa dạng hóa.
+ Đồng thời, xây dựng cơ chế bắt buộc công khai hóa kết quả hoạt động. Đơn giản
hóa và công khai quy trình cho vay. Rà soát loại bỏ một số thủ tục không cần thiết, hoàn
thiện quy trình theo hướng đơn giản dễ hiểu và dễ thực hiện; quy định cụ thể trình tự và
thời gian thực hiện các bước của quy trình vay vốm. Khi quy trình thay đổi, cần có sự tập
huấn cho Chi nhánh về việc vận dụng quy trình mới ban hành; công khai quy trình cho
Trang 14


vay và phải phổ biến cho các khách hàng biết khi quy trình thay đổi; đồng thời tổ chức
cung cấp các dịch vụ hỗ trợ cho khách hàng trong việc vay vốn.
Nâng cao năng lực quản trị rủi ro
+ Chuẩn hóa các quy trình nghiệp vụ tín dụng:
Công tác thẩm định cần được thay đổi một cách căn bản trên cơ sở việc quản lý tín
dụng theo chủ đầu tư/doanh nghiệp/khách vay. Hạn chế phân cấp để giảm thiểu rủi ro về
cơ cấu tín dụng, giảm sức ép từ chính quyền địa phương; xây dựng các cẩm nang nghiệp
vụ. Xây dựng hệ thi61ng xếp hạng tín dụng, cải tiến phương pháp phân loại nợ.
Hiện đại hóa quy trình thẩm định dự án, ứng dụng phần mềm phục vụ cho công tác
thẩm định, phân tích tài chính, truy cập thông tin, triển khai hệ thống này đến các cấp
quản lý tín dụng cần thiết. Bố trí những cán bộ có trình độ, kinh nghiệm và có đạo đức
trong việc thẩm định dự án.

+ Trích lập dự phòng rủi ro tín dụng đầy đủ, đúng thông lệ trong nước và quốc tế.
Xây dựng hệ thống kiểm soát rủi ro.
+ Hoàn thiện chế độ kế toán phù hợp với thông lệ chung của ngân hàng, phù hợp
với các chuẩn mực kế toán và theo hướng dẫn của ủy ban Basel về giám sát hoạt động
Ngân hàng.
+ Quản lý nguồn vốn tập trung và xây dựng chiến lược huy động vốn.
+ Thực hiện tái cấu nợ trong tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước nhằm lành
mạnh hóa tín dụng, tăng độ tín nhiệm để huy động vốn, phù hợp với xu hướng cải cách hệ
thống tài chính ngàn hàng Việt Nam.
+ Xây dựng quan hệ hợp tác, phối hợp chặt chẽ với các ngân hàng trong và ngoài
nước.
+ Từng bước đa dạng hóa nghiệp vụ: bảo lãnh, bảo hiểm tín dụng, cho thuê tài
chính, hỗ trợ trong huy động vốn của doanh nghiệp qua phát hành trái phiếu.
+ Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng và quản lý cán bộ
+ Hiện đại hóa trên cơ sở ứng dụng công nghệ thông tin.
+ Hoàn thiện tổ chức bộ máy quản trị nội bộ: sắp xếp các phòng, ban theo hướng
chuyên môn hóa, thành lập Ủy ban ALCO, Hội đồng tín dụng.
Xây dựng chiến lược phát triển dài hạn
Mục tiêu chiến lược tổng quát là: vững mạnh về tổ chức, dồi dào về tài chính, hiện
đại về công nghệ, văn minh và đa dạng về dịch vụ để phục vụ đắc lực hơn cho thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế và xuất khẩu.
Hoàn thiện mô hình tổ chức hoạt động
Nhiệm vụ và phạm vi hoạt động được quy định rõ trong Điều lệ hoặc các quy định
liên quan. “Tổ chức phi lợi nhuận” không có nghĩa là “Tổ chức làm ăn thua lỗ”.
Trang 15


PHẦN KẾT LUẬN
Tín dụng nhà nước là hình thức tín dụng không thể thiếu trong hệ thống tín dụng
quốc dân do vai trò to lớn mà nó đảm nhiệm. Trước hết, tín dụng nhà nước là nguồn bù

đắp thiếu hụt ngân sách quan trọng. Đây là chức năng và vai trò quan trọng nhất của tín
dụng nhà nước. Việc bù đắp thiếu hụt ngân sách được thể hiện qua hai khía cạnh: (1) Tín
dụng nhà nước bù đắp các khoản chi tiêu dùng thường xuyên và không tham gia vào chu
trình tái sản xuất của nền kinh tế, (2) Tín dụng nhà nước được sử dụng tích cực hơn để bù
đắp những khoản chi cho đầu tư phát triển kinh tế, tăng thêm nguồn lực tài chính cho nhà
nước để thực thi các chính sách quản lý vĩ mô nền kinh tế. Thứ hai, tín dụng nhà nước tạo
điều kiện phát triển thương mại, hợp tác quốc tế.Thứ ba, tín dụng nhà nước tạo điều kiện
để phát triển tín dụng ngân hàng, vì các giấy tờ có giá của tín dụng nhà nước là một loại
đối tượng quan trọng để chiết khấu, cầm cố, tái chiết khấu, tái cầm cố tại ngân hàng.
Nhìn chung, tín dụng nhà nước là loại tín dụng tín chấp cả về phía nhà nước đi vay
và cho vay. Nhà nước dùng uy tín của mình để đảm bảo việc trả nợ đúng hạn số tiền đã
vay. Tuy vậy, nhà nước phải tính toán kỹ nhu cầu vay, có biện pháp sử dụng có hiệu quả
vốn vay nhằm tạo ra cơ sở tài chính đáng tin cậy cho việc hoàn trả nợ trong nước và đặc
biệt là nợ nước ngoài. Nếu không, tình trạng vỡ nợ có thể xảy ra và uy tín của nhà nước sẽ
bị mất đi.


Trang 16


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật Ngân sách Nhà nước 2015
2. trình lý luận chung về tài chính công
3. Dự thảo Thông tư Số / 2016/TT-BTC Quy định tạm ứng ngân quỹ Nhà nước
cho Ngân sách nhà nước
4. />5. />6. />7. />8. />
Trang 17




×