Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

đề cương ôn tập lịch sử tư tưởng việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (202.07 KB, 37 trang )

Chương 1. Nhập môn lịch sử tư tưởng Việt Nam
1. Điều kiện hình thành, phát triển và những đặc điểm của lịch sử tư tưởng
Việt Nam
a. Điều kiện hình thành và phát triển của lịch sử tư tưởng triết Việt Nam
-- Vị trí địa lý: thuận lợi cho sự giao lưu kinh tế, chính trị, văn hóa giữa Việt Nam
với Trung Quốc và Ấn Độ.
- Về kinh tế: Việt Nam là nước nông nghiệp lúa nước – phương thức kinh tế này
chi phối sự hình thành nhiều nét đặc thù về văn hóa truyền thống Việt Nam.
- Lịch sử Việt Nam rất khốc liệt và luôn phải đương đầu với các thế lực xâm lược
lớn mạnh hơn mình gấp bội.
b. Những đặc điểm chủ yếu của lịch sử tư tưởng Việt Nam
- Đặc điểm của quá trình hình thành và phát triển các tư tưởng Việt Nam
+ Quá trình phát triển song trùng, hợp nhất giữa hai xu hướng tự thân bản địa và xu
hướng tiếp biến các tư tưởng triết học đến từ bên ngoài
+ Nhiều quan điểm triết học ngoại lai, sau khi đã được bản địa hóa đã trở thành
nhân tố hữu cơ của tư duy triết học, quan điểm triết học của người Việt Nam.
- Đặc điểm về nội dung tư tưởng Việt Nam
- Tư tưởng yêu nước trong lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam
+ Tư tưởng yêu nước không chỉ là tư tưởng chính trị mà còn là tư tưởng đạo đức,
tư tưởng nhân văn trở thành một nội dung của lịch sử tư tưởng triết học VN
+ CN yêu nước VN là một hệ thống các quan niệm ở chiều sâu triết học về Quốc
gia dân tộc và Độc lập dân tộc; về nguồn gốc, động lực của chiến tranh cứu nước
và giữ nước (nổi lên vai trò của dân).
+ Hầu như toàn bộ ý thức hệ và chiều sâu tầm triết lý VN đều xoay quanh tư tưởng
cố kết cộng đồng và độc lập, chủ quyền quốc gia, dân tộc.
- Đặc điểm về hình thức thể hiện các tư tưởng triết học Việt Nam
+ Ở VN, ngoài các trước tác của các nhà tư tưởng (số lượng không nhiều) còn
được thể hiện qua nhiều hình thức như văn học, sử học và các phong trào dân tộc.
+ Văn, triết, sử bất phân là một đặc thù của lịch sử tư tưởng dân tộc (văn dĩ tải đạo
– văn là để chuyên chở đạo, là phương tiện truyền bá đạo; sử là lĩnh vực dùng sự
kiện để chứng minh cho đạo)


2. Đối tượng nghiên cứu của lịch sử tư tưởng Việt Nam
- Nghiên cứu lịch sử tư tưởng triết học:
+Tư tưởng triết học Phật giáo trong lịch sử DT (Phạm trù trung tâm tư tưởng triết
học Việt Nam là phạm trù Từ bi...Sự xuất hiện của thiền phái Trúc Lâm Yên tử ...)
+Tư tưởng triết học Nho giáo trong lịch sử tư tưởng Việt Nam (Nho giáo vào VN
đã được bản địa hóa...)
- Quan niệm về đạo làm người trong lịch sử tư tưởng Việt Nam...
- Lịch sử những tư tưởng có liên quan mật thiết với tư tưởng triết học như tư tưởng
chính trị - xã hội, tư tưởng văn học, sử học


3. Phương pháp nghiên cứu lịch sử tư tưởng Việt Nam
- Phương pháp của triết học Mác – Lênin (phương pháp DVBC và DVLS)
- Phương pháp nghiên cứu của lịch sử triết học gắn với các nguyên tắc: phân kỳ
thời đại, khách quan, toàn diện, phát triển, tính kế thừa lịch sử, tính lịch sử nghiêm
khắc (Hê ghen), nguyên tắc tiếp cận có phê phán
- Phương pháp cơ bản, cụ thể: Lịch sử và Lôgic, so sánh và đối chiếu, trừu tượng
hóa và khát quát hóa
Chương 2: Tư tưởng Việt Nam thời kỳ Hùng Vương
I. Điều kiện địa lý tự nhiên, kinh tế - xã hội và văn hóa ảnh hưởng tới sự hình
thành tư tưởng của người Việt thời kỳ Hùng Vương
1. Điều kiện địa lý tự nhiên
- Cương vực lãnh thổ
- Điều kiện địa lý tự nhiên
- Nông nghiệp lúa nước
2. Thiết chế chính trị và văn hóa xã hội
- Thiết chế chính trị sơ khai: Nhà nước Văn lang khoảng thế kỷ VII tcn trên cơ
sở nền văn minh sông Hồng
- Đây là nhà nước sơ khai của công xã -bộ lạc…
- Khái niệm quyền lực nhà nước chỉ có tính chất…

- XH chưa có sự phân hóa GC sâu sắc…
- Văn hóa xã hội: Kỹ thuật luyện đồng thau (trống đồng, mũi tên đồng-nỏ liên châu
của Cao Lỗ…); văn hóa: tục xăm mình (để phân biệt mình với các loài vật), văn
học dân gian (chưa có chữ viết mặc dù có thể có những dạng ký tự sơ khai biểu đạt
một số biểu tượng nào đó)
II. Nội dung tư tưởng của người Việt thời kỳ Hùng Vương
1. Những biểu hiện của tư duy tiền triết học
- Tư duy của người tiền sử ở VN: tin vào thế giới bên kia mà con người tiếp tục tồn
tại sống và lao động; nhận thức về tình nhịp điệu của thiên nhiên; tôn thờ sức mạnh
của tự nhiên…
- Những biểu hiện của tư duy tiền triết học thời Hùng Vương:
+ TGQ huyền thoại: giải thích hoang đường về sự hình thành của thế giới về nguồn
gốc của loài người; quan niệm về bốn thế giới: TG trên trời, TG trần gian, TG dưới
đất, TG dưới nước
+ Tư duy lưỡng phân, lưỡng hợp: thế giớ là sự thống nhất, sự hợp lại của hai cái
đối lập…
+ NSQ: lối sống hài hòa, dung hợp, chấp nhận mọi yếu tố trái ngược nhau cùng tồn
tại

không loại trừ nhau nhằm đạt tới sự cân bằng…
2. Ý thức cộng đồng quốc gia buổi đầu dựng nước


- Ý thức về sự tồn tại của cộng đồng: Vấn đề tồn tại của cộng đồng được đặt ra
trong cuộc đấu tranh với thiên nhiên (Sơn tinh Thủy tinh…)
- Ý thức về cội nguồn chung của cộng đồng và cố kết cộng đồng để cùng nhau tồn
tại.
- Ý thức về quốc gia, dân tộc bước đầu hình thành qua việc hợp nhất hai vương
quốc Văn Lang và Âu Việt thành Âu Lạc đáp ứng yêu cầu XD và bảo vệ TQ lúc
bấy giờ là một giải pháp tối ưu để tập hợp lực lượng, tạo lập liên minh chính trị

trước hiểm họa ngoại xâm…
Chương 3: Tư tưởng Việt Nam thời kỳ Bắc thuộc (Từ cuối thế kỷ II TCN –
Nửa đầu thế kỷ X)
I. Bối cảnh lịch sử và khuynh hướng phát triển của tư tưởng Việt Nam thời kỳ
Bắc thuộc
1. Bối cảnh lịch sử
- Năm 179 TCN, Triệu Đà vua nước Nam Việt xâm chiếm Âu Lạc…
- Năm 111 TCN, nhà Hàn chiếm nước Nam Việt…
- Lịch sử Âu Lạc từ độc lập tự do trở thành nô lệ và phụ thuộc và trở thành châu
quận của đế chế phương Bắc…
- Mâu thẫn dân tộc và thế lực ngoại xâm xuất hiện, nhưng diễn biến khi gay gắt khi
hòa hoãn, lúc bình ổn tạm thời, lúc bùng nổ dữ dội…
2. Những tư tưởng triết học, chính trị xã hội cơ bản và cuộc đấu tranh trong
hội nhập giữa các nền văn hóa
- Xuất hiện hai xu hướng Hán hóa và chống Hán hóa giữ vững bản sắc dân tộc:
+ Hán hóa về chính trị, tư tưởng văn hóa, lối sống: mô hình chính trị theo phương
Bắc; các học thuyết chính trị của phương bắc được truyền bá; văn hóa, lối sống ít
nhiều đều bị Hán hóa...
+ Xu hướng chống Hán hóa biểu hiện ở cuộc đấu tranh giành tự trị, tự chủ và độc
lập, ở cuộc đấu tranh bảo tồn văn hóa, lối sống dân tộc, bản địa mà tiêu biểu là sự
bảo tồn của văn hóa làng xã ...
- Sự du nhập của tam giáo (Nho, Phật, Lão) và sự tiếp biến văn hóa:
+ Phật giáo vào Việt Nam rất sớm (đầu công nguyên, Luy Lâu là trung tâm phật
giáo lớn) và đồng hành cùng lịch sử DT.
+Lão giáo vào VN chủ yếu không phải ở tư tưởng triết học mà ở khía cạnh đạo
giáo (bùa chú, tu tiên, tìm thuốc trường sinh…)
+ Nho giáo, trong nửa đầu thời kỳ Bắc thuộc vào Việt Nam rất khó khăn... Giai
đoạn nửa sau của thời kỳ Bắc thuộc, do kết cấu XH dần dần biến đổi theo hướng
Hán hóa và nhất là do nhu cầu giành lại và xây dựng đất nước độc lập tự chủ, Nho
giáo đã thâm nhập vào XH VIỆT NAM khá mạnh mẽ.

II. Một số nội dung tư tưởng cơ bản
1. Thế giới quan và nhân sinh quan người Việt thời kỳ Bắc thuộc
Thế giới quan:


- TGQ người Việt bắt đầu có sự chuyển biến. Tuy nhiên TGQ dựa trên bốn TG
nguyên thủy của người Việt trước đó vẫn tồn tại, nhưng được mở rộng và nâng
cao…
- Phương thức tư duy của người Việt cũng có sự chuyển biến. Từ tư duy lưỡng
phân, dung hòa, dung hợp trước đó chuyển thành một lối tư duy mềm dẻo uyển
chuyển, giàu tính thực tiễn; những giá trị nào mâu thuẫn, xung đột với phong tục
tập quán, lề thói của người Việt đều bị đề kháng…
Nhân sinh quan:
- Đáng chú ý là NSQ Phật giáo với sự chấp nhận sự đa dạng về dân tộc, sự khoan
dung tôn giáo, với luận thuyết về khổ và cứu khổ đã nhanh chóng đi vào lối sống
và tâm hồn Việt, đã hòa nhập vào dân gian đi vào thực thể tinh thần cộng đồng
Việt. NSQ người Việt trở nên phong phú, đa dang với sự xuất hiện nhiều khái niệm
ngoại sinh đã ít nhiều được bản địa hóa…
- Trong thời kỳ Bắc thuộc, TGQ và NSQ người Việt dần dần hình thành hai xu
hướng vận động: xu hướng Đông Á (Hán hóa) gắn với tầng lớp trí thức quan lại;
xu hướng Nam á (Phật giáo ) thuộc về tầng lớp bình dân…
2. Ý thức độc lập, tự chủ thời kỳ Bắc thuộc
- Sau thòi kỳ đầu đấu tranh đòi tự trị, các thế hệ thủ lĩnh người Việt dần dần từ bỏ
con đường hòa bình thỏa hiệp đã không ngừng nổi dậy để giành lại quyền tự chủ.
- Ý thức cộng đồng đã dần dần phát triển thành tinh thần yêu nước nồng nàn, thành
ý thức quốc gia dân tộc tự chủ.
- Ý thức tôn trọng thủ lĩnh dần dần phát triển thành lòng trung thành với vị quân
vương đại diện cho lợi ích dân tộc.
- Ý thức độc lập tự chủ phát triển thành các chiến lược đấu tranh giành độc lập và
những dự án xây dựng đất nước theo mô hình Hán ngang tầm với kẻ thù phương

Bắc.
3. Tư tưởng triết học của các nho sĩ và các sư tăng ở Việt Nam
a. Tư tưởng triết học của các Nho sĩ ở Việt Nam
- Nho học truyền vào VN khởi đầu từ thế kỷ I sau công nguyên, nhưng phải đến
cuối thế kỷ thứ II đầu thế kỷ thứ III mới được tiến hành có quy mô …
- Truyền bá Nho học là chủ trương đồng hóa của phương Bắc. Người Việt học Nho
phần nhiều để mở mang tri thức để làm việc để học hỏi, để tiếp biến văn hóa.
- Các tư liệu thành văn của các Nho sĩ người Việt thời Bắc thuộc đều đã thất
truyền, nhưng họ không phải là thành phần xã hội quá nhỏ và không phải là một
khối đồng nhất mà ở họ có nhiều tư tưởng khác nhau.
- Lớp nhà Nho VN đầu là Trương Trọng ở thế kỷ I, Lý Cầm, Lý Tiến, Bốc Long…
ở thế kỷ II. Họ đấu tranh cho sự thật, cho sự công bằng xã hội, cho quyền bình
đẳng của Nho sĩ Giao chỉ
- Kiến thức nho học đã trở thành một công cụ đấu tranh cho quyền bình đẳng của
người Việt với người Hán


- Nho sĩ ở Giao chỉ nổi tiếng nhất là Sĩ Nhiếp (sử gia PK suy tôn Sĩ Nhiếp là Nam
giao học tổ). Tư tưởng nổi bật của Sĩ Nhiếp là dựa theo Thi, Thư để xây dựng đạo
trị nước nhằm an dân và ổn định xã hội.
- Thời Bắc thuộc còn xuất hiện một số nhà Nho thể hiện tinh thần yêu nước và ý
thức dân tộc mà tiêu biểu nhất là Lý Bí và Tinh Thiều. Tư tưởng của hai ông là vận
dụng Nho học Trung hoa để phục vụ cho cuộc đấu tranh giành độc lập, tự chủ và
xây dựng chính quyền và cai trị đất nước.
- Nho sĩ tiêu biểu cho những người có học vị và trình độ tư duy lý luận cao là
Khương Công Phụ (Thanh hóa)
+Tư tưởng nhìn sự vật trong mối liên hệ, trong sự vận động, trong sự đối chiếu với
lịch sử với hiện tại và quá khứ để nắm bắt hướng tất yếu sẽ xảy ra và phát hiện
bản chất của vấn đề.
+Nêu tư tưởng về Đạo, Phận, và lập pháp trong trị nước

+ Đạo theo ông có hai phương diện: một là giáo dục nghĩa, lễ, liêm, sỉ; hai là
chăm lo đến đời sống vật chất của nhân dân
+ Phận là chức phận, phận sự nhất là của Vua, quan và tướng lĩnh nơi biên ải,
nhưng vai trò quyết định thuộc về nhà vua
+ Lập pháp phải là bước khởi đầu của sự chế định sự việc, phải luật hóa mọi công
việc của triều đình…
b. Tư tưởng triết học của các sư tăng ở Việt Nam
- Phật giáo truyền vào VN khá sớm, khoảng đầu thế kỷ I sau công nguyên với
trung tâm Luy Lâu ở Giao chỉ.
- Phật giáo vào VN phải ít nhiều cải biến để thích nghi với tín ngưỡng, tập tục của
người bản địa…
- Một số sư tăng tiêu biểu:
+ Tư tưởng của Mâu tử (Mâu Bác thời Đông Hán – sang Giao chỉ và học phật ở
giao chỉ vào cuối thế kỷ thứ II)
+ Ông vốn là môn đệ của Nho và Lão, có khuynh hướng lấy lý thuyết của Lão tử
để giải thích Phật giáo, lấy tục lệ của Nho để chứng minh Phật giống Nho, không
coi trọng các tư tưởng về tứ đế và bát chính đạo mà đề cao các tư tưởng về thiện
ác, báo ứng, luân hồi, số kiếp và linh hồn bất diệt…
+ Tư tưởng của Khương Tăng Hội:(gốc Ấn độ cuối thế kỷ III, sống ở Giao chỉ,
được nhìn nhận như người Giao chỉ)
+ Khương Tăng Hội là nhà tư tưởng lớn, nhà triết học Phật giáo thực thụ. Tư tưởng
của ông chịu ảnh hưởng của cả Phật giáo tiểu thừa (coi trọng chính tâm, khống chế
tâm để đạt tới tĩnh lặng vô dục) và Phật giáo đại thừa (coi trọng việc cứu thế, cứu
khổ, cứu nạn).
+ Về triết học, ông giải thích và làm rõ tư tưởng “không”, “vô thường”, “vô ngã”
của Phật giáo và cho đó là kết quả của sự vận động, biến đổi của vật. Ông coi thân
thể gồm tứ đại (đất, nước, lửa, gió) không thể giữ mãi được đó là phi thân (vô ngã).


+ Trong quan hệ giữa Tâm và Vật, ông cho Tâm là cái quyết định, là nguồn gốc

của thế giới.
+ Đề ra thuyết “nhân quả báo ứng” trên cơ sở kết hợp thuyết “nhân quả luân hồi”
với tư tưởng về linh hồn bất tử của Nho giáo, để cảnh báo hành vi của con người.
+ Về đạo đức nhân sinh, ông đề cao tư tưởng từ bi, cứu khổ, cứu nạn của Phật
giáo. Đề xuất ba nguyên lý của hành vi: “bố thí độ vô cực” (bố thí độ thoát không
giới hạn); “nhẫn nhục độ vô cực” (nhẫn nhục không có giới hạn); “tinh tiến độ vô
cực” (gắng sức không có giới hạn).
+ Về tư tưởng chính trị, ông kết hợp tư tưởng nhân chính của Nho giáo với tư
tưởng từ bi đối với chúng sinh của Phật giáo hình tạo nên tư tưởng chính trị nhân
đạo thiên về màu sắc Nho giáo
+ Tư tưởng của Thiền sư Vô Ngôn Thông (tên thật là Họ Trịnh người Quảng châu,
ít nói nhưng thông suốt giáo lý nên gọi là Vô Ngôn Thông, thế kỷ IX)
+ Chủ chương không dùng ngôn ngữ, văn tự để truyền đạt tư tưởng mà chỉ dùng
tâm để truyền tâm thông qua con mắt của nhà Phật gọi là “Pháp nhãn”.
+ Vô Ngôn Thông chủ trương giác ngộ nhanh chóng, giác ngộ ngay tức khắc, dựa
vào trực giác đặc biệt, gọi là “đốn ngộ”. Đưa ra quan điểm: Phật là tâm, tâm là
phật. Phật là không, nhận thức được hư không là nhận thức được Phật. Hết thảy
các nơi, không chỗ nào là không có tâm phật.
+ Quan tâm giải quyết mối quan hệ giữa tâm và cảnh, theo đó: hết thảy các pháp
(thế giới) đều do tâm mà ra, tâm mà không sinh thì pháp không có chỗ trụ, cảnh
(TG bên ngoài) là do tâm sinh ra.
Chương 4: Tư tưởng Việt Nam thời kỳ xây dựng và phát triển quốc gia phong
kiến độc lập, tự chủ (Thế kỷ X – XV)
I. Điều kiện chính trị, kinh tế - xã hội và văn hóa và nội dung tư tưởng Việt
Nam thời kỳ xây dựng và phát triển quốc gia phong kiến độc lập, tự chủ (Thế
kỷ X – XV)
1. Điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa
a. Điều kiện chính trị
- Cuộc khởi nghĩa thắng lợi của Khúc Thừa Dụ và sau đó là chiến thắng Bạch
Đằng của Ngô Quyền đã chấm dứt vĩnh viễn thời kỳ Bắc thuộc và mở đầu kỷ

nguyên độc lập, tự chủ của dân tộc.
- Giai đoạn từ đầu thế kỷ X đến vương triều Lý (đầu thế kỷ XI) là thời kỳ hình
thành và xác lập chế độ phong kiến trung ương tập quyền của quốc gia thống nhất.
- Mâu thuẫn giai cấp thời kỳ này chưa diễn ra một cách gay gắt và sâu sắc vì giai
cấp PK đang lên, tiến bộ, đại biểu cho lợi ích dân tộc.
- Giai đoạn thế kỷ X – TK XV là giai đoạn “phá Tống, bình Nguyên, thắng Minh” ,
tinh thần dân tộc phát triển mạnh mẽ…
b. Điều kiện kinh tế


Kinh tế nông nghiệp phát triển mạnh mẽ, các vương triều phong kiến đều thi
hành chính sách trọng nông, khuyến nông và “khoan thư sức dân”.
- Kinh tế tiểu thủ công nghiệp phát triển (đồ gốm, đúc đồng, dệt lụa, mỹ nghệ…)
tạo nên các phường hội, làng nghề nơi đô hội.
- Ngoại thương, ngoại giao được mở mang và phát huy tác dụng tích cực trong
quan hệ với phương Bắc và một số nước…
c. Sự phục hưng văn hóa.
- Phật giáo phát triển mạnh mẽ và giữ vai trò chủ đạo trong các triều Ngô, Đinh,
tiền Lê và triều Lý. Nho giáo cũng được phát triển một cách có ý thức và ngày
càng mạnh mẽ và đến thời Lê sơ giữ vai trò chủ đạo
- Văn học nghệ thuật phát triển rực rỡ: văn học, nghệ thuật bác học (chữ Hán), văn
học nghệ thuật dân gian cùng phát triển mạnh mẽ. Văn tự chữ nôm bắt đầu xuất
hiện…
- Từ thời Trần viện Quốc sử được thành lập, nhiều bộ sử xuất hiện như Việt sử lược
(khuyết danh), Đại Việt sử ký (Lê Văn Hưu), Đại Việt sử ký toàn thư (Ngô Sĩ
Liên). Thiên văn, Lịch pháp Y học cũng đạt được nhiều thành tựu quan trọng.
2. Nội dung tư tưởng chính trị và triết học
a. Khái quát tình hình tư tưởng xã hội
- Văn hóa tinh thần giai đoạn này bị chi phối bởi ý thức hệ phong kiến gắn liền với
một giai cấp phong kiến tiến bộ…

- Sự chi phối của Tam giáo (Nho, Phật, Lão) là đặc điểm nổi bật của tình hình tư
tưởng xã hội, nhưng đều phải dựa trên chủ nghĩa yêu nước…
- Phật giáo (TK X, XI) và Nho giáo( TK XII – TK XV) đã nối tiếp nhau giữ vai trò
chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội, còn Lão giáo hiện diện thực tế trong
xã hội...
- KL:tư tưởng CT-XH gắn liền với thực tiễn dựng nước và giữ nước; chủ nghĩa
duy tâm có tính chất tín ngưỡng của phật giáo tồn tại phổ biến trong nhân dân.
b. Những tư tưởng triết học về chiến tranh giữ nước
Đặc điểm tư tưởng:
- Tư tưởng triết học về chiến tranh giữ nước dựa trên cơ sở của chủ nghĩa yêu
nước, chủ nghĩa anh hùng chiến đấu của dân tộc.
- Tư tưởng triết học về chiến tranh giữ nước xoay quanh các nội dung cơ bản: Tính
chất chính nghĩa của chiến tranh, lực lượng quyết định thắng lợi của chiến tranh,
mục đích của chiến tranh, tính tất yếu thắng lợi của chiến tranh…
- Nét nổi bật trong tư tưởng triết học về chiến tranh giữ nước là khẳng định mạnh
mẽ nền độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia.
- Nội dung cơ bản của tư tưởng triết học về chiến tranh giữ nước:
+ Thứ nhất là những quan niệm duy vật thô sơ về chiến tranh và hòa bình
+ Thứ hai, khẳng định mạnh mẽ tính chất chính nghĩa của chiến tranh giữ nước và
chủ quyền QG dân tộc.
-


+ Thứ ba, gắn nền độc lập quốc gia với Thiên định, đạo trời mang tính tất yếu
khách quan
+ Thứ tư, khẳng định sự tồn tại bình đẳng của vương triều Việt ngang hàng với
vương triều phương Bắc
+ Thứ năm, khẳng định vai trò quyết định thắng lợi của lực lượng nhân dân…
+ Thứ sáu, thể hiện lòng tự hào dân tộc…
c. Triết học Phật giáo thời Lý

Tư tưởng triết học Phật giáo thời Lý
- Các sư tăng tiêu biểu: Đỗ Pháp Thuận (915- 990); Ngô Chân Lưu (Tăng Thống
thời Đinh, Lê); Vạn Hạnh (thời Lý Công Uẩn).
- Tư tưởng triết học chủ yếu thể hiện qua các bài kệ của các thiền sư và qua một số
văn bia dựng tại di tích lịch sử hoặc các danh lam thắng cảnh.
- Những nội dung cơ bản:
+ Những tư tưởng về bản thể thế giới: “có”, “không” và “đạo” theo đó sự dung hợp
giữa Có và Không là vấn đề cơ bản của tư tưởng triết học Phật giáo thời Lý. Tư
tưởng yêu nước VN đòi hỏi nhập thế, Phật giáo chủ trương xuất thế, thực tiễn đòi
hỏi phải dung hòa tư tưởng khác biệt nêu trên.
- Quan niệm về Đạo – khởi nguyên của thế giới của các sư tăng thời Lý chịu ảnh
hưởng bởi quan niệm về Đạo của Lão Tử, theo đó Đạo ở khắp mọi nơi, trong khắp
mọi vật, nó sáng tạo ra tất cả và trường tồn cùng với mọi vật nhưng không phải là
vật cụ thể nào cả. Nó vận động theo quy luật tự nhiên, như con rối và hoàn toàn
khách quan.
+ Tư tưởng đề cao vai trò ưu việt của trí tuệ góp phần khẳng định tư duy độc
lập, tự chủ của dân tộc thời kỳ này.
- Những yếu tố tư duy biện chứng:
+ Quan niệm phổ biến là thừa nhận thế gian là biến hóa, theo đó sự vật vận động,
biến hóa khôn cùng, vạn vật đều sinh thành, vận động chuyển hóa lẫn nhau vô
cùng tận, cái mới luôn nảy sinh thay thế cho cái cũ
+ Tư tưởng về nhân sinh: chủ yếu xoay quanh vấn đề sống, chết. Lý tưởng của
Phật giáo là vào cõi Niết bàn, trong khi các học thuyết chính trị xã hội lại coi trọng
phận sự của con người nơi trần thế. Phật giáo thời Lý đã có sự hòa quyện giữa hai
tư tưởng nói trên, giữa lý tưởng xã hội (chủ nghĩa yêu nước) với lý tưởng tôn giáo
(Phật giáo).
d. Tư tưởng triết học Phật giáo thời Trần
- Phật giáo thời Trần là sự phát triển tiếp tục của Phật giáo thời Lý, nhưng có sự
chuyển biến căn bản
- Nếu như các thiền phái trước đây đều do các thiền sư người Ấn độ và TQ sáng

lập thì thiền phái Trúc Lâm lại do các tôn thất nhà Trần sáng lập với ý thức dân
tộc rất cao.


- Thiền phái Trúc Lâm gắn liền vua Trần Thái Tông và Tuệ Trung thượng sĩ cùng
với Tam tổ của thiền phái là Phật hoàng Trần Nhân Tông, Pháp Loa và Huyền
Quang đều là những nhà thiền học uyên thâm, không chỉ thông hiểu giáo lý đạo
Phật mà còn nắm vững cả Nho học và Đạo học.
Nội dung Tư tưởng triết học Phật giáo thời Trần
- Tư tưởng về TGQ:
+ Phật giáo thời Trần đã đi sâu vào vấn đề bản thể TG, với phạm trù “Không” hay
còn gọi là “Hư”. Không là bản thể của vũ trụ, còn Hư là bản thể nhưng thể hiện ở
trong mỗi con người…
+ Quan điểm “phật tại tâm” (tiểu thừa) ảnh hưởng đến quan niệm của phái Trúc
Lâm, theo đó bản hay gốc của tâm chính là lòng trong sạch, là tính sáng, cái ban
đầu vốn có của mỗi người…
+Trần Thái Tông đề cập đến các khái niệm như Bản tính, bản tâm, Bản lai mục
diện, coi đó là khuôn mặt nguyên xưa, là chân tính, pháp tính của vũ trụ. Bản tâm
là khởi nguyên của vũ trụ còn cái tâm trong mỗi người chỉ là sự phản chiếu mờ
nhạt bản tâm của vũ trụ…
+ Đến Trần Nhân Tông bản thể, bản tâm được gọi là quê hương, gia đình, nếu
giữ được phật tính hồi bản tâm, trở về quê hương, nếu buông thả tâm, thì
chìm sâu địa ngục.
-Tóm lại, bản thể là một nhưng biểu hiện thành nhiều tên gọi khác nhau như
Không, hư, bản tâm, bản lai diện mục, chân như…Bản thể này là bất sinh, bất diệt,
không thêm không bớt, không thiện không ác, vô sinh vô hóa, vô tướng, vô hình,
tồn tại như nhiên.
-Theo phật giáo Trúc Lâm, nếu tâm vô minh, vọng động thì sẽ xuất hiện ta – vật,
tâm – cảnh tức xuất hiện cá nhân và thế giới hiện tượng bên ngoài; còn khi tâm
trở nên hư không, tĩnh lặng thì tâm cũng không mà cảnh cũng không, phật cũng

không mà ngã cũng không
Nhân sinh quan Phật giáo thời Trần
- NSQ phật giáo thời Trần ngoài yếu tố phật giáo còn có yếu tố Nho giáo và tư
tưởng yêu nước truyền thống đã làm xuất hiện tư tưởng nhập thế tích cực.
+ Trần Nhân Tông quan niệm: sống mà không giúp ích gì cho đời là điều đáng hổ
thẹn của bậc trượng phu. Đó là tư tưởng phật giáo gắn liền với đất nước và dân
tộc. Làm trai phải quyết trả nợ nước, phải để lại gì cho núi song, phải giúp ích cho
đời, lo cho dân cho nước.
+ Phật giáo thời Trần còn đề xuất khái niệm “hoạt Phật” (Phật sống) tức người có
thể thành Phật ngay khi còn tồn tại trong thế giới hiện hữu. Đây là một NSQ Phật
giáo tích cực và tiến bộ.
+ Khẳng định cuộc đời con người là vô thường. Cuộc đời con người thoáng
qua, mau chóng như nước trên sông, giây lát như mây trên đỉnh núi.


+ Quan điểm về sống, chết: có sinh tất yếu có lão, bệnh và tử. Sống và chết đều từ
Tâm: Tâm sinh thì sống chết sinh, Tâm diệt thì sống chết diệt, sống chết vốn là
không có tự tính” (Tuệ Trung Thượng sĩ). Phật giáo thời Trần coi sống chết là lẽ
thường nhiên cũng như nước thành băng, sau đó lại tan ra thành nước, cũng như
hoa tàn đến xuân hoa lại nở, đó là quy luật vận hành tất yếu của tự nhiên của trời
đất.
- Kết luận: TGQ của Phật giáo thời Trần là TGQ duy tâm nhưng có tính đặc sắc
riêng. NSQ phật giáo thời kỳ này có tư tưởng nhập thế mạnh mẽ gắn liền với chủ
nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc. Với Phật giáo thời Trần, đạo gắn liền với đời,
đạo với đời làm một.
e. Nho giáo thời Trần – Lê với những quan niệm triết học về chính trị, xã hội
và con người
Bối cảnh lịch sử xã hội
- Nhà Trần thay thế nhà Lý. Nhu cầu củng cố nhà nước phong kiến trung ương tập
quyền, tổ chức lại việc cai trị và quản lý xã hội để phát triển kinh tế văn hóa, để

chống kẻ xâm lược ngoại bang hùng mạnh nổi lên mạnh mẽ.
- Giai cấp địa chủ phát triển mạnh cả về số lượng và chất lượng tạo nên cơ sở xã
hội vững chắc cho nhà nước.
- Tầng lớp tăng lữ vẫn đông đảo, nhưng chỉ có những quý tộc đi tu và tầng lớp trên
trong nhà chùa mới thực sự gia nhập hàng ngũ giai cấp phong kiến.
- Tầng lớp Nho sĩ vốn có nền móng từ thời Lý, được đào tạo theo khuôn mẫu Nho
học tăng lên nhanh chóng…
Quan điểm về chính trị
- Nho giáo được coi trọng dưới thời Trần, Lê. Quy mô của giáo dục và thi cử Nho
học được mở rộng tạo nên tầng lớp Nho sĩ đông đảo…
- Tư tưởng về mệnh trời, lòng người, đạo trời, đạo người như là cơ sở khách quan
cho sự tồn tại của vương triều của Nho giáo được khẳng định và thường được viện
dẫn như một cơ sở quyết định cho các quốc sách chính trị
- Quan điểm về đường lối trị nước: đề cao đức trị và khoan thư sức dân trong thời
Trần. Tư tưởng coi trọng vai trò của dân, coi trọng đoàn kết DT, đề cao trung nghĩa
trong chiến tranh bảo vệ TQ (Trần Quốc Tuấn: “chúng chí thành thành”, “vua tôi
đồng lòng, anh em hòa thuận, cả nước góp sức”, “trăm họ là lính”, vì nước chứ
không vì nhà...)
Đường lối chính trị thời Lê chủ trương kết hợp lễ trị với pháp trị trong phép trị
nước (tiêu biểu Lê Thánh Tông).
- Đề cao vai trò của người cầm quyền đặc biệt là nhà vua và bộ máy quan lại
- Đề cao tư tưởng trung nghĩa, nhân nghĩa. Tư tưởng trung nghĩa được khẳng định
mạnh mẽ dưới thời Trần thể hiện tiêu biểu trong Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn
– tư tưởng này góp phần củng cố chế độ phong kiến và quy tụ nhân tâm trong
chiến tranh giữ nước.


- Tư tưởng nhân nghĩa được nhấn mạnh trong thời Lê qua tư tưởng của Nguyễn
Trãi. Nguyễn Trãi chủ trương một nền chính trị nhân nghĩa, thực sự lấy dân làm
gốc, làm chính trị cốt để an dân.

- Xét về tư tưởng chính trị, Nho giáo thời Trần, Lê có những nét riêng, không
giống nho giáo thời Khổng Mạnh, càng không giống Hán Nho và Tống Nho.
Quan điểm về xã hội và con người
Quan điểm về xã hội:
- Coi xã hội thời Nghiêu Thuấn là chuẩn mực lý tưởng. Đó là một xã hội phong
kiến với ba thành tố cơ bản trong cơ cấu xã hội là vua, quan và dân.
- Về cơ cấu xã hội thì vua có vị trí quan trọng nhất, thâu tóm mọi quyền lực, đức
độ và tài năng của vua có ảnh hưởng quyết định đến sự tồn tại và phát triển xã hội.
- Quan lại và bộ máy quan liêu có vị trí hết sức quan trọng. Họ phải tận trung với
vua, tận lực thi hành nhiệm vụ
- Dân cũng có vai trò quan trọng. Trần Qốc Tuấn chủ trương “khoan thư sức dân là
thượng sách giữ nước”. Lê Văn Hưu khẳng định: “Trời sinh ra dân lại đặt ra vua,
ấy là để vua chăn dăt dân chẳng phải để vua tự cung phụng mình”
Con người lý tưởng
+ Con người lý tưởng của xã hội được mô phỏng theo hình mẫu Nho gia Khổng
Mạnh. Đó là mẫu người quân tử, trượng phu có đủ đức tài giúp vua trị nước, có
khả năng yên dân và phấn đấu cho một xã hội “vua sáng, tôi hiền, thần dân hòa
mục
+ Con người lý tưởng thời kỳ này còn gắn liền với việc đề cao đức trung nghĩa và
phải có trách nhiệm với nước với dân.
+ Một số nhà tư tưởng hàng đầu của dân tộc đã bước đầu thấy được vai trò chủ thể,
ít nhiều quyết định sự vận động, biến đổi lịch sử của con người, lòng người đối với
vận mệnh đất nước.
II. Một số nhà tư tưởng tiêu biểu
1. Lý Công Uẩn (974-1028)
- Lý Công Uẩn là một minh quân, người có quyết định lịch sử thể hiện tầm nhìn
ngàn năm là dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long không thể không dựa trên những tư
tưởng triết học và chính trị đặc sắc. Tư tưởng biện chứng và độc lập tự chủ sáng
tạo của ông thể hiện qua văn kiện lịch sử: Thiên đô chiếu
+ Quyết định rời đô không xuất phát từ ý muốn chủ quan của cá nhân người cầm

quyền mà xuất phát từ yêu cầu thực tế của công cuộc dựng nước phù hợp với xu
thế lịch sử mang tính tất yếu
+ Quyết định dời đô đã cân nhắn và tuân theo một loạt các điều kiện khách quan,
cần thiết cho việc định đô như “vâng theo mệnh trời”, “theo ý dân”, địa thế thành
Đại La thuận lợi về mọi mặt kinh tế, chính trị, quân sự…
+ Quyết định chính trị dựa trên sự phân tích so sánh với các nơi khác và đi đến sự
lựa chọn tối ưu.


+ Thể hiện cách nhìn sự vật trong sự vận động của nó, trong cả sức bật tiềm tàng,
sức mạnh mãnh liệt của sự vật sẽ được thể hiện trong tương lai (Thế rồng cuộn, hổ
ngồi). Đó là tư duy nhìn xa, thấy rộng, mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn đời.
- Chiếu dời đô thể hiện một tư duy biện chứng xuất phát từ thực tế khách quan,
xem xét sự vật một cách toàn diện trên cả ba mặt thiên thời, địa lợi, nhân hòa và
đặc biệt là nhìn nhận sự vật trong trạng thái động, thấy trước được sức bật mãnh
liệt tiềm tang, có ý nghĩa to lớn trong bản thân sự vật.
2. Trần Quốc Tuấn (1228-1300) Tác phẩm chủ yếu: Hịch tướng sĩ, Binh gia
diệu lý yếu lược, Vạn Kiếp tông bí truyền thư
- Trần Quốc Tuấn (Quốc công tiết chế) là người đầu tiên tổng kết về mặt lý luận
những cuộc chiến tranh giữ nước của lịch sử dân tộc.
- Tư tưởng triết học và phương pháp nhận thức của Trần Quốc Tuấn về chiến tranh
và quốc phòng là một đóng góp quan trọng vào sự phát triển của lịch sử tư tưởng
dân tộc.
- Trần Quốc Tuấn nhìn nhận các vấn đề của chiến tranh và quốc phòng theo quan
điểm duy vật, luôn xuất phát từ những điều kiện chính trị, kinh tế, quốc phòng và
tương quan so sánh lực lượng giữa ta và địch để xem xét và đánh giá các cuộc
chiến tranh giữ nước trong lịch sử dân tộc
- Trần Quốc Tuấn khẳng định thắng lợi của các cuộc chiến tranh giữ nước đều bắt
nguồn từ những điều kiện khách quan, từ so sánh lực lượng…
- Khẳng định nhân tố giữ vai trò quyết định thắng lợi trong chiến tranh: Đó là thực

lực kinh tế chính trị, quân sự và sự năng động chủ quan của con người, nhất là các
vị chỉ huy, thống soái.
- Vai trò đoàn kết của toàn dân tộc là nhân tố giữ vai trò quyết định trong chiến
tranh giữ nước. Đó là sự tổng kết nguyên nhân thắng lợi của các cuộc kháng chiến
là “trên dưới đồng lòng, lòng dân không chia” hay “vua tôi cùng lòng, anh em hòa
thuận, cả nước góp sức”, “quân lính một lòng như cha con”.
- Trần Quốc Tuấn, từ thực tiễn lịch sử dân tộc đã tổng kết thành những bài học về
chiến tranh giữ nước theo quan điểm duy vật và biện chứng, đã phản ánh chính
xác quy luật của chiến tranh giữ nước của một quốc gia nhỏ bé chống lại kẻ thù
lớn mạnh hơn mình gấp bội.
- coi trọng vai trò của các nhân tố kinh tế, lợi ích vật là nền tảng sức mạnh của
khối đoàn kết toàn dân
- Tư tưởng biện chứng về thời:
+ Với Trần Quốc Tuấn, khái niệm thời phản ánh một thực tế lịch sử ở một thời
điểm nhất định trong dòng thời gian theo đó các sự kiện biến đổi không ngừng.
+ Trần Quốc Tuấn luôn gắn khái niệm thời với việc hoạch định các chủ trương
chiến lược, chiến thuật trong chiến tranh. Mỗi cuộc chiến tranh có thời riêng của
nó, bởi vậy chiến lược và chiến thuật của các bên đối lập trong mỗi cuộc chiến


tranh không thể theo một khuôn mẫu cố định mà luôn bị chi phối bởi thực tế lịch
sử.
+ Phải xem xét quyền biến, tùy thời mà làm.
- Tư tưởng nghệ thuật quân sự:
+ Chiến lược, chiến thuật của chiến tranh giữ nước không những xuất phát từ thực
tế khách quan, từ tương quan so sánh lực lượng mà còn phải căn cứ vào chiến lược,
chiến thuật của kẻ địch, thấy rõ điểm yếu của chúng mà chế ngự
+ Quan điểm giải quyết mâu thuẫn trong tư tưởng nghệ thuật quân sự: “dĩ đoản
chế trường”. Ông khẳng định: Giặc cậy trường trận, ta cậy đoản binh, lấy đoản chế
trường là việc thường của binh pháp. Trong lĩnh vực quân sự, Trường và Đoản có

tính mâu thuẫn và đối lập nhau. Đó là cơ sở cho nghệ thuật quân sự độc đáo lấy ít
thắng nhiều, lấy yếu thắng mạnh.
3. Nguyễn Trãi (1380-1441)
-Tác phẩm chính: Bình Ngô sách (đã thất truyền), Đại cáo bình Ngô, Ức Trai thi
tập, Quốc âm thi tập, Dư địa chí…
Quan niệm về quốc gia và độc lập dân tộc:
-Nguyễn Trãi đã lập luận về quốc gia Đại Việt độc lập một cách toàn diện trên cơ
sở so sánh ngang bằng từng yếu tố cấu thành quốc gia giữa Đại Việt và TQ
-Đại việt đã từng là một quốc gia độc lập và phát triển và nhất định sẽ giải phóng
được đất nước, phục hồi nền độc lập dân tộc. VN là một quốc gia riêng biệt, ngang
hang với phương Bắc về mọi mặt, VN phải được độc lập.
- Đại cáo bình Ngô là một bản tuyên ngôn độc lập hào hùng của dân tộc, khẳng
định mạnh mẽ nền độc lập và chủ quyền bất khả xâm phạm của dân tộc
Tư tưởng Nhân nghĩa vì dân:
- Tư tưởng chính trị nhân nghĩa của Nguyễn Trãi vừa là sự kế thừa truyền thống
dân tộc, vừa là sự vận dụng sáng tạo học thuyết Nho giáo vào thực tiễn cuộc chiến
tranh chống Minh giải phóng dân tộc đầu thế kỷ XV. Tư tưởng nhân nghĩa của
Nguyễn Trãi, mang tính khái quát có ý nghĩa PPL và triết lý nhân sinh sâu sắc. Tư
tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi phản ánh tinh thần thời đại và là đỉnh cao tư
tưởng chính trị của thời đại.
- Nguyễn Trãi có niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh của nhân nghĩa, coi đó là nguồn
gốc sức mạnh của hoạt động chính trị, ông khẳng định: Người nhân lấy yếu chế
mạnh, người nghĩa lấy ít địch nhiều, Rốt cuộc lấy đại nghĩa thắng hung tàn, lấy
chí nhân thay đổi cường bạo.
- Nội dung cơ bản tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi:
+ Với Nguyễn Trãi, nhân nghĩa trước hết là một đường lối chính trị, một chính sách
cứu nước và dựng nước. Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi khác biệt với nhân
nghĩa của Nho giáo và người khác ở mức độ của tư duy,ở chiều sâu của tư tưởng.



+ Nêu cao tư tưởng chính trị nhân nghĩa, làm chính trị phải lấy nhân nghĩa làm
gốc: “Phàm mưu việc lớn lấy nhân nghĩa làm gốc, nên công to phải lấy nhân nghĩa
làm đầu”; “đạo làm tướng, lấy nhân nghĩa làm gốc, trí dũng làm cành”
+ Tư tưởng chính trị nhân nghĩa: cứu nước trước hết là cứu dân: “Việc nhân nghĩa
cốt ở yên dân, quân điếu phạt trước lo trừ bạo”. Nguyễn Trãi không đồng nhất vua
với nước mà gắn nước với các yếu tố như văn hiến, hào kiệt, văn hóa, địa giới, lãnh
thổ, phong tục...
+ Coi trọng vai trò của dân trong chiến tranh giữ nước. Ông cho rằng, cứu nước và
dựng nước là công việc của nhiều người của trăm họ.
+ Đề cao tư tưởng công tâm trong chiến tranh, khơi dậy sức mạnh vô địch của
chiến tranh chính nghĩa. Thắng lợi của sự nghiệp đấu tranh giải phóng DT đều
được giải thích từ hoạt động của con người, từ truyền thống lịch sử dân tộc.
+ Chính trị nhân nghĩa là kết hợp đấu tranh quân sự, chính trị tư tưởng và ngoại
giao để sớm giành thắng lợi và giảm bớt hy sinh cho nhân dân: “ta lấy toàn quân là
hơn để nhân dân nghỉ sức”.
+ Tư tưởng chính trị nhân nghĩa khoan dung: Lấy đại nghĩa thắng hung tàn, lấy chí
nhân thay cường bạo, yêu hòa bình, khoan hồng rộng lượng, mở đường hiếu sinh
cho kẻ thù bại trận
+ Yêu hòa bình, ghét chiến tranh là một nét đặc sắc trong tư tưởng nhân nghĩa của
Nguyễn Trãi
+ Chiều sâu tư tưởng nhân nghĩa: coi hòa bình, ấm no, sống trong yên vui là
nguyện vọng phổ biến thiết tha của mọi người, mọi tầng lớp xã hội cũng như mọi
dân tộc. Đó là điều rất tự nhiên chân chính, là lẽ hiếu sinh của trời đất, là đạo trời
phổ biến.
+ Lý tưởng chính trị nhân nghĩa của Nguyễn Trãi là xây dựng đất nước thái bình,
nhân dân no đủ, trên thì vua thánh tôi hiền, dưới thì không còn tiếng hờn giận, oán
sầu. Đó là một triều đình phong kiến không xa xỉ, một bộ máy quan lại liêm khiết
và chăm chỉ. Vua tôi biết lo giữ gìn đất nước và yêu thương nhân dân.
Quan niệm về đạo làm người
- Đạo làm người của Nguyễn Trãi về cơ bản không vượt khỏi đạo làm người của

Nho giáo. Nguyễn Trãi lựa chọn đạo Nho như một điều tự nhiên...
- Đạo làm người của Nho giáo có Ngũ luân, nhưng Nguyễn Trãi không chú ý đến
tất cả. Ông chú ý nhiều nhất đến hai mối quan hệ là vua-tôi và bè bạn (chủ yếu là
quan hệ đồng liêu giữa quan lại với nhau). Ông đề cao tư tưởng trung quân, nhưng
không mù quáng. Ông chủ trương quan lại đối sử với nhau phải khiêm nhường,
chịu thiệt, không bất nghĩa.
- Những phẩm chất mà Nguyễn Trãi đề cao trong đạo làm người là Nhân, trí, dũng:
“trừ độc, trừ tham, trừ bạo ngược; Có nhân, có trí, có anh hùng”. Với ông, nhân,
trí, dũng phải biến thành hành động của người cầm quyền vì dân, vì nước, đáp ứng
yêu cầu của xã hội, theo đó, quan tâm đến đời sống VC và tinh thần của nhân dân...


Một số tư tưởng triết học đặc sắc
- Tư duy triết học của Nguyễn Trãi hình thành từ hai cơ sở: một là những tư tưởng
triết học tiền đề mà chủ yếu là Lý học Tống Nho; hai là dựa vào thực tiễn lịch sử,
Nguyễn Trãi tổng kết thành những nhận thức lý luận.
- Tư tưởng triết học của Nguyễn Trãi có nhiều yếu tố duy vật và biện chứng,
mặc dù ông không quan tâm nhiều đến vấn đề TGQ của triết học (bản thể và
khởi nguyên TG). Nguyễn Trãi quan tâm nhiều hơn đến phương pháp luận
của hoạt động thực tiễn.
Nội dung phương pháp luận mà Nguyễn Trãi xây dựng bao gồm:
- Đời sống vật chất là cơ sở của xã hội, đời sống vật chất có đảm bảo thì trật tự
xã hội mới ổn định, đạo đức con người mới được tôn trọng
+ Phải xem “dân là gốc nước”, dân có liên quan đến sự an nguy của triều đại. Mọi
chủ trương đường lối, chính sách, mọi quan hệ đối xử của triều định đều phải căn
cứ vào lòng dân, lòng người, lòng dân ủng hộ thì làm, chống đối thì phải hủy bỏ
+ Với Nguyễn Trãi, an dân là trách nhiệm của người cầm quyền, là điều kiện để xã
hội thái bình, để chính nghĩa giành thắng lợi và triều đại được củng cố. Đó là
những quan niệm thể hiện tư tưởng triết học duy vật tiến bộ.
+ Thừa nhận mối liên hệ nhân quả của sự vật hiện tượng tự nhiên và xã hội. Ông

cho rằng việc nào cũng có nguyên nhân, có quả ắt có nhân, việc làm tốt hay xấu sẽ
có kết quả tương ứng, “phúc hay họa đều có manh mối từ lâu, không phải gây nên
bởi một ngày”
- Phải có tầm nhìn xa, phải kết hợp hài hòa lợi ích trước mắt và lâu dài, nhưng
phải ưu tiên cho lợi ích cơ bản và lâu dài:
+ Con người phải có tầm tư duy lớn, phải lo xa, nghĩ xa, phải biết tính trước, nghĩ
sau, lường trước các khó khăn có thể xảy ra, biết ngăn ngừa các xu hướng bất lợi.
+ Thấy rõ điều kiện khách quan và chủ quan trong hoạt động chính trị xã hội.
Theo đó hoạt động chính trị phải tính tới hai loại điều kiện: Thứ nhất là lẽ trời, vận
trời (xu thế lịch sử, xu thế thời đại và lòng người, lòng dân – yếu tố khách quan);
Hai là, sức mình, sức người (yếu tố chủ quan của chủ thể hành động). Nguyễn Trãi
chỉ rõ điều kiện khách quan phải là cơ sở cho hành động chủ quan: “xét biết thời
cơ mà biết lượng sức mình là một con người có tri thức”; “Phải thuận lòng trời mới
hợp được lòng người”; “biết người, biết mình, hay yếu hay mạnh...Đã do trời mà
biết thời, lại cố chí để thành công”.
Quan niệm biện chứng về Thời, Thế
- Thời được Nguyễn Trãi hiểu là hoàn cảnh khách quan thuận lợi cho phép
hoạt động chủ quan của con người đạt kết quả, thậm chí là kết quả không
ngờ
Chủ trương phải kịp thời, đúng thời, không bỏ lỡ thời, “nghĩa chữ thời to tát
làm sao”. Con người không nên thụ động chờ thời mà khải tích cực tạo ra
lực lượng để tạo thế, đón thời.


Hội đủ thời, thế sẽ thay đổi được thời cuộc và thành công. “Được thời, có
thế thì mất biến thành còn, nhỏ hóa ra lớn; mất thời không thế thì mạnh hóa
ra yếu, yên lại thành nguy. Sự thay đổi ấy chỉ trong khoảng trở bàn tay”.
Tư duy biện chứng và khoa học: Biện chứng ở cách nhìn sự vật trong mối
liên hệ, chuyển hóa, trong sự tác động qua lại của nhiều yếu tố. Khoa học ở
trình độ khái quát, ở chiều sâu của tư duy, ở mức độ phản ánh hiện thực, ở

khả năng hướng dẫn hành động thực tiễn.
4. Lê Thánh Tông (1442-1497)Tác phẩm chính: Thiên nam dư hạ tập, Hồng Đức
quốc âm thi tập.
Quan niệm về thế giới:
- Thừa nhận tư tưởng mệnh trời, giải thích sự hưng vong của các triều đại là do
trời. Ông tin trời là một lực lượng siêu nhiên chi phối con người và xã hội (ông
thường tổ chức cầu đảo mỗi khi nước nhà gặp hạn hán, lụt lội, sâu bệnh).
- Đến thời Lê Thánh Tông, Nho giáo đã trở thành học thuyết phổ biến và thống trị
trong XH. Bản thân Lê Thánh Tông cũng là một nhà Nho uyên bác và rất tôn sùng
Nho học. Ông phê phán quan niệm “tâm truyền” và “đốn ngộ” có tính chất duy tâm
thần bí của Phật giáo Thiền tông, phê phán quan niệm “báo ứng, họa phúc” của
Phật giáo cũng như sự lừa dối, bất lực của Đạo giáo
- Như vậy, tuy thừa nhận mệnh trời, nhưng Lê Thánh Tông không rơi vào thế giới
quan duy tâm thần bí hay mê tín dị đoan.
Quan niệm về xã hội:
- Xã hội cũng như các triều đại có khi hưng khi vong, khi trị khi loạn, khi thịnh khi
suy, con người có khi may khi rủi, khi khỏe khi yếu, khi giàu sang khi nghèo hèn
nhưng không có gì cố định, đứng nguyên tại chỗ mà liên tục biến hóa khôn lường.
- Tôn thờ Nghiêu Thuấn, nhưng ông không cho rằng ngày nay luôn luôn
không bằng ngày xưa.
Triều đại Nghiêu Thuấn vẫn có thể đạt được trong hiện tại.
Tư tưởng chính trị của Lê Thánh Tông
- Tư tưởng chính trị của Lê Thánh Tông nổi bật ở đường lối trị nước với sự kết hợp
chặt chẽ giữa tư tưởng đức trị, với pháp trị trên lập trường dân tộc yêu nước và kế
thừa truyền thống nhân nghĩa của dân tộc.
- Lễ nghĩa phải được xây dựng trên cơ sở đời sống no ấm của nhân dân. Vua phải
có đức nhân, trách nhiệm của nhà nước là phải chăm lo cho đời sống của dân, giảm
nhẹ tô thuế cho dân: “để dân được no ấm cần bớt sự trưng thuế và cung ứng”, “trừ
khử kẻ bạo tàn là tấm lòng nhân của đế vương”. Đó là xã hội có vua sáng, tôi hiền,
thái bình thịnh trị, no đủ: “Thời vua thái Tổ, Thánh Tông, thóc lúa đầy đồng, trâu

chẳng thèm ăn”, “Nhà Nam, nhà Bắc đều no mặt; Lẫy lừng cùng ca khúc thái bình”
- Xây dựng một hệ thống chính trị chặt chẽ từ cơ sở đến trung ương, hoàn chỉnh hệ
thống luật pháp, đưa pháp luật vào đời sống xã hội, đặt phép nước lên trên tất cả.
-


Chương 5: Tư tưởng Việt Nam thời kỳ khủng hoảng và chia cắt, phân tranh
của chế độ phong kiến (Thế kỷ XVI – XVIII)
I. Điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa, tư tưởng.
1. Điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội.
a. Tình hình kinh tế
-Tình hình kinh tế tiêu điều, sa sút. Ruộng đất công bị thu hẹp nghiêm trọng.
Nhiều vùng đô thị một thời hưng thịnh trở lại “nông thôn hoá”.
- Xã hội phân hoá ngày càng sâu sắc, nạn đói trầm trọng
- Chính sách “ức thương” cùng với thuế công thương nghiệp nặng nề của nhà nước
phong kiến càng làm cho công thương nghiệp bị kìm hãm và rơi vào đình trệ.
- Kinh tế Việt Nam thế kỷ XVI - XVIII là nền kinh tế tiểu nông đang bị suy thoái
và khủng hoảng trầm trọng. Phương thức sản xuất phong kiến đã thật sự lỗi thời và
suy thoái,
b. Tình hình chính trị, xã hội.
- Đặc điểm lịch sử XH: thời kỳ đất nước bị phân liệt, chia cắt kéo dài. Mâu thuẫn
giữa các tập đoàn PK phát triển gay gắt dẫn đến chiến tranh phân tranh lãnh thổ
kéo dài.
- Bước sang thế kỷ XVII, XVIII, chế độ phong kiến cả Đàng Trong và Đàng Ngoài
đều lún sâu vào giai đoạn suy thoái và khủng hoảng nghiêm trọng, đều trở thành
trở lực đối với sự phát triển xã hội
- Bộ máy thống trị của tập đoàn phong kiến Lê - Trịnh, Nguyễn đã trở nên cực
kỳ thối nát.
- Trong khi giai cấp thống trị phong kiến đi vào con đường sa đoạ, ăn chơi, hưởng
lạc như vậy, thì đời sống nhân dân, chủ yếu là nông dân, cực kỳ khó khăn, điêu

đứng. Hạn hán, mất mùa, đói kém liên tiếp xảy ra. Khắp nơi, phổ biến là cảnh đồng
ruộng bỏ hoang, xóm làng tiêu điều, nạn lưu vong phiêu tán hết sức trầm trọng
Phong trào nông dân khởi nghĩa
- Chỉ trong khoảng vài chục năm đầu thế kỷ XVIII, các cuộc nổi dậy của nông dân
đã liên tiếp nổ ra và lan rộng làm rung chuyển chính quyền phong kiến
- Năm 1771, khởi nghĩa Tây Sơn, phát triển hết sức nhanh chóng. Chính quyền
phong kiến tồn tại hơn hai trăm năm đã vỡ ra từng mảng…
- Đầu năm 1789,sau khi quét sạch gần 30 vạn quân Thanh và bè lũ bán nước ra
khỏi bờ cõi, vương triều Tây Sơn xuất hiện.
- Những chính sách về văn hoá, giáo dục của Quang Trung phản ánh hoài bão xây
dựng một nền học thuật, giáo dục dân tộc, nâng cao ý thức độc lập tự cường, tạo
điều kiện tái thiết đất nước theo phương hướng mới.
2. Tình hình tư tưởng văn hóa
- Nho giáo không còn giữ được vị trí chủ đạo như trước, Khuynh hướng tư tưởng
kết hợp Nho, Phật, Lão dần dần xuất hiện và phát triển mạnh mẽ trong thế kỷ
XVII, XVIII.


Nho giáo dù đã tỏ rõ sự bế tắc và bất lực trước tình trạng khủng hoảng xã
hội, nhưng vẫn giữ vai trò thống trị.
- Tư tưởng quản lý xã hội lấy Nho giáo làm nòng cốt, với tính tuân thủ, bảo
thủ cố hữu đã tạo nên sức ỳ nặng nề, cản trở xã hội phát triển.
- Với các nhà Nho đương thời, chính đồng tiền đã làm thay đổi các quan hệ nhân
luân đạo đức và phần nào cả trật tự xã hội. Họ không chấp nhận quan hệ hàng hoá tiền tệ, càng không thể nhận thức được những quan hệ đó xuất hiện như là một tất
yếu khách quan, một tiền đề của cái mới.
- Trong bối cảnh lịch sử các thế kỷ XVI, XVII, một tôn giáo mới đã được
truyền vào nước ta, đó là Thiên Chúa giáo.
- Xã hội loạn lạc thế kỷ XVIII cũng là nguồn gốc của những suy tư, chiêm nghiệm
về nhân tình thế thái, về biến đổi xã hội và những thăng trầm của thời cuộc. Bởi
vậy, thế kỷ XVIII cũng là thời kỳ nở rộ của văn học nghệ thuật, của trước tác học

thuật.
- Các nhà Nho đương thời đã nhận thức một cách sâu sắc và toàn diện hơn trước về
các tài liệu kinh điển của phương Đông, đồng thời phản ánh những nét riêng trong
tư duy, học thuật của các nhà tư tưởng Việt Nam thời kỳ này.
- Về tư tưởng nhân sinh: Các nhà Nho đương thời, phần lớn mất phương hướng
chính trị đúng đắn và rơi vào giáo điều, mù quáng. Dù khuynh hướng tư tưởng về
nhân sinh quan nói chung là đa nguyên, đa dạng và khá phong phú, thì các nhà tư
tưởng lúc bấy giờ đều đứng trước vấn đề: xuất thế (lánh đời) hay nhập thế (ra làm
quan giúp đời).
3. Nội dung cơ bản tư tưởng Việt Nam thời kỳ khủng hoảng và chia cắt đất
nước của chế độ phong kiến (Thế kỷ XVI – XVIII)
a. Tư tưởng tam giáo đồng nguyên
- Nho giáo thời kỳ này không tách biệt và đối lập hẳn với Phật và Lão như
nhiều thế kỷ trước.
- Hiện tượng “Tam giáo đồng nguyên” trên cơ sở Nho xuất hiện và ngày càng
trở thành xu hướng chủ đạo.
- Hiện tượng “Tam giáo đồng nguyên” không phải không có những cơ sở
nhất định, vì mỗi học thuyết đều có những phạm vi hạn chế của nó.
Riêng trong thế kỷ XVIII, xu hướng “Tam giáo đồng nguyên” xuất hiện khá
mạnh mẽ chủ yếu là do Nho giáo đã trở nên bất lực trong việc giải quyết các
vấn đề xã hội và khắc phục tình trạng khủng hoảng xã hội.
b. Xu hướng tư tưởng trở về với Nho giáo nguyên thủy
- Nho giáo vẫn giữ vai trò thống trị, nhưng thể hiện rõ sự bất lực trước yêu
cầu phát triển của lịch sử DT, bởi vậy, nhiều nhà tư tưởng lớn như Nguyễn
Bỉnh Khiêm, Lê Quý Đôn, Ngô Thì Nhậm nêu cao tư tưởng trở về các giá trị
tích cực của Nho giáo Khổng Mạnh
-


- Do bối cảnh xã hội suy đồi, vua chúa đi vào con đường ăn chơi sa đọa, cho nên

các nhà nho tiến bộ đều giương cao ngọn cờ nhân nghĩa, đều chủ trương thực hiện
đường lối vương đạo của Khổng, Mạnh…
- Các nhà tư tưởng tiêu biểu như Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Quý Đôn, Ngô Thì
Nhậm đều đề cao tư tưởng thân dân, chủ trương thực hiện đường lối trị nước lấy
đức trị làm căn bản, chấn chỉnh đội ngũ quan lại. Họ đề xuất nhiều tư tưởng và
biện pháp chấn hưng chế độ phong kiến nhưng không được tiếp nhận, hoặc không
hội đủ những điều kiện chính trị xã hội để thực thi.
II. Một số nhà tư tưởng tiêu biểu
1. Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585)
- Nguyễn Bỉnh Khiêm, hiệu Bạch Vân cư sĩ, quê Vĩnh Bảo, Hải Phòng, đỗ trạng
nguyên 1535 dưới triều Mạc. Tư tưởng của ông không những nổi bật ở đương thời
mà còn có ảnh hưởng quan trọng trong các giai đoạn lịch sử tiếp theo.
Thế giới quan triết học:
- Thế giới quan của Nguyễn Bỉnh Khiêm chịu ảnh hưởng sâu sắc của Dịch học và
Lý học thời Tống Nho. Về cơ bản đó là thế giới quan duy tâm, thiên mệnh.
- Ông coi con người là bộ phận của tự nhiên và giữa người và trời có sự thống nhất
với nhau, có khuynh hướng coi trời chỉ là giới tự nhiên chứ không phải là một
thượng đế có nhân cách: “cái ý sinh thành của trời không có thiên tư, muôn loài
đều như nhau cả”.
- Coi sự phát triển của tự nhiên là đạo trời, và sự phát triển của đạo trời theo
Chu dịch, mọi vật có sinh thành, biến đổi, phát triển, xuất phát từ bản thân sự
vật, nhưng chỉ là sự phát triển tuần hoàn…
- Sự phát triển của xã hội và vận mệnh con người được quy thành đạo người.
Đạo người cũng phát triển theo vòng tuần hoàn: hết thịnh lại suy, hết thăng
lại giáng, hết co rồi duỗi, hết được rồi mất.
- Nguyễn Bỉnh Khiêm không thấy vai trò của hoạt động con người trong sự phát
triển của xã hội cũng như trong sự phát triển của bản thân con người mà đều do số,
do mệnh, do trời chi phối: “được, hỏng, cùng thông, không gì là không do trời
định.
Tư tưởng chính trị - xã hội:

- Lý tưởng của Nguyến Bỉnh Khiêm là một xã hội thái bình, thịnh trị. Đó là một xã
hội hòa bình không có chiến tranh, nhân dân được sống yên ổn, no đủ, có vua sáng
tôi hiền, có đạo đức tốt đẹp, một xã hội thịnh trị như thời Đường, Ngu của Nghiêu
Thuấn.
- Đường lối chính trị của ông là đường lối vương đạo, lấy đức trị làm căn bản,
lấy nhân nghĩa để cảm hóa người, quy tụ lòng người, thong qua biện pháp
giáo hóa để củng cố triều đình và chế độ.
- Chủ trương thực hiện chính trị nhân nghĩa, thực sự lấy dân làm gốc. Nhà
cầm quyền phải quan tâm đến đời sống của nhân dân, nhất là dân nghèo


- Đường lối chính trị nhân nghĩa của Nguyễn Bỉnh Khiêm là một đường lối chính
trị tiến bộ đối với xã hội đương thời.
Quan niệm về đạo làm người:
- Nguyễn Bỉnh Khiêm coi sự tốt xấu của đạo làm người có ảnh hưởng tới việc
giải quyết những mâu thuẫn và bế tắc của lịch sử.
Ông chủ trương tự mình phải nêu gương trước thiên hạ về đạo làm người, tự
hào về quan niệm và cách sống của mình (tác phẩm của ông cũng nói nhiều
về đạo làm người).
- Đạo làm người của Nguyễn Bỉnh Khiêm không nằm ngoài đạo “cương
thường” của nho giáo. Lúc đầu, ông chủ trương thực hiện tam cương, ngũ
thường theo quan niệm chính thống
- Về sau, do thực tế xã hội suy đồi, chỉ coi trọng danh lợi, cho nên ông chuyển sang
đạo làm người theo tư tưởng “trung chính” nghĩa là thực hiện thiện và nhân, là cứu
giúp người…
Trung nghĩa là đứng giữa không chênh lệch, giữ vẹn được điều thiện, đó là
phải trung với vua, hiếu với cha mẹ, thuận giữa anh em, hòa giữa vợ chồng,
tín giữa bạn bè
- Nội dung đạo làm người của Nguyễn Bỉnh Khiêm ngoài “cương thường” của
nho giáo còn chứa đựng những quan niệm đạo đức của nhân dân gắn với hệ thống

các quan hệ của con người trong xã hội đương thời.
- Mặt hạn chế trong quan niệm về đạo làm người của Nguyễn Bỉnh Khiêm
xuất phát quan niệm coi sự phát triển của xã hội theo đường tuần hoàn, phát
triển không có đấu tranh, Vì thế ông đề xuất nguyên lý “dĩ hòa vi quý”, coi
hòa là mục đích, là vô điều kiện nên đã đánh đồng giữa phải với trái, đúng
với sai, chân lý với sai lầm.
- Thái độ sống của ông là lánh đời, nhưng là sự lánh đời của một nhân cách
trong sạch và cao đẹp giữa một xã hội bon chen trong vòng danh lợi.
2. Lê Hữu Trác (1720-1791)
- Đặc điểm tư tưởng triết học: Từ y lý đến triết lý, từ triết lý đến y lý – Đó là quá
trình được lặp đi lặp lại và được thực hiện một cách tự giác và hình thành nên tư
tưởng triết học y học của ông.
- Theo truyền thống phương Đông y học và nho học gắn bó mật thiết với nhau: nho
học đề cập đến con người, tự nhiên và xã hội, y học cũng lấy những quan niệm
chung về con người về tự nhiên và xã hội làm cơ sở cho y lý để hành nghề.
- Lê Hữu Trác chú ý nhiều đến lý luận về quan hệ và biến hóa trong con người và
sự vật như thuyết âm dương, ngũ hành, phép biến dịch của Chu dịch, quan niệm
“thiên nhân hợp nhất”…Ông khẳng định: “nghề làm thuốc đâu có thể vượt ra ngoài
nguyên lý âm dương ngũ hành mà cứu chữa được những bệnh nguy nan”, “phải
học kinh dịch trước rồi sau mới nói đến y. Lý của âm dương cũng là lý của y”.
- Một số quan niệm triết học đặc sắc:


+ Lý lẽ về âm dương: âm dương mâu thuẫn nhau nhưng quan hệ gắn bó với nhau
trong một kết cấu thống nhất, đối lập nhau nhưng là điều kiện tồn tại của nhau và
đều là những mặt không thể thiếu được ở sự vật.
+ Khẳng định tính phổ biến của âm dương. Âm dương có trong trời đất và cả con
người.
+ Âm dương là cơ sở để sản sinh ra các hiện tượng đối lập và thống nhất nhau, là
nguồn gốc, cơ sở và động lực phát triển của sự vật và con người.

+ Âm dương trong con người và sự vật phải giữ ở thế cân bằng, điều hòa thì mới
có sự phát triển bình thường: “dương làm hại âm thì tinh huyết khô cháy, âm làm
hại dương thì thần khí lặng tắt. Phàm mọi bệnh sinh ra không một bệnh nào không
phải vì âm dương hại nhau mà mất điều hòa”
Về quan hệ Hình – Thần (thể xác – tinh thần) ông cho rằng thể xác quyết định
tinh thần, tinh thần phụ thuộc vào thể xác
-Tinh thần tác động trở lại thể xác và tinh thần căng thẳng quá cũng tạo ra bệnh.
Đó là những quan điểm có tính duy vật và phù hợp với thực tế y học.
- Về sống chết, mệnh hệ, với kiến thức của một danh y, ông lý giải vấn đề trên
lập trường duy vật và vô thần: “sức người ta có thể thay được số trời, tương
lai chưa đoán trước được thế nào”
- Tư tưởng triết học của Lê Hữu Trác thuộc loại biện chứng chất phác và duy
vật thô sơ. Đó cũng là những tư tưởng tích cực so với đương thời.
Phương pháp tư duy thực tế và sáng tạo:
- Luôn luôn xuất phát từ thực tế là nét nổi bật trong phương pháp tư duy của Lê
Hữu Trác. Trong y học ông luôn luôn xuất phát từ thực tế trong các mối quan hệ
quá khứ - hiện tại, thể trạng và tâm trạng của con người cũng như mối quan hệ
giữa con người với thiên nhiên.
- Học tập nhưng không giáo điều máy móc cũng là một nét độc đáo trong phương
pháp tư duy Lê Hữu Trác.
- Luôn luôn sáng tạo là nét đặc sắc trong phương pháp tư duy của ông. Pháp cổ
(noi theo người xưa) là truyền thống của phương Đông. Lê Hữu Trác thấy cần
phải vượt ra khỏi truyền thống với ý thức sáng tạo. Ông luôn luôn có ý thức truy
cầu đến cùng y lý, tìm trong lập luận của tiền nhân chỗ nào chưa nói hết lời thì
biện bạch thêm, chỗ nào người sau thêm bớt vào chưa hợp lý thì đính chính lại.
Quan niệm về nhân sinh:
+ Ông chủ trương thực hành đạo làm người của mình bằng nghề thuốc: “làm thuốc
giỏi chẳng hơn tu tiên, tu phật hay sao”.
+ Ông đến với nghề y một cách ngẫu nhiên, nhưng trên cơ sở giác ngộ đạo lý: làm
thuốc cũng là một phương diện cứu người

+ Ông khẳng định: Đạo làm thuốc là một nhân thuật, chuyên giữ gìn mạng sống
con người, phải lo cái lo của người, phải vui cái vui của người, chỉ lấy việc cứu
sống mạng người làm bổn phận của mình, không nên cầu lợi kể công.


+ Ý thức giúp đời bằng nghề y là động lực phấn đấu của ông trên cả hai phương
diện: đi sâu nghiên cứu nghề y và một lòng vì người bệnh.
+ Các nguyên tắc y đức: Thầy thuốc phải sẵn sàng không sợ gian nan, vất vả; cứu
bệnh như cứu hỏa, dùng thuốc như dùng binh; chữa bệnh căn cứ vào bệnh tình
nặng nhẹ mà không phân biệt sang hèn; làm thiện là vì người chứ không vì mình
3. Lê Quý Đôn (1726-1784)
- Về nguồn gốc bản chất của sự vật, ông cho rằng khí sinh ra mặt trời, mặt trăng
các vì sao, sấm bão… “dưới vòm trời, trên mặt đất đều là gió và khí, sấm, gió, bão
đều do khí sinh ra”. Quan điểm của Lê Quý Đôn có những yếu tố duy vật, ông có
xu hướng lấy khí (vật chất) để giải thích các hiện tượng vật chất của thế giới.
- Về nhận thức luận: ông không đối lập Lý với Khí, “coi lý ở trong khí và là
cái biểu hiện của khí”, “mỗi vật đều có một lý”, “có vật tức có quy tắc”, như
vậy ông có khuynh hướng xem lý không chỉ như một thực thể tinh thần
khách quan mà còn như một thuộc tình của khí, như quy tắc tồn tại phát triển
của sự vật.
- Ông chủ trương “cùng lý để biết cho đến nơi” (cùng lý = cái lý tận cùng của
sự vật – Tống nho).
Như vậy ông chủ trương nhận thức sự vật phải nhận thức được lý và quy tắc
của nó (gần với cách hiểu nhận thức quy luật phát triển của sự vật).
- Quan điểm về con người
-Chủ trương xem xét con người từ cả hai mặt tài và đức, trong đó mỗi mặt đều có ý
nghĩa của nó. Đánh giá con người phải căn cứ vào cả nết nhỏ, nhưng dùng người
thì dựa vào nết lớn, dựa vào tài năng
-về cơ bản chưa thoát khỏi chủ nghĩa duy tâm khách quan thần bí (tin vào bói toán,
tin vào báo ứng – số phận của nước nhà, vận mệnh của sĩ phu đều quyết định ở chỗ

u minh
- Cho người tài quyết định sự phát triển của xã hội, luôn luôn tin vào số mệnh tiền
định: “mọi việc lớn việc nhỏ đều định trước cả” và “cách “bói ngói”, bói gà, bói
quạ, bói nghe tiếng người nói, cũng đều biết trước được sự lành dữ”.
Quan điểm về chính trị xã hội:
- Tư tưởng chính trị của lê Quý Đôn về cơ bản không nằm ngoài quan điểm
chính trị của Nho giáo. Tuy nhiên, ông có khuynh hướng phủ nhận sự độc
tôn của nho giáo, chủ trương thực thi đường lối trị nước trên cơ sở kết hợp
đức trị với pháp trị.
- - Lê Quý Đôn đã dâng nhiều sớ kiến nghị nhằm chấn chỉnh bộ máy quan lại
và chính sự nước nhà trên cơ sở vừa chủ trương khoan sức cho dân, vừa
chấn chỉnh kỷ cương, pháp luật.
- Ông công khai thừa nhận việc kết hợp Nho với Phật, Lão với âm dương ngũ
hành, coi lý là ngũ thường của Nho gia, thế là sức mạnh của Pháp gia, chủ trương:
“việc trong thiên hạ không ngoài lý và thế.”.


XH phụ thuộc vào số mệnh: “thời vận đã đến dù không tìm kiếm cũng vẫn
được
- Quan niệm sự vận động tuần hoàn của lịch sử theo một công thức máy móc
Quan điểm về xây dựng văn hóa dân tộc:
- Lê Quý Đôn đã tiến hành chỉnh lý nhiều văn thơ, nhiều sự kiện và nhận định cho
đúng với sự thật lịch sử. Ông đã sưu tập hệ thống hóa toàn bộ tác phẩm văn thơ từ
thời Lý đến thời Lê trung hưng, đã điều tra phân loại, ghi chép hầu như toàn bộ
sinh hoạt vật chất và tinh thần của xã hội đương thời.
- Ông là người đầu tiên thể hiện tư tưởng tiếp thu văn hóa nhân loại một cách
có ý thức để tiếp thu học hỏi và làm giàu cho văn hóa dân tộc. Ông đã tìm
đọc nhiều cuốn sách của các giáo sĩ phương Tây viết về thiên văn, địa lý,
khoa học đã được dịch ra tiếng Hán.
- Quan điểm về ý thức tự tôn văn hóa dân tộc: ra sức tuyên truyền và ca ngợi

truyền thống dân tộc và nhân tài đất Việt
4. Ngô Thì Nhậm (1746-1803)
Quan niệm về thế giới
- Quan điểm về thế giới của Ngô Thì Nhậm đã chịu nhiều ảnh hưởng của Lý
học Tống Nho, mà về cơ bản là chủ nghĩa duy tâm khách quan.
Ngô Thì Nhậm, nhìn thế giới không phải chỉ gồm các sự vật, hiện tượng,
mà còn bao hàm các mối quan hệ, với sự vận động và biến đổi theo những
chiều hướng khác nhau rất phức tạp, vừa có tính thống nhất vừa có tính đa
dạng.
- Thế giới tồn tại theo các hệ thống với một vật làm trung tâm và xoay quanh nó là
vô số các vật khác có quan hệ trực tiếp hoặc gián tiếp…
Quan niệm về vận động
- Về nguồn gốc chung của vận động: tất cả đều bắt đầu từ đạo, tất cả đều là biểu
hiện sự lưu hành của đạo. “Đạo lý xoay vần đi đâu chẳng phải là một … Đạo ở
trong trời đất, chia ra thì có muôn cạnh khác nhau, tóm lại thì không có hai khía”.
- Vận động của vạn vật trong thế giới là khách quan và phổ biến, vận động gắn liền
với tồn tại, sự vật nếu không vận động thì không thể tồn tại được
- Điều đáng chú ý là, khi xem xét sự vận động, Ngô Thì Nhậm đã nhận thấy rõ mối
quan hệ không tách rời nhau giữa hai mặt mang tính đối lập trong các sự vật, hiện
tượng
Quan niệm về Lý
- “Lý” là đạo lý, là quy luật, có vai trò soi sáng thời thế và làm cơ sở lý luận
cho phương châm hành động và thái độ ứng xử của con người trước những
sự biến xã hội
phức tạp và mau lẹ.
+ “Lý” là cái vốn có của sự vật và việc làm của con người phải noi theo “lý” thì
mới thành công. Bởi có nắm được “lý” thì mới hành động đúng.
-



“Lý” là cái có thể nắm được và do vậy, “lý” là cụ thể, là cái mà con người có
thể nhận thức được.
“lý” được quan niệm như là quy luật của sự vật mà con người có thể nhận
thức để làm cơ sở cho hành động.: “Lý như các thớ, cái đốt của cây”
Về lý luận nhận thức
- Thế giới khách quan là đối tượng của nhận thức.
Nhận thức của con người không thể dừng lại ở hiện tượng mà phải đi sâu
vào bản chất của sự vật, hiện tượng. Xem xét sự vật, không được dừng ở chỗ
cảm quan, trực giác, mà phải tìm hiểu sâu đến nguyên nhân của sự vật.
Ngô Thì Nhậm chủ trương phải coi trọng nội dung hơn hình thức
Ngô Thì Nhậm cũng thấy rõ sự thống nhất giữa nội dung và hình thức, giữa
cái bên trong và cái bên ngoài khi nhận thức sự vật
Tư tưởng chính trị - xã hội
Quan niệm về mệnh trời:
- “Mệnh trời” trước hết cũng được hiểu là một lực lượng ở bên ngoài con người,
nhưng lại chi phối đời sống xã hội của con người mà con người không thể cưỡng
lại được
- Khi bàn về các vấn đề xã hội, ông lại gắn mệnh trời, đạo trời với lòng người,
lòng dân: “Trời trông, trời nghe do ở dân. Lòng dân yên định thì ý trời cũng
xoay chuyển … trong nước yên là nhờ ở được lòng dân… Dân hoà cảm ở
dưới thì thiên hoà ứng ở trên, hiệu nghiệm được mùa không hẹn mà đến”.
Ngô Thì Nhậm luôn luôn đặt lòng dân trước ý trời và có thể hiểu, với ông,
không phải ý trời quyết định mà là lòng người, ý chí của đại đa số người
mới là căn cứ quan trọng nhất để xem xét, quyết định các hoạt động chính trị
- xã hội.
Quan niệm về thời
Quan niệm về thời
Ngô Thì Nhậm nêu lên tư tưởng về thời: “đạo có thay đổi, thời có biến
thông”, thời được đặt trong dòng chảy liên tục của lịch sử và sự mất, còn,
thịnh, suy của các triều đại.

- Trong tư tưởng Ngô Thì Nhậm, “thời” có vai trò rất quan trọng đối với vận
mệnh của một thời đại, nắm được “thời” và hành động theo “thời” thì triều
đại nổi lên và hưng thịnh...
- Ngô Thì Nhậm đi đến tư tưởng con người phải thay đổi theo “thời”, phải tuỳ
“thời”,người quân tử phải “lựa theo thời mà biến hóa”, “đời dùng thì làm, đời bỏ
thì về ẩn, ra hay ẩn, nói hay im, đều bởi hiểu thông thời vận”
Quan niệm về vận động xã hội
- Ngô Thì Nhậm nhận thấy sự vận động của xã hội có cái gì đó mờ mịt, khó nắm
bắt hơn so với sự vận động của tự nhiên, dù rằng, đạo chỉ có một và tất cả đều chỉ
là vận hành của đạo.
-


- Về cơ bản, Ngô Thì Nhậm vẫn nhìn nhận xã hội vận động theo quy luật thịnh suy,
theo vòng tuần hoàn lịch sử: “Đại để cuộc đời thịnh suy, đều là sự thế đương
nhiên”
Ngô Thì Nhậm nhìn nhận quy luật của lịch sử theo vòng thịnh suy, nhưng
biến đổi của lịch sử mỗi thời mỗi khác và con người, dù muốn hay không,
cũng bị cuốn theo dòng lịch sử.
Quy luật vận động của lịch sử, thường được gắn với đạo trời, được hiểu
như một sự biến đổi khách quan.
Tư tưởng gắn đạo trời, mệnh trời với lòng người,
- Kết hợp chặt chẽ giữa mệnh trời (lẽ trời, đạo trời), lòng người và thời thế
như là nguồn gốc của thắng lợi, bí quyết của thành công.
Triết lý hành động: vừa căn cứ vào xu thế khách quan (lẽ trời, mệnh trời,
đạo trời), vừa dựa vào lòng người (sự ủng hộ của số đông), vừa thấy được
vai trò quan trọng của thời điểm như là điểm nút trong các chu kỳ vận động
của “thời”.
Đường lối đức trị, khoan thư sức dân, lấy dân làm gốc
- Xã hội loạn lạc là do chính trị sai trái, quan lại tham nhũng, xa hoa lãng phí,

lòng dân ly tán, luật pháp, kỷ cương rối bời.
- Tư tưởng “khoan thư sức dân” được Ngô Thì Nhậm coi là gốc của mọi vấn
đề và được quán triệt một cách sâu sắc trong các kiến nghị về chính sách, từ
tô thuế, binh lương đến hình phạt, cai trị.
Trong tư duy chính trị về chính sự, Ngô Thì Nhậm thường xuất phát từ tình
hình thực tế xã hội để đề xuất đường lối và chính sách trị nước. Ông chủ
trương mọi công việc của triều đình phải lấy việc làm cho dân no đủ, quan
lại được sung túc đặt lên hàng đầu
- Trong tư duy phát triển kinh tế, Ngô Thì Nhậm đã thoát khỏi quan niệm Nho
giáo truyền thống “trọng nông khinh thương”: “Việc nên làm, đó là việc
nông, công, thương, há nhà Nho ta không nghĩ đến hay sao?”
Tư tưởng văn hoá, giáo dục
- “Giáo hoá là việc gấp của quốc gia, phong tục là việc lớn của thiên hạ” và
“dựng nước lấy việc dạy học làm đầu, cầu trị lấy nhân tài làm gốc…
Hết loạn đến trị là lẽ tuần hoàn, tiếp sau hồi loạn lại càng cần phải sửa sang,
lập giáo hoá, đặt khoa cử là quy mô lớn để chuyển loạn thành trị”
- “Nước Việt ta lấy văn hiến dựng nước.
- Về phương pháp giáo dục, Ngô Thì Nhậm phê phán mạnh mẽ lối học từ chương,
giáo điều sách vở. Ông nêu quan điểm học phải sáng tạo, phải lĩnh hội được cái
tinh tuý, cái bản chất của tri thức.
Nhân sinh quan hành động
-Thứ nhất, luôn luôn lấy “lý” để soi “thời thế”, gắn thời thế “với nghĩa”. Nguyên
tắc sống và hành động của ông là: đúng “lý”, hợp “thời”, phải “nghĩa”.


×