Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

giải pháp nhằm phát triển thị trường lao động việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (89.3 KB, 16 trang )

MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU
Lao động và việc làm hiện nay và trong tương lai vẫn là vấn đề bức xúc,
nhạy cảm đối với mỗi quốc gia trên thế giới. Đặc biệt đối với những nước đang
phát triển như Việt Nam chúng ta, đây là vấn đề rất được quan tâm nó có tác động
trực tiếp đến mỗi cấp, mỗi ngành, mỗi tổ chức, mỗi hộ gia đình và từng người lao
động trong cả nước. Việc mở rộng cơ hội có việc làm phụ thuộc vào sự tăng
trưởng kinh tế và vào việc tăng cường năng lực cơ bản cho con người. Những
chính sách giải pháp hoàn thiện thị trường lao động Việt Nam đó được Đảng và
Nhà nước hết sức quan tâm nhằm phát triển thị trường lao động ở nước ta, về giải
quyết việc làm cho người lao động, giảm áp lực về lao động, nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực .Tuy nhiên theo các chuyên gia về nhân lực, nguồn nhân lực ở


Việt Nam rất dồi dào nhưng lại thiếu trầm trọng về chất lượng. Lao động Việt
Nam được đánh giá là khéo léo, thông minh, sáng tạo, tiếp thu nhanh những kỹ
thuật và công nghệ hiện đại được chuyển giao từ bên ngoài nhưng thiếu tính
chuyên nghiệp.
Nghiên cứu thực trạng tình hình lao động tại Việt Nam những điểm tích
cực và hạn chế của đội ngũ lao động cũng như các nguyên nhân dẫn đến năng
suất lao động của Việt Nam tăng rất chậm và giải pháp củng cố nâng cao hiệu quả
sử dụng lao động hiện nay.

CHƯƠNG I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG
CỦA VIỆT NAM
1.1 Khái niệm thị trường lao động
* Một số quan niệm về thị trường lao động
Có rất nhiều khái niệm về thị trường lao động, mỗi một thị trường lao động
lại có những đặc điểm riêng của mình. Thị trường lao động khác biệt so với thị
trường hàng hóa ở chỗ, nó thể hiện phần lớn những biểu hiện kinh tế xã hội của


cả xã hội và có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng tới sự phát triển của nó. Vì vậy, thị
trường lao động của Mỹ, Nhật, Tây Âu, Nga, Trung Quốc và Việt Nam có rất
nhiều khác nhau


Theo Tổ chức lao động quốc tế (ILO) thì: “Thị trường lao động là thị
trường trong đó có các dịch vụ lao động được mua và bán thông qua quá trình để
xác định mức độ có việc làm của lao động, cũng như mức độ tiền công”. Khái
niệm này nhấn mạnh đến các dịch vụ lao động được xác định thông qua việc làm
được trả công.
Khái niệm “thị trường lao động” mà nhà khoa học kinh tế Nga Kostin
Leonit Alecxeevich đưa ra là tương đối đầy đủ: “Thị trường lao động - đó là một
cơ chế hoạt động tương hỗ giữa người sử dụng lao động và người lao động trong
một không gian kinh tế xác định, thể hiện những quan hệ kinh tê' và pháp lý giữa
họ với nhau”. Hay nói chi tiết hơn, thị trường lao động là tập hợp những quan hệ
kinh tế, pháp lý, xuất hiện giữa người sở hữu sức lao động (người lao động) và
người sử dụng nó (người thuê lao động) về vấn đề chỗ làm việc cụ thể, nơi và
hàng hóa và dịch vụ sẽ được làm ra. Quá trình sử dụng sức lao động, lao động sẽ
được hình thành trong sản xuất chứ không phải trên thị trường. Đối với người
nắm giữ sức lao động sẽ được tạo ra cơ hội để nhận chỗ làm việc, nơi mà anh ta
có thể làm việc, thể hiện khả năng, và nhận thụ nhập để tái sản xuất sức lao động
của mình. Đối với người thuê lao động sẽ có cơ hội tăng lợi nhuận kinh tế. Trên
thị trường sẽ hình thành những quan hệ việc làm. Vì vậy, nó xác định nội dung
đích thực của thị trường lao động như thị trường việc làm.

1.2 Các nhân tố tác động đến thị trường lao động.
1.2.1 Cung lao động
a. Khái niệm
Cung lao động là khả năng tham gia thị trường lao động (cả về số lượng và
thời gian) của những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động, và

những người ngoài độ tuổi lao động thực tế có tham gia lao động trên thị trường
lao động.
Tổng cung lao động xã hội được thể hiện hoặc ở số lượng và chất lượng
con người hoặc ở thời gian của những người tham gia và mong muốn tham gia
lao động trên thị trường lao động.


b. Những nhân tố tác động đến cung lao động
* Những nhân tố tác động đến cung về số lượng người lao động
Dân số: Quy mô lực lượng lao động của mỗi quốc gia phụ thuộc vào:
- Quy mô dân số của quốc gia .Quy mô dân số càng lớn =>nguồn nhân lực
xã hội càng lớn.
- Tốc độ tăng dân số quyết định quy mô dân số và quyết định quy mô nguồn
nhân lực khoảng 15 năm sau.Tốc độ gia tăng dân số phụ thuộc vào tỷ lệ
tăng tự nhiên dân số và di dân thuần túy.
- Quy định về giới hạn dưới của độ tuổi lao động=>quy định số người đủ
tuổi lao động trở lên=>quy mô lực lượng lao động tiềm năng.
- Cơ cấu dân số trẻ hay già cho biết đội ngũ lao động đủ tuổi lao động trở
nên ít hay nhiều=> quyết định cung lao động nhỏ hay lớn.
Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động:
- Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động quyết định đến cung lao động về số
lượng.Tuy nhiên con số này chưa nói lên chính xác mức độ tham gia và
cường độ tham gia lao động do thời gian làm việc của những người lao
động khác nhau có thể không giống nhau.
- Sự thay đổi tỷ lệ tham gia lực lượng lao động do nhiều yếu tố chi phối
trong đó có cả các yếu tố vừa làm tăng và vừa làm giảm tỷ lệ tham gia
LLLĐ như: Tăng lương và thu nhập thực tế trên thị trường, sự thay đổi sở
thích, hành vi, hoàn cảnh gia đình, tiến bộ kỹ thuật công nghệ, sự xuất hiện
các ngành mới, trợ cấp xã hội,…
* Những nhân tố tác động đến cung thời gian làm việc

Tổng cung lao động trong nền kinh tế không chỉ phụ thuộc vào số lượng
người tham gia lực lượng lao động mà còn phụ thuộc vào số giờ làm việc trung
bình trong tuần,trong năm của những người tham gia .Các yếu tố tác động đến
thời gian làm việc của người lao động gồm:
Lợi ích, sở thích, nghề nhiệp, hoàn cảnh gia đình:
- Ràng buộc về khả năng kiếm tiền (ngân sách)=>lựa chọn giữa làm việc và
nghỉ ngơi.


- Sở thích khác nhau của người lao động quyết định số giờ làm việc khác
nhau: có người thích làm nhiều, kiếm nhiều tiền nhưng cũng có người thích
dành thời gian nghỉ ngơi nhiều hơn.
- Nghề nghiệp, hoàn cảnh ra đình cũng quyết định đến cung thời gian làm
việc trên thị trường.
- Tiền lương, thu nhập không lao động cũng tác động tới thời gian làm việc.
Ảnh hưởng thay thế: tiền lương tăng khi giữ nguyên thu nhập không lao
động làm tăng số giờ làm việc. Ảnh hưởng thu nhập: tiền lương tăng, giữ nguyên
thu nhập không lao động thì số giờ làm việc giảm.
Quan hệ giữa số giờ làm việc và tiền lương:
- Mức tiền lương tăng lên sẽ làm tăng số giờ làm việc nếu ảnh hưởng thay
thế trội hơn ảnh hưởng thu nhập.
- Mức tiền lương tăng lên làm giảm số giờ.
* Những nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến chất lượng cung lao động.
- Chiến lược,chính sách phát triển nguồn nhân lực
Chiến lược và các chính sách phát triển con người trong từng thời kỳ cho
thấy sự quan tâm của Nhà nước tới việc phát triển nguồn nhân lực, thể hiện ở các
chính sách nhằm nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài, chăm lo sức khỏe, an sinh
xã hội,…
- Hệ thống giáo dục, đào tạo.
- Chăm lo sức khỏe và dinh dưỡng.

- Hội nhập quốc tế: hội nhập quốc tế mở ra cơ hội cho người lao động được
học hỏi, trau dồi kiến thức, kỹ năng, công nghệ mới,…
1.2.2 Cầu lao động và các nhân tố ảnh hưởng
a. Khái niệm cầu lao động
Cầu lao động là lượng lao động mà người sử dụng chấp nhận thuê ở các
điều kiện nhất định.
Tổng cầu lao động của nền kinh tế (hoặc một tổ chức, doanh nghiệp, một
ngành, một loại lao động nào đó) là toàn bộ nhu cầu về sức lao động của nền kinh
tế (tổ chức, doanh nghiệp,…) ở một thời kì nhất định, trong những điều kiện nhất
định.
b. Cơ sở xác định cầu lao động


Cầu lao động là lượng lao động mà người sử dụng lao động có thể thuê ở
mỗi mức giá, có thể chấp nhận được.
Trong nền kinh tế thị trường cầu lao động là cầu dẫn xuất. Lao động là yếu
tố đầu vào cần thiết để sản xuất ra một khối lượng hàng hóa vật phẩm nhất định,
do vậy quy mô của nó phụ thuộc vào mức nhu cầu của hàng hóa do lao động sản
xuất ra cũng như giá cả của hàng hóa đó trên thị trường.
Cầu về lao động được hình thành từ các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức...
hoặc từ nhu cầu lao động nhập khẩu của nước ngoài.
Cầu lao động phụ thuộc vào nhiều yếu tố như nguồn tài nguyên của một
nước, quy mô, trình độ công nghệ, cơ cấu ngành nghề kinh tế, mức tiền công,
phong tục tập quán, tôn giáo... và chính sách phát triển kinh tế.
Ví dụ:
Nhiều nước ban hành chính sách buộc các doanh nghiệp trả chi phí đáng kể
khi sa thải lao động. Chính sách đã ảnh hưởng đến quyết định sử dụng lao động
của doanh nghiệp bởi nó làm tăng chi phí sa thải, hạn chế mức độ sa thải và ngăn
ngừa việc sa thải đồng loạt, ngăn cản các doanh nghiệp thuê lao động mới trong
thời kì tăng trưởng kinh tế. Các chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, chế độ

quy định ngày giờ làm việc, chính sách ngày làm việc cũng tác động đến cầu lao
động. Để điều chỉnhcầu lao động doanh nghiệp có thể bằng cách thay đổi số lao
động hoặc thay đổi thời gian làm việc.

CHƯƠNG II. PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG
VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA
Sau 25 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, vấn đề việc làm ở nước
ta đã từng bước được giải quyết theo hướng tuân theo quy luật khách quan của


kinh tế hàng hóa và thị trường lao động, góp phần đưa nền kinh tế nước ta phát
triển đạt đưọc những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử.
Tuy nhiên, thực trạng vấn đề việc làm ở nước ta hiện nay vẫn còn có nhiều
bất cập, chưa đáp ứng kịp yêu cầu phát triển của nền kinh tế. Điều đó thể hiện ở
các khía cạnh:
Ở khía cạnh cung - cầu lao động, việc làm mất cân đối lớn, cung lớn hơn
cầu. Tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị giảm chậm, tỷ lệ sử dụng lao động ở nông thôn
thấp, chỉ đạt trên, dưới 70%. Số doanh nghiệp trên đầu dân số còn thấp nên khả
năng tạo việc làm và thu hút lao động còn hạn chế, nhất là trong lĩnh vực nông
nghiệp và nông thôn. Tình trạng thiếu việc làm cao, chính sách tiền lương, thu
nhập chưa động viên được người lao động gắn bó tận tâm với công việc.
Ở khía cạnh quản lý nhà nước đối với thị trường lao động, việc làm và vai
trò điều tiết của Nhà nước đối với quan hệ cung cầu lao động còn hạn chế. Sự
kiểm soát, giám sát thị trường lao động, việc làm chưa chặt chẽ. Chưa phát huy
được vai trò của “tòa án lao động” trong giải quyết tranh chấp lao động. Cải cách
hành chính hiệu quả thấp đối với bản thân người lao động và cả xã hội.
Cơ cấu lao động chưa phù hợp với sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo yêu
cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Tỷ lệ lao động qua đào
tạo và đào tạo nghề thấp. Kỹ năng tay nghề, thể lực còn yếu, kỷ luật lao động, tác
phong làm việc công nghiệp chưa cao. Các văn bản của Nhà nước hướng dẫn

thực hiện các luật về lao động, việc làm và thị trường lao động chưa được thực
hiện đầy đủ và nghiêm minh, gây áp lực cho vấn đề giải quyết việc làm. Khả
năng cạnh tranh yếu, nhất là ở những lĩnh vực yêu cầu lao động có trình độ cao.
Cơ cấu ngành nghề đào tạo chuyên môn kỹ thuật chưa đáp ứng yêu cầu của
nền kinh tế đòi hỏi.
Hệ thống giao dịch trên thị trường lao động yếu kém. Hệ thống thông tin
thị trường lao động, việc làm chính thức chưa phát triển mạnh, chưa có các trung
tâm giao dịch lớn đạt hiệu quả khu vực. Cả nước chỉ có khoảng 200 trung tâm và
trên 3.000 doanh nghiệp giới thiệu việc làm, lại tập trung chủ yếu ở TP. Hồ Chí


Minh và Hà Nội, song hoạt động chưa hiệu quả, chưa thường xuyên nên mới chỉ
đáp ứng khoảng 20% nhu cầu thông tin của người lao động tìm việc làm.
Hiện nay, chúng ta đang phải đối mặt với những thách thức to lớn. Cạnh
tranh diễn ra ngày càng gay gắt từ cấp độ sản phẩm, doanh nghiệp đến toàn nền
kinh tế, từ bình diện trong nước đến ngoài nước. Một bộ phận doanh nghiệp
không thích nghi kịp có nguy cơ phá sản, người lao động có nguy cơ thất nghiệp
cao, thiếu việc làm, nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp. Chất lượng nguồn lực lao
động nước ta chưa đáp ứng yêu cầu, gây trở ngại trong quá trình hội nhập. Di
chuyển lao động tự phát từ nông thôn ra thành thị, vào các khu công nghiệp tập
trung và di chuyển ra nước ngoài kéo theo nhiều vấn đề xã hội nhạy cảm như
"chảy máu chất xám, tình trạng buôn bán phụ nữ và trẻ em qua biên giới”...
* Hạn chế
Trên thị trường lao động hiện tại, nguồn nhân lực cao cấp và công nhân tay
nghề cao vẫn đang là mối quan tâm của nhà tuyển dụng. Thị trường đang rất cần
các chuyên gia về quản trị kinh doanh, lập trình viên, kỹ thuật viên, các nhà quản
lý trung gian hiểu biết về tài chính và tiếp thị với yêu cầu cơ bản về tiếng Anh,
những công nhân có tay nghề cao, ham học hỏi. Tuy nhiên, nguồn cung ứng lao
động có chất lượng trên thị trường còn hạn chế.
Bên cạnh đó, kỹ năng làm việc nhóm, khả năng hợp tác để hoàn thành

công việc của lao động Việt Nam quá yếu kém. Nhiều nhà quản lý nước ngoài đã
nhận xét rằng: "Lao động Việt Nam làm việc rất tốt khi tự mình giải quyết công
việc, nhưng nếu đặt họ trong một nhóm thì hiệu quả kém đi nhiều". Chính điều
này đã khiến cho nhiều doanh nghiệp không thể thành đạt được, cho dù họ đã tập
hợp được đội ngũ nhân công có đẳng cấp cao.
Theo đánh giá, các chương trình đào tạo của Việt Nam hiện nay thường
nhấn mạnh đào tạo kiến thức lý thuyết chứ chưa quan tâm đến các kỹ năng thực
hành. Hầu hết các sinh viên ra trường không thể bắt tay ngay vào công việc mà
luôn phải qua một thời gian đào tạo lại. Để tạo nên một bước tiến về đào tạo, cơ
chế tuyển dụng và sử dụng nguồn nhân lực trong các doanh nghiệp, đặc biệt là


trong các doanh nghiệp Nhà nước cần có sự thay đổi theo hướng ưu tiên lao động
có chất lượng, có tay nghề cao, đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp.
Theo Công an Nhân dân
Về việc làm thiếu bền vững. Trong xu thế hội nhập sâu vào nền kinh tế thế
giới, đòi hỏi thị trường lao động ở Việt Nam phát triển linh hoạt để hỗ trợ tăng
trưởng, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế. Thế nhưng, do mới hình thành
và phát triển chưa đồng bộ, nên thị trường lao động Việt Nam đang bộc lộ nhiều
yếu điểm lẫn mâu thuẫn, trong đó nghiêm trọng nhất là mất cân bằng giữa cung
và cầu, năng suất lao động thấp. Trong khi chúng ta dư thừa sức lao động ở nông
thôn thì ở lĩnh vực phát triển công nghiệp, các ngành dịch vụ trung cao cấp lại
thiếu hụt lao động trầm trọng.
Phân tích về thực trạng thừa thiếu việc làm, GS-TS Nguyễn Bá Ngọc (Phó
Viện trưởng Viện Khoa học lao động - xã hội) cho rằng, tổng việc làm của nền
kinh tế tăng nhưng chưa tương xứng với tốc độ tăng trưởng kinh tế. Cụ thể,
những năm vừa qua hệ số co giãn việc làm ở nước ta chỉ đạt mức trung bình
0,28% (tức là khi GDP tăng thêm 1% thì việc làm chỉ tăng 0,28%), so với các
nước trong khu vực hệ số co giãn việc làm còn thấp. Điều này có nghĩa là tăng
trưởng chưa tạo ra nhiều việc làm, đem lại lợi ích cho người lao động.

Hiện cả nước vẫn còn trên 50% lao động làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp.
Điều này cho thấy Việt Nam vẫn là một nước kém phát triển và tình trạng thiếu
việc làm ở nông thôn vẫn trầm trọng (chiếm tỷ trọng gần 97% trong tổng số lao
động thiếu việc làm chung).
Mặc dù, sự chuyển dịch cơ cấu lao động đã có tín hiệu tích cực nhưng chưa
theo kịp tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế và việc phân phối, sử dụng lao động
trong các khu vực kinh tế mất cân đối. Cụ thể, ở khu vực ngoài nhà nước sử dụng
(trên 87%) lao động xã hội, nhưng đại bộ phận làm việc ở hộ cá thể, sản xuất nhỏ
phân tán, phi chính thức với trình độ công nghệ, phương thức sản xuất lạc hậu,
năng suất lao động thấp.
Kết quả điều tra cho thấy tỷ lệ việc làm không bền vững chiếm tỷ lệ 2/3
hoặc 3/4. Tình trạng việc làm khu vực phi chính thức (chiếm tỷ lệ 70% trong tổng


số việc làm) nhưng không được hưởng chính sách an sinh xã hội, luôn đối mặt
với việc làm bấp bênh, thu nhập thấp, ít được bảo vệ. Đó là cái vòng luẩn quẩn
trong bức tranh chung của thị trường lao động Việt Nam: chất lượng lao động
thấp dẫn đến lương thấp, năng suất lao động thấp và cuối cùng cản trở tốc độ tăng
trưởng kinh tế.
Theo Khánh Bình báo Sài Gòn giải phóng

CHƯƠNG III. NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN NĂNG SUẤT LAO ĐỘNG
VIỆT NAM TĂNG RẤT CHẬM
Năng suất lao động như là đôi cánh của nền kinh tế, nền kinh tế có bay cao,
bay xa hay không là phụ thuộc vào đôi cánh này, thực tế cho thấy rất nhiều doanh
nghiệp vẫn có thể tồn tại trong tình trạng thiếu vốn, hẹp thị trường và chịu áp lực
cạnh tranh khốc liệt nhưng chắc chắn sẽ chết dần chết mòn nếu năng suất lao
động tăng chậm.
Nhiều năm qua những con số thống kê về năng suất lao động của người
Việt vẫn không mấy khả quan khi so sánh với các nước trong khu vực, điều này

càng khó chấp nhận với một đất nước 92 triệu dân đang trong thời điểm dân số
“vàng” (tạm hiểu là có số đông người trong độ tuổi lao động), có hơn 400 trường
đại học, cao đẵng; 24.000 tiến sỹ; hơn 225.000 cử nhân, thạc sỹ đang… ngồi chơi
xơi nước
Năng suất lao động toàn nền kinh tế Việt Nam năm 2016 ước tính tăng
5,31% so với năm 2015, đạt 84,5 triệu đồng/lao động, tương đương khoảng 3853
USD/lao động.
* 5 nguyên nhân đẩy năng suất lao động VN xuống đáy
Trước hết ở việc tổ chức lao động chưa khoa học. Phần nhiều chúng ta vẫn
đang quản trị doanh nghiệp theo thói quen và sự tùy tiện. Nhiều khi vì người mà
đẻ ra việc, chức chưa chắc đã vì việc mà phải chọn người.
Nguyên nhân thứ hai nằm ở hệ thống đào tạo thiên về việc “dạy lý thuyết
bơi, hơn là dạy kỹ năng bơi”. Đây là dấu ấn của mô hình giáo dục Xô-viết. Ta cử


nhiều người đi học Liên Xô và chúng ta đã học được mô hình này. Nó có lẽ
không xấu, nhưng chỉ tốt quá lâu mà thôi. Chúng ta đào tạo ra những người ngồi
trên bờ thao thao bất tuyệt về lý thuyết bơi, nhưng xuống nước thì lại chết đuối.
Thứ ba, người Việt mình thường nhanh, nhưng không sâu. Thấy người
khác làm là mình có thể học theo chẳng mấy khó khăn và tự mãn ngay về điều
đó. Cuối cùng, cái gì bạn có vẻ cũng làm được, nhưng ít khi có cái gì làm được
đến nơi đến chốn. Ta nói năng suất song phải đi với chất lượng.
Thứ tư, chúng ta không có đủ tiền để đổi mới công nghệ. Muốn tăng năng
suất, thì phải có công nghệ mới. Muốn có công nghệ mới, phải có tiền. Và thế là
bó tay.com. Chưa nói tới chuyện có những công nghệ nguồn muốn mua cũng
không được.
Thứ năm, áp lực cạnh tranh ở ta nơi có, nơi không. Trong một số lĩnh vực
độc quyền như điện lực, xăng dầu… tăng năng suất không bằng tăng giá. Muốn
có lợi nhuận bao nhiêu cứ đưa vào giá việc gì phải tăng năng suất cho mệt. Cuối
cùng, anh có năng suất lao động cao chắc gì đã có lãi bằng anh có độc quyền?


CHƯƠNG IV. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG
LAO ĐỘNG VIỆT NAM
Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện thể chế thị trường lao động, tạo khung pháp
lý phù hợp, bảo đảm đối xử bình đẳng giữa người sử dụng lao động và người lao
động. Cụ thể là: thực hiện đúng các luật về lao động, tiền lương tối thiểu, bảo


hiểm lao động, xuất khẩu lao động, pháp lệnh đình công; khắc phục tình trạng bất
hợp lý với người lao động làm thuê trong các doanh nghiệp liên doanh với nước
ngoài và kể cả một số doanh nghiệp trong nước như hiện nay, người lao động
phải được quyền hưởng lương đúng với số lượng và chất lượng lao động họ đã bỏ
ra, phải được bảo đảm về chỗ ở và những điều kiện môi trường lao động, an sinh
khác theo đúng luật pháp.
Thứ hai, phê chuẩn và thực hiện các công ước của Tổ chức Lao động quốc
tế (ILO) liên quan đến thị trường lao động nước ta, đặc biệt là nước ta hiện nay
đã là thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại quốc tế.
Thứ ba, phát triển mạnh khu vực dân doanh, trước hết là phát triển các
doanh nghiệp vừa và nhỏ để nhanh chóng tạo ra việc làm và khả năng thu hút lao
động vào sản suất. Phấn đấu đạt tỷ lệ trên 200 người dân có một doanh nghiệp.
Phát triển kinh tế trang trại, hợp tác xã trong nông nghiệp. Đặc biệt coi trọng phát
triển kinh tế dịch vụ, công nghiệp chế biến nông sản, khôi phục và phát triển các
làng nghề thủ công mỹ nghệ sản xuất sản phẩm cho tiêu dùng trong nước và xuất
khẩu để tận dụng lao động dư thừa và lao động có ngành nghề truyền thống của
nước ta. Trên cơ sở đó tạo điều kiện thúc đẩy thị trường lao động trong nông
nghiệp và thị trường xuất khẩu lao động ngày càng phát triển cao hơn nữa.
Thứ tư, Nhà nước cùng các doanh nghiệp quan tâm đào tạo công nhân có
trình độ cao, trình độ lành nghề, trình độ văn hóa đối với lao động trẻ, nhất là ở
khu vực nông thôn để cung ứng cho các vùng kinh tế trọng điểm, các khu công
nghiệp, khu du lịch, dịch vụ và xuất khẩu lao động đang có nhu cầu thu hút

mạnh. Tập trung xử lý lao động dôi dư trong các doanh nghiệp nhà nước theo
hướng chuyển đổi ngành nghề cho họ. Khắc phục tình trạng "đóng băng” trong
đổi mới cơ cấu lao động làm ảnh hưởng tới sự phát triển đa dạng và chiều sâu của
nền kinh tế trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và
hội nhập kinh tế quốc tế. Chuyển mạnh các đơn vị sự nghiệp cung cấp các dịch
vụ công sang đơn vị tự chủ, tự chịu trách nhiệm và thực hiện chế độ hợp đồng lao
động để lao động khu vực này có điều kiện tham gia vào thị trường lao động
trong nước và ngoài nước, nâng cao hiệu quả của lao động.


Thứ năm, mở rộng và phát triển thị trường lao động ngoài nước. Đây là
một trong những thế mạnh của lao động nước ta về số lượng đông và trẻ. Vì vậy
phải tập trung đào tạo ngoại ngữ, pháp luật cho lao động xuất khẩu, nhất là thanh
niên nông thôn để tạo điều kiện cho họ tiếp cận được với thị trường lao động của
nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là với những nước có trình độ phát triển cao và
đang có nhu cầu thu hút lao động cho các ngành nghề sản xuất.
Thứ sáu, mở rộng và nâng cấp hệ thống dạy nghề cho người lao động ở 3
cấp trình độ (sơ cấp nghề, trung cấp nghề và cao đẳng nghề). Cần mở rộng đào
tạo và đào tạo lại số lao động nước ta để có cơ cấu hợp lý ở 3 trình độ như trên.
Có như vậy mới đáp ứng được nhu cầu đòi hỏi của thị trường lao động trong
những năm tới. Trong đào tạo và đào tạo lại cần chuyển sang đào tạo theo định
hướng nhu cầu lao động của thị trường (đào tạo gắn với sử dụng, gắn với nhu cầu
của sản xuất) tạo khả năng cung cấp lao động có chất lượng cao về tay nghề và
sức khỏe tốt, có kỹ thuật, tác phong công nghiệp, có văn hóa ... cho thị trường
trong nước và thị trường ngoài nước.
Thứ bảy, đa dạng hóa các loại hình thị trường, các lớp dạy nghề của Nhà
nước, của tư nhân và quốc tế. Áp dụng cơ chế thị trường trong dạy nghề, dần dần
hình thành thị trường phù hợp với pháp luật. Thực hiện quy hoạch đầu tư tập
trung hệ thống dạy nghề kỹ thuật thực hành qua lao động trực tiếp; đặc biệt là xây
dựng các trường dạy nghề trọng điểm quốc gia. Đối với tỉnh, thành phố cũng phải

có trường dạy nghề; các quận và huyện cũng cần có các trung tâm dạy nghề; cổ
phần hóa các cơ sở dạy nghề công lập, phát triển cơ sở dạy nghề ngoài công lập
để giảm chi phí ngân sách cho Nhà nước. Đa dạng hóa các kênh giao dịch trên thị
trường lao động bằng thông qua các hệ thống thông tin, quảng cáo, trang tin việc
làm trên các báo, đài và tổ chức các hội chợ việc làm để tạo điều kiện cho các
quan hệ giao dịch trực tiếp giữa người lao động và người sử dụng lao động ký kết
các hợp đồng lao động theo đúng quy định của pháp luật. Xây dựng và hoàn thiện
hệ thống thông tin thị trường lao động quốc gia và nối mạng trước hết ở các vùng
kinh tế trọng điểm, các thành phố lớn, các khu vực công nghiệp tập trung và cho
cả xuất khẩu lao động để giúp người lao động tìm kiếm việc làm thuận lợi nhất.


KẾT LUẬN
Như vậy, có thể thấy rằng chất lượng nguồn lao động của nước ta hiện nay
đang còn rất thấp, trong khi nhu cầu sử dụng lao động có tay nghề, chất lượng


cao của các DN lại liên tục tăng. Điều này dẫn đến nguồn lao động của chúng ta
dồi dào, nhu cầu việc làm lớn, nhưng các doanh nghiệp vẫn rơi vào tình trạng
thiếu lao động. Có rất nhiều điều cần phải làm để khắc phục những hạn chế nêu
trên, tuy nhiên, điều quan trọng nhất cần phải làm được, đó là hình thành và phát
triển năng lực làm chủ của nguồn nhân lực. Cải tổ toàn diện giáo dục - đào tạo và
gia tăng sức ép cạnh tranh thông qua hội nhập là hai giải pháp có tính chất nền
gốc để giải quyết triệt để những hạn chế, đồng thời mở ra những hướng đi triển
vọng cho việc nâng cao chất lượng lao động và việc làm trong trong bối cảnh
hiện nay.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tài liệu giảng dạy kinh tế học vĩ mô _ Biên soạn: TS. TRẦN THỊ HÒA



2. Những hạn chế về lao động và việc làm trên thị trường lao động ở Việt Nam
hiện nay />3. Thị trường lao động của Việt Nam: định hướng đúng để phát triển bền vững:
/>4. Chính sách việc làm: Thực trạng và giải phápThs. Nguyễn Thúy Hà
/>


×