Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

hiện thực và huyền ảo trong tác phẩm trăm năm cô đơn của márquez

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.47 KB, 17 trang )

Đề tài: HIỆN THỰC VÀ HUYỀN ẢO TRONG TÁC
PHẨM TRĂM NĂM CÔ ĐƠN CỦA MÁRQUEZ


1. HUYỀN THOẠI NHƯ MỘT PHƯƠNG THỨC NGHỆ THUẬT ĐẶC TRƯNG
TRONG TRĂM NĂM CÔ ĐƠN
1.1. Macondo – không gian huyền ảo, thần thoại
Trở đi trở lại nhiều lần trong các sáng tác của Márquez ở cả truyện ngắn, truyện vừa và
tiểu thuyết, Macondo là không gian hư cấu đặc trưng mang tính liên văn bản, xuất hiện
trong nhiều sáng tác của nhà văn như: Bà già Montien, Một ngày sau thứ bảy, Buổi
chiều kỳ diệu của Bantaxa, Độc thoại ngắm mưa của Isabel ở làng Macondo, Biển của
thời đã mất, Đám tang Bà mẹ vĩ đại, Ngài đại tá chờ thư…
Đây là thành phố do Márquez tưởng tượng ra, nơi đây ông đã chắp cánh cho biết bao
câu chuyện quái dị và hấp dẫn. Aracataca quê hương tác giả sống có nhiều điểm tương
đồng với Macondo. Cho đến nay, người dân Aracataca tự hào với cái tên Macondo và tự
hào đón chào du khách bằng tấm biển: “Welcome to Macondo” (Chào mừng các bạn
đến với Macondo). Trong tiếng địa phương, “ara” chỉ một con sông nhỏ, còn “cataca”
là tên của một tộc người cư trú ở đó. Macondo trong mỗi tác phẩm của nhà văn lại có
những nguồn gốc tên gọi khác nhau.
Macondo trong Trăm năm cô đơn là một thị trấn nhỏ bé nhưng mang tầm vóc Mỹ
Latinh. Nơi đây chứng kiến bao thăng trầm của cả một dòng họ, một cộng đồng dân cư.
1.1.1. Hành trình khám phá ra Macondo khác thường
Về mặt địa lý, Macondo gắn với cuộc hành trình đi tìm biển nhằm thoát khỏi mặc cảm
tội lỗi của vợ chồng José Arcadio Buendía và một nhóm bạn bè của ông. Hai nhân vật
lập ra làng Macondo có những nét tương đồng với ông ngoại (người hay nặn hình
những con cá vàng) và bà ngoại nhà văn (người thường đổ những chiếc kẹo hình con
thú). Cuộc chạy trốn ấy bắt nguồn từ huyền tích của tổ tiên José Arcadio Buendía và
Úrsula. Sau thảm họa bị tên cướp biển Francis Drake tấn công, bà tổ của Úrsula quá
kinh ngạc đến mức quẫn trí ngồi vào bếp than hồng, kết quả là những vết sẹo cháy đã
biến cụ thành “người vợ ăn bám suốt đời”. Kể từ đó, cụ thu mình trong ốc đảo của riêng
mình, bị ám ảnh bởi ý nghĩ người mình phả ra mùi khó chịu. Tự cụ tổ bà của Úrsula


giam hãm mình trong cảm giác sợ hãi. Giải pháp được chồng bà lựa chọn là di cư đến
miền xa biển, xây phòng ngủ không cửa sổ với mong muốn xua tan những cơn ác mộng
của vợ. Phản ứng trước thái độ của vợ, cụ tổ ông của Úrsula cũng lựa chọn giải pháp có
thể nói là tối kiến nhất. Thay vì việc cố gắng động viên vợ hòa nhập với cuộc sống, cụ
lại vô tình “tiếp tay” cho nỗi cô đơn gặm nhấm tâm hồn vợ ngày một nhanh hơn. Cũng
từ đó, những cuộc hôn nhân cận huyết giữa con cháu cụ tổ Úrsula và Don José Arcadio
Buendía diễn ra.


Bản thân những cuộc hôn nhân cận huyết đã dung chứa trong mình nét mông muội của
loài người. Hậu quả của nó chỉ là vấn đề thời gian. Chính vì thế, hình ảnh chiếc đuôi
lợn sau mỗi lần sinh con luôn ám ảnh họ. Cho đến cuộc hôn nhân của Úrsula và Don
José Arcadio Buendía, với lời tuyên bố với vợ rằng có đẻ ra lợn anh ta cũng cóc cần, bi
kịch của họ đã thực sự bắt đầu. Sau thời gian khá dài luôn mặc chiếc quần trinh tiết do
mẹ may, Úrsula buộc phải bỏ nó vì câu khích bác của Prudencio Aguilar cay cú bởi thua
chọi gà với José Arcadio Buendía. Sự kiện xảy ra chỉ mang tính thường nhật. Thế
nhưng người trong cuộc lại không làm chủ được bản thân. Những lời khích bác đó cũng
khiến Prudencio phải trả giá bằng cả tính mạng của mình, chết tươi bởi cây giáo của
José Arcadio Buendía phóng đi với sức mạnh của một con bò tót. Vợ chồng José
Arcadio Buendía ý thức rất rõ hậu quả cuộc hôn nhân của mình, thế nhưng họ vẫn chấp
nhận nếu đẻ ra kỳ đà thì sẽ nuôi kỳ đà. Trớ trêu thay, sau cái chết của mình, Prudencio
Aguilar liên tục hiện về ám ảnh hai vợ chồng. Không thể chịu nổi mặc cảm tội lỗi, họ
quyết định tìm đến miền đất hứa để linh hồn anh ta được thanh thản.
Rõ ràng, cuộc hành trình đi tìm biển của những Buendía không xuất phát từ mục đích
khám phá miền đất mới, mà thực chất là cuộc chạy trốn giữa cõi dương (những người
đang sống) và cõi âm (linh hồn chết). Macondo là điểm dừng chân để thoát khỏi bóng
ma của Prudencio Aguilar. Chính vì vậy, cuộc hành trình ấy sẽ không thể thiếu sự hiện
diện của những bóng ma. Bởi lẽ sự ám ảnh không có giới hạn về không, thời gian. Điều
đó được minh chứng bởi sự trở lại của bóng ma Prudencio Aguilar để trò chuyện cùng
José Arcadio Buendía khi ông bị trói bên gốc cây dẻ vì chứng lẩn thẩn. José Arcadio

Buendía không những không chạy trốn được bóng ma Prudencio mà còn rơi vào cái bẫy
do chính mình gài sẵn. Cuối cùng, cục diện thay đổi hoàn toàn, bóng ma ông chạy trốn
lại trở thành bạn tâm giao lúc sắp lìa đời. Ngược lại, những người thân yêu nhất lại trở
nên xa lạ. Ngay cả giải pháp gia đình chọn: trói ông dưới một gốc cây dẻ khi ông mắc
chứng điên loạn cũng là nguyên nhân đẩy ông đến vương quốc cô đơn nhanh hơn.
1.1.2. Nguồn gốc và ý nghĩa tên gọi Macondo - huyền thoại
Về mặt tên gọi, cái tên Macondo cũng không xuất phát từ cơ sở phong thủy, địa lý, mà
lại xuất phát từ giấc mơ kì lạ của José Arcadio Buendía. “Trong đêm ngủ lại bên một
con sông nhiều đá, nước trong như một dải pha lê đông lạnh, José Arcadio Buendía nằm
mộng thấy ngay ở đó một thành phố đông vui với những ngôi nhà có tường kính mọc
lên. Ông hỏi đó là thành phố gì và được trả lời bằng một cái tên chưa bao giờ nghe thấy
và chả có ý nghĩa gì nhưng nó cứ vang vọng trong mơ: Macondo. Ngay ngày hôm sau,
ông thuyết phục các bạn mình rằng sẽ chẳng bao giờ bọn họ tìm thấy biển. Ông hạ lệnh
cho họ phát quang một vùng bên cạnh sông, nơi thoáng mát hơn và tại đó họ lập làng” .
Tưởng như ngẫu nhiên, nhưng với Márquez lại là ý đồ nghệ thuật. Đặc biệt, bản thân ý
đồ nghệ thuật đó cũng mang màu sắc huyền thoại. Tác giả cũng không lý giải được cái


tên Macondo có thật hay không. Trong ngôn ngữ Bantu, Macondo nghĩa là chuối. Loài
cây này trở đi trở lại trong suy nghĩ của cậu bé hay ưu tư và sầu muộn ngay từ thủa còn
thơ. Trong Hồi ức Sống để kể lại,Márquez kể rằng trong dịp cùng mẹ về Aracataca để
bán ngôi nhà cũ của bà ngoại, tàu dừng lại trước một đồn điền trồng chuối mang tên
Macondo. Lớn lên, ông nhận rằng hồi đó mình rất thích cái tên Macondo vì khi đọc
nghe rất nên thơ.
Khi dùng tên gọi Macondo trong tác phẩm của mình, ông tìm thấy trong một cuốn Bách
khoa toàn thư giải thích đó là một loài cây vùng nhiệt đới, giống cây gạo nhưng không
có hoa và quả, thân gỗ xốp thường được dùng làm thuyền độc mộc và đồ dùng nhà bếp.
Tiếp đó, ông lại phát hiện ra trong một cuốn Bách khoa toàn thư của Anh ghi rằng ở
Tanganyika có một tộc người du mục tên là Makondos. Nhà văn cho rằng cách giải
thích này là hợp lý hơn cả. Tuy nhiên, Márquez cũng nói rằng ông đã từng nhiều lần hỏi

ở vùng trồng chuối để xác minh nhưng không ai biết loài cây đó là cây gì. Vì thế, ông
nhận định rất có thể trên cõi đời này nó cũng chưa hề tồn tại.
Như thế, chính tác giả cũng không xác minh được ý nghĩa thực tại của Macondo. Có
nhiều cách giải thích được đưa ra, nhưng không có một khẳng định nào chính xác. Cái
tên là sự kết hợp giữa thực và mơ ngay trong ý nghĩa đời thường của nó. Nó ít nhiều
mang dáng dấp của ngôi làng nguyên mẫu Aracataca - quê hương của tác giả.
1.1.3. Diễn tiến vòng tròn, khép kín kì lạ
Khởi nguồn từ giấc mơ của José Arcadio Buendía và chỉ còn là “một cơn lốc dữ dội đầy
bụi và rác rưởi cứ xoáy tít mù được nói tới trong Kinh thánh vần vũ”, thành phố ảo ảnh
Macondo bị gió cuốn đi cùng lúc Aureliano Babilonia giải mã xong tấm da thuộc của
Melquíades. Một không gian tựa như trong Kinh thánhtừ buổi hồng hoang cho đến
ngày khải huyền, dường như tiền định. Chẳng thế mà, lịch sử Macondo nằm gọn trong
những trang da thuộc cụ già người Digan viết. Nếu như ngày tận diệt trong Kinh thánh:
“Tiếng kèn của vị thần thứ nhất nổi lên. Mưa đá và lửa với máu trút xuống trái đất. Một
phần ba mặt đất bị thiêu hủy, một phần ba cây cối bị thiêu hủy và tất cả cỏ xanh bị thiêu
hủy…” [Kinh thánh Tân ước, tr. 20] thì Macondo phải trải qua cơn mưa bốn năm mười
một tháng hai ngày, tiếp đó lại bị rang khô trong hạn hán mười một năm, để rồi cuối
cùng bị cuốn phăng đi cùng gió. Những thiệt hại do thiên nhiên gây ra không thể tưởng
tượng nổi. Nguyễn Du từng khái quát số phận của hồng nhan: “Đau đớn thay phận đàn
bà. Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung” chỉ trong hai câu thơ thì Márquez đã khái
quát sự hình thành và diệt vong của Macondo trong Trăm năm cô đơn trong một câu
văn: “Vùng đất trước đây cụ José Arcadio Buendía đã khai phá trong thời lập làng, và là
nơi sau này mọc lên các đồng chuối nhiều vô kể, giờ chỉ còn là một bãi lầy những dây
nho mục, mà trong vài năm nó đã cho phép người ta nhìn thấy bọt biển trắng xóa trên
biển xanh biếc ở đường chân trời xa xăm” . Nó là một vòng tròn khép kín, có điểm khởi


đầu và kết thúc, thậm chí kết thúc không để lại một dấu vết gì. Thành phố bị cuốn
phăng theo gió và bụi, cũng như số phận của những nhân vật mà nó bao bọc và theo
đúng kiểu như thế. Remedios-người đẹp cùng với những chiếc chăn thô bay về trời, lão

trượng José Arcadio Buendía ra đi trong cơn mưa hoa vàng. Các nhân vật và cả làng
Macondo dường như chỉ có một phần nhỏ bé thuộc về trần thế.
Trong suốt quá trình phát triển của mình, khung cảnh và những biến cố gắn với
Macondo thực sự chỉ có trong mơ. Thế nhưng, nhà văn lại cho người ta cảm giác đó là
giấc mơ có thật. Bởi lẽ, ở nơi đó, cuộc sống thường nhật của con người vẫn diễn ra, chỉ
có điều, theo cách riêng của họ.
Cảnh tượng ban đầu của Macondo quả thật mới chỉ thấy trong cổ tích. Đó là “một ngôi
làng gồm vài chục nóc nhà trách vách đất dựng bên bờ con sông nước trong như pha lê,
ào ào chảy qua những tảng đá nhẵn thín thời tiền sử. Thế giới lúc ấy còn ở buổi hồng
hoang, chưa có tên gọi các đồ vật và để gọi chúng cần phải dùng ngón tay chỉ đích vào
từng cái một”. Nơi đó không có ai quá ba mươi tuổi, không có người chết và nghĩa địa.
Người ta chỉ thấy những ngôi nhà trắng như những con bồ câu, nghe được tiếng chim
hót líu lo với đủ các loại chim hoàng yến, tổ đỏ, axuleho. Hơi thở thanh bình của cuộc
sống tràn đầy, khiến người ta có cảm giác đó là một không gian lý tưởng cho cuộc sống
của con người. Sự thật, đó là lại một không gian khép kín, tù túng, và chỉ thật sự bộc lộ
điểm yếu của mình khi họ sống cô đơn, thu mình trong ốc đảo lạnh lẽo. Nó chỉ giữ
được vẻ thanh bình ấy trong một thời gian ngắn, khi chưa có những xáo trộn của cuộc
sống, chưa có sự xuất hiện của người Digan và người Ả Rập.
José Arcadio Buendía và bạn bè của mình sau những ngày tháng miệt mài tìm kiếm con
đường để giao lưu với bên ngoài đã hoàn toàn tuyệt vọng, Macondo đã bị nước vây
quanh, là một ngôi làng tù đọng, như chính quan niệm địa lý về Aracataca cũng như Mỹ
Latinh của Márquez. Chính vì thế, nhà văn gửi gắm vào hình tượng Macondo ước mơ
về một xã hội văn minh, nói cách khác chính là không gian đối thoại, không gian giao
lưu văn hóa của quê hương mình.
Sự xuất hiện của những cái được gọi là văn minh do người Digan và Ả Rập mang tới
hầu hết đều đem đến thảm họa cho Macondo. Bản thân những phát minh ấy là hữu ích,
tiến bộ, nhưng do cách tiếp nhận thiếu hiểu biết, thậm chí mù quáng của dân làng
Macondo mà trở nên phản tác dụng. José Arcadio Buendía sẵn sàng đổi mọi của cải làm
ra để được trải nghiệm những phát minh. Ông thậm chí ngồi hàng giờ để nấu vàng, và
cuối cùng là bao nhiêu tích lũy của vợ bị ông làm tiêu tan hết. Ông nhận thức được tính

mới mẻ của nó nhưng lại không sử dụng đúng mục đích. Vì thế, tất cả những phát minh
ấy chỉ khiến đầu óc ông trở nên điên loạn, để cuối cùng từ một trưởng làng ngăn nắp,
gọn gẽ, ông trở nên lẩn thẩn và bị trói vào gốc cây dẻ. Những đứa trẻ nhà Buendía say
mê với các phát minh đến nỗi trở thành nỗi ám ảnh. Nỗi ám ảnh mạnh đến mức nhiều


năm sau này, khi đã đi nhiều, trải nhiều, đứng trước họng súng của đội hành hình, đại tá
Aureliano vẫn nhớ đến buổi chiều xa xưa khi được cha đưa đi xem nước đá.
1.2. Biểu hiện các yếu tố kì ảo
1.2.1 Những lời dự báo, tiên tri
Trong tiểu thuyết Trăm năm cô đơn, chúng ta bắt gặp những hiện tượng thuộc đời sống
tiền logic của những nhân vật. Đó là khả năng tuyệt vời của đại tá Aurêlianô
Buênđya, là một người trầm tính nhưng chàng luôn làm cả nhà ngạc nhiên bởi
những tiên đoán hết sức chính xác của mình. “Một ngày nọ, cậu bé Aurêlianô mới
lên ba, bước vào phòng bếp giữa lúc Ucsula nhắc nồi canh ra khỏi bếp và đặt nó lên
bàn, chính trong ngày này bà mới nhận ra sức nặng của cái nhìn ấy. Cậu bé thập thò
ngoài của sổ nói “nó sẽ đổ đấy”, cái nồi đã được đặt chắc chắn trên bàn, nhưng bỗng
nhiên đúng như lời cậu bé báo trước, nó bắt đầu rung lên bần bật rồi lăn ra mép bàn như
có sức đẩy từ bên trong và nó vỡ toang từng mảnh trên sàn nhà”
Đó là dự báo trước của Aurêlianô cho cả nhà biết sẽ có người lạ đến ở nhà mình
khi Rêbêca trên đường đến làng Macônđô cùng với những người Digan “có người
đến nhà mình đấy (…) quả nhiên Rêbêca đến vào một ngày chủ nhật”. Hay là khả
năng ngoại cảm của ông về cái chết của Hôsê Accadiô Buênđya đã làm Usula hoảng
hốt. Dù ở xa nhưng Aurêlianô vẫn cảm nhận được cái chết của Hôsê Accadiô Buênđya
đang đến gần khi ông cho sứ giả mang bức thư báo cho gia đình biết trước hãy trông
nom cha cẩn thận vì cha sẽ mất.
Đó có thể là những điềm báo trước những sự việc sắp xảy ra mà những người
thuộc dòng họ Buênđya cảm nhận được. Linh tính đã báo trước cho Usula trước buổi
hành hình đại tá Aurêlianô khi bên tai bà bỗng nghe tiếng nói của anh. Hay là là điềm
báo trước cho bà về việc đại tá Aurêlianô sẽ tự tử “Usula mở vung nồi sữa đang nấu

trên bếp, ngạc nhiên thấy rằng sao nó lâu sôi thế và cụ thấy giòi bọ đầy nồi sữa”. Vào
những năm cuối đời mình, Amanta cũng đã linh tính được rằng cái chết của mình sẽ
đến sớm hơn dự định vài năm nên bà đã tự may đồ liệm cho mình và nhận những bức
thư của người còn sống mang xuống mộ gửi cho người đã chết.
Đó là khả năng đồng cảm tuyệt vời giữa hai chú bé Hôsê Accađiô Sêgunđô và
Aurêlianô: khi người này uống nước chanh thì người bên kia nói đúng một trăm phần
trăm là nước chanh không pha đường, bên cạnh đó họ còn có những đặc điểm sinh hoạt
giống nhau “họ cùng dậy một lúc, cùng vào nhà tiêu một giờ, cùng chịu cơn trái nắng
trở trời và họ mơ thấy giấc mơ giống hệt nhau”. Chỉ khi lớn lên họ mới mang những nét
khác biệt nhau, nhưng đến khi chết họ lại giống nhau như đúc khiến người ta nhầm lẫn
người này sang người khác như khi họ còn nhỏ. Những linh tính, điềm báo đó nó như


một thứ giác quan thứ sáu giúp con người cảm nhận dược những sự việc, những biến cố
quan trọng sẽ xảy ra trong cuộc đời mình hoặc của những người thân mình.
Những hiện tượng đó khó giải thích, nhất là ở làng Môcônđô còn chìm đắm trong u mê
lạc hậu này nhưng nó đã tồn tại trong nhận thức của dân chúng thời xưa. Nó như một
biến ảo kì diệu được cảm nhận bằng tâm linh, dựa trên niềm tin về một thế giới vô hình
của người dân. Đây là những hiện tượng thuộc đời sống trực quan tiền lôgic của dân
chúng mà theo G.Marquez đó là những hiện tượng có thật trong đời sống ý thức của
người dân Mỹ Latinh. Thực chất những hiện tượng đó có mặt khắp mọi nơi, tồn tại
trong mọi dân tộc nhưng nó đã được G.Marquez đưa vào tác phẩm, tạo thành những nét
độc đáo trong nghệ thuật xây dựng tác phẩm của ông. Trong sáng tác của ông người đọc
bắt gặp ông sử dụng nhiều đặc điểm của hiện tượng này, tạo nên một nét độc đáo riêng
trong phong cách sáng tác của G.Marquez.
1.2.2 Hình ảnh thiên nhiên kì diệu, dị thường
Marquez đưa vào tác phẩm những hiện tượng đời sống tinh thần kết hợp với cảm
quan người nghệ sĩ. Đó có thể là những vấn đề có thật trong cuộc sống, cũng có thể
là những chi tiết do tác giả tưởng tượng ra nhưng được tái hiện qua lăng kính chủ
quan của tác giả nó cũng mang một màu sắc huyền ảo. Vì “thực tại không chỉ bao

gồm những hoạt động thực tiễn của con người tác động vào thế giới tự nhiên, xã hội…
mà còn bao gồm cả đời sống tâm linh, niềm tôn giáo, các huyền thoại và truyền thuyết”.
Và hiện thực trong tác phẩm qua cảm quan của G.Marquez là những hư cấu tạo
nên một thủ pháp nghệ thuật.
Khi đọc tác phẩm Trăm năm cô đơn, chúng ta bắt gặp những hình ảnh kì diệu, dị
thường, phi thường qua ngoài bút khoa trương của tác giả nhằm thể hiện quan niệm, tư
tưởng của mình trước cuộc sống của con người, xã hội Mỹ Latinh thời bấy giờ.
Đó là những hình ảnh về nột trời mưa hoa trong đám ma của Hôsê Accađiô
Buêđya, một đám ma chưa từng có trong lịch sử của làng Môcônđô “Cả đem ấy
những bông hoa li ti màu vàng rơi xuống một cái làng đang trong nỗi âm thầm đau khổ.
Hoa phủ kín các nóc nhà và hoa lấp kín các lối ra vào. Bầu trời sực nức mùi hoa khiến
cho các con vật ngủ ngoài trời phải ngột thở. Hoa rơi xuống không biết cơ man nào mà
kể, đến mức khi trời sáng các con đường phủ đầy hoa phẳng lì như một tấm chăn.
Người ta phải dùng gậy mà hất hoa đi để lấy lối cho đám tang đi qua”. Trận mưa hoa
thể hiện cảm quan thương xót của G.Marquez trước con người đầy nghị lực, thông
minh, luôn đam mê hiểu biết. Hôsê Accađiô Buênđya là người khai sinh ra làng
Macônđô, người có nhiều công lao trong việc xây dựng và dẫn dắt dân làng phát
triển theo mô hình phong kiến. Ông là người được toàn bộ những người dân trong
làng kính trọng, mọi quyết định của ông trong việc xây dựng và phát triển ngôi


làng đều được mọi người đồng tình ủng hộ. Cái chết của ông không chỉ làm cho cả
làng chìm trong nỗi âm thầm đau khổ mà còn khiến trời phải động lòng rơi những
giọt mưa hoa đau xót tiến đưa.
Khi đọc hết tác phẩm Trăm năm cô đơn, có lẽ người đọc khó có thể quên ngay được
những hình ảnh về trận lụt kéo dài bốn năm mười một tháng hai ngày, trận hạn
hán mười một năm và một trận cuồng phong xóa sạch mọi dấu vết về làng
Macônđô.. Đó là những chi tiết được tác giả sử dụng ngòi bút phóng đại khoa
trương, nhằm thể hiện cảm quan của mình trước thực tại Mỹ Latinh. Bọn tư sản
Bắc Mỹ, ở đây là công ty chuối của ngài Brao khi tới làng Macônđô đã mang đến đây

nhiều phát minh mới nhưng cũng đưa đến không biết bao nhiêu là tệ nạ, nhiều thứ văn
hóa đồ trụy, làm cho ngôi làng hiền hòa năm nào giờ thay đổi một cách chống mặt.
Người Mỹ, ở đây là Brao rất xảo quyệt và tráo trở tìm mọi cách thoái thác những yêu
cầu chính đáng của công nhân đòi hỏi cho quyền lợi của họ, buộc họ phải đứng lên đấu
tranh. Khi cuộc đấu tranh lên đến cao trào, người Mỹ thẳng tay tắm máu công nhân
bằng một vụ thảm sát tất cả những ai có mặt ở sân ga và sau đó dùng đoàn tàu dài trăm
toa chở xác chết ném xuống biển như công ty chuối vẫn đổ chuối thối. Hình ảnh trận
mưa lụt thể hiện cảm quan của tác giả trước thực tại trì động đến ngày tận thế của Mỹ
Latinh. Một vùng đất lạc hậu, chậm phát triển so với sự biến đổi của thế giới
1.2.3. Hình tượng con người mang đặc điểm huyền thoại, ma quỷ
Hình tượng về con người quá dị có cái đuôi lợn - là câu chuyện về dòng họ Buênđya
tồn tại bảy thế hệ, người đầu tiên bị trói vào gốc cây và người cuối cùng đang bị kiến
ăn, một dòng họ tự lưu đày vào cõi cô đơn để chạy trốn tội loạn luân. Cái tội loạn luân
này khởi sự từ việc tên cướp biển Phranxit Đrăc tấn công Riôacha khiến các cụ tổ của
Ucsula Igoaran phải chuyển đến lập nghiệp ở một làng hẻo lánh. Tại đây các cụ tổ của
Hôsê Accađiô Buênđya đã lập nghiệp bằng nghề trồng thuốc lá. Qua ba thế kỷ, hai dòng
họ này đã có quan hệ thâm giao, cháu chắt họ lấy lẫn nhau dẫn tới thảm hoạ đẻ ra một
người đàn ông có đuôi lợn. Chính cái gương tày liếp này đã khiến cha mẹ Hôsê Accađiô
Buênđya và Ucsula Igoaran tìm mọi cách ngăn cản nhưng họ vẫn cứ lấy nhau. Khi đã là
vợ chồng rồi và dẫu Hôsê Accađiô Buênđya tuyên bố "dù có đẻ ra kỳ đà anh cũng cóc
cần". Ucsula Igoaran vẫn sợ đẻ ra đứa con có đuôi lợn, nên khi đi ngủ bao giờ cô cũng
mặc chiếc quần trinh tiết do mẹ may cho… Và rồi, những Hôsê Accađiô và những
Aurêlianô, những Rêmêđiôt và những Amaranta đã ra đời, sống cuộc đời với số phận bi
đát dường như đã được định trước: lay lắt trong nỗi cô đơn và hoài nhớ, thấp thỏm lo
phạm tội loạn luân. Và một thảm cảnh vì không biết rõ gốc gác, không nắm được
quan hệ ruột thịt, Amaranta Ucsula và Aurêlianô Babilônia đã yêu nhau mãnh
liệt, ăn nằm với nhau và lấy nhau với hy vọng tình yêu sẽ cải tạo nòi giống mình.


Nhưng họ đã đẻ ra đứa con quái thai có đuôi lợn và con vật huyền thoại này đã kết

liễu dòng họ Buênđya tồn tại bảy thế hệ.
Ở trong tác phẩm, chúng ta còn bắt gặp những nhân vật mang nhiều nét quái dị
phi thường bên cạnh những con người bình thường. Đó là những người trần mắt
thịt, những con người luôn hiện diện trong cuộc sống hàng ngày với nhiều mối quan hệ,
giao tiếp bình thường. Nhưng cũng có những nhân vật mang nhiều đặc điểm huyền
thoại, ma quái, những bóng ma luôn hiện về dằn vặt con người. Prudenxiô Aghila
chỉ vì một lời nói lỡm mà bị Hôsê Accađiô Buênđya đâm chết nhưng linh hồn của ông
vẫn vẫn vương trên trần gian với cái nhìn rầu rĩ, oán trách, dằn vặt lương tâm những
con người mang dòng họ Buênđuya. “Có một đêm mất ngủ, Ucsula ra ngoài sân uống
nước, đã nhìn thấy Prudenxiô Aghila đứng ngay bên cạnh chum. Anh ta đứng đấy da
xanh tái, vẻ rầu rĩ đang dùng nắm rơm bát để nhét vào lỗ thủng nơi cổ họng”. Ucsula và
Hôsê Accađiô Buênđya luôn thấy bóng ma của Prudenxiô hiện về vì “anh bị dằn vặt bởi
chính nỗi mênh mang của người chết từ trong mưa nhìn anh, bởi chính nỗi thương cảm
sâu sắc của người chết đối với người sống, bởi chính cơn khát của người chết lục khắp
nhà để tìm nước dấp bã lau”. Sự dằn vặt lương tâm ấy đã ăn sâu vào dòng học Buênđya,
cái chết của Prudenxiô đã tạo nên nỗi hoài nhớ do lương tri bị dằn vặt đến với các đời
con cháu trong dòng họ Buênđya. Pruđenxiô Aghila, người đến từ cõi âm là ám ảnh
trạng thái tâm lí thường gặp ở conn người mang tội lỗi. Dù họ cố gắng gạt bỏ đi tất cả
sự dằn vặt, ân hận vì tội lỗi, nỗi lo sợ bị trả thù, cố tỏ ra là người “duy vật” thì những
bóng ma vẫn bám lấy họ. Đó là trạng thái hằng nhớ, dằn vặt vặt lương tâm đã khiến
cuộc sống của họ trở thành địa ngục trần gian, bị dày vò bởi những cơn mơ va những
cơn khắc khỏi đỏ màu máu.
1.2.4 Hình tượng nhân vật khác thường, dị thường, quái dị
Tiểu thuyết Trăm năm cô đơn có khoảng sáu mươi nhân vật cả chính lẫn phụ,
nhưng độc giả vẫn dễ dàng phân biệt các nhân vật với nhau mặc dù có rất nhiều nhân
vật trùng tên giữa hệ thống nhân vật có quan hệ mật thiết với nhau. Họ được miêu tả
như những con người sống trong thực tại cùng sinh sống và tồn tại trong ngôi nhà yên
bình, hẻo lánh, họ cố mối quan hệ yêu thương lẫn nhau như vợ chồng, anh chị, mẹ con,
tình nhân,… và cũng có những mối quan hệ đối địch với nhau như quan hệ giữa phái
bảo hoàng và phái tự do. Tuy nhiên, bên cạnh những nhân vật bình thường, thì

trong thế giới nhân vật đó, tác giả dùng những biện pháp miêu tả, cường điệu,
phóng đại với phong cách quái dị pha trộn với phong cách kỳ diệu, huyền thoại và
đời thường kết hợp với hiện thực và huyền ảo để tạo nên những con ngươi phi
thường, quái dị.
Đầu tiên phải kể đến nhân vật Menkyađêt – một con người phi thường, ông già
thông thái, người gắn bó với nhiều thế hệ trong gia đình Buênđya. Menkyađêt hiện lên


trong tâm trí người đọc với hình ảnh một người đàn ông đầu đội mũ cách quạ mang
nhiều nét huyền bí về lai lịch và thân thế. “Một người Digan lực lưỡng, hàm râu lởm
chởm, bàn tay lông lá, tự giới thiệu mình là Menkyađêt, làm ngay một thí nghiệm kinh
rợn trước công chúng về cái mà ông ta gọi là kỳ quan thứ tám của các nhà thuật sĩ về
luyện đá giả kim uyên bác xứ Masêđoan”. Cùng với những người trong bộ tộc của
mình, ông đã mang những phát minh vĩ đại của thế giới bên ngoài để giới thiệu cho dân
làng Macônđô và đã làm kinh ngạc những người dân sống khép kín đến u mê lạc hậu
nơi đây. Menkyađêt trở thành người bạn thâm tam giao của Hôsê Accađiô Buêđya và đã
khơi nguồn đam mê nghiên cứu khoa học của ông.
Một nhân vật nữa được G. Marquez xây dựng mang nhiều nét phi thường, quái dị
là nàng Rêmêđiôt – người đẹp, con gái Accađiô Hôsê và nàng Santa Sôpia
Dêlapieđat. Nàng được miêu tả là một thiếu nữ tuyệt trần, vẻ đẹp của nàng ngơ ngẩn
biết bao nhiêu người đàn ông vô tình nhìn thấy. Có biết bao nhiêu chàng trai si mê và đã
chết oan vì nàng. Kẻ chết gục ngoài song cửa sổ. Kẻ lao đầu từ mái nhà xuống chết
tươi. Kẻ bị ngựa đá dập ngực mà chết. Lại có kẻ say mê nàng lại hóa rồ. Rêmêđiôt –
người đẹp được xem người hơi thở “không phải là làn hơi ái tình mà là luồng khí giết
người”. Nhưng “thực ra Rêmêđiôt – người đẹp không phải là người thuộc cõi thế tục
này. Cho đến nay khi cô đã qua tuổi dậy thì từ lâu rồi… hai mươi tuổi đầu rồi mà cô
vẫn chưa học đọc và học viết, vẫn chưa ngồi vào bàn ăn và tự dùng lấy thìa nỉa, vẫn cứ
để truồng thổn thển đi lại trong nhà bởi vì bản thể trong người cô không chịu được bất
kỳ hình thức lễ nghi nào”. Nàng sống với những hồn nhiên, ngây thơ, khờ dại mà không
để ý đến bất kỳ lời ong bướm nào của những người đàn ông đau khổ thể hiện tình yêu

đối với nàng. Nàng đã “một mình bơi trong sa mạc cô đơn, chẳng có cây thánh giá trên
vai, chìm đắm trong những giấc mơ tươi đẹp, trong những buổi tắm triền miên, trong
những bữa ăn không giờ giấc, trong chuỗi im lặng của hồi tưởng”. Nàng sống cô đơn
bởi vì những người đàn ông chỉ biết si mê sắc đẹp của nàng như một thứ cần hưởng thụ
ngay. Họ không biết cách mở của trái tim nàng, mà chỉ biết tỏ tình vụng dại ngây ngô
như cái cách của viên sĩ quan, hoặc thô bạo như cái cách của anh chằng xem trộm nàng
tắm, hoặc đểu cán như cách của kẻ bị ngựa đá dập ngực….Cái mà nàng cần là một thứ
tình cảm nguyên thủy và giản dị như tình yêu là đủ để không chỉ chinh phục được nàng
mà tránh được mọi nguy hiểm. Cõi thế tục này không phù hợp với nàng, nàng đã vẫy
tay từ biệt mọi người, vĩnh biệt cõi đời này “giữa luồng ánh sáng phập phồng của
những chiếc khăn cùng bay theo nàng, có cả mùi bò cạp và hoa mẫu đơn. Tất cả đều
theo nàng trong bầu không khí kết thúc lúc lúc bốn giờ chiều, và tất cả cùng theo nàng
biến mât trên tầng cao không khí nơi những con chim bay cao nhất cũng chẳng võ cánh
bay đến bao giờ”.
Rêbêca – một cô gái có tình yêu mãnh liệt, vẻ đẹp diệu dàng, quyến rũ nhưng cô
cũng là nười mang nhiều nét khác thường, dị thường. Xuất thân của Rêbêca là một


điều bí ẩn, không ai biết được xuất thân và gia đình, cha mẹ cô như thế nào, cô đến với
gia đình Buênđya cùng với những bao tải đựng hài cốt cha mẹ luôn phát ra tiếng kêu
lộc cọc khắp mọi nơi. Rêbêca khác hoàn toàn với những người mang dòng họ Buênđya
những thứ mà những Buênđya thiếu là trái tim và tình yêu sôi nổi thì cô lại có thừa. Cô
yêu da diết anh chàng người Ý Piêtrô Crêspi tưởng như không gì có thể chia cách tình
yêu của họ. Nhưng một lần nữa tình yêu lại đến với cô một cách mãnh liệt khi cô gặp
Hôsê Accađiô, cô yêu anh ta say đắm, cùng anh xây dựng gia đình và chia sẻ với anh
nỗi cô đơn truyền kiếp của dòng họ mình. Một đặc điểm ở nhân vật này để lại dấu ấn
sâu sắc trong lòng người đọc không phải ở sắc dẹp, tình yêu mãnh liệt mà đó là cô gái
nặng hoài nhớ ăn đất. Rêbêca “không thích ăn cơm mà trái lại chỉ thích ắn đát ẩm ngoài
sân và vách đất do cô dùng ngón tay cậy ra từ các bức tường”. Đó là đặc điểm khác
thường khu biệt dễ nhận thấy giữa nhân vật này với các nhân vật khác.

Khi đọc tác phẩm, người đọc không khỏi ngạc nhiên và buồn cười trước những
đặc điểm dị thường, quái dị của nhân vật Pêtra Côtêt. Đó là tình dục của cô ta có
ảnh hưởng quyết định đến tính mắn đẻ của bầy gia súc, “Chỉ cần anh mang Pêtra Côtêt
đến các chuồng trại, để ả ngồi trên ngựa, dẫn ả đi chơi các trang trại là đủ cho súc vật
của anh phải sinh đẻ rất nhanh”. Aurêlianô Sêgunđo là tình nhân của ả, sự nồng thắm
trong yêu đương của hai người không chỉ giúp họ thỏa mãn hạnh phúc mà khiến cho
đàn gia súc của họ sinh sôi nảy nở một cách nhanh chóng đến mức kì lạ, mang tính chất
hoang đường.

2. Hiện thực và phương thức huyền thoại hóa hiện thực trong Trăm năm cô đơn
2.1. Hiện thực
Trong tác phẩm Trăm năm cô đơn chúng ta có thể nhận thấy chủ nghĩa hiện thực trong
tác phẩm được thể hiện qua những yếu tố khách quan trong hiện thực đời sống và chủ
quan. Và trong tác phẩm ta còn thấy yếu tố hiện thực nó còn bị xóa nhòa làm cho người
đọc tưởng chừng nó là những ảo ảnh.
2.1.1 Yếu tố hiện thực được thể hiện qua hiện thực khách quan và chủ quan trong
tác phẩm
2.1.1.1Thứ nhất là chủ nghĩa khách quan trong tác phẩm
Những sự kiện lịch sử từng xảy ra ở Côlômbia và Mỹ Latinh được tác giả tái
hiện chính xác tới từng chi tiết. Ðó là cuộc nội chiến triền miên và khốc liệt giữa phái


Bảo hoàng và phái Tự do. Sĩ quan hai phái ban ngày đánh nhau kịch liệt, ban đêm làm
bạn cờ bạc. Trong Trăm năm cô đơn, điều đó được phản ảnh trong quan hệ bạn bè giữa
đại tá Aurêlianô và tướng Raken Môncađa.
VD:
Aurêlianô, hãy lấy vợ đi", ông bố vợ bảo anh. "Ta có sáu đứa con gái để cho anh
kén đấy". Có một lần, có lẽ sự việc xảy ra trước ngày bầu cử, đông Apôlina Môscôtê từ
trên tỉnh về làng đầy lo âu trước tình hình chính trị của đất nước. Những người thuộc
phái Tự do đã sẵn sàng lao mình vào cuộc chiến. Vì lúc ấy, Aurêlianô còn có những

nhận xét hồ đồ về sự khác biệt giữa những người Bảo hoàng với những người Tự do,
ông bố vợ liền giảng giải cho anh những nét đại cương. Những người Tự do, ông ta
nói, là những người Tam điểm, đám người xấu xa, ủng hộ việc treo cổ các cha cố, chủ
trương hôn nhân bình quyền và ly hôn, công nhận quyền bình đẳng giữa con hoang và
con trong giá thú, tán thành việc phân chia đất nước thành từng bang và các bang này
liên kết trong thể chế liên bang nhằm tước bỏ các quyền lực địa phương để tập trung
trong chính phủ tối cao. Trái lại những người thuộc phái Bảo hoàng, vốn đã nhận
quyền lực trực tiếp của Thượng đế, bảo vệ trật tự công cộng đã được thiết lập và đạo
đức gia đình, là những người bảo vệ Chúa Crixtô, bảo vệ cơ sở của quyền lực và không
cho phép chia đất nước thành các bang tự do.
Sự lạc hậu, cổ hủ của Mỹ Latinh được tác giả tái hiện trong tác phẩm thông qua
nhân vậtHôsê Accađiô Buênđya là một người có trí tưởng tượng và thông minh. Cảm
giác vui mừng mỗi khi những người Dagin mỗi năm đến làng vào tháng ba mỗi năm.
Và mỗi năm Menkyađêt lại đem cho làng một món quà, và những người trong làng coi
những trò tạp kỷ đó là những món vật mới, những gì đối với họ đều rất xa lạ. Đặc biệt
Hôsê Accađiô Buênđya coi trọng những món đồ đó, tỏ vẻ rất háo hức, và dám lấy
những đồng tiền của vợ mình để đổi những món vật tầm thường như: 2 thanh nam
châm, kính lúp... vì chính Hôsê Accađiô Buênđya coi rằng nó là những vật vô giá, và
bản thân mình sẽ có những phát minh vĩ đại. Đó là những suy nghĩ của Hôsê Accađiô
Buênđya nhưng sự thật đó những vật lạc hậu, tầm thường, không có gì gọi là phát minh
hiện đại nhất. Tác giả mượn nhân vật Hôsê Accađiô Buênđya là một vật biểu tượng cho
một Mỹ La tinh lạc hậu, khô càn. Và những gì nó đã lạc hậu rồi, nhưng họ vẫn nghĩ là
mới.
VD:
Trong tác phẩm ta thấy Hôsê Accađiô Buênđya, người có trí tưởng tượng thường
đi xa hơn cả bản thể của giới tự nhiên và còn vượt quá rất xa những phép màu và trò
huyền ảo, nghĩ rằng có thể sử dụng phát minh vô bổ ấy vào việc moi vàng từ trong lòng
đất. Menkyađêt, vốn là người cao thượng, nói trước cho ông biết: "Ðồ này không dùng
vào việc ấy được" Nhưng Hôsê Accađiô Buênđya lúc ấy vẫn không tin đức tính cao
thượng của người dân digan, vì vậy đã đổi ngay một con lừa và một cặp dê đực để lấy

hai thanh nam châm. Hoặc là Hôsê Accađiô Buênđya, ngay đến an ủi vợ cũng không có
ý định, đã vội dốc toàn lực vào những việc thí nghiệm với đam mêcủa một nhà khoa
học và hơn thế nữa còn dấn thân vào những nguy hiểm chết người. Ðể làmrõ hiệu quả


của kính lúp đối với quân địch, chính ông đã tự mình đứng ngay vào vùng ánh sánglà
nơi kính lúp đã hội tụ tia nhiệt mặt trời, và ông bị bỏng, những vết bỏng này trở thành
ung nhọt phải mất nhiều thời gian mới chữa lành.
Ngoài ra còn có thước đo góc, la bàn, nước đá (ở phần đầu), máy hát, máy nổ,
phim ảnh, xe lửa (ở phần cuối). Ðó là những công cụ từng được sáng chế và sử dụng
phổ biến trên thế giới nhưng vẫn là những thứ tân kì đối với dân chúng Macônđô. Do
làng ẩn sâu và tách biệt với thế giới ngoài đời chính vì thế mà những phát triển lạc hậu
đó, mà Accađiô Buênđya tưởng rằng đó là những phát triển của khoa học và anh ta bị
cuốn vào đó mà không biết rằng những cái vật đó nó đã lạc hậu rồi.
2.1.1.2 Thứ hai là chủ nghĩa chủ quan trong tác phẩm
Cái có thực mang tính chất kì diệu được tác giả đưa vào tác phẩm. Ðó là khả
năng ngoại cảm tuyệt vời của đại tá Aurêlianô Buênđya. Ðó là sự đồng cảm tuyệt đối
giữa hai chú bé sinh đôi khi người này uống nước chanh thì người kia, mặc dù không
uống, vẫn cứ nói đúng trăm phần trăm là nước chanh không pha đường..
Cái có thực được nhà văn tưởng tượng theo nguyên tắc huyền thoại hoá đẩy nó
tới mức phi thường hoặc quái dị. Ðó là trường hợp Rêmêđiôt - Người đẹp là một cô hầu
người Anhđiêng. Cô ta vốn không đẹp. Cô ta vô cớ bỏ nhà chủ và chủ nhà không hay
biết cô ta bỏ đi lúc nào và đi đâu. Trong Trăm năm cô đơn, cái cô người ở ấy đã trở
thành người trong gia đình, người đẹp và cô ta đã bay lên trời vì cô ta là hiện thực là cái
đẹp không thuộc cõi thế tục này. Ngược lại với trường hợp cô gái là vụ thảm sát hơn ba
ngàn người là chuyện có thực từng xảy ra ở Côlômbia vào cuối những năm hai mươi
thế kỉ này, nhưng đã được Gacxia Mackêt huyền thoại hoá theo hướng quái dị để bộc lộ
bản chất xấu xa, đê tiện, tàn nhẫn của tư bản Mỹ.
Tóm lại : Yếu tố hiện thực khách quan và chủ quan trong tác phẩm ta thấy nó được
nhà văn thể hiện với sự trộn lẫn và dường như bị xóa nhóa những sự kiện hiện thực

cũng như những sự kiện phản hiện thực.
2.1.2. Yếu tố hiện thực bị xóa nhòa không phân biệt được đâu là hiện thực

trong tác phẩm
Trong cuộc sống hiện thực của ngôi làng Macondo có những hình ảnh hoàn toàn
phản hiện thực nhưng lại được dân chúng xem như hoàn toàn hiện thực. Chẳng hạn như
Mauricio Babilonia, đi đâu thì từng bầy bươm bướm bay theo. Hay là nhân vật Aurelian
có một cái đuôi heo, hay cô nàng Remedios bay lên trời….do những hình ảnh phi hiện
thực này được mô tả một cách rành mạch và thản nhiên đến độ nó có vẻ thực hơn
những hình ảnh có thực cho nên rất khó quên sau khi đọc xong. Qua đó mình có thể
thoáng thấy những bí mật kỳ dị nó nằm ngay trong bản chất của cuộc sống, những bí
mật mà mình không thể tìm thấy trong nền văn chương hiện thức trước đó
Nhưng ngược lại ở chính ngôi làng Macondo đó rất nhiều điều hoàn toàn hiện
thực nhưng dân chúng lại xem như những ảo ảnh. Chẳng hạn như: nước đá, nam châm,
xe lửa, phim ảnh rồi điện thoại…họ không thể hiểu nổi vì sao một nhân vật đã chết và


đem chôn trong một một bộ phim khiến họ khóc hết nước mặt rồi sau đó chính nhân vật
ấy lại có thể xuất hiện trong một cuốn phim khác dưới hình hài của một người Ả rập?
Sự xóa nhòa bất khả phân biệt giữa hiện thực và ảo ảnh không chỉ trong cái nhìn
của người dân Macondo mà còn nằm ngay trong chính cái hiện thực chính trị ở đó nữa.
Maquez mô tả cuộc đình công trong một đồn điền trồng chuối nhưng ông luật sư của
đồn điền này tuyên bố trước công luận là không hề có một cuộc đình công nào cả vì
đồn điền không có một tập thể công nhân nào, chỉ mướn những người làm ngắn hạn và
trả lương công nhật mà thôi.
Thế rồi khi tất cả các công nhân của đồn điền nổi lên biểu tình đình công thì họ
bị giết hết. Xác của họ được chất lên xe lửa, được chở trong đêm tối một cách bí mật
đến một nơi khác để thủ tiêu hầu phi tang. Một nhân chứng đã thấy tất cả những sự thật
này nhưng nhân chứng ấy chỉ có một mình nên không thể thuyết phục ai tin vào sự thật
khủng khiếp ấy. Mọi người đều cho rằng không có cuộc đình công nào cả và cho tới các

thế hệ sau trẻ em được học trong sử ký rằng chẳng hề có cuộc đình công hay thảm sát
nào và thậm chí chẳng có cái đồn điền trồng chuối nào ở đó cả!
Nói tóm lại : Trong tác phẩm Trăm năm cô đơn, chúng ta người dân ở đó có thể xem
những điều phi hiện thực là hiện thực, nhưng chính họ lại xem những điều có thật,
hiện thực lại là những điều không hề có bởi họ bị đánh lừa bởi một hệ thống chính
trị gian manh.

2.2. Huyền thoại hóa hiện thực
Mọi yếu tố lịch sử hay mọi sự sáng tạo nên huyền thoại mới trong Trăm năm cô
đơn cũng chỉ nhằm phục vụ mục đích cốt lõi của tiểu thuyết: khám phá hiện sinh con
người (hiện thực). (Note: trong TNCD, có rất nhiều hiện thực được xây dựng trên
phương thức huyền thoại hóa. Ở đây, tập trung làm rõ hai yếu tố huyền thoại phản ánh
hiện thực bao trùm tác phẩm là Huyền thoại về đại hồng thủy và Huyền thoại về motif
loạn luân)
- Huyền thoại về đại hồng thủy, các dân tộc trên thế giới đều lưu truyền huyền thoại về
đại hồng thủy với những phiên bản khác nhau tùy theo văn hóa từng vùng đất. Trong
Trăm năm cô đơn, Marquez đã tái hiện lại huyền thoại ấy nhưng với một sự tái hiện
hiện thực và một ý nghĩa hiện sinh hoàn toàn khác. Về mặt lịch sử, trận đại hồng thủy
mang hai tầng ý nghĩa cùng phản ánh thực tại của Colombia và Mĩ Latin. Thứ nhất, đại
hồng thủy là ẩn dụ cho hậu quả của công cuộc khai thác tàn bạo đến mức kiệt quệ của
công ty chuối lên mảnh đất này. Ngôi làng Macodon không còn giữ được bản sắc của
mình mà phụ thuộc hoàn toàn vào những ảnh hưởng bên ngoài, công ty chuối rút đi đã


mang theo cả cuộc sống thinh vương, phát đạt và gây racảnh hoang tàn, ảm đạm cho
ngôi làng. Thứ hai, hồng thủy là một dạng của cổ mẫu nước cùng với ý nghĩa gột rửa tất
cả những hành viđộc ác, những tội lỗi để tái sinh một cuộc sống mới. Theo đó, đại hồng
thủy dội xuống ngôi làng Mancodon quết sạch những hậu quả của công ty chuối để lại
nơi đây. Những khácvới huyền thoại, trong Trăm năm cô đơn, cơn hồng thủy đi qua
không mang lại sự tái sinh, ngược lại, nó theo một thảm họa khác hủy diệt Mancodo.

Dưới màn sương huyền thoại, dấu vết lịch sử và thực tại xã hội Colombia vẫn hiện lên
nguyên vẹn. Cơn đại hồng thủy trong TNCD đã phản ánh phần nào hậu quả của công
cuộc khai thác của thực dân châu Âu với Colombia. Đồng thời, với tầng nghĩa tái sinh,
đại hồng thủy sẽ quyét sạch mọi hậu quả của công cuộc khai thác thuộc địa ở Colombia
và Mĩ Latinđểbắt đầu một cuộc sống mới tốt đẹp hơn. Ngoài hai ý nghĩa trên, cơn đại
hồng thủy cùng nạn hạn hán còn ám chỉ thảm họa hủy diệt do sự tàn phá môi trường ở
Colombia và Mĩ Latin. Nguồn tài nguyên cạn kiệt, môi trường ô nhiễm, thiên tai thường
xuyên khiến ruộng đồng bỏ hoang, dân cư phải đi tị nạn – đó là những thực tế mà các
quốc gia Mĩ Latin đang phải đối mặt.
- Huyền thoại với motif lọan luân,Marquez đã mở đầu TNCD bằng một cuộc hôn nhân
loạn luân và kết thúc cũng bằng mối tình loạn luân định mệnh.Sự loạn luân như một
bản lề khép mở cuốn tiểu thuyết, nó vừa là nguyên nhân vừa là hậu quả dẫn đến bi kịch
tuyệt diệt của dòng họ Buendia. Nó gợi người đọc liên tưởng đến những motif loạn luân
trong những thiên huyền thoại đã được lưu giữ đến tận ngày nay. Tuy vậy, sự loạn luân
được Marquez khoác cho một tấm áo ý nghĩa hoàn toàn mới để lí giải nhiều thông điệp
xã hội mang tính chất thời đại. Sự loạn luân trong xã hội cổ đại có nghĩa là vi phạm chế
đội ngoại hôn. Loạn luân trong các xã hội cổ đại được hiểu ở phạm vi rộng hơn cách
hiểu thời nay, không chỉ “quan hệ tình dục hay kết hôn giữa bố mẹ và con cái, giữa các
anh chị em ruột” mà còn bao gồm cả họ hàng thân thuộc như các chị em gái của mẹ hay
vợ của các anh em trai của bố, chị em họ...Vấn đề loạn luân xuất hiện từ thời nguyên
thủy và trở thành điều cấm kị. Xuất pháttừ đó, nỗi sợ loạn luân đeo bám con người từ
thế hệ này sang thế hệ khá. Và trên thực tế, khoa học đã chứng minh những thế hệ sinh
ra từ quan hệ loạn luân theo dòng máu thường suy giảm trítuệ và mắc nhiều di chứng
bệnh tật. Bởi vậy, quan hệ loạn luân không được thừa nhận và trở thành nỗi ám ảnh sợ
hãi sâu xa trong kí ức loài người. Nó mang đến nhiều hệ lụy và ảnh hưởng tiêu cực từ
xã hội cổ đạo cho đến tận ngày nay. Từ huyền thoại đi vào tiểu thuyết, motif loạn luân
đã thay đổi ý nghĩa cơ bản để giải mã những vấn đề của xã hội hiện đại. Về phương
diện xã hội, nhà văn muốn viện dẫn một vấn đề có tính quy luật đúng với mọi cá nhân,
mọi xã hội và mọi thời đại: dù là cá nhân hay xã hội, oở bất kì thời đại nào nếu chỉ biết
sồng riêng lẻ, tách biệt, từ bỏ mối quan hệ với cộng đồng thì sẽ bị diệt vong.Vớitầng

nghĩa đó, motif loạn luân trong Trăm năm cô đơn mang ý nghĩa khác xa với huyền thoại
vì nó mang hơi thở của cuộc sống hiện đại. Hơn hết, từ bi kịch một dòng họ, một ngôi
làng, Marquez đã mở rộng ra vấn đề đất nước, thậm chí toàn châu lục. Theo đó, trong


quá trình phát triển của mình nếu Colombia và khu vực Mĩ Latin đóng kín cửa không
giao lưu với thế giới bên ngoài thì sẽ mãi trong đói nghèo lạc hậu
Ngoài ra, phương thức huyền thoại hóa hiện thực còn được thể hiện ở rất nhiều
chi tiết khác như sau:
- Nhân vật Premediot bay lên trời cùng những chiếc khăn thô vàomột buổi chiều tháng
ba được xây dựng dựa trên hình tượng Đức mẹ Maria, huyền thoại này nhằm chỉ một
tình huống hiện sinh, khi cái đẹp đang từ bỏ loài người hoặc thế giới này đã không còn
chỗ cho cái đẹp trú ngụ.
- Amaranta Ursular đẻ ra đứa con có cái đuôi lợn huyền thoại thì thân phận hiện sinh
của loài người đã đến lúc cáo chung bởi một tình yêu mù quáng, loạn luân sẽ là sự tuyệt
diệt của con người.
- Vụ thảm sát hơn ba ngàn người ở Comlobia xảy ra cuối những năm 20 thế kỷ 20 đã
được huyền thoại hóa thành quái dị để tố cáo bản chất xấu xa đê tiện tàn bạo của tư bản
Mỹ.
- Huyền thoại về dòng máu của Jose Arcadio chảy dài trên phố về báo tin cho mẹ về
cái chết, thì nó đã chỉ ra tình trạng hiện sinh đẫm máu của thời hậu hiện đại, thời đại mà
con người trước khi chết không bao giờ bị tuyên án như tinh thần “Vụ án” Kapka,
không biết lí do và sẽ chẳng ai trong dòng thời gian miên viễn có thể biết được lí do mà
mình bị giết, một ám dụ về thời đại khủng bố ngày nay.
- Quỷ dữ Giudio Erante lại được xây dựng dựa trên Kinh Thánh, nó phản ánh quá trình
đàn áp Do thái giáo lẫn các tín ngưỡng địa phương của Kyto giáo.
- Sự kiện Amaranta trước khi chết đã thông báo với dân làng sẽ mang giúp thư của họ
xuống âm phủcho những người thân đã chết của họ xuất phát từ ma thuật và tín ngưỡng
của người Indian, người da đen nô lệ.
- Cơn bão tố khủng khiếp nhấn chìm làng Macondo cuối tác phẩm không phải nhằm

trừng phạt sự tha hóa, sự đánh mất đức tin của con người do Chúa trời tiến hành mà là
hệ quả của sự tàn phá tai ác của công ty hoa quả Mỹ, sau quá trình khai thác đồn điền
chuối đến cạn kiệt tự nhiên
- Huyền thoại ngày tận thế của Macodon cũng xảy ra do những mối tình loạn luân
nhằm lẫn, những tình yêu tội lỗi hoặc thói cô đơnám ảnh ngàn đời các dòng họ tại Mỹ
Latin, khiến họ không baoo giờ đoàn kết, yêu thương nhàu trong sáng suốt. Đó chính là
ý nghĩa của các huyền thoại hậu hiện đại mới được nhà văn tái sáng tạo nên.


=>Có một hệ thống huyền thoại mới đã được tái sáng tạo dựa trên những huyền thoại
cũ nhưng đó không đơn thuần là sự bắc chước, “độ” lại các huyền thoại cũ theo các
hình thức tân kì, gây sốc, mà mục đích của nhà văn đó là dựng nên một hệ thống huyền
thoại mới có khả năng khai thác và miêu tả tương thích với trạng huống hiện sinh hậu
hiện đại của con người.
3. Mối quan hệ giữa hiện thực và huyền ảo trong tác phẩm TRĂM NĂM CÔ
ĐƠN.
-

-

-

Hiện thực là cơ sở để yếu tố huyền ảo phát triển: từ những yếu tố hiện thực, tác
giả dựa vào đó để phát triển thêm yếu tố huyền ảo.
VD: Cái có thực vốn là những sự kiện lịch sử từng xảy ra ở Côlômbia và
Mỹ Latinh được tác giả tái hiện chính xác tới từng chi tiết. Ðó là cuộc nội chiến
triền miên và khốc liệt giữa phái Bảo hoàng và phái Tự do. Sĩ quan hai phái ban
ngày đánh nhau kịch liệt, ban đêm làm bạn cờ bạc. Trong Trăm năm cô đơn,
điều đó được phản ảnh trong quan hệ bạn bè giữa đại tá Aurêlianô và tướng
Raken Môncađa.tác giả đã dùng hoàn cảnh này để viết nên tác phẩm mang

nhiều yếu tố huyền ảo.
Cả yếu tố thực và ảo trong tác phẩm đều được tác giả dùng để phản ánh một vấn
đề nào đó.
VD: Cái thực để thấy được tình hình xã hội Mỹ La tin bấy giờ… chiếc
kính lúp đã làm khuynh đảo gia đình…
“Ðể làm rõ hiệu quả của kính lúp đối với quân địch, chính ông đã tự mình
đứng ngay vào vùng ánh sáng là nơi kính lúp đã hội tụ tia nhiệt mặt trời,
và ông bị bỏng, những vết bỏng này trở thành ung nhọt phải mất nhiều thời
gian mới chữa lành. Suýt nữa ông đốt nhà vì không thể chịu nổi những lời rỉa
rói của bà vợ, người từng cảnh giác trước nỗi nguy hiểm của phát minh
này.”
Cho thấy XH còn mông mụi…
Đôi khi, cả thực và ảo đan xen cùng nhau tạo ra một hiệu quả nghệ thuật nhất
định.
VD: Hiện thực trước mắt là Aghila đã chết, hiện thực tồn tại lúc bấy giờ
là nỗi đau đớn khi đồng loại chết dưới tay mình, sự ân hận và nỗi ám ảnh
đeo bám Buendia, kết hợp với chi tiết huyền ảo là bóng ma hiện lên sống
động đứng đối diện, đối mặt trực tiếp với hung thủ như đòi lại công bằng
để bớt sau đớn. Mazquez kéo hai thế giới âm dương lại gần với nhau, ông
xóa bỏ khoảng cách giới hạn giữa cõi sống và cõi chết, cho rằng chúng
đều bằng nhau. Tất cả những điều đó cùng nhấn mạnh không gian và thời
gian huyền ảo hiện thực đan xen…chỉ tâm trạng dằn vặt của Buendia.



×