Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Quy định kê khai thuế hiện nay tạo thuận lợi và gay trở ngại cho công tác kế toán thuế của doanh nghiệp thực tiễn và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (87.62 KB, 15 trang )

MỞ ĐẦU
Đối với bất kỳ quốc gia nào thì thuế cũng đóng một vai trò hết sức
quan trọng và chiếm phần lớn trong tổng thu ngân sách nhà nước. Việc thực
thi một số chính sách thuế có hiệu quả sẽ đảm bảo ổn định cho nguồn thu
này và trong cấu trúc các khoản thu về thuế thì thuế GTGT và thuế TNDN
đóng một vai trò quan trọng. Ở Việt Nam theo thống kê của Tổng cục thuế
thì 92% ngân sách Nhà nước là thu từ thuế nên cần phải có phương pháp
tính hợp lý nhằm đảm bảo sự công bằng cho các đối tượng nộp thuế kết hợp
với việc hạch toán thuế tại các doanh nghiệp phải theo đúng chế độ kế toán,
tài chính và quy định của pháp luật.
Sau hơn 9 năm thi hành Luật thuế GTGT và thuế TNDN, bên cạnh những
thành tựu đạt được, còn tồn tại nhiều vấn đề bất cập; nhất là việc kê khai
thuế với nhiều thủ tục phức tạp, rườm rà đã gây khó khăn rất lớn cho các
doanh nghiệp. Để khắc phục những khó khăn đó, bộ Tài Chính sửa đổi luật
thuế và liên tục ban hành các nghị định và thông tư hướng dẫn về thủ tục kê
khai thuế mới. Thủ tục kê khai thuế mới này đã và đang khắc phục rát nhiều
điểm yếu của thu tục kê khai thuế cũ, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh
nghiệp.
Việc nghiên cứu những thuận lợi và khó khăn của quy định kê khai thuế mới
tác động tới các doanh nghiệp như thế nào là việc làm rất cần thiết. Xuất
phát từ những điều đó, nhóm chúng tôi đã tham gia nghiên cứu đề tài: “ Quy
định kê khai thuế hiện nay tạo thuận lợi và gay trở ngại cho công tác kế
toán thuế của doanh nghiệp- thực tiễn và giải pháp” .


I. Sự thay đổi của quy định thuế
1. Sự thay đổi của Luật thuế GTGT
Sau 3 năm áp dụng Luật thuế doanh thu, ngày 05/07/1993, Bộ Tài chính ban
hành Quyết định số 486TC/QĐ/BTC về việc thực hiện thí điểm thuế GTGT
ở một số doanh nghiệp quốc doanh thuộc các ngành có quá trình chuyển từ
sản xuất đến tiêu dùng thường xuyên phải trải qua nhiều công đoạn (như sản


xuất xi măng, sản xuất sợi, dệt, sản xuất đường). Như vậy, trong thời kỳ này,
thuế GTGT đã được áp dụng song hành với thuế doanh thu đang có hiệu lực.
Đến ngày 10/05/1997, Quốc hội khoá IX, kỳ họp thứ 11 đã quyết định thông
qua Luật thuế GTGT trên cơ sở cải cách mang tính kế thừa Luật thuế doanh
thu. Từ khi ra đời đến nay, Luật thuế GTGT đã trải qua nhiều lần điều chỉnh,
sửa đổi và bổ sung vào các năm 2000, 2003, 2005. Luật thuế GTGT hiện
đang có hiệu lực là Luật thuế GTGT được ban hành năm 2008 (hiệu lực từ
01/01/2009). Luật thuế GTGT 2008 ra đời trên cơ sở thống nhất các văn bản
luật về thuế GTGT khác nhau như Luật thuế GTGT 1997, Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật thuế GTGT năm 2003, và Điều 2 Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật thuế TTĐB và Luật thuế GTGT năm 2005. Luật
thuế GTGT 2008 gồm 16 Điều, quy định những vấn đề chung về thuế GTGT
như phạm vi điều chỉnh, đối tượng chịu thuế, đối tượng không chịu thuế; các
căn cứ và phương pháp tính thuế; việc khấu trừ, hoàn thuế; và các điều
khoản thi hành. Những quy định chi tiết về việc thi hành Luật thuế GTGT
được thể hiện thông qua các nghị định của Chính phủ và thông tư hướng dẫn
của Bộ Tài Chính.


2. Sự thay đổi của Luật thuế TNDN
Ở Việt Nam, Luật thuế TNDN được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam thông qua ngày 10/05/1997 và có hiệu lực thi hành từ ngày
01/01/1999 thay cho Luật thuế lợi tức.
Cùng với công cuộc cải cách thuế bước 1 năm 1990, Luật thuế lợi tức đã
được ban hành. Tuy nhiên qua 8 năm thực hiện, Luật thuế lwoij tức dần dần
bộc lộ nhiều nhược điểm và không còn phù hợp với tình hình kinh tế Việt
Nam trong giai đoạn mới: giai đoạn mở rộng quan hệ hợp tác với các nước
trong khu vực và trên thế giới. Vì vậy, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp đã
được ban hành nhằm đảm bảo sự phù hợp với yêu cầu phát triển của nền
kinh tế trong giai đoạn mới.

Như vậy với sự thay đổi của Luật thuế GTGT và thuế TNDN, quy định kê
khai thuế cũng thay đổi. Theo quy định cũ, người nộp thuế phải điền thông
tin vào tờ khai và mang đến nộp trực tiếp tại cơ quan thuế. Theo quy định
mới, người nộp thuế sẽ tiến hành kê khai thuế qua mạng. Sự thay đổi này đã
tạo rất nhiều thuận lợi cho các doanh nghiệp.


II. Thuận lợi
1. Thứ nhất
Người nộp thuế có thể nộp hồ sơ khai thuế 24/24 giờ trong ngày, 7/7 ngày
trong tuần mà không lệ thuộc vào giờ hành chính của cơ quan thuế.
Kê khai thuế qua mạng không giới hạn số lần gửi 1 tờ khai, khi doanh
nghiệp kê khai sai và vẫn còn hạn nộp tờ khai, doanh nghiệp có thể gửi tờ
khai thay thế với số lần gửi thay thế không hạn chế trước 24h ngày cuối
cùng nộp tờ khai vẫn không bị tính nộp chậm. Xét về không gian và thời
gian cũng không giới hạn, DN có thể khai thuế qua mạng khi ở cơ quan,
đang đi du lịch, đang về quê cùng gia đình, đang đi công tác đột xuất…; hay
gửi tờ khai vào tất cả các ngày kể cả ngày lễ, tết, thứ 7, chủ nhật và có thể
gửi vào bất kỳ thời gian nào trong ngày từ 0h00 đến 24h00.
2. Thứ hai
Hồ sơ khai thuế qua mạng có tính pháp lý cao, dễ tổ chức lưu trữ lâu dài,
giảm chi phí in giấy tờ, in ấn, giảm chi phí thơi gian nộp hồ sơ cho người
nộp thuế.Trường hợp không có mặt ở trụ sở, người đại diện doanh nghiệp
vẫn có thể tự ký chữ ký số và khai thuế thông qua mạng internet hoặc có thể
uỷ quyền quản lý chữ ký số cho người được tin cậy để ký và nộp tờ khai.
Những thông tin và số liệu khai thuế của doanh nghiệp gửi đến cơ quan thuế
một cách nhanh chóng, chính xác và đảm bảo, không sai sót, nhầm lẫn do
phần mềm hỗ trợ kê khai đã hỗ trợ tính toán, kiểm tra lỗi không cố ý khi
khai thuế.
3. Thứ ba

Khi thực hiện giao dịch điện tử với cơ quan thuế người nộp thuế có thể được
cung cấp thêm những tiện ích khác thông qua cổng điện tử của cơ quan thuế.
Trong trường hợp bị mất dữ liệu hồ sơ khai thuế, người nộp thuế có thể đề
nghị cơ quan thuế hỗ trợ cung cấp ngược lại hồ sơ mà mình đã gửi trước
đây.
Hiện nay, Tổng cục thuế đã phối hợp với các ngân hàng để cung cấp dịch vụ
nộp thuế điện tử, bao gồm:
• Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt
Nam(BIDV)
• Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank)
• Ngân hàng TMCP Quân đội (Mbbank)
• Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam (Vietinbank)
• Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam
(Agribank)


Các ngân hàng này cung cấp thêm rất nhiều chức năng hỗ trợ cho người nộp
thuế thực hiện nộp thuế điện tử:
• Chức năng đăng ký sử dụng dịch vụ nộp thuế điện tử
• Chức năng lập giấy nộp tiền, gửi giấy nộp tiền(có hỗ trợ thông tin số
thuế phải nộp)
• Chức năng tra cứu chứng từ, tra cứu thông tin
• Chức năng cập nhật thông tin người nộp thuế

4. Thứ tư
Khi nộp hồ sơ khai thuế qua mạng, cơ quan thuế sẽ xử lý cập nhật dữ liệu tự
động, tránh được sai sót trong khâu nhập tin, tạo điều kiện cho cơ quan thuế
lưu trữ hồ sơ dạng điện tử, tiết kiệm được ngân sách nhà nước trong công tác
luân chuyển lưu trữ hồ sơ.
Đối với cơ quan thuế, khai thuế qua mạng là một nội dung quan trọng đối

với công tác cải cách và hiện đại hóa ngành thuế. Đây là giải pháp nhằm
giảm tình trạng quá tải, áp lực cho các cơ quan thuế mỗi khi đến kỳ hạn nộp
hồ sơ khai thuế. Giảm thời gian, nhân lực tiếp nhận tờ khai, đặc biệt là giảm
rất nhiều chi phí cho việc lưu trữ hồ sơ khai thuế cũng như tìm kiếm thông
tin.


III. Khó khăn
Báo cáo thuế hàng tháng, quý, năm là một trong mối lo hàng đầu của
các doanh nghiệp mới thành lập, doanh nghiệp vừa và nhỏ. Kinh phí chưa
sẵn sàng cho bộ máy kế toán hoạt động, trong khi đó các qui định, luật định,
thông tư, nghị định, công văn về chính sách thuế thường xuyên thay đổi do
vậy việc nắm bắt kịp thời những thay đổi này không phải ai cũng có thể làm
được.
Ví dụ: năm 2014 có rất nhiều quy định mới về pháp luật liên quan đến
hoạt động kế toán, thuế của doanh nghiệp. Trên cơ sở nghiên cứu các quy
định pháp luật hiện hành đã tập hợp được một số điểm mới như:
• Quy định mới về kê khai thuế giá trị gia tăng: luật số 31/2013/QH13
sửa đổi bổ sung một số điều của luật thuế GTGT, nghị định
209/2013/NĐ-CP hướng dẫn luật thuế GTGT và luật sửa đổi một số
điều luật thuế GTGT: bỏ quy định thời hạn kê khai thuế GTGT đầu
vào trong vòng 6 tháng. Doanh nghiệp được kê khai trước khi có
thông báo thanh tra, kiểm tra của Cơ quan thuế từ 01/01/2014.
• Ngoài ra, nhiều nội dung thay đổi cơ bản khác như: Chuyển một số
dịch vụ đang từ không chịu thuế sang thuế suất 10%, việc áp dụng
phương pháp khấu trừ thuế có quy định ngưỡng doanh thu; riêng
phương pháp tính trực tiếp trên GTGT được thay đổi tính trên tỷ lệ
GTGT bằng tỷ lệ % trên doanh thu, thay đổi về thời gian hoàn thuế từ
3 tháng lên 12 tháng đồng thời thay đổi mức tiền thuế GTGT được
hoàn theo tháng đối với hàng hóa dịch vụ xuất khẩu, dự án đầu tư

mới…quy định mới về khấu từ thuế đầu vào đối với tài sản cố định …
• Quy định mới về quản lý thuế : công văn 8355/ BTC – TCT, nghị định
83/2013/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều có hiệu lực từ ngày 01
tháng 7 năm 2013 của luật sửa đổi luật thuế giá trị gia tăng:
 Mua hàng hóa dịch vụ từ 20 triệu trở lên không thanh toán qua
ngân hàng ko được tính vào chi phí tính thuế, kể cả hóa đơn
trực tiếp từ 01/01/2014;
 Doanh nghiệp mới mở tài khoản ngân hàng phải thông báo cho
Cơ quan thuế theo mẫu 08-MST trong vòng 10 ngày từ
01/01/2014;
 Khai thuế GTGT theo tháng : Áp dụng cho các doanh nghiệp có
doanh thu năm 2012 trên 20 tỷ hoặc các doanh nghiệp thành lập
hoạt động chưa đủ 12 tháng trong năm 2012 hoặc doanh nghiệp
mới thành lập trong năm 2013;


 Khai thuế GTGT theo quý :Các doanh nghiệp hoạt động đủ 12
tháng ( thành lập từ tháng 01/2012 trở về trước ) có doanh thu
năm 2012 dưới 20 tỷ; các doanh nghiệp chưa đủ 12 tháng thì
hoạt động đủ 12 tháng, sau đó năm dương lịch kế tiếp sẽ khai
thuế GTGT theo quý nếu doanh thu năm trước liền kề dưới 20
tỷ.
Chính sự đổi mới thường xuyên của các quy định về thuế, việc ban hành liên
tục các nghị định thông tư hướng dẫn sửa đổi bổ sung đã làm cho các doanh
nghiệp khó khăn trong việc tiếp cận các quy định mới này.
Gần đây, một cuộc khảo sát của Hội Tư vấn thuế Việt Nam đã được tiến
hành tại 69 doanh nghiệp, trong đó Tp.HCM là 22 doanh nghiệp, Hà Nội 15
doanh nghiệp, Đồng Nai 23 doanh nghiệp và Bắc Ninh 9 doanh nghiệp.
Trong số này, có 17 doanh nghiệp tư nhân (24,64%), 31 doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài (44,93%), 11 doanh nghiệp là công ty TNHH/công ty

cổ phần có vốn nhà nước (15,94%), 1 doanh nghiệp nhà nước và 10 doanh
nghiệp thuộc loại hình khác (14,45%).
Theo các doanh nghiệp, các vấn đề khó khăn nhất về chính sách, thủ tục
hành chính thuế thường gặp là việc luật thuế thay đổi thường xuyên nên
chưa cập nhật kịp; nội dung văn bản chưa thống nhất về từ ngữ dễ gây hiểu
nhầm. Một số chính sách giữa các văn bản còn chưa đồng nhất và văn bản
sửa đổi bổ sung nhiều.
Trong khi đó, với các quy định về ưu đãi thuế và xác định đối tượng
được hưởng ưu đãi, các doanh nghiệp cho rằng hiện có nhiều hồ sơ thủ tục
hành chính thuế nên việc giám sát khó khăn; cán bộ thuế gặp rủi ro nghề
nghiệp khi giải quyết hoàn thuế liên quan đến hóa đơn của các doanh nghiệp
bỏ trốn, trong khi các vấn đề khác như các quy định về kê khai và nộp thay
thuế nhà thầu khó thực hiện và khai thuế qua mạng thường bị nghẽn vào thời
điểm khai thuế cũng là mối quan tâm của các doanh nghiệp.
Bên cạnh việc ban hành hàng loạt các luật, nghị định, thông tư hướng dẫn
sửa đổi bổ sung liên tiếp, Các cục thuế, chi cục thuế lại chưa mở được
các lớp hướng dẫn về các quy định mới, chưa có biện pháp tuyên truyền kịp
thời để nâng cao khả năng tiếp nhận thông tin mới của các doanh nghiệp.
Một kết quả khác mà Hội tư vẫn Thuế Việt Nam thu được trong quá
trình điều tra là các con số “biết nói” về tình hình thực hiện chính sách thuế
hiện nay.
Nhận xét về tính minh bạch, dễ hiểu, dễ thực hiện của các văn bản
pháp luật thuế hiện hành, có 62,71% số cán bộ và 88,89% số doanh nghiệp
đánh giá ở mức trung bình và thấp, 27% cán bộ thuế và hơn 11% số doanh


nghiệp có ý kiến đánh giá cao về tính minh bạch, rõ ràng của chính sách thuế
hiện hành.
Trong khi đó, nhận xét về khả năng tiếp cận thông tin về chính sách
pháp luật thuế, 1% số cán bộ thuế và 16% số doanh nghiệp được hỏi cho

rằng có khó khăn trong việc tiếp cận thông tin về các văn bản pháp luật
chính sách và quản lý thuế.
Đánh giá về các quy định hiện hành của chính sách thuế và cơ chế
quản lý thuế nhằm ngăn ngừa, hạn chế gian lận thuế, đảm bảo bình đẳng
trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế, 18 đến 28% ý kiến cho rằng rất có hiệu
quả, 16% ý kiến cho rằng hiệu quả chưa cao.


IV.

Thực tiễn và giải pháp

1. Thực tiễn
Quy định kê khai mới đã tạo rất nhiều thuận lợi đồng thời cũng gây ra rất
nhiều khó khăn cho công tác kế toán thuế của doanh nghiệp. Vậy trong thực
tế, các doanh nghiệp Việt Nam đã áp dụng các quy định này như thế nào?
Ví dụ 1:
Trong ký khai thuế GTGT tháng 3/2014, công ty phát hiện 1 hóa đơn
đầu vào còn sót của tháng 1/2014 thì có được kê khai hóa đơn đó trên tờ
khai thuế và bảng kê mua vào (PL01-2/GTGT) của tháng 3 không?
Trường hợp điều chỉnh lại tờ khai thuế của tháng 1/2014 thì có phải
điều chỉnh lại số thuế đầu vào được khấu trừ của tháng 2 để số thuế
GTGT khấu trừ được liên tục hay không?
Theo quy định của pháp luật:
Trường hợp trong kỳ khai thuế tháng 3/2014, Công ty phát hiện hóa đơn đầu
vào tháng 01/2014 còn thiếu trên tờ khai, thì thủ tục điều chỉnh như sau:
• Trường hợp công ty khai bổ sung hồ sơ khai thuế chỉ làm tăng số thuế
GTGT chưa khấu trừ hết của kỳ tính thuế có sai sót thì lập hồ sơ khai
bổ sung, số tiền thuế điều chỉnh tăng khấu trừ của kỳ sai sót và khai
vào chỉ tiêu “điều chỉnh tăng số thuế GTGT còn được khấu trừ của

các kỳ trước” chỉ tiêu 38 trên tờ khai thuế GTGT của kỳ lập hồ sơ
khai thuế tháng 3/2014.
• Hồ sơ công ty nộp cho cơ quan thuế theo quy định tại Thông tư
156/2013/TT-BTC bao gồm:
 Tờ khai thuế GTGT tháng 1/2014 đã điều chỉnh tăng số thuế
GTGT chưa khấu trừ.
 Bản giải trình khai bổ sung, điều chỉnh mẫu 01/KHBS làm tăng
số thuế GTGT chưa khấu trừ của kỳ tính thuế tháng 01/2014
 Tài liệu kèm theo giải thích số liệu trong bản giải trình khai bổ
sung, điều chỉnh (nếu có).
Trên thực tế
Doanh nghiệp đã thực hiện như sau: nếu trong kỳ khai thuế GTGT tháng
3/2014, Công ty phát hiện 1 hóa đơn đầu vào còn sót của tháng 01/2014 thì
có được kê khai hóa đơn đó trên Tờ khai thuế và Bảng kê mua vào (PL012/GTGT) của tháng 3.


Ví dụ 2:
Doanh nghiệp không phải nộp bảng kê khai mua vào bán ra của tờ khai
thuế GTGT từ ngày 1/1/2015.
Theo quy định của pháp luật:
Ngày 26/11/2014, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa
XIII, kỳ họp thứ 8 đã thông qua Luật số 71/2014/QH13 sửa đổi bổ sung một
số điều của các luật về thuế, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2015.
Một trong những nội dung được sửa đổi về quản lý thuế để tiếp tục thực hiện
cải cách thủ tục hành chính thuế, tạo thuận lượi cho người nộp thuế đó là bỏ
quy định phải nộp Bảng kê hóa đơn hang hóa, dịch vụ bán ra, mua vào tỏng
hồ sơ kê khai thuế GTGT.
Theo quy định hiện hành (từ trước 31/12/2014) thì hồ sơ khai
thuế GTGT phải kèm theo Bảng kê hoá đơn hàng hoá, dịch vụ bán ra, mua
vào. Việc doanh nghiệp phải kê khai các bảng kê này là một trong các lý do

dẫn đến số giờ khai thuế cao. Thông tư 119/2014/TT-BTC ngày 25/08/2014
của Bộ Tài chính đã thực hiện cắt giảm một số chỉ tiêu như: Ký hiệu mẫu
hóa đơn, ký hiệu hóa đơn, mặt hàng, thuế suất…trên các Bảng kê này
nhằm làm giảm thời gian làm thủ tục về thuế của Người nộp thuế.
Tuy nhiên, theo thông lệ quản lý thuế GTGT tại đa số các quốc gia trên thế
giới áp dụng chế độ thuế GTGT, trong đó nhiều quốc gia có trình độ phát
triển tương đương Việt Nam như: Thái Lan, Philipines, Campuchia, Lào..,
đều không đòi hỏi doanh nghiệp cung cấp toàn bộ thông tin về việc kê hóa
đơn, chứng từ hàng hóa dịchvụ mua vào, bán ra trong việc khai thuế GTGT.
Do đó, để tiếp tục đơn giản về thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho người
nộp thuế, phù hợp với thông lệ quốc tế, Luật số 71/2014/QH13 đã bỏ quy
định doanh nghiệp phải gửi Bảng kê hóa đơn hang hóa, dịch vụ bán ra, mua
vào khi lập hồ sơ khai thuế GTGT.
Theo đó, từ ngày 01/01/2015 từ kỳ khai thuế GTGT tháng 01/2015 hoặc kỳ
khai thuế quý I/2015 người nộp thuế chỉ phải nộp tờ khai thuế cho cơ quan
thuế. Người nộp thuế phải hạch toán đầy đủ, kịp thời các chứng từ mua, bán
hàng hóa, dịch vụ theo quy định của Luật kế toán và Luật thuế để xác định
chính xác số thuế và xuất trình đầy đủ khi cơ quan thuế thực hiện công
tác thanh, kiểm tra.


Nhưng trên thực tế
Tại Hải Dương, khi kế toán doanh nghiệp gọi điện hỏi chi cục thuế Hải
Dương, họ vẫn trả lời là nộp bảng kê bình thường.


Ví dụ 4:Thực tiễn tại các doanh nghiệp về kê khai thuế TNDN
Theo quy định của pháp luật
Doanh nghiệp phải thực hiện nộp thuế TNDN của quý chậm nhất vào ngày
thứ 30 của quý tiếp theo quay phát sinh nghĩa vụ thuế, và không phải nộp tờ

khai thuế TNDN tạm tính hàng quý.
Thông tư 151 có hiệu lực thi hành từ ngày 15/11/2014. Do đó, doanh nghiệp
vẫn phải nộp tờ khai tạm tính thuế TNDN quý III/2014.
Doanh nghiệp vẫn phải tự tính và tạm nộp tiền thuế TNDN theo quý nhưng
không phải khai thuế TNDN theo quý. Điều này giúp giảm thời gian khai
thuế cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, để tránh tình trạng doanh nghiệp nộp thuế
rất ít trong các quý đầu năm nhằm chiếm dụng tiền thuế, Nghị định quy
định: nếu tổng số 4 lần nộp thuế thấp hơn từ 20% trở lên so với số thuế thu
nhập doanh nghiệp phải nộp theo quyết toán cả năm thì doanh nghiệp phải
nộp lãi chậm nộp với phần chênh lệch đó.Đối với số tiền thuế TNDN tạm
nộp theo quý < số thuế phải nộp theo quyết toán dưới 20% mà DN chậm nộp
so với thời hạn quy định (thời hạn nộp hồ sơ quyết toán thuế năm) thì tính
tiền chậm nộp kể từ ngày hết hạn nộp thuế đến ngày thực nộp số thuế còn
thiếu so với số quyết toán.
Sau khi DN đã khai quyết toán thuế năm, Cơ quan thuế kiểm tra mà phát
hiện tang số tiền thuế phải nộp so với số thuế mà DN đã kê khai quyết toán
thì DN bị tính tiền chậm nộp đối với toàn bộ số thuế phải nộp tăng thêm đó
tính từ ngày tiếp sau ngày cuối cùng của thời hạn nộp hồ sơ quyết toán thuế
năm đến ngày thực nộp tiền thuế.
Thực tế tại các doanh nghiệp:
Đối với kỳ tính thuế năm 2014, Doanh nghiệp A đã tạm nộp thuế thu nhập
doanh nghiệp là 80 triệu đồng, khi quyết toán năm, số thuế thu nhập doanh
nghiệp phải nộp theo quyết toán là 90 triệu đồng, tăng 10 triệu đồng; như
vậy chênh lệch giữa số thuế phải nộp theo quyết toán với số thuế đã tạm nộp
trong năm dưới 20% thì doanh nghiệp chỉ phải nộp số thuế còn phải nộp sau
quyết toán là 10 triệu đồng đó vào ngân sách nhà nước theo thời hạn quy
định. Trường hợp doanh nghiệp nộp chậm số thuế chênh lệch này thì bị tính
tiền chậm nộp theo quy định.



2. Giải pháp hoàn thiện các quy định kê khai thuế
Khai thuế qua mạng Internet là bước đi tất yếu trong giai đoạn hiện nay
nhằm từng bước hiện đại hóa ngành thuế, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh
nghiệp trong quá trình thực hiện nghĩa vụ thuế đối với nhà nước, giảm áp lực
cho ngành thuế, đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội. Đây cũng là xu
hướng tất yếu trong thời kỳ kinh tế hội nhập hiện nay. Vì vậy chúng tôi xin
đề ra các giải pháp sau:
• Để tất cả các doanh nghiệp lớn thực hiện dịch vụ này, thời gian tới, cơ
quan thuế cần thực hiện đẩy mạnh công tác tuyên truyền về lợi ích của
khai thuế qua mạng và sử dụng chữ ký số; tiếp tục hoàn thiện hệ
thống, nâng cấp hạ tầng mạng, đường truyền thiết bị cổng thông tin
điện tử của cơ quan thuế đảm bảo hệ thống hoạt động nhanh, ổn định;
triển khai hệ thống khai thuế qua mạng đối với các địa phương đã có
đầy đủ điều kiện cơ sở vật chất, hạ tầng về công nghệ thông tin; từng
bước hoàn thiện khung pháp lý về khai thuế điện tử, nhất là việc sử
dụng hồ sơ điện tử đối với các doanh nghiệp để giảm thời gian, nhân
lực tiếp nhận tờ khai, đặc biệt là giảm rất nhiều chi phí cho việc lưu
trữ hồ sơ khai thuế cũng như tìm kiếm thông tin.
• Tiếp tục rà soát công tác đăng kí kê khai thuế, phải rà soát tình trạng
hoạt động của các doanh nghiệp trong nước và phải phối hợp với các
bộ phận liên quan về kê khai thuế để giải quyết về mã số thuế của
người nộp, kiểm tra thuế của các doanh nghiệp ngừng hoạt động sản
xuất kinh doanh bỏ trốn hoặc mất tích. Các trường hợp xin tạm nghỉ
kinh doanh hoặc đã hết hạn theo các quy định hiện hành.
• Phải tăng cường kiểm tra rà soát tình hình kê khai thuế của các tổ
chức cá nhân về nghĩa vụ kê khai, nộp hồ sơ kê khai thuế chính xác
đảm bảo người nộp thuế nộp tờ khai đúng hạn và nộp thuế sau sẽ bị
nộp phạt với mức lãi suất cao hơn
• Các cơ quan có thẩm quyền cần phải có các giải pháp cụ thể về chính
sách thuế, quản lý thuế để đảm bảo tính minh bạch, rõ ràng, tăng

cường hiệu quả- hiệu lực của công tác thuế đồng thời khuyến khích
đầu tư, phát triển, mở rộng sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.
Tổng cục thuế, Cục thuế và Chi cục thuế các địa phương cần thường
xuyên tổ chức các lớp tập huấn để cập nhật kiến thức về thuế; có
chính sách xử lý rõ ràng khi doanh nghiệp sử dụng hóa đơn của doanh
nghiệp bỏ địa chỉ kinh doanh, cập nhật kịp thời các doanh nghiệp bỏ
địa chỉ kinh doanh lên một trang web chung phục vụ trong cả nước.
• Bên cạnh đó, Bộ tài chính nên hợp nhất các nghị định và thông tư,
hiện nay chính sách thuế đã thay đổi nhưng một số quy định tại các


nghị định trước vẫn còn hiệu lực song hành với nghị định mới vậy các
nhà xây dựng chính sách nên gộp các văn bản vào một văn bản mới và
bỏ hẳn cái cũ sẽ dễ tra cứu hơn.
• Xóa bớt khoảng cách thuế với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Theo báo cáo "Kinh nghiệm quốc tế về ưu đãi thuế nhằm khuyến
khích đầu tư: So sánh với chính sách thuế hiện hành của Việt Nam" do
Action Aid thực hiện. Theo báo cáo này, có thể nói luật thuế của tất cả
các nước trên thế giới đều có các cơ chế ưu đãi. Trong đó, cơ chế ưu
đãi có tính công bằng và khách quan nhất là các cơ chế miễn, giảm,
giải thoát nghĩa vụ thuế cho người nộp thuế trong các trường hợp bất
khả kháng như thiên tai, địch họa, tai nạn bất ngờ...
Như vậy, có thể thấy chính sách thuế cùng với các cơ chế ưu đãi luôn
có quá trình vận động, thay đổi một cách biện chứng với sự phát triển
của hoàn cảnh kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ. Sự
khác biệt về mức điều tiết trong từng sắc thuế cũng như các cơ chế ưu
đãi thuế giữa các quốc gia xảy ra khá phổ biến, tuy nhiên nó cũng có
tác động tới việc thu hút các nguồn đầu tư quốc tế cũng như góp phần
vào năng lực cạnh tranh của hàng hóa sản xuất trong nước.



Kết luận:
Thuế GTGT và thuế TNDN là hai sắc thuế được áp dụng phổ biến trong các
doanh nghiệp, việc hạch toán các khoản thuế này đòi hỏi đòi hỏi phải tuân
thủ những quy định về Luật thuế cũng như chế độ kế toán về thuế. Vì vậy, để
tạo điều kiện thuận lợi phát triển sản xuất cho các doanh nghiệp trong nước
đồng thời để thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài vào Việt Nam, Nhà nước cần
phải đề ra những cải cách hợp lý, khắc phục được nhược điểm của các luật
thuế cũ. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng cần có biện pháp để giúp người dân,
doanh nghiệp tiếp cận với luật thuế mới một cách sớm nhất.



×