Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

vai trò, chinh sách, thực trạng và giải pháp của nông nghiệp việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (99.37 KB, 17 trang )

I, Khái quát về nông nghiệp
Nông nghiệp là một trong những ngành sản xuất vật chất quan trọng của nền
kinh tế quốc dân ( còn gọi là ngành duy nhất sản xuất được lương thực, thực
phẩm). Cụ thể hơn, nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất cơ bản của xã hội, sử
dụng đất đai để trồng trọt và chăn nuôi, khai thác cây trồng và vật nuôi làm tư liệu
và nguyên liệu lao động chủ yếu để tạo ra lương thực , thực phẩm và một số
nguyên liệu cho công nghiệp. Nông nghiệp là một ngành sản xuất lớn bao gồm
nhiều chuyên ngành như: trồng trọt, chăn nuôi, sơ chế nông sản, theo nghĩa rộng
còn bao gồm lâm nghiệp, thủy sản.

II, Vai trò của nông nghiệp tới phát triển kinh tế
a, Vai trò kích thích tăng trưởng nền kinh tế
Trong lịch sử phát triển của xã hôi loài người, nông nghiệp là ngành sản
xuất ra đời đầu tiên. Đã từ lâu, nông nghiệp là một trong hai ngành sản xuất vật
chất cơ bản của xã hội và ngày càng có vai trò quan trọng đối với sự tăng trưởng
và phát triển kinh tế đất nước.
1. Nông nghiệp là ngành sản xuất và cung cấp những sản phẩm
Tiêu dùng thiết yếu, có ý nghĩa quyết định đến sự tồn tại và phát triển của loài
người như lương thực, thực phẩm. Đây là những vật phẩm tiêu dùng không thể
thay thế được đối với đời sống con người. Như C.Mác đã khẳng định "Trước hết
con người cần phải có ăn, uống, ở và mặc trước khi lo chuyện làm chính trị,
khoa học, nghệ thuật và tôn giáo ...". Trên ý nghĩa đó, nông nghiệp trở thành
ngành sản xuất đảm bảo những điều kiện đầu tiên cho loài người tồn tại, pháttriển
và là điều kiện không thể thiếu đảm bảo cho tất cả các ngành, các lĩnh vực
của nền kinh tế tăng trưởng và phát triển bền vững.
2. Nông nghiệp là ngành có thể tự sản xuất ra những tư liệu sản


Xuất không thể thay thế để tái sản xuất bản thân ngành nông nghiệp (như các
loại giống cây trồng, vật nuôi, thức ăn chăn nuôi ...); đồng thời nông nghiệp còn
cung cấp nguyên liệu cho nhiều ngành công nghiệp và dịch vụ phát triển như:


các ngành công nghiệp chế biến, công nghiệp nhẹ, tiểu thủ công nghiệp, một số
ngành công nghiệp nặng và các ngành dịch vụ ăn uống, giải khát ... Có thể nói
sự phát triển của nhiều ngành công nghiệp và dịch vụ phụ thuộc vào nguồn
nguyên liệu do nông nghiệp cung cấp. Mặt khác sản phẩm nông nghiệp qua chế
biến sẽ được nâng cao chất lượng, tăng thêm giá trị và giá trị sử dụng, đáp ứng
được nhu cầu trong nước và xuất khẩu, từ đó thúc đẩy các ngành công nghiệp,
dịch vụ cũng như nền kinh tế tăng trưởng và phát triển. Vì vậy, các nước xuất
khẩu nông sản đều rất chú trọng đầu tư phát triển công nghiệp chế biến, hạ thấp
tỷ lệ sản phẩm sơ chế, nâng dần tỷ lệ sản phẩm tinh chế, nhất là những mặt hàng
phục vụ xuất khẩu.
Nông nghiệp là nơi sản xuất và cung cấp các mặt hàng xuất khẩu có giá
trị, tạo nguồn tích luỹ ban đầu và thường xuyên cho nền kinh tế. Thông qua xuất
khẩu nông sản, nông nghiệp đã đóng góp tích luỹ ngày càng nhiều cho nền kinh
tế, đồng thời góp phần mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại tạo điều kiện thúc đẩy
nền kinh tế phát triển. Đối với nước ta, xuất khẩu nông sản và những mặt hàng
tiểu thủ công nghiệp đang là thế mạnh, tạo điều kiện cho nền kinh tế đất nước
cũng như nông nghiệp, nông thôn tiếp thu nhanh tiến bộ khoa học và công nghệ
của thế giới, nhanh chóng hoà nhập vào nền kinh tế của khu vực và trên thế giới.
Trong những năm qua, nông nghiệp và nông thôn nước ta đã tạo ra nhiều mặt
hàng xuất khẩu quan trọng như: gạo, chè, cà phê, cao su, các sản phẩm thủ công,


mỹ nghê, các mặt hàng thuỷ, hải sản ... đem lại nguồn thu ngoại tệ lớn cho nền
kinh tế. Đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất lương thực, nông nghiệp nước ta đã đạt
thành tựu rất khả quan. Từ một nước thường xuyên phải nhập lương thực, nạn
đói thường xuyên đe doạ; đến nay, nước ta chẳng những tự giải quyết được nhu cầu
lương thực mà còn trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai trên thế giới
(sau Thái Lan). Liên tục từ năm 1989 đến nay, lượng gạo xuất khẩu của nước ta
ngày càng tăng (từ 1,42 triệu tấn năm 1989 đã tăng lên 4,5 triệu tấn năm 1999,
và 3,5 triệu tấn vào năm 2000, 2001).

3. Nông nghiệp là nơi cung cấp nguồn nhân lực dồi dào cho các
ngành kinh tế xã hội phát triển
Có thể nói, nông nghiệp là ngành duy nhất, dưới tác động của tiến bộ
khoa học và công nghệ, số lượng lao động ngày càng giảm xuống cả tương đối
và tuyệt đối. Nhờ đó nông nghiệp có thể tạo ra lao động dư thừa để chuyển dần
sang phát triển công nghiệp, dịch vụ và các lĩnh vực khác.
Ở nước ta, theo số liệu điều tra của Tổng cục Thống kê thì lao động nông
nghiệp vẫn chiếm khoảng 70% tổng số lao động xã hội và 76,5% dân số đang
sống ở vùng nông thôn. Đó là một nguồn tiềm năng lao động quý giá, là đội
quân dự bị hùng hậu cho phát triển công nghiệp, dịch vụ trong tương lai khi nền
kinh tế đất nước chuyển sang giai đoạn công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
4. Nông nghiệp còn là thị trường rộng lớn để tiêu thụ sản phẩm
Hàng hoá của các ngành công nghiệp và dịch vụ, góp phần quan trọng thúc
đẩy các ngành tăng trưởng và phát triển
Nông nghiệp càng phát triển thì các nhu cầu về tư liệu sản xuất (máy móc,


thiết bị, phân bón, hoá chất ...) và tư liệu tiêu dùng cũng như nhu cầu dịch vụ
ngày càng nhiều sẽ tạo ra sức mua ngày càng lớn đối với các sản phẩm công
nghiệp và dịch vụ. Ngược lại, nếu nông nghiệp kém phát triển, lạc hậu, sức mua
thấp thì công nghiệp và dịch vụ cũng không phát triển được.
Vì vậy, muốn nông nghiệp, nông thôn trở thành thị trường rộng lớn tiêu
thụ sản phẩm công nghiệp và dịch vụ, trước hết phải quan tâm phát triển toàn
diện kinh tế nông nghiệp, nông thôn; tạo điều kiện cho nông dân chuyển sang
phát triển sản xuất hàng hoá, để nâng dần sức mua của nông dân.
5. Sự phát triển của nông nghiệp có ảnh hưởng rất lớn đến tốc độ
Phát triển kinh tế đất nước và tốc độ tăng trưởng GDP, đặc biệt là đối với
những nước đang phát triển và chủ yếu là sản xuất nông nghiệp như nước ta.
Trong những năm 80, hàng năm nông nghiệp tạo ra từ 40 - 50% thu nhập quốc
dân. Đến nay, nông nghiệp nước ta vẫn chiếm tỷ trọng cao trong GDP (năm

1999 là 25,4%, năm 2000 là 24,3% trong GDP của nền kinh tế).
Phát triển nông nghiệp sẽ làm tăng nguồn dự trữ lương thực cho quốc gia,
đảm bảo nhu cầu cho quân đội, tăng cường khả năng quốc phòng cho đất nước.
Dự trữ lương thực là vấn đề sống còn của mỗi nước, là tiềm lực kinh tế thể hiện
sức mạnh thực sự của mỗi quốc gia. Đảm bảo dự trữ lương thực sẽ hạn chế
những khó khăn, những rủi ro trong phát triển kinh tế và đời sống nhân dân, tạo
cơ sở cho việc ổn định và phát triển đất nước, giữ vững an ninh và chủ quyền
dân tộc.
6. Phát triển nông nghiệp còn có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo
vệ và cải tạo môi trường thiên nhiên. Với đối tượng sản xuất là cây trồng, vật


nuôi gắn liền với đất đai, phát triển nông nghiệp tạo nên một hệ sinh thái hoàn
chỉnh, đảm bảo sự phát triển cân bằng giữa các vùng, góp phần vào việc bảo vệ
môi sinh. Tuy nhiên muốn nông nghiệp thực sự đóng góp vào việc bảo vệ môi
trường, đòi hỏi mỗi nước phải có một chiến lược phát triển nông nghiệp đúng
đắn, phải biết khai thác lợi thế phát triển nông nghiệp từng vùng, phải biết kết
hợp nhiều loại nông sản theo một hệ sinh thái hoàn chỉnh, tránh sử dụng quá
mức các loại hoá chất, tiến tới phát triển một nền nông nghiệp sạch, nền nông
nghiệp sinh thái.
Như vậy, xét trên các mặt về kinh tế, xã hội và môi trường thì nông
nghiệp có vai trò hết sức quan trọng đối với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế
của mỗi nước. Trong điều kiện hiện nay, hầu hết các nước đều nhận rõ: Nếu
không có một nền nông nghiệp phát triển, một nền nông nghiệp tiên tiến thì nền
kinh tế quốc dân khó có thể phát triển vững chắc với tốc độ cao được. Thực tế ở
nhiều nước đã chứng minh, nước nào có nền nông nghiệp phát triển vững chắc
đều đạt được những bước phát triển ổn định về kinh tế. Nông nghiệp được coi là
điểm xuất phát của phát triển hay cải cách kinh tế của nhiều quốc gia. Vì vậy,
các quốc gia đều rất chú trọng đến phát triển nông nghiệp, tạo điều kiện thuận
lợi để thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển.

Đối với nước ta, từ một nước mà nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp và
tuyệt đại bộ phận dân số đang sống ở nông thôn, thì nông nghiệp, nông thôn
càng có vị trí và vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế của đất nước.
Nhận thức được điều đó nên trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế qua
các thời kỳ, Đảng và Nhà nước ta luôn chú trọng đặc biệt đến phát triển nông


nghiệp, nông thôn.
Ở mỗi giai đoạn lịch sử của đất nước, trong đường lối phát triển kinh tế -xã hội của
Đảng đều khẳng định vị trí quan trọng hàng đầu của nông nghiệp,
nông thôn: coi việc "phát triển nông - lâm - ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế
biến, phát triển toàn diện nền kinh tế nông thôn và xây dựng nông thôn mới là
nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để ổn định tình hình kinh tế - xã hội".
Để phát huy vai trò quan trọng của nông nghiệp đối với phát triển kinh tế
- xã hội thì con đường tất yếu là phải chuyển nông nghiệp nước ta từ tình trạng
phổ biến là sản xuất nhỏ, tự cấp, tự túc sang sản xuất hàng hoá. Đó là xu hướng
phát triển tất yếu, hợp quy luật chuyển biến từ nền nông nghiệp truyền thống, lạc
hậu thành nền nông nghiệp tiên tiến, hiện đại. Tuy nhiên cần nhận thấy rằng đưa
nông nghiệp sang phát triển sản xuất hàng hoá là quá trình lâu dài, đầy khó khăn
và phức tạp. Quá trình đó đòi hỏi sự nỗ lực, cố gắng không những của bản thân
ngành nông nghiệp, mà cần có sự giúp đỡ của các ngành và đặc biệt là sự hỗ trợ
của Nhà nước. Nhà nước phải chủ động điều khiển và tạo điều kiện thuận lợi để
hình thành dần những đặc trưng của nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá; cần có
chính sách gắn được sự phát triển của nông nghiệp với công nghiệp, thương mại
- dịch vụ và các ngành, các lĩnh vực có liên quan khác ...

b, Nông nghiệp đóng vai trò vào tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế
1, Công thức của Kuznets
Simon Kuznets(1964) đã tìm ra cách định lượng về đóng góp của nông nghiệp
trong tốc độ tăng trưởng GDP .

Giả định: Nền kinh tế có hai khu vực : nông nghiệp và phi công nghiệp ( các ngành
kinh tế còn lại) và gọi:
Y: Tổng GDP của nền kinh tế


Ya và Yn : GDP của khu vực nông nghiệp và phi công nghiệp
Rn và Ra : tốc độ tăng trưởng GDP tương ứng của khu vực nông nghiệp và khu vực
phi nông nghiệp
Pn và Pa : tỷ trọng GDP của các khu vực so với GDP nền kinh tế
Mức độ đóng góp của nông nghiệp, sẽ kí hiệu là C a GDP% đối với tăng trưởng chung
của nền kinh tế được xác định bởi công thức mang tên Kuznets như sau:
CGDP%=

Công thức Kuznets khá đơn giản nên chủ yếu được áp dụng trong phạm vi từng
quốc gia- vùng lãnh thổ. Việc ứng dụng công thức Kuznets cho thấy trong thực
tiễn cho thấy, trong quá trình công nghiệp hóa, xu hướng đóng góp của nông
nghiệp vào tốc độ tăng trưởng GDP của nền kinh tế có thể diễn ra theo các giai
đoạn:
(a) Giai đoạn xuất phát: Ra > Rn và Pa >Pn: Nông nghiệp đóng vai trò chìa khóa,
tác động mạnh tới tăng trưởng kinh tế.
(b) Giai đoạn chuyển đổi : Ra < Rn và Pa dần.
(c) Giai đoạn phát triển cao củ nền kinh tế: Ra < Rn và Pa < Pn : Đóng góp công
nghiệp giảm mạnh, nền kinh tế hoàn toàn công nghiệp hóa.
Trong ngắn hạn vai trò của nông nghiệp đóng vai trò rất quan trọng vào tốc độ tăng
trưởng GDP và giảm tương đối theo dài hạn. Trong quá trình công nghiệp hóa ở
các nước đang phát triển quy luật tất yếu là phần đóng góp nông nghiệp trong tốc
độ tăng trưởng GDP sẽ giảm dần cùng với quá trình phát triển nhanh của công
nghiệp và các ngành kinh tế khác.
2.Mô hình về mối liên hệ giữa công nghiệp và nông nghiệp trong tăng trưởng kinh

tế ( HWA ERH – CHENG, 1983).
* Giả thiết: nhiều nhà kinh tế học trên thế giới ( Kuznets 1964, Johnston và
Mellor 1961. Johnston và Kilby 1975, Ghatak và Insegent 1984 ) tranh luận rằng,
tăng trưởng nông nghiệp không những nảh hưởng đến tăng trưởng chung của nền
kinh tế trong thời kì đầu ( thời kì mà GDP/đầu người còn thấp) mà còn ảnh hưởng


đến cả trong giai đoạn đẩy nhanh tiến độ công nghiệp hóa ( thời kì mà GDP/ đầu
người cao).
* Mô hình Hwa Ewa Erh- Cheng : để kiểm tra giả thiết trên , Hwa đã xây dựng
mô hình sau:
I0=f
I0 là tốc độ tăng trưởng hàng năm của khu vực công nghiệp
A0 là tốc độ tăng trưởng hàng năm của khu vực nông nghiệp
Y là GDP trên đầu người
Nên nông nghiệp có đóng góp vào tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế cụ thể
như sau:
Gia tăng nguồn cung lương thực. Ngoài những thay đổi tự định về cầu, có thể cho là có tầm
quan trọng hạn chế, tỉ lệ gia tăng cầu lương thực hàng năm được bởi công thức: D = p + ηg,
trong đó p và g lần lượt là tỉ lệ tăng trưởng dân số và tỉ lệ tăng trưởng thu nhập trên đầu người,
và η là độ co dãn cầu nông sản theo thu nhập.
Mở rộng xuất khẩu nông sản. Việc mở rộng xuất khẩu nông sản có thể là một trong những
phương tiện hứa hẹn nhất để tăng thu nhập và tăng thu nhập ngoại hối ở một đất nước đang thực
hiện các nỗ lực phát triển. Một mặt hàng nông sản xuất khẩu có lời có thể thường xuyên được bổ
sung vào hệ thống các mặt hàng nông sản hiện có; yêu cầu vốn cho việc đổi mới đó thường chỉ ở
mức vừa phải và chủ yếu phụ thuộc vào việc đầu tư trực tiếp, không phải bằng tiền của nhà nông
Tuy nhiên, điều quan trọng tức thời và to lớn hơn là, đối với hầu hết các nước kém phát triển,
việc bắt đầu hay mở rộng sản xuất nông sản xuất khẩu có thể và nên đóng một vai trò chiến lược
trong việc gia tăng nguồn cung ngoại hối.
Chuyển giao lao động từ khu vực nông nghiệp sang các khu vực phi nông nghiệp. Trong

chừng mực mà ta có thể áp dụng được mô hình hai khu vực của Lewis với giả định về cung lao
động hoàn toàn co dãn, ta suy ra rằng lao động dành cho công nghiệp chế tạo và các khu vực
đang phát triển nhanh khác có thể được lấy dễ dàng từ nông nghiệp. Mặt khác, nếu dân số nông
thôn thưa thớt và nông nghiệp có tiềm năng mở rộng sản lượng những loại hoa màu sinh lợi, thì
có thể khó mà thu được lao động vào khu vực tư bản đang mở rộng nhanh chóng. Dù thế nào, tập
hợp lao động dành cho các khu vực đang mở rộng cũng phải được lấy từ nông nghiệp trong
những giai đoạn phát triển ban đầu, chỉ đơn giản vì gần như không còn nguồn nào khác. Kinh
nghiệm của Nhật Bản, nơi mà các điều kiện của mô hình hai khu vực là gần đúng, xem ra cho
thấy rằng tỉ lệ đầu tư là một yếu tố giới hạn và việc chuyển giao lao động sang công nghiệp


không phải là một vấn đề lớn. Khi xem xét tiềm năng gia tăng sản lượng nông nghiệp trên lao
động, ta có thể dự kiến rằng vấn đề cung lao động trong công nghiệp chế tạo và các khu vực tăng
trưởng khác sẽ không nghiêm trọng, miễn là người ta thực hiện những nỗ lực khôn ngoan và
mạnh mẽ để đẩy mạnh năng suất nông nghiệp.

III, Thực trạng nông nghiệp ở Việt Nam
1.Thực trạng
Kinh tế Việt Nam gồm công nghiệp, nông nghiệp, thương mại, dịch vụ nhưng
nông nghiệp là Ngành có sức lan tỏa lớn nhất, có tính kết nối rất cao với nhiều
ngành kinh tế. Nông nghiệp cung cấp đầu vào cho công nghiệp chế biến thực
phẩm, chế biến xuất khẩu; đồng thời, sử dụng sản phẩm của các ngành công nghiệp
và dịch vụ, như: nhiên liệu, phân bón, hóa chất, máy móc cơ khí, năng lượng, tín
dụng, bảo hiểm...Ngoài ra, nông nghiệp còn liên quan mật thiết đến sức mua của
dân cư và sự phát triển thị trường trong nước. Với 50% lực lượng lao động cả nước
đang làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp và 70% dân số sống ở nông thôn, mức
thu nhập trong nông nghiệp sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến sức cầu của thị trường nội
địa và tiềm năng đầu tư dài hạn. Nông nghiệp Việt Nam đã đóng vai trò đặc biệt
quan trọng trong việc đảm bảo an ninh lương thực, tạo việc làm và thu nhập cho
trước hết là khoảng 70% dân cư, là nhân tố quyết định xóa đói giảm nghèo, góp

phần phát triển kinh tế đất nước và ổn định chính trị - xã hội của đất nước.
Gần đây, tình hình kinh tế có khó khăn do bị tác động của khủng hoảng và suy
thoái kinh tế thế giới, Nông nghiệp Việt Nam ngày càng rõ vai trò là trụ đỡ của nền
kinh tế, tiếp tục ổn định và có mức tăng trưởng. Năm 2011 xuất khẩu nông - lâm thủy sản đạt gần 25 tỷ USD, tăng trưởng 29% so với năm 2010. Thặng dư thương
mại toàn Ngành năm 2011 đạt trên 9,2 tỷ USD, góp phần giảm nhập siêu cả nước;
nông nghiệp đóng góp khoảng 20% GDP và chiếm 30% giá trị kim ngạch xuất
khẩu quốc gia. Năm 2012, nông nghiệp vẫn giữ đà tăng trưởng của năm 2011 với
giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản cả nước tăng 3,4%. Trong đó, nông
nghiệp tăng 2,8%, lâm nghiệp 6,4%, thủy sản 4,5%. Tốc độ tăng trưởng toàn ngành
(GDP) đạt 2,7%.Năm 2013, giá trị sản xuất nông lâm nghiệp và thủy sản cả nước
tăng 3,2%. Trong đó, nông nghiệp tăng 2,3%, lâm nghiệp 6%, thủy sản 4,5%. Tốc
độ tăng trưởng toàn ngành (GDP) đạt 2,6%. Như vậy, có thể thấy tốc độ tăng
trưởng của ngành nông nghiệp rất đáng quan ngại, giảm dần, năm sau thấp hơn
năm trước.


Tăng trưởng nông nghiệp thời gian qua của nước ta chủ yếu theo chiều rộng thông
qua tăng diện tích, tăng vụ và dựa trên mức độ thâm dụng các yếu tố vật chất đầu
vào cho sản xuất (lao động, vốn, vật tư) và đất đai. Sản xuất nông nghiệp đã và
đang gây tác động tiêu cực đến môi trường như: mất đa dạng sinh học, suy thoái tài
nguyên thiên nhiên, ô nhiễm nguồn nước, đất đai bị bạc màu, chi phí sản xuất
tăng… đe dọa tính bền vững của tăng trưởng của ngành Nông nghiệp.
Trong tương lai, nguồn lực cho tăng trưởng nông nghiệp sẽ không còn được dồi
dào, nông nghiệp sẽ phải cạnh tranh với các ngành công nghiệp và dịch vụ khác.
Chí phí sản xuất ngày càng cao cũng bắt đầu làm giảm khả năng cạnh tranh của các
sản phẩm của nông nghiệp Việt Nam với vị thế là nước sản xuất có chi phí thấp so
với các nước và vùng lãnh thổ trên thế giới.
2. Nguyên nhân
Một trong những nguyên nhân của tình trạng này là do đầu tư cho nông nghiệp
ngày càng giảm dần, không tương xứng với sự đóng góp của nông nghiệp cho nền

kinh tế. Nếu như năm 2000, tỷ trọng đầu tư vào ngành Nông nghiệp chiếm 13,85%
tổng đầu tư của xã hội, thì tới năm 2005 chỉ còn 7,5%; năm 2008: 6,45%; năm
2009: 6,26%; năm 2010: 6,2%. Đầu tư từ ngân sách nhà nước và trái phiếu Chính
phủ cho nông nghiệp cũng giảm, từ 21,5% năm 2006 xuống 21,3% năm 2010 trong
tổng số.
Đặc biệt, việc thống kê về đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn rất khó bóc tách do
có rất nhiều khoản chi cho công nghiệp, kết cấu hạ tầng quốc gia nằm trên địa bàn
nông thôn. Trong khi đó, kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp luôn chịu độ rủi
ro rất cao (Tuy chính sách bảo hiểm nông nghiệp đã được ban hành nhưng mới chỉ
thực hiện thí điểm ở 20 tỉnh, thành phố) khiến các doanh nghiệp dè dặt khi đầu tư
vào lĩnh vực nông nghiệp. Đầu tư trực tiếp của nước ngoài đã giảm đáng kể, từ 8%
năm 2001 xuống còn chỉ 1% năm 2010. Đầu tư của tư nhân trong nước chỉ chiếm
từ 13-15% tổng số vốn đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp.
Nguyên nhân tiếp theo là thành tựu khoa học công nghệ, đặc biệt là các tiến bộ kỹ
thuật trong sản xuất, chế biến nông sản được đưa vào ứng dụng sản xuất chưa
nhiều nên năng suất, chất lượng hiệu quả trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng, khai
thác hải sản còn thấp.


Tình trạng sản xuất nông nghiệp manh mún, ruộng đất bị xé lẻ, phần lớn nông hộ
có diện tích đất nhỏ, rải rác làm tăng rủi ro, ngăn cản quá trình áp dụng công nghệ
tiên tiến, khó bảo quản hàng hóa, tăng chi phí sản xuất, gây phức tạp cho quản lý
chất lượng, an toàn thực phẩm, kiểm soát dịch bệnh.
Một nguyên nhân khác là công nghiệp chế biến nông sản vẫn còn kém phát triển.
Việt Nam chủ yếu xuất khẩu nguyên liệu thô, trong khi hàng hóa thành phẩm được
sản xuất ở nước khác và sau đó lại được nhập khẩu trở lại Việt Nam. Điều này
phản ánh nông dân, doanh nghiệp Việt Nam đang tự làm thất thoát giá trị hàng
nông sản trên thị trường quốc tế. Cho tới nay, chỉ có rất ít thương hiệu và chỉ dẫn
địa lý nổi tiếng gắn với nông sản ViệtNam.
Bên cạnh đó, năng lực các doanh nghiệp sản xuất, chế biến, xuất khẩu nông sản

còn hạn chế, đặc biệt là năng lực quản lý, nghiên cứu, dự báo thị trường, năng lực
cạnh tranh trên thị trường quốc tế yếu; Công tác xúc tiến thương mại, xúc tiến xuất
khẩu chưa được quan tâm đầu tư đúng mức nên chưa tạo điều kiện đẩy mạnh xuất
khẩu.
Quan hệ sản xuất trong nông nghiệp chậm được đổi mới, cơ chế hợp tác liên kết
sản xuất chế biến sản phẩm còn nhiều bất cập làm cản trở phát triển hợp tác nôngcông do tính rủi ro khi ký kết hợp đồng bao tiêu nông sản với nhiều nông hộ nhỏ,
lẻ, phân tán.
Xây dựng nông thôn mới là chương trình lớn nhất từ trước đến nay trong ngành
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Nhiều kế hoạch, cơ chế chính sách đã được
ban hành, nhưng nhiều nơi vẫn mới dừng lại ở quy hoạch, đề án; Việc huy động
các nguồn lực của toàn xã hội xây dựng nông thôn mới còn hạn chế.

IV. Các chính sách phát triển nông nghiệp của nhà nước
1.Các chính sách của Nhà nước
Phát triển kinh tế nông nghiệp nông nghiệp nông thôn là một vấn đề rộng lớn,
phức tạp, chịu tác động của nhiều yếu tố khác nhau như: các yếu tố về thể chế
chính sách, điều kiện tự nhiên khoa học công nghệ, về vốn và các điều kiện khoa
học công nghệ, yếu tố vùng địa lý, về vốn và các điều kiện kinh tế xã hội, yếu tố
thị trường quốc tế. Tuy vậy, trong những năm đổi mới vừa qua, nhân tố đổi mới cơ
chế chính sách là nhân tố nổi trội nhất, tác động mạnh mẽ lên sự tăng trưởng và


phát triển của kinh tế nông nghiệp- nông thôn. Ngay tại Đại hội đảng toàn quốc lần
thứ V đã khẳng định “Tập trung phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn, coi nông
nghiệp là mặt trận hàng đầu”. Mặt khác với hơn 70% dân số sống chủ yếu ở nông
thôn, 76% dân số nước ta làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp, hơn 50% tổng kim
ngạch xất khẩu là do ngành nông nghiệp đóng góp. Do đó trong thời gian qua
Đảng và nhà nước ta đã tập trung mọi nguồn lực cho phát triển nông nghiệp nông
thôn,thực hiện một số chính sách thúc đẩy phát triển nông nghiệp giai đoạn 2011 2020. Cụ thể, cần thực hiện những chính sách chủ yếu sau đây:
 Chính sách đầu tư. Hiện nay tốc độ tăng đầu tư cho nông nghiệp chỉ đạt


3,2% - 3,4%/năm chưa tương xứng với vai trò quan trọng và sự đóng góp
của nông nghiệp cho nền kinh tế quốc dân. Tốc độ này cũng còn thấp xa so
với tiềm năng của nông nghiệp Việt Nam. Phải hết sức cẩn thận tránh rơi
một cách vô ý thức vào chiến lược coi trọng công nghiệp, xem nhẹ nông
nghiệp của một số nước trên thế giới đã đưa đến sự không hài hòa phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước. Muốn vậy, cần tăng cường đầu tư nhiều hơn
nữa cho nông nghiệp, hướng vào nghiên cứu, áp dụng khoa học công nghệ
hiện đại trong nông nghiệp, tăng cường khuyến nông, khuyến lâm, khuyến
ngư và xây dựng các cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho sản xuất, cho giai
đoạn sau thu hoạch, chế biến, bảo quản nông sản cho đến khi đưa đến người
tiêu dùng trong và ngoài nước.
 Chính sách tín dụng. Tạo điều kiện cho nông dân tiếp cận với nguồn tín

dụng, giải quyết tình trạng luôn thiếu vốn của nông dân, cho nông dân vay
kịp thời trong những thời kỳ cần vốn sản xuất để tránh phải bán tháo nông
sản với giá thấp, hoặc tránh phải đi vay nặng lãi.
 Chính sách thị trường. Ổn định và mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản

trong nước và trên thế giới; hỗ trợ nâng cao năng lực cho nông dân trong
việc tiếp cận thị trường tiêu thụ nông sản; cung cấp đầy đủ và chính xác cho
nông dân những thông tin về thị trường; có chính sách gắn kết giữa sản xuất
của nông dân với thị trường tiêu thụ.
 Chính sách về ruộng đất. Ban hành chính sách thay thế cơ chế thu hồi và

đền bù quyền sử dụng đất bằng cơ chế mua và bán quyền sử dụng đất trên
thị trường để hoàn thiện thể chế thị trường trong nông nghiệp và bảo vệ
quyền lợi chính đáng của nông dân - vốn luôn là người yếu thế trong cơ chế
thu hồi và đền bù quyền sử dụng đất. Hiện nay, ruộng đất không phải là hàng
hóa mà quyền sử dụng ruộng đất mới là hàng hóa trao đổi trên thị trường và



thị trường quyền sử dụng ruộng đất đang bộc lộ nhiều hạn chế. Vì thế, nên
tính đến việc chuyển thị trường quyền sử dụng ruộng, đất nông nghiệp sang
thị trường ruộng, đất nông nghiệp thật sự.
- Đối với việc tập trung và tích tụ ruộng đất cần phải có bước đi phù hợp,
phải dựa vào tốc độ công nghiệp hóa, đô thị hóa, để rút lao động ra khỏi
nông nghiệp, tuyệt đối không được làm cho nông dân mất đất, thất nghiệp và
bần cùng hóa.
 Các chính sách khác như: chính sách đào tạo cán bộ ở nông thôn, chính sách

mối quan hệ giữa kinh tế và xã hội, chính sách giá cả, chính sách công nghệ.
2.Ưu điểm và nhược điểm của các chính sách
1, Chính sách ruộng đất:
 Nó tạo ra sự nhượng đất đai có chiều hướng gia tăng, có một số hộ gia đình
sử dụng sai mục đích, dẫn đến một số hộ nông dân thiếu ruộng đất.
 Nó chưa tạo ra sự ổn định cho người lao động trong sản xuất nông nghiệp.
 Việc thực hiện chính sách ruộng đất với chính sách kinh tế khác diễn ra
không đồng bộ.
 Việc cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu đất diễn ra một cách chậm chạm.
 Sau khi giao ruộng đất cho người nông dân thì những người quản lí chưa có
sự tổ chức ruộng đất.
2, Chính sách đầu tư:
 Nhà nước chưa đáp ứng đủ nhu cầu về vốn, dẫn đến cơ sở hạ tầng còn kém.
 Vốn sản xuất cũng thiếu một cách trầm trọng, đặc biệt là vốn trung và dài
hạn.
 Sử dụng vốn trong người dân chưa hợp lí.
3, Chính sách thị trường:
 Thị trường tiêu thụ nông sản cho nông dân còn mang nặng yếu tố tự phát,
biến động bất thường.

 Chúng ta chưa hình thành được các hướng cụ thể cho kinh tế đối ngoại phát
triển
 Về thị trường lao động và việc làm ở nông thôn chưa có kế hoạch cụ thể cho
từng thời điểm.


4, Chính sách tín dụng: Tổ chức các nguồn và kênh tín dụng trong nông thôn chưa
hợp lý.
5, Các chính sách khác:
a, Chính sách đào tạo cán bộ nông thôn ở nước ta:
• Việc đào tạo cán bộ nông thôn ở nước ta trong thời gian qua còn mang nặng
tính hình thức.
• Chưa có chính sách khuyến khích cán bộ ở nông thôn.
b,Chính sách giải quyết mối quan hệ giữa kinh tế và xã hội:
• Chưa giải quyết được mối quan hệ giữa công bằng và nghèo đói.
• Phát triển kinh tế chỉ nhìn về cái lợi trước mắt mà quên đi sự phát triển bền
vững.
c, Chính sách giá cả:
• Còn mang tính hiện vật:
• Nó thiếu sự can thiệp một cách đồng bộ của chính phủ.
d, Chính sách công nghệ:
• Trong thời gian qua việc nhập công nghệ của nước ta không có tính khả thi bởi
lẽ đi nhặt lựa những công nghệ mà họ đã thải đi.
Chúng ta không có kế hoạch cụ thể về qua trình chuyển giao công nghệ
• Trong thời gian qua việc nhập công nghệ của nước ta không có tính khả thi bởi
lẽ đi nhặt lựa những công nghệ mà họ đã thải đi.
Chúng ta không có kế hoạch cụ thể về qua trình chuyển giao công


V, Giải pháp

1. Tái cơ cấu nền nông nghiệp
Nền nông nghiệp nước ta trong 30 năm qua vẫn dựa vào cơ cấu truyền thống,
xoay quanh trục trọng tâm lấy mục tiêu hàng đầu là đảm bảo an ninh lương thực
quốc gia, tập trung mọi nguồn lực theo hướng làm càng nhiều diện tích lúa càng
tốt, sản xuất lúa càng nhiều càng tốt, xuất khẩu gạo càng nhiều càng tốt, xem nhẹ
hiệu quả và lợi ích nông dân. Cơ cấu của ngành nông nghiệp mới phải tạo ra được
những ngành sản xuất hàng hóa chủ lực với hai tiêu chí quan trọng nhất là: Một,
nâng cao nhanh thu nhập cho nông dân trên cơ sở nâng cao doanh thu và lợi tức
trên 1 ha đất sản xuất kinh doanh. Phấn đấu doanh thu đạt 100 triệu đồng/ha/năm,
tiến tới 200 triệu đồng/ha/năm, tỷ suất lợi nhuận khoảng 30%, đảm bảo mọi người
làm nông nghiệp có thể làm giầu trên mảnh đất của mình tạo nền tảng phát triển
nền nông nghiệp bền vững. Hai, đảm bảo mọi ngành hàng sản xuất chủ lực của
Việt Nam đủ sức cạnh tranh quốc tế, đủ sức đề kháng mọi sự bất trắc trong quá
trình hội nhập quốc tế, tự do hóa thương mại. Cơ cấu mới của nền nông nghiệp
gồm 3 loại:
- Loại 1: Nhất thiết vẫn phải đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, sản xuất
lương thực đủ nuôi khoảng 130 triệu dân, có mức dự trữ cần thiết để đối phó với
mọi tình huống khó tiên lượng của thời cuộc, không đặt trọng tâm vào sản xuất gạo
hướng ra xuất khẩu.
- Loại 2: Phát triển những ngành hàng nông sản thay thế nhập khẩu nhưng đủ
sức cạnh tranh để đứng vững được trong điều kiện tự do hóa thương mại.
- Loại 3: Tập trung phát triển những ngành hàng có lợi thế cạnh tranh cao, thị
trường xuất khẩu lớn, có thu nhập cao cho nông dân và đem lại nguồn ngoại tệ lớn
góp phần phát triển kinh tế đất nước. Phải tập trung trí tuệ và nguồn lực để hình


thành những ngành sản xuất hàng hóa chủ lực có khả năng đem lại nguồn doanh
thu trên 1 tỷ USD/năm, trong đó có những ngành đạt trên 10 tỷ USD/năm, xứng
tầm với nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa lớn của Việt Nam tham gia chuỗi giá
trị toàn cầu.



2. Tích tụ ruộng đất hợp lý
Tích tụ đất với quy mô hợp lý (tùy vào đối tượng và công nghệ sản xuất) là cơ sở
hạ tầng quan trọng nhất để hiện đại hóa nông nghiệp (nhất là cơ giới hóa, thủy lợi
hóa) và ứng dụng công nghệ cao và mới trong nông nghiệp, là chỗ dựa cơ bản để
nâng cao sức cạnh tranh của nền nông nghiệp hàng hóa Việt Nam hướng ra xuất
khẩu. Một nền nông nghiệp sản xuất dựa vào hộ tiểu nông nhỏ và siêu nhỏ, với
những thửa ruộng manh mún là lực cản lớn nhất đối với sự nghiệp phát triển nền
nông nghiệp hàng hóa lớn của nước ta. Thực tế hiện nay đã hé mở hướng tích



×