Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

phân biệt vai trò của cơ quan hành chính nhà nước và các tổ chức xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (59.44 KB, 10 trang )

PHÂN BIỆT VAI TRÒ CỦA CƠ QUAN HÀNH CHÍNH
NHÀ NƯỚC VÀ CÁC TỔ CHỨC XÃ HỘI
I. VAI TRÒ CỦA CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
1. Vai trò chung:
1.1. Xây dựng và thực thiện quy phạm pháp luật hành chính.
Đây có thể xem là một trong những vai trò quan trọng hàng đầu của
cơ quan hành chính nhà nước. Khi một bộ luật mới, Hiến pháp mới, chính
sách mới,…được ban hành, các cơ quan hành chính có thẩm quyền sẽ có vai
trò chỉ đạo các sự án luật, pháp lệnh và trình lên trước Quốc hội và Ủy ban
thường vụ Quốc hội để xem xét. Nếu được thông qua thì sau đó sẽ phổ biến
rộng rãi trong toàn thể nhân dân.
Điều 97, chương 6 (Chính phủ) Hiến pháp 2013 quy định: “Chính phủ có
nhiệm vụ và quyền hạn là tổ chức thi hành Hiến pháp, pháp luật, nghị quyết
của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, lệnh,
quyết định của Chủ tịch nước”.
Đồng thời, tại khoản 2 điều này cũng yêu cầu: “đề xuất, xây dựng chính sách
trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định hoặc quyết định theo
thẩm quyền để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn…”
Tóm lại, cơ quan hành chính nhà nước thể hiện đóng góp của mình trong
những vấn đề liên quan đến xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp
luật. Để khi ra đời thì các văn bản này thật sự được các cơ quan hành chính
áp dụng hiệu quả và khoa học.
1.2.

Hiện thực hóa mục tiêu, ý tưởng của cán bộ cơ quan hành chính
các cấp, những người đại diện cho nhân dân.
Đây là chức năng chấp hành của cơ quan hành chính nhà nước, có trách
nhiệm chấp hành mọi quyết định của các cơ quan chính trị nhằm đạt được
mục tiêu chính trị của quốc gia, phục vụ cho lợi ích của nhân dân, của đất
nước.
1.3. Điều hành hoạt động kinh tế - xã hội.


Các cơ quan hành chính nhà nước có chức năng định hướng và điều chỉnh
các quan hệ xã hội thông qua các kế hoạch hay văn bản lập quy.
Khoản 3 điều 96, Hiến pháp 2013 quy định về vai trò của quốc hội tron quản
lý kinh tế, xã hội: “thống nhất quản lý kinh tế, văn hóa xã hội, giáo dục, y tế,
khoa học công nghệ,…” và khoản 6 điều 96 có nói “bảo vệ quyền và lợi ích


của Nhà nước và xã hội, quyền con người, quyền công dân, bảo đảm trật tự,
an toàn xã hội”.
1.4. Duy trì và thúc đẩy xã hội phát triển theo định hướng.
Để thực hiện vai trò này, cơ quan hành chính nhà nước có trách nhiệm duy
trì và tạo lập điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của các yếu tố cấu thành
xã hội: nguồn lực tài nguyên, nguồn lực vật chất, nguồn lực con người, đồng
thời khắc phục những sai sót, thất bại của thị trường hay những lỗi do cơ
quan hành chính nhà nước gây ra.
1.5. Cung cấp dịch vụ công cho xã hội.
Xã hội ngày càng càng phát triển, tầm quan trọng của việc dân chủ hóa đời
sống ngày càng được đề cao. Cơ quan hành chính nhà nước được thiết lập để
phục vụ lợi ích của nhân dân với tư cách là chủ thể của quyền lực nhà nước,
của xã hội, các dịch vụ công được cung cấp là: bảo hiểm, chăm sóc sức
khỏe, trường học, xe buýt, bưu điện,…


2. Vai trò của từng cơ quan:
2.1. Chính phủ:
Chính phủ là cơ quan do dân gián tiếp bầu ra thông qua Quốc hội, là
cơ quan thực hiện quyền hành pháp và là cơ quan hành chính cao nhất. Đứng
đầu Chính phủ là Thủ tướng, các thành viên khác của Chính phủ đều do Thủ
tướng giới thiệu và được Chủ tịch nước ký quyết định bổ nhiệm.
Chính phủ nắm giữ quyền hành pháp nên dù là cơ quan do Quốc hội

lập ra nhưng vẫn tương đối độc lập so với Quốc hội nắm giữ quyền lập pháp.
Trong bộ máy hành chính nhà nước, Chính phủ thể hiện vai trò là cơ quan
hành chính cao nhất qua việc thực hiện các nhiệm vụ trong lĩnh vực kinh tế xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại,… Chính phủ có nhiệm vụ đưa ra các
dự án, báo cáo và trình lên cho Quốc hội xem xét, phê chuẩn hoặc ban hành
văn bản quy phạm pháp luật, trình bày phương hướng phát triển của đất
nước hằng năm.
Chính phủ chỉ đạo xuyên suốt toàn bộ nền hành chính từ cung cấp
ngân sách, tài chính, thực hiện mục tiêu tăng trưởng, ổn định kinh tế, ổn định
chính sách tài chính – tiền tệ và các lĩnh vực kinh tế cụ thể đến quản lý
thống nhất nền công vụ và đội ngũ công chức, viên chức, tổ chức lao động
xã hội, phân công giữa Trung ương và địa phương…
Trong mối quan hệ với các cơ quan tư pháp, trước đây có thời Chính
phủ quản lý cả Tòa án địa phương. Điều này cho thấy, vai trò, vị trí của
Chính phủ trong bộ máy nhà nước nói chung và đối với các cơ quan thực
hiện quyền tư pháp nói riêng là hết sức quan trọng.
Với tư cách là hành pháp, Chính phủ có thẩm quyền rất lớn đối với
hoạt động tư pháp, ngoài điều tra, truy tố, thi hành án, quản lý tòa án địa
phương,… Ngoài ra Chính phủ còn có quyền yêu cầu tòa án xem xét lại các
quyết định, bản án có hiệu lực pháp luật. Mặt khác, các văn bản quy phạm
pháp luật của Chính phủ còn là cơ sở pháp lý cho òa án xem xét, luận tội các
hành vi vi phạm pháp luật và tranh chấp pháp lý ở các lĩnh vực khác nhau
của đời sống xã hội.
2.2. Vai trò của Chính quyền địa phương:
Chính quyền địa phương được coi là “cánh tay nối dài của hành pháp” nhằm
thực hiện có hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước của Chính phủ trên toàn
bộ lãnh thổ Việt Nam. Nước ta là một quốc gia được cấu trúc theo hình thức
nhà nước đơn nhất, toàn bộ quyền hành pháp thuộc về Chính phủ. Chính phủ
quyết định các chính sách vĩ mô, chi phối hoạt động hành chính ở địa
phương và phát huy vai trò sáng tạo, chủ động của địa phương thông qua
việc phân công, phân cấp cho địa phương trên các lĩnh vực như ngân sách,

đầu tư dự án, quản lý hành chính trên các lĩnh vực thuế, phí, lệ phí, giáo dục,


y tế, công chức, viên chức,… và chỉ đạo việc tổ chức lại chính quyền cấp
huyện, xã,.
Ngược lại, chính quyền hành chính địa phương có vai trò hiện thực
hóa những quyết sách, chỉ đạo từ cấp trên đến toàn thể người dân trong địa
phương của mình. Đồng thời lắng nghe ý kiến, tâm tư, nguyện vọng của
người dân về các vấn đề chính trị, kinh tế - xã hội,… để phán ánh lên Chính
phủ và tìm cách giải quyết.


II. Vai trò của các tổ chức xã hội:
1. Vai trò chung của các tổ chức xã hội trong quản lý hành chính nhà
nước:
Với nhiệm vụ là chỗ dựa chính trị của chính quyền nhân dân ảnh
hưởng của tổ chức xã hội càng mạnh bao nhiêu, chính quyền nhân dân càng
được củng cố bấy nhiêu. Sức mạnh đòa kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí
về chính trị trong nhân dân do tổ chức xã hội tạo nên góp phần bình ổn chính
trị, giúp Nhà nước dễ dàng hơn trong quản lý hành chính nhà nước, quản lý
xã hội.
Các tổ chức xã hội là đại diện cho nhiều tầng lớp, giai cấp trong xã
hội Việt Nam, không những đại diện cho quần chúng nhân dân thực hiện
quyền chính trị mà còn giúp cho từng cá nhân phát huy tích cực năng lực
chính trị của mình thông qua việc tuyên truyền, giáo dục nhân dân nghiêm
chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật.
Sự tồn tại và phát triển của các tổ chức xã hội có vai trò quan trọng để
nhân dân được tham gia rộng rãi vào quá trình quản lý Nhà nước. Hiến pháp
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định rõ: “Quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân” Nhưng quyền lực ấy được nhân dân thực hiện thế

nào lại là 1 vấn đề khác và tổ chức xã hội ra đời nhằm đảm bảo 1 phần
quyền lực ấy. Trong quản lý hành chính nói riêng và quản lý nhà nước nói
chung, ngoài các cơ quan nhà nước, cá nhân được nhà nước trao quyền còn
cho phép các tổ chức xã hội thực hiện hoạt động quản lý (giám sát xã hội).
Tuy nhân dân không trực tiếp tham gia quản lý hành chính Nhà nước nhưng
các tổ chức xã hội là đại diện của nhân dân như Mặt trận tổ quốc Việt Nam,
công đoàn,… lại có thể thay mặt nhân dân quản lý hành chính nhà nước.
Ngoài ra các tổ chức xã hội có quyền tham gia đóng góp ý kiến xây
dựng pháp luật, đặc biệt là trong lĩnh vực mà tổ chức xã hội đó hoạt động. Ví
dụ như hiệp hội trọng tài có quyền tham gia đóng góp ý kiến xây dựng Luật
trọng tài thương mại, đoàn luật sư có quyền tham gia đóng góp ý kiến xây
dựng Luật luật sư,…


2. Vai trò riêng của mỗi tổ chức xã hội trong quản lý hành chính nhà
nước:
2.1. Vai trò của tổ chức chính trị
Hiện nay ở Việt Nam chỉ có 1 đảng chính trị được tồn tại và hoạt động
hợp pháp là Đảng cộng sản Việt Nam. Đảng cộng sản Việt Nam hoạt đọng
với mục đích chính trị là mở rộng hơn nữa khối đại đoàn kêt dân tộc lý liên
minh giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm
nền tảng, nhằm đạt mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất, tiến lên dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
Đảng đề ra đường lối, chủ trương, chính sách lớn định hướng cho sự
phát triển của toàn xã hội trong từng thời kì phát triển, trên tất cả các lĩnh
vực, đặc biệt là trong quản lí hành chính nhà nước.
Đảng vạch ra những phương hướng và nguyên tắc cơ bản làm cơ sở
cho việc xây dựng và hoàn thiện nhà nước (quản lí hành chính nhà nước).
Đảng đề ra những quy định và chính sách về công tác cán bộ; phát
hiện lựa chọn, bồi dưỡng những đảng viên ưu tú và những người ngoài

Đảng có phẩm chất và năng lực giới thiệu với cơ quan nhà nước, các tổ chức
chính trị - xã hội thông qua cơ chế bầu cử, tuyển chọn để bố trí vào làm việc
trong các cơ quan nhà nước và các tổ chức chính trị-xã hội, hay nói cách
khác, Đảng cung cấp nguồn nhân lực cho quản lí hành chính nhà nước.
Như vậy về thực chất, sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước và xã hội là
lãnh đạo mang tính định hướng, tạo điều kiện để quản lí hành chính nhà
nước phát triển một cách tốt nhất, đồng thời tạo điều kiện cho các tổ chức xã
hội khác có cơ sở để chủ động sáng tạo trong tổ chức và hoạt động bằng
những công cụ, phương pháp và biện pháp cụ thể của mình.
2.2. Vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội
Tổ chức chính trị-xã hội là các tổ chức được thành lập bởi những
thành viên đại diện cho lực lượng xã hội nhất định, thực hiện các hoạt động
xã hội rộng rãi và có ý nghĩa trong quản lí hành chính nhà nước.Vai trò của
một số tổ chức chính trị xã hội tiêu biểu ở Việt Nam:
Mặt trận tổ quốc Việt Nam: tham gia xây dựng và củng cố chính
quyền nhân dân, cùng nhà nước chăm lo và bảo vệ quyền lợi chính đáng của
nhân dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động và giám sát hoạt
động của các cơ quan NN, đại biểu dân cử, cán bộ, viên chức nhà nước.
Công đoàn Việt Nam: tham gia quản lí nhà nước và xã hội, tham gia
kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế; giáo dục
cán bộ, công nhân, viên chức và những người lao động khác xây dựng và
bảo vệ tổ quốc; cùng với cơ quan nhà nước chăm lo và bảo vệ quyền lợi của
cán bộ, công nhân viên chức và những người lao động.


Hội nông dân Việt Nam: tham gia quản lí nhà nước và xã hội, tham
gia kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế;
đoàn kết, giáo dục, nâng cao ý thức và năng lực làm chủ của nông dân; cùng
với cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế tổ chức chăm lo và bảo vệ quyền lợi
của nông dân, kiến nghị với nhà nước những vấn đề cần thiết trong chính

sách phát triển nông nghiệp nông thôn.
Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh: tập hợp, đoàn kết, giáo dục
và rèn luyện thế hệ trẻ, tham gia tích cực vào các hoạt động của nhà nước và
xã hội; phối hợp với các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị-xã hội, các
tổ chức kinh tế và các đoàn thể quần chúng chăm lo và bảo vệ quyền lợi của
thế hệ trẻ, đề xuất với Đảng và nhà nước các chính sách, quan điểm phát huy
năng lực và tạo điều kiện cho thế hệ trẻ Việt Nam phát triển toàn diện.
Hội cựu chiến binh Việt Nam: tham gia xây dựng, bảo vệ chính
quyền, phát huy dân chủ góp phần giữ ổn định chính trị, tăng cường quốc
phòng, an ninh; tham gia thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa,
xã hội; góp phần tích cực vào việc giáo dục thế hệ trẻ và tham gia vào hoạt
động đối ngoại của Đảng và nhà nước.
Như vậy các tổ chức chính trị-xã hội là chỗ dựa của chính quyền nhân
dân, với vai trò hội tụ sức mạnh toàn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị,
góp phần ổn định chính trị từ trung ương đến địa phương tạo điều kiện để
nhà nước thực hiện việc quản lí hành chính nhà nước, quản lí xã hội.
2.3. Vai trò của các tổ chức xã hội – nghề nghiệp:
Tổ chức xã hội – nghề nghiệp là tập hợp tự nguyện của những cá
nhân, tổ chức cùng thực hiện các hoạt động nghề nghiệp, được thành lập
nhằm hỗ trợ các thành viên trong hoạt động nghề nghiệp và bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp của các thành viên. Một số các tổ chức xã hội nghề nghiệp
có thể kể đến như Hiệp hội trọng tài, Hội nhà văn Việt Nam, Hội nhà báo
Việt Nam,…
Ngoài những vai trò chung đối với quản lý hành chính nhà nước như
đã nêu, các tổ chức xã hội – nghề nghiệp còn có 1 số các vai trò đặc thù. Đối
với vấn đề giải quyết việc làm, các tổ chức này bảo đảm cho mọi thành viên
tham gia hội có khả năng lao động, có nhu cầu làm việc đều có việc làm.
Qua đó hạn chế thất nghiệp, ảnh hưởng tiêu cực tới xã hội đồng thời giới
thiệu được những người phù hợp vào từng công việc cụ thể, nâng cao được
năng suất lao động. Đối với bảo tồn và phát triển văn hoá dân tộc, các tổ

chức như Hội nhà văn Việt Nam, Hội nhà báo Việt Nam,… đã khuyến khích
tìm tòi, thể nghiệm phong cách sáng tác vì mục đích đáp ứng đời sống tinh
thần lành mạnh, bổ ích cho các thành viên và cộng đồng dân cư từ đó nâng
cao đời sống tinh thần của nhân dân, hướng con cổ vũ cái đúng, cái tốt, cái
đẹp trong quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với xã hội,


với thiên nhiên, phê phán những thói hư tật xấu. Qua đó mỗi người dân sẽ
tự nâng cao được ý thức của bản than, chấp hành pháp luật 1 cách tự nguyện.
2.4. Vai trò của tổ chức tự quản phục vụ lợi ích cộng đồng
Các tổ chức tự quản luôn sát cánh cùng Nhà nước trong công tác quản
lý ở cơ sở, là nhân tố tích cực giúp đỡ các cơ quan hành chính nhà nước ở
địa phương thực hiện tốt hơn chức năng của mình. Cũng như các tổ chức xã
hội khác, các tổ chức tự quản về nguyên tắc cũng có quyền tham gia đóng
góp ý kiến xây dựng pháp luật, đặc biệt là trong lĩnh vực mà tổ chức xã hội
đó hoạt động.Ngoài ra với mỗi tổ chức tự quản khác nhau lại có những vai
trò riêng trong quản lý hành chính nhà nước. Sau đây là vai trò cụ thể của
một số tổ chức tự quản thường gặp trong cuộc sống.
Tổ dân phố được tổ chức ở phường, thị trấn là một tổ chức tự quản
điển hình, với nội dung hoạt động rất phong phú nhằm góp phần giữ gìn trật
tự, an ninh và phát triển địa phương. Điều đặc biệt về cách thức quản lý địa
phương của tổ dân phố là tổ dân phố có thể căn cứ vào tình hình cụ thể,
hoàn cảnh thực tế của địa phương để lựa chọn những biện pháp giáo dục,
tuyên truyền, quản lý, phát triển địa phương một cách hiệu quả nhất, phát
huy tính sáng tạo trong quản lý tại cơ sở. Một ví dụ điển hình cho thấy vai
trò của tổ dân phố trên thực tế là trong ngày bầu cử đại biểu Quốc hội khóa
XIV, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016 – 2021 vừa qua,
các tổ dân phố trên địa bàn cả nước đã tích cực phổ biến quy trình, ý nghĩa
của cuộc bầu cử, vận động người dân thực hiện quyền bầu cử, cũng như phổ
biến danh sách các ửng cử viên, giúp đỡ Ủy ban bầu cử suốt tiến trình của

cuộc bầu cử.
Tổ hòa giải là “tổ chức tự quản của nhân dân được thành lập ở cơ sở
để hoạt động hòa giải” (Khoản 5 Điều 2 Luật hòa giải ở cơ sở năm 2013).
Với cơ sở pháp lý là Luật hòa giải ở cơ sở năm 2013, tổ hòa giải được nhân
dân cử ra, thực hiện chức năng của mình là thực hiện hòa giải, kịp thời giải
quyết các tranh chấp, xích mích nhỏ trong cộng đồng dân cư, giúp nhân dân
xây dựng nếp sống văn hóa, tuân thủ pháp luật. Ngoài ra, tổ hòa giải còn
phối hợp với Ban công tác Mặt trận, Chi hội phụ nữ, Chi đoàn thanh niên,
Chi hội cựu chiến binh, Chi hội nông dân, Chi hội người cao tuổi, các tổ hòa
giải và tổ chức, cá nhân khác trong hoạt động của mình; có quyền kiến nghị
với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã, Uỷ ban nhân dân cấp xã về
hoạt động hòa giải ở cơ sở, các điều kiện cần thiết cho hoạt động hòa giải ở
cơ sở. Như vậy, có sự phối hợp giữa cơ quan hành chính nhà nước, giữa các
tổ chức chính trị - xã hội ở địa phương với tổ hòa giải trong hoạt động. Ban
thanh tra nhân dân được thành lập ở xã, phường, thị trấn, cơ quan nhà nước,
đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp nhà nước, với nhiệm vụ “giám sát
việc thực hiện chính sách, pháp luật, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, việc


thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở” (Điều 66 Luật thanh tra năm 2010).
Thanh tra nhân dân có quyền kiến nghị người có thẩm quyền xử lý theo quy
định của pháp luật khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật và giám sát
việc thực hiện kiến nghị đó; kiến nghị với Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã,
người đứng đầu cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp
nhà nước khắc phục sơ hở, thiếu sót được phát hiện qua việc giám sát; bảo
đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và người lao động, biểu dương
những đơn vị, cá nhân có thành tích. Như vậy, tổ chức thanh tra nhân dân
với chức năng giám sát và kiến nghị góp phần không nhỏ trong việc đảm
bảo minh bạch của hoạt động cơ quan nhà nước ở cơ sở, bảo đảm dân chủ
cũng như quyền lợi của người dân.

Nhìn chung, các tổ chức tự quản đều hoạt động với mục đích tuyên
truyền, giáo dục, nâng cao ý thức pháp luật cũng như bảo vệ quyền và lợi ích
chính đáng của người dân.


III. Phân biệt vai trò của cơ quan hành chính NN và tổ chức xã hội:
Điểm khác nhau cơ bản nhất giữa vai trò của cơ quan hành chính nhà
nước và các tổ chức xã hội chính là nhánh quyền lực hành pháp. Các cơ
quan hành chính nhà nước có thẩm quyền có thể ban hành các văn bản quy
phạm pháp luật để trình lên Quốc hội, nếu văn bản đó được thông qua thì sẽ
sẽ được phổ biến đến người dân bằng hình thức bắt buộc, cưỡng chế thực
hiện, tuân theo. Ngược lại, các tổ chức xã hội không có quyền hành pháp,
những chính sách, quyết định của họ không mang tính ép buộc đối với người
khác mà nằm dưới hình thức khuyến khích, động viên.
Vai trò của tổ chức xã hội, ở một mặt nào đó có thể nhìn nhận như một
sự bổ sung cho cơ quan hành chính nhà nước. Trong nhiều hoạt động, nhiều
lĩnh vực nhà nước thực sự không thể làm tốt bằng các tổ chức xã hội. Nhìn
chung, nhà nước có quá nhiều vấn đề lớn để cần ưu tiên xử lý… nên không
phải cái gì cũng có thể can thiệp, cái gì cũng có thể đích thân thực hiện. Các
tổ chức xã hội dân dự thông qua những cách thức khác nhau cung cấp cho
Nhà nước và thị trường những thông tin, tín hiệu phản hồi cho những chính
sách không thực tế, thậm chí sai lầm hay lệch lạc.
Tổ chức xã hội, tương tự như một cầu nối giữa người dân và chính
quyền. Có câu “Trời cao, Hoàng đế xa”, những ý kiến, nguyện vọng của
nhân dân, trường hợp, hoàn cảnh khó khăn cần được để tâm giải quyết của
nhân dân không phải lúc nào cũng được nhà nước quan tâm để ý. Lúc này,
vai trò của tổ chức xã hội trở nên hết sức quan trọng. Họ có điều kiện tiếp
xúc nhiều hơn, gần gũi hơn với người dân nên dễ dàng tìm hiểu tình hình
thực tế một cách chân thực nhất cũng như dễ dàng cảm thông cho nhân dân.
Các tổ chức xã hội lúc này sẽ ngay lập tức tìm cách giải quyết vấn đề, hoặc

nếu họ không làm được thì sẽ biến mình thành cầu nối để đưa những trường
hợp, hoàn cảnh ấy trình lên các cơ quan chính quyền để tìm biện pháp.
Tựa như trong một gia đình, sẽ có người trở thành trụ cột chính, lo
toan những việc lớn ngoài xã hội, cũng phải có người quan tâm, chăm sóc
đến những điều nhỏ nhặt nhất, kết nối các thành viên với nhau. Vai trò của
cơ quan hành chính nhà nước và tổ chức xã hội cũng như vậy. Không bài trừ
nhau hay mâu thuẫn lẫn nhau, ngược lại, bổ sung, tiếp ứng cho nhau để đem
lại lợi ích tuyệt đối cho người dân.



×