ĐẶT VẤN ĐỀ
Nghèo đói là một vấn đề xã hội mang tính toàn cầu. Những năm gần đây,
nhờ những chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước, nền kinh tế nước ta đã có
những bước chuyển mình rất quan trọng. Đặc biệt là vào năm 2006 nước ta đã
chính thức là thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại lớn nhất thế giới WTO.
Những nhân tố đó đã làm cho nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng nhanh, đại bộ
phận đời sống nhân dân đã được nâng lên một cách rõ rệt. Song, một bộ phận
không nhỏ dân cư đặc biệt là dân cư ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa... đang chịu
cảnh nghèo đói, chưa đảm bảo được những điều kiện tối thiểu của cuộc sống
như ăn, ở, mặc, đi lại...Chính vì vậy, sự phân hoá giàu nghèo ở nước ta ngày
càng diễn ra mạnh mẽ. Nó không chỉ là mối quan tâm hàng đầu của những nước
có nền kinh tế phát triển trên thế giới, mà đối với nước ta khi nền kinh tế đang
có sự chuyển mình thì vấn đề phân hoá giàu nghèo càng được chú trọng hàng
đầu. Để có thể hoàn thành mục tiêu quốc gia là Xoá đói giảm nghèo thì trước
tiên phải rút ngắn sự phân hoá giàu nghèo.
Xoá đói giảm nghèo là một trong những chính sách xã hội cơ bản hướng
vào phát triển con người, nhất là người nghèo, tạo cơ hội cho họ tham gia vào
quá trình phát triển kinh tế- xã hội của đất nước, để cho người nghèo có cơ hội
và điều kiện tiếp cận các dịch vụ xã hội phát triển sản xuất tự vươn lên thoát
khỏi nghèo đói. Vĩnh Lộc Thanh Hóa là một trong những huyện sớm triển khai
thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo. Uỷ ban nhân dân huyện đã quyết
định thành lập Ban chỉ đạo xoá đói giảm nghèo từ các huyện đến các xã, dành
nhiều ngân sách đầu tư cơ sở hạ tầng xã nghèo, lập quỹ cho vay Xoá đói giảm
nghèo , xây dựng các mô hình xoá đói giảm nghèo...
Một trong những nhiệm vụ quan trọng góp phần phát triển đất nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa như lời dạy của Hồ Chủ Tịch là xóa đói giảm
nghèo toàn diện.
1
Vậy làm thế nào để “tấn công” vào nghèo đói? Câu hỏi này đã được rất
nhiều nhà hoạch định chính sách đưa ra lời giải đáp và cũng đã tìm ra được
nhiều hướng đi hiệu quả. Do tôi xin đưa ra tiểu luận nghiên cứu "Chính sách
xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam" để thấy được những kết quả đã đạt được và
những yếu kém cần được khắc phục trong quá trình thực hiện chính sách xoá
đói, giảm nghèo của Đảng và Nhà nước ta, để từ đó có kiến nghị và đề xuất giải
pháp tốt hơn, có hiệu quả hơn trong công tác xoá đói giảm nghèo ở nước ta.
2
Phần I:
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
I. KHÁI NIỆM VỀ ĐÓI NGHÈO
Tiếp cận theo khía cạnh đa chiều: Nghèo là tình trạng thiếu thốn ở nhiều
phương diện như: thu nhập hạn chế, thiếu cơ hội tạo thu nhập, thiếu tài sản để
bảo đảm tiêu dùng lúc khó khăn và dễ bị tổn thương trước những đột biến, ít
được tham gia vào quá trình ra quyết định…..
Hội nghị chống đói nghèo khu vực châu Á – Thái Bình Dương do ESCAP
(The United Nations Economic and Social Commission for Asia and the Pacific)
tổ chức tại Băng Cốc – Thái Lan ( 9/1993 ) đã đưa ra định nghĩa chung về đói
nghèo như sau: “Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và
thỏa mãn các nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu này được xã hội
thừa nhận tùy theo trình độ phát triển kinh tế xã hội và phong tục tập quán của
địa phương.”
1. Nghèo khổ về thu nhập
Phạm vi nghèo khổ ngày càng mở rộng. Trước đây thì nghèo khổ thường gắn
với sự thiểu thốn trong tiêu dùng. Nhưng từ những năm 1970 – 1980, nghèo khổ
được tiếp cận theo nhu cầu cơ bản gồm: tiêu dùng, dịch vụ xã hội và nguồn lực.
Từ giữa những năm 1980 đến nay, tuy nghèo khổ được tiếp cận theo nhu cầu cơ
bản gồm: tiêu dùng, dịch vụ xã hội, nguồn lực và tính dễ bị tổn thương. Đối với
các nước đang phát triển thì việc đánh giá, phân tích nghèo khổ chủ yếu là dựa
vào tiêu chí thu nhập.
Chúng ta muốn biểu thị “nghèo khổ” bằng một con số có ý nghĩa để so
sánh xem đâu là nước giàu, đâu là nước nghèo, vùng nào giàu hơn và vùng nào
nghèo hơn….Các nhà kinh tế đã đưa ra khái niệm
+ Nghèo khổ tuyệt đối
+ Nghèo khổ tương đối
3
a. Nghèo tuyệt đối về thu nhập: là tình trạng không đảm bảo mức thu nhập
hay chi tiêu tối thiểu cần thiết để đáp ứng những nhu cầu vật chất tối thiểu cần
thiết để đáp ứng những nhu cầu vật chất tối thiểu để con người có thể tồn tại như
lương thực, thực phẩm, quần áo, nhà ở….
b. Nghèo tương đối về thu nhập: là tình trạng không đảm bảo mức tiêu
chuẩn để có thể chấp nhận được trong những địa điểm và thời gian xác định.
Đây là những người cảm thấy bị tước đoạt của cải mà đại bộ phận những người
khác trong xã hội được hưởng, đó là một biểu hiện bất bình đẳng trong phân
phối thu nhập.
Dù đã có những khái niệm về nghèo đói, song việc xác định nhóm người
nghèo cũng không phải là đơn giản, những khó khăn gặp phải:
Việc xác định mức nghèo là một vấn đề chủ quan gây khó khăn cho việc
so sánh giữa các nước.
Mức thu nhập tối thiểu cần thiết sẽ biến đổi theo tiêu chuẩn của mức sống
theo thời gian, theo quốc gia và theo khu vực.
Các nhà kinh tế đã sử dụng phương pháp là xác định “giới hạn nghèo
khổ” (chuẩn nghèo). Chúng ta lựa chọn xác định giới hạn nghèo dựa vào chi
tiêu của các hộ gia đình liên quan chặt chẽ đến phúc lợi hơn là thu nhập (vì có
thể thu nhập cao nhưng dùng để trang trải cho những việc khác như: quốc
phòng, quân sự… người dân thì vẫn nghèo đói)
WB đã đưa ra “ngưỡng nghèo”: Ngưỡng nghèo là chỉ tiêu có thể đảm bảo
mức cung cấp năng lượng tối thiểu cho con người 2100 calo/người/ngày đêm
tương ứng 1USD/1 người/1ngày.Đây là ngưỡng nghèo lương thực thực phẩm vì
với mức chi tiêu đó, ngoài cung cấp mức năng lượng tối thiểu để tồn tại thì
không còn có thể chi tiêu cho bất cứ một nhu cầu nào khác.
Ở Việt Nam, theo phương pháp của Bộ LĐ – TB và XH (dựa trên thu
nhập của hộ gia đình) giai đoạn 2001-2005 (dựa vào điều kiện của đất nước
trong từng giai đoạn):
Thành thị:
150.000 đ/người/tháng tức 1.800.000 đ /người/năm
4
Nông thôn đồng bằng:
120.000 đ/người/ tháng tức 1.440.000
đ/người/năm
Nông thôn miền núi hải đảo: 80.000 đ/người/ tháng tức 960.000
đ/người/năm.
Giai đoạn 2006 -2010:
Thành thị: 260.000/1người/1tháng
Nông thôn: 200.000/1người/1tháng.
Vậy so với ngưỡng nghèo chung của các nước đang phát triển do WB quy
định thì ngưỡng nghèo của Việt Nam thấp hơn nhiều → nước ta có thu nhập thấp
chậm phát triển.
2. Nghèo tổng hợp( được đo bằng chỉ số HPI)
Liên Hợp Quốc đưa ra khái niệm trong “Báo cáo về phát triển con người”
năm 1997. Nghèo khổ của con người là khái niệm biểu thị sự nghèo khổ đa
chiều của con người, là sự thiệt thòi theo ba khía cạnh cơ bản nhất về cuộc sống
+ Thiệt thòi trên khía cạnh chính sách lâu dài và khỏe mạnh (xác định
bằng tỉ lệ người dự kiến không thọ quá 40 tuổi).
+ Thiệt thòi về trí thức (Tỉ lệ mù chữ )
+ Thiệt thòi về đảm bảo kinh tế (tỉ lệ người không tiếp cận được với các
dịch vụ y tế, nước sạch và tỉ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng).
II. ĐẶC ĐIỂM CỦA NGƯỜI NGHÈO
Chúng ta đã có những tiêu chuẩn để xác định được nhóm người nghèo:
Những người có mức thu nhập hay mức chi tiêu dưới mức tối thiểu là những
người nghèo trong xã hội. Từ phân tích trên, ta thấy đặc điểm chung của nhóm
người nghèo:
- Thiếu phương tiện sản xuất đặc biệt là đất đai. Đại bộ phận nhóm người
nghèo sống ở nông thôn và chủ yếu là tham gia vào hoạt động nông nghiệp.
Không có vốn hay rất it vốn, thu nhập mà họ nhận được chủ yếu là lao
động tự tạo việc làm. Họ chủ yếu là những người ở thành thị tập trung ở khu vực
phi chính thức.
5
Thu nhập bình quân đầu người thấp, sức mua thực tế trên đầu người thấp.
VD: Ở Việt Nam: Thu nhập bình quân đầu người trong năm của nhóm
người nghèo(giai đoạn 2001-2005)
Ở thành thị: <=1.800.000 đ
Nông thôn đồng bằng: <=1.440.000đ
Nông thôn miền núi hải đảo: <=960.000 đ
Theo WB, đối với các nước đang phát triển thì chi tiêu bình quân đầu
người trong ngày là: <=1 USD
- Trình độ giáo dục thấp, tuổi thọ thấp, tỉ lệ trẻ sơ sinh tử vong cao.
- Số phụ nữ có thu nhập nhiều hơn nam ở hầu hết các nước đang phát triển.
- Do đó, những gia đình có phụ nữ làm chủ hộ thường nằm trong số nhóm
người nghèo nhất trong xã hội.
-Thiếu viếc làm hoặc việc làm không ổn định, bấp bênh do trình độ học
vấn thấp.
III. NGUYÊN NHÂN ĐÓI NGHÈO Ở VIỆT NAM
1. Nguồn lực hạn chế và nghèo nàn: Người nghèo thường thiếu nhiều
nguồn lực, họ bị rơi vào vòng luẩn quẩn của nghèo đói và thiếu nguồn lực.
Người nghèo có khả năng tiếp tục nghèo vì họ không thể đầu tư vào nguồn vốn
nhân lực của họ. Ngược lại, nguồn vốn nhân lực thấp lại cản trở họ thoát khỏi
nghèo đói.
Các hộ nghèo có rất ít đất đai và tình trạng không có đất đang có xu
hướng tăng lên. Thiếu đất đai ảnh hưởng đến việc bảo đảm an ninh lương thực
của người nghèo cũng như khả năng đa dạng hóa sản xuất, để hướng tới sản xuất
các loại cây trồng với giá trị cao hơn. Đa số người nghèo lựa chọn phương án
sản xuất tự cung, tự cấp, họ vẫn giữ các phương thức sản xuất truyền thống với
giá trị thấp, thiếu cơ hội thực hiện các phương án sản xuất mang lợi nhuận cao
hơn. Và vì vậy đã đưa họ vào vòng luẩn quẩn của sự nghèo khó.
Bên cạnh đó, đa số người nghèo chưa có nhiều cơ hội tiếp cận với các
dịch vụ sản xuất như khuyến nông, khuyến ngư, bảo vệ động, thực vật; nhiều
6
yếu tố đầu vào sản xuất như: điện, nước, giống cây trồng, vật nuôi, phân bón...
đã làm tăng chi phí, giảm thu nhập tính trên đơn vị giá trị sản phẩm.
Người nghèo cũng thiếu khả năng tiếp cận các nguồn tín dụng. Sự hạn chế
của nguồn vốn là một trong những nguyên nhân trì hoãn khả năng đổi mới sản
xuất, áp dụng khoa học công nghệ, giống mới.
Bên cạnh đó, việc thiếu các thông tin, đặc biệt là các thông tin về pháp luật,
chính sách và thị trường, đã làm cho người nghèo ngày càng trở nên nghèo hơn.
2. Trình độ học vấn thấp, việc làm thiếu và không ổn định .
Những người nghèo là những người có trình độ học vấn thấp, ít có cơ hội
kiếm được việc làm tốt, ổn định. Mức thu nhập của họ hầu như chỉ bảo đảm nhu
cầu dinh dưỡng tối thiểu và do vậy không có điều kiện để nâng cao trình độ của
mình trong tương lai để thoát khỏi cảnh nghèo khó. Bên cạnh đó, trình độ học vấn
thấp ảnh hưởng đến các quyết định có liên quan đến giáo dục, sinh đẻ, nuôi
dưỡng con cái... đến không những của thế hệ hiện tại mà cả thế hệ trong tương lai.
Số liệu thống kê về trình độ học vấn của người nghèo cho thấy khoảng
90% người nghèo chỉ có trình độ phổ thông cơ sở hoặc thấp hơn. Kết quả điều
tra mức sống cho thấy, trong số người nghèo, tỷ lệ số người chưa bao giờ đi học
chiếm 12%, tốt nghiệp tiểu học chiếm 39%; trung học cơ sở chiếm 37%. Chi phí
cho giáo dục đối với người nghèo còn lớn, chất lượng giáo dục mà người nghèo
tiếp cận được còn hạn chế, gây khó khăn cho họ trong việc vươn lên thoát
nghèo.Trình độ học vấn thấp hạn chế khả năng kiếm việc làm trong khu vực
khác, trong các ngành phi nông nghiệp, những công việc mang lại thu nhập cao
hơn và ổn định hơn.
3. Người nghèo không có đủ điều kiện tiếp cận với pháp luật, chưa
được bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp
Người nghèo, đồng bào dân tộc ít người và các đối tượng có hoàn cảnh
đặc biệt thường có trình độ học vấn thấp nên không có khả năng tự giải quyết
các vấn đề vướng mắc có liên quan đến pháp luật. Nhiều văn bản pháp luật có
cơ chế thực hiện phức tạp, người nghèo khó nắm bắt; mạng lưới các dịch vụ
7
pháp lý, số lượng các luật gia, luật sư hạn chế, phân bố không đều, chủ yếu tập
trung ở các thành phố, thị xã; phí dịch vụ pháp lý còn cao.
4. Các nguyên nhân về nhân khẩu học .
Quy mô hộ gia đình là "mẫu số" quan trọng có ảnh hưởng đến mức thu
nhập bình quân của các thành viên trong hộ. Đông con vừa là nguyên nhân vừa
là hệ quả của nghèo đói. Tỷ lệ sinh trong các hộ gia đình nghèo còn rất cao.
Đông con là một trong những đặc điểm của các hộ gia đình nghèo. Năm 1998,
số con bình quân trên 1 phụ nữ của nhóm 20% nghèo nhất là 3,5 con so với mức
2,1 con của nhóm 20% giàu nhất. Quy mô hộ gia đình lớn làm cho tỷ lệ người
ăn theo cao. (Tỷ lệ người ăn theo của nhóm nghèo nhất là 0,95 so với 0,37 của
nhóm giàu nhất).
5. Nguy cơ dễ bị tổn thương do ảnh hưởng của thiên tai và các rủi ro khác
Các hộ gia đình nghèo rất dễ bị tổn thương bởi những khó khăn hàng
ngày và những biến động bất thường xảy ra đối với cá nhân, gia đình hay cộng
đồng. Do nguồn thu nhập của họ rất thấp, bấp bênh, khả năng tích luỹ kém nên
họ khó có khả năng chống chọi với những biến cố xảy ra trong cuộc sống (mất
mùa, mất việc làm, thiên tai, mất nguồn lao động, mất sức khỏe...). Với khả
năng kinh tế mong manh của các hộ gia đình nghèo trong khu vực nông thôn,
những đột biến này sẽ tạo ra những bất ổn lớn trong cuộc sống của họ.
Các rủi ro trong sản xuất kinh doanh đối với người nghèo cũng rất cao, do
họ không có trình độ tay nghề và thiếu kinh nghiệm làm ăn. Khả năng đối phó
và khắc phục các rủi ro của người nghèo cũng rất kém do nguồn thu nhập hạn
hẹp làm cho hộ gia đình mất khả năng khắc phục rủi ro và có thể còn gặp rủi ro
hơn nữa.
6. Bất bình đẳng giới ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống của phụ nữ và
trẻ em
Bất bình đẳng giới làm sâu sắc hơn tình trạng nghèo đói trên tất cả các
mặt. Ngoài những bất công mà cá nhân phụ nữ và trẻ em gái phải chịu đựng do
bất bình đẳng thì còn có những tác động bất lợi đối với gia đình.
8
Phụ nữ chiếm gần 50% trong tổng số lao động nông nghiệp và chiếm tỷ lệ
cao trong số lao động tăng thêm hàng năm trong ngành nông nghiệp. Mặc dù
vậy, nhưng phụ nữ chỉ chiếm 25% thành viên các khoá khuyến nông về chăn
nuôi, và 10% các khoá khuyến nông về trồng trọt.
Phụ nữ có ít cơ hội tiếp cận với công nghệ, tín dụng và đào tạo, thường
gặp nhiều khó khăn do gánh nặng công việc gia đình, thiếu quyền quyết định
trong hộ gia đình và thường được trả công lao động thấp hơn nam giới ở cùng
một loại việc. Phụ nữ có học vấn thấp dẫn tới tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh và bà mẹ
cao hơn, sức khỏe của gia đình bị ảnh hưởng và trẻ em đi học ít hơn.
7. Bệnh tật và sức khỏe yếu kém cũng là yếu tố đẩy con người vào
tình trạng nghèo đói trầm trọng
Vấn đề bệnh tật và sức khỏe kém ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập và chi
tiêu của người nghèo, làm họ rơi vào vòng tròn luẩn quẩn của đói nghèo. Họ
phải gánh chịu hai gánh nặng: một là mất đi thu nhập từ lao động, hai là gánh
chịu chi phí cao cho việc khám, chữa bệnh, kể cả các chi phí trực tiếp và gián
tiếp. Do vậy, chi phí chữa bệnh là gánh nặng đối với người nghèo và đẩy họ đến
chỗ vay mượn, cầm cố tài sản để có tiền trang trải chi phí, dẫn đến tình trạng
càng có ít cơ hội cho người nghèo thoát khỏi vòng đói nghèo. Trong khi đó khả
năng tiếp cận đến các dịch vụ phòng bệnh (nước sạch, các chương trình y tế...)
của người nghèo còn hạn chế càng làm tăng khả năng bị mắc bệnh của họ.
8. Những tác động của chính sách vĩ mô và chính sách cải cách (tự do
hóa thương mại, cải cách doanh nghiệp nhà nước...) đến nghèo đói .
Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định trong thời gian qua là một trong
những nhân tố ảnh hưởng lớn tới mức giảm nghèo. Việt Nam đã đạt được những
thành tích giảm nghèo đói rất đa dạng và trên diện rộng. Tuy nhiên, quá trình phát
triển và mở cửa nền kinh tế cũng có những tác động tiêu cực đến người nghèo.
IV. NHỮNG CHÍNH SÁCH XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO Ở
NƯỚC TA.
1. Khái niệm, mục tiêu, đối tượng chính sách xoá đói giảm nghèo
9
Khái niệm Chính sách xoá đói giảm nghèo là tổng thể các quan điểm, tư
tưởng, các giải pháp và công cụ mà Nhà nước sử dụng để tác động lên các chủ
thể kinh tế xã hội nhằm giải quyết vấn đề nghèo đói, thực hiện mục tiêu xoá đói
giảm nghèo, từ đó xây dựng một xã hội giầu đẹp.
Mục tiêu của chính sách xoá đói giảm nghèo cho các đối tượng thuộc
diện nghèo đói ở nước ta, giảm bớt khoảng cách giầu nghèo trong xã hội, nhằm
mục tiêu tổng quát xây dựng một đất nước dân giầu, nước mạnh, xã hội công
bằng dân chủ văn minh.
Đối tượng là đồng bào các dân tộc thiểu số ở nước ta, những vùng sâu
vùng xa nơi mà cuộc sống còn nhiều khó khăn và có cuộc sống cách biệt với đời
sống kinh tế xã hội của cả nước.
2. Những chủ trương, chính sách xoá đói giảm nghèo ở nước ta hiện nay
2.1. Chương trình phát triển nông thôn, thuỷ lợi, giao thông
a. Chương trình về thuỷ lợi, giao thông
Đây là chương trình đầu tiên và kéo dài thời gian nhất cho đến nay nó vẫn
được tiếp tục. Đa số người người nghèo tập trung nhiều nhất ở những vùng sâu
vùng xa mà chính những nơi này giao thông thuỷ lợi lại rất yếu kếm do đó Nhà
nước ta đã có chủ trương hỗ trợ cho những khu vực này với khẩu hiệu nhà nước
và nhân dân cùng làm. Việc phát triển giao thông và thuỷ lợi sẽ tạo đà cho sự
hoà nhập giữa miền ngược và miền xuôi, thúc đẩy kinh tế miền núi phát triển,
tăng năng suất lao động góp phần bình ổn lương thực trong vùng.
b. Chương trình định canh định cư
Từ những năm đầu của thập kỷ 60 của thế kỷ XX, đảng và Nhà nước ta đã
nhìn nhận vấn đề định canh định cư có tầm vóc cực kỳ quan trọng nhằm làm
thay đổi bộ mặt kinh tế xã hội miền núi, vùng dân tộc thực tế đây là cách sống
ổn định văn minh, tiến bộ. Nó tác động sâu sắc tới tâm tư tình cảm của nhân dân
các dân tộc thiểu số, từng bước xoá bỏ những phong tục tập quán lạc hậu, bất lợi
cho sự phát triển để hoà nhập vào sự phát triển chung. Chương trình này bắt đầu
từ 1968, và nó đã trở thành một chương trình rất đắc lực trong việc giảm nghèo
10
đói . Mục tiêu của nó nhằm biến người du canh du cư thành định cư, tức là giúp
những người nghèo nhất những người dễ bị rủi ro nhất trở thành những người
sống ổn định, nó có đối tượng phục vụ cụ thể và rất thiết thực đói với người
nghè ở miền núi.
c. Chương trình tư vấn, dịch vụ, chuyển giao khoa học công nghệ
Đây là một chương trình đặc biệt có ý nghĩa trong việc phát triển kinh tế
miền núi theo hướng chuyển dịch cơ cầu giống cây trồng mới và sản xuất hàng
hoá tập trung. Nó được hiểu là một chương trình bao gồm nhiều công việc, dự
án triển khai trên diện rộng, chủ yếu tập trung vào các khâu khuyến nông,
khuyến lâm, khoa học kỹ thuật, vật tư sản xuất, tín dụng nông thôn.
2.2. Chương trình giải quyết việc làm
Trên cơ sở nghị quyết số 120/HĐBT ngày 11-4-1992 một chương trình có
tầm quan trọng tác động tới việc xoá đói giảm nghèo đó là chương trình xúc tiến
việc làm, chương trình ra đời nhằm giải quyết gánh nặng nhân lực trong qúa
trình tổ chức, xắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước theo yêu cầu đổi mới, cung
cấp tín dụng, bồi thường, trợ cấp cho người ra khỏi biên chế nhà nước để tự tạo
việc làm, buôn bán nhỏ và các hoạt động kinh tế phù hợp với kinh tế thị trường.
2.3. Chương trình tín dụng
Nhà nước ta đã có chủ trương thực hiện các khoản tín dụng cho vay mở
rộng tới hộ nông dân, và theo quyết định số 525/TTg ngày 31-8-1995 của thủ
tướng chính phủ cho phép thành lập ngân hàng phục vụ người nghèo để giúp
người nghèo vay vốn phát triển sản xuất, giải quyết đời sống, góp phần thực
hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo. Ngân hàng phục vụ người nghèo có chức
năng khai thác các nguồn vồn của các tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước,
tiếp nhận các nguồn vốn của Nhà nước đối với người nghèo và các nguồn vốn
khác nhà nước cho phép được lập quỹ cho người nghèo vay thực hiện chương
trình của chính phủ đối với người nghèo.
Hoạt động của ngân hàng người nghèo vì mục tiêu xoá đói giảm nghèo,
không vì mục đích lợi nhuận, thực hiện bảo tồn vốn ban đầu, phát triển vốn, bù
11
đắp chi phí. Ngân hàng phục vụ người nghèo thực hiện việc cho vay trực tiếp
đến hộ nghèo có sức lao động nhưng thiếu vốn, được cho vay để phát triển sản
xuất, không phải thế chấp tài sản, có hoàn trả vốn, và theo lãi suất quy định.
Ngân hàng phục vụ người nghèo được xét miễn thuế doanh thu và thuế lợi tức
để giảm lãi suất cho vay đối với người nghèo. Các rủi ro trong quá trình hoạt
động phục vụ người nghèo được bù đắp bằng quỹ bù đắp rủi ro theo quy chế tài
chính của bộ tài chính.
Sau bẩy năm họat động ngay 4-10-2002 chính phủ đã ban hành nghị định
78/2002/NĐ-CP về tín dụng đối với người nghèo và đối tượng chính sách khác
trong đó ghi rõ thành lập ngân hàng chính sách xã hội để thực hiện tín dụng ưu
đãi đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác trên cơ sở tổ chức lại
ngân hàng người nghèo đưa ngân hàng người nghèo trở thành một ngân hàng
hoàn chình giúp cho việc thực hiện các chức năng của mình hiệu quả hơn.
2.4. Chương trình giáo dục y tế với mục tiêu xoá đói giảm nghèo
a. Chương trình giáo dục
Có thể gói gọn chương trình giáo dục trong khuôn khổ đóng góp huặc tác
động vào vào việc xoá đói giảm nghèo gồm:
- Chương trình nâng cao chất lượng phổ thông các cấp.
- Chương trình củng cố và mở rộng cơ sở vật chất kỹ thuật cho giáo dục
tiểu học.
- Chương trình tăng cường đẩy mạnh giáo dục phi chính thức.
- Chương trình cải tiến hệ thống dậy nghề đáp ứng nhu cầu thị trường.
- Chương trình 7 của Bộ giáo dục và đào tạo về hệ thống trường phổ
thông dân tộc nội trú.
b. Chương trình y tế
Chương trình y tế chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân nói chung vốn
có thâm niên từ trước rất lâu so với chương trình xoá đói giảm nghèo. Trong
chương trình chung lại có chương trình bảo vệ bà mệ trẻ em, đó là hai đối tượng
dễ bị tổn thương và rủi ro trong cuộc sống xã hội và gia đình. Những chương
12
trình hoạt động chính trong khuôn khổ xoá đói giảm nghèo bao gồm chương
trình phòng chống bệnh bướu cổ, phòng chống bệnh sốt rét, nước sạch cho sinh
hoạt nông thôn, tiêm chủng mở rộng, xoá xã trắng về y tế. Những chương trình
này nhằm cải thiện và nâng cao khả năng đề kháng đối với bệnh tật, chữa trị và
phòng ngừa bệnh dịch hay xẩy ra ở miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
2.5. Chương trình quốc gia số 06/CP
Chương trình quốc gia số 06/cp là chương trình về phòng chống và kiểm
soát ma tuý theo nghị quyết số 60/CP của chính phủ ra ngày 29-01-1993.
Chương trình này này được triển khai nhằm mục tiêu phòng và kiểm soát ma tuý
mang ý nghĩa chính trị xã hội và quốc tế rộng lớn. Song quá trình thực hiện nó
lại có ý nghĩa rất lớn đối với đồng bào dân tộc thiểu số, vận động đồng bào dân
tộc từ bỏ trồng cây thuốc phiện và thay thế cây trồng vật nuôi để bù đắp sự hẫng
hụt từ việc mất nguồn thu từ cây thuốc phiện.
2.6. Chương trình hỗ trợ dân tộc đặc biệt khó khăn
Chương trình này bắt đầu từ năm 1992, mục tiêu nhằm vào các dân tộc
thiểu số khó khăn và có dân số ít ( trên dưới một vạn người ). Đa số những dân
tộc này nằm ở vùng sâu vùng xa khó khăn về mọi mặt: kinh tế, giáo dục, y tế,
giao thông, văn hoá thông tin... Những dân tộc quá cách biệt với các khu vực
kinh tế đang năng động và hầu như chưa được cơ chế thị trường ảnh hưởng và
tác động tới. Tính đặc biệt của chương trình này là đầu tư không hoàn lại tức là
cho không .
2.7. Chương trình bảo vệ môi trường
Có thể nói những năm qua, chính phủ đã có nhiều cố gắng trong việc bảo
vệ môi trường, chi phí cho việc bảo vệ môi trường năm sau lớn hơn năm trước
mà nổi bật là chương trình 327 phủ xanh đất chống đồi trọc. Chương trình bảo
vệ môi trường mà nước ta triển khai nhằm mục tiêu nâng cao kiến thức, tập
huấn kỹ thuật cho đồng bào miền núi. Những yêu cầu, biện pháp bảo vệ môi
trường dễ hiểu, thiêt thực đối với họ. Đồng thời có các chương trình chyển giao
khoa học kỹ thuật để họ có thể thâm canh tăng năng suất lao động trên đất nông
13
nghiệp hiện có và quan trọng hơn là không mở rộng diện tích canh tác khi dân
số tăng huặc do thiếu đất bằng cách chuyển đất rừng làm nương rẫy. Tuy trọng
tâm của những chương trình được triển là tập trung vào việc xoá đói giảm nghèo
giải quyết những bức xúc của người nghèo nhưng không cho phép xâm hại phá
vỡ tính ổn định của tự nhiên. nói cách khác xoá đói giảm nghèo và bảo vệ môi
trường là hai mặt của một quá trình cải thiện tính bên vững của môi trường
sống, có giá trị lâu bền với đồng bào các dân tộ thiểu số.
14
Phần III
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
I. CÁC BIỆN PHÁP XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO
Từ đặc điểm kinh tế của nhóm người nghèo kết hợp với những nguyên
nhân nói trên,có thể thấy: mỗi đối tượng trở nên nghèo đều do các nguyên nhân
khác nhau. Do vậy,muốn tấn công vào nghèo đói,ta không thể áp dụng một biện
pháp,chính sách chung cho tất cả các vùng,miền, mà ta phải kết hợp,lựa chọn
các chính sách,biện pháp phù hợp với từng đối tượng khác nhau.Nhưng có thể
nói khái quát ở một số biện pháp cơ bản sau:
1. Cải cách hành chính và hoàn thiện cơ chế quản lý Nhà nước.
Mục đích: Tạo điều kiện cho tất cả mọi người,mọi cơ sở kinh tế có thể
phát huy đầy đủ khả năng,tiếp cận mọi nguồn lực để cho công cuộc phát triển
kinh tế của quốc gia
1.1. Tạo môi trường pháp lý kinh doanh bình đẳng công bằng
- Bổ sung hệ thống luật pháp tạo các cơ hội kinh doanh bình đẳng
- Có chính sách ưu đãi đối với những vùng,ngành cần ưu tiên.
1.2. Tạo môi trường kinh tế vĩ mô ổn định
- Hoàn thiện chính sách tài chính,cải thiện hệ thống thuế cân đối ngân sách
- Chính sách tiền tệ thuận tiện ,kiểm soát lạm phát,cải cách hệ thống ngân
hàng thương mại,thuận lợi cho huy động vốn đầu tư,tăng lượng cho vay của
Ngân hàng phục vụ người nghèo đối với các vùng khó khăn
- Mở cửa tự do thương mại, hội nhập quốc tế,mặt khác,bảo về người
nghèo trước những tác động tiêu cực của tự do hoá thương mại
1.3. Tạo môi trường xã hội thực hiện công bằng xã hội,dân chủ trợ giúp
pháp lý cho người nghèo (cung cấp kiến thức pháp luật,quyền cho người nghèo).
2. Tập trung cao độ cho sự phát triển kinh tế và cơ sở hạ tầng chủ yếu
để giảm nghèo
15
2.1. Phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thsôn để xoá đói giảm nghèo
trên diện rộng.
- Tập trung thâm canh,nâng cao hiệu quả sản xuất
- Phát triển mạnh lâm nghiệp,thuỷ sản
- Chuyển giao khoa học công nghệ cho sản xuất, đa dạng hoá ngành nghề
- Xây dựng chiến lược phòng chống, giảm nhẹ thiên tai
2.2. Phát triển công nghiệp, đô thị tạo việc làm, nâng cao đời sống cho
người nghèo: khuyến khích phát triển kinh tế hộ,trang trại,tư nhân theo quy mô
lớn thu hút nhiều lao động
2.3. Phát triển cơ sở hạ tầng,tạo cơ hội cho người nghèo tiếp cận dịch vụ
công.Cơ sở hạ tầng gồm: điện, đường, trường, trạm(thuỷ lợi,bưu điện…)
2.4. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế,ngành nghề trong lĩnh vực dịch vụ,
Công nghiệp.
3. Chấn hưng ngành văn hoá,Giáo dục đào tạo để tạo nguồn nhân
lực,nhân tài đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước
3.1. Phổ cập giáo dục, xoá mù chữ: miễn giảm học phí cho học sinh, sinh
viên nghèo.
3.2. Tuyên truyền, nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của GD đặc
biệt tại các vùng nghèo
3.3. Tăng cường ưu tiên đào tạo,chỉ tiêu cử tuyển cho các vùng khó khăn,
đầu tư đưa văn hoá thể thao, đảm bảo người nghèo được tiếp cận với nguồn
thông tin nhanh,kịp thời
4. Có chính sách phúc lợi xã hội đúng đắn, đi đôi với nâng cao sức
khoẻ cho người dân:
4.1. Cải thiện chất lượng dịch vụ y tế,tăng tính cộng đồng,phát triển y tế
ở cơ sở : hỗ trợ chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho người dân, đặc biệt là người
dân vùng nghèo. Tuyên truyền thông tin,kiến thức phòng bệnh,bảo đảm sức khoẻ
cho người nghèo
16
4.2. Thực hiện chính sách hành động quốc gia về phòng chống,kiểm soát
HIV/AIDS
4.3. Hỗ trợ khám chữa bệnh,miễn giảm viện phí cho người nghèo,trẻ em.
4.4. Thực hiện kế hoạch hoá gia đình: giảm tỉ lệ sinh là một trong những
biện pháp quan trọng nhằm xoá đói giảm nghèo.
4.5 .Chính sách phúc lợi xã hội: Bảo hiểm,chính sách hưu trí,trợ cấp phù
hợp,an sinh xã hội ( nâng cao vai trò của tổ chức phi Chính Phủ)
5 Phân phối thu nhập
5.1. Chính sách thuế phù hợp: đặc biệt thuế thu nhập cá nhân,thuế thu
nhập tài sản,làm giảm bớt phân hoá giàu nghèo.
5.2. Phân bổ ngân sách từ nguồn thu thuế: bảo đảm trợ cấp,hỗ trợ vốn
ban đầu cho người nghèo.
6. Tăng cường bảo vệ môi trường,tăng cường cuộc sống lành mạnh
cho người nghèo
6.1. Cung cấp nước sạch,vệ sinh nông thôn.
6.2.Tăng cường tính bền vững trong sử dụng tài nguyên thiên nhiên:
- Giao đât,giao rừng, định canh định cư cho người dân miền núi, đồng bào
khó khăn.
- Phát triển thận trọng sản xuất thuỷ sản, kiểm soát tác động môi trường
7. Đảm bảo phát triển công bằng,tăng cường bình đẳng giới và sự
tiến bộ của phụ nữ
- Nâng cao vai trò của phụ nữ trong các cấp lãnh đạo,các hoạt động kinh
tế xã hội
- Tăng cơ hội tiếp cận của phụ nữ với Giáo dục,dịch vụ xã hội,nguồn vốn.
- Giảm nguy cơ tổn thương cho phụ nữ trước nạn bạo hành.
8. Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế một cách cân bằng, bền vững các vùng
- Đầu tư các vùng chậm phát triển,thu hẹp khoảng cách giàu nghèo giữa
thành thị và nông thôn.
17
- Phân bố dân cư hợp lý,nâng cao chất lượng cuộc sống,lồng ghép biến
dân số vào kế hoạch phát triển
II. THỰC TIỄN LIÊN HỆ Ở VIỆT NAM
Thực tiễn: Các chính sách giảm nghèo có hiệu quả của Chính Phủ
Việt Nam trong thập niên 90 của Thế kỷ 20.
Trong thập niên 90 của thế kỷ 20,Việt Nam đã thực hiện rất nhiều các
chính sách nhằm phát triển kinh tế xã hội,xoá đói giảm nghèo.Với nhưng chính
sách thiết thực như vệc miến thuế Nông nghiệp theo di chúc của Chủ tịch Hồ
Chí Minh,Thực hiện trợ cấp cho công nhân viên,gia đình chính sách,người có
công với cách mạng…
1. Chính sách cho vay vốn
Đây là một chính sách rất hiệu quả và đến nay vẫn đang được áp dụng
một cách rất thành công.
1.1. Nội dung
Theo nghị định số 14-CP của Chính Phủ ngày 2/3/1993 ban hành quy định
về việc cho hộ sản xuất vay vốn để phát triển Nông-Lâm-Ngư-Diêm nghiệp và
kinh tế nông thôn quy định:
- Thực hiện cho vay đến hộ sản xuất,đảm bảo nguyên tắc có hiệu quả kinh
tế xã hội,không phân biệt thành phần kinh tế,ưu tiên cho vay thực hiện các dự án
do Chính phủ chỉ định;Chú trọng cho vay đối với các hộ nghèo,các hộ vùng núi
cao,hải đảo,vùng xa,vùng sâu,vùng kinh tế mới…
- Ngân hàng và các tổ chức tín dụng phải căn cứ vào điều kiện kinh tế của
từng loại hộ xin vay vốn để quy định mức độ và hình thức thế chấp hoặc bảo
lãnh thích hợp.Đối với hộ nông dân nghèo không có tài sản thế chấp thì có thể
áp dụng hình thức tín chấp của Uỷ ban Nhân dân xã,ấp hoặc các tổ chức kinh tếxã hội,các hội nghề nghiệp,nhóm liên quan,các đoàn thể quần chúng…
- Ngân hàng nhà nước quy định mức lãi suất phù hợp để cả bên cho vay
và bên đi vay cùng có lợi.Hộ sản xuất vay vốn thuộc vùng núi cao,hải đảo,vùng
18
kinh tế mới…được hưỏng chính sách vay vốn ưu đãi:được giảm 15% mức lãi
suất bình thường cùng loại vay.
Theo quyết định số 74/QĐ-NH14 ngày 17/3/1995 của thống đốc ngân
hàng nhà nước,về việc lập quỹ cho vay ưu đãi hộ nghèo thiếu vốn:
-Giao cho tổng giám đốc ngân hàng Nông nghiệp tổ chức thực hiền đề án
lập “Quỹ cho vay ưu đãi hộ nghèo thiếu vốn sản xuất” của Ngân hàng Nông
nhiệp và Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam.
- Lãi suất cho vay hộ nghèo của quỹ là 14,4%/năm(tức 1,2%/tháng).Trong
đó,Ngân hàng Nông nghiệp được hưởng phí dịch vụ,không hưởng lãi.
- Các tổ chức tín dụng khác căn cứ theo khả năng tài chính và nguồn vốn
của mình có thể trực tiếp lập Quỹ cho vay ưu đãi hộ nghèo hoặc cho Ngân hàng
Nông nghiệp vay với lãi suất thấp nhằm bổ sung nguồn cho Quỹ cho vay ưu đãi
hộ nghèo của Ngân hàng Nông nghiệp.
- Vốn ban đầu của Quỹ là 400 tỷ đồng,trong đó vốn của Ngân hàng Nông
nghiệp 100 tỷ đồng,Ngân hang Ngoại thương cho vay 200 tỷ đồng(theo thoả
thuận giữa ngân hàng Nông nghiệp và Ngân hàng Ngoại thương),Ngân hàng
Nhà nước cho vay theo mục tiêu chỉ định 100 tỷ đồng,thời hạn 3 năm(Ngân
hàng Nông nghiệp rút tiền theo nhu cầu thực tế và trả lãi 3 tháng 1 lần).
Đây là một chính sách nhằm xoá đói giảm nghèo tận gốc,lâu dài,thực hiên
phát triển bền vững.
Cũng nằm trong chính sách cho vay vốn này,chương trình 120 đã ra đời từ
đầu những năm 90 với chủ trương cho vay hỗ trợ việc làm,đã phần nào giải
quyết nhu cầu vay vốn của người nghèo.
1.2. Thành tựu
Cùng với những chính sách khác của nhà nước,các chính sách này đã góp
phần mang lại những kết quả đáng ghi nhận trong việc xoá đói giảm nghèo,phát
triển kinh tế:
- Cuối năm 2000,tỷ lệ hộ nghèo cả nước,tính theo chuẩn cũ,đã giảm xuống
còn khoảng 10%(khoảng 1,7 triệu hộ)so với 30%(khoảng 4 triệu hộ) năm 1992.
19
- Số người nghèo giảm từ 20 triệu(1992) xuống còn 9 triệu năm 2000.
- Hộ đói kinh niên giảm từ 450 nghìn hộ năm 1995 xuống 150 nghìn hộ
năm 2000(khoảng 1%).
- Đời sống dân cư được cải thiện,mức tiêu dùng bình quân đầu người tính
theo giá hiện hành tăng từ 2,6 triệu đồng năm 1995 lên 4,2 triệu đồng năm 2000.
2. chính sách đất đai
2.1. Nội dung
Để giảm nhanh tỷ lệ đói nghèo, chính phủ đã ban hành luật đất đai năm
1993(có sửa đổi bổ sung vào các năm 1998 và 2003) để hỗ trợ cho các hộ nghèo
về tư liệu sản xuất.Cụ thể là luật này đã quy định tại điều 78-luật đất đai năm
1993,được phép cho các hộ gia đình khó khăn neo đơn hoặc thiếu sức lao động
được quyền cho thuê lại quyền Sử dụng đất nông nghiệp vào mục đích trồng cây
hàng năm,đất nuôi trồng thủy sản.
Một trong những chương trình nằm trong chính sách đó là Chương trình
mục tiêu quốc gia về xoá đói giảm nghèo (Chương trình 133) cho giai đoạn
1998-2000. Nhằm mục tiêu giảm tỷ lệ đói nghèo của cả nước xuống còn 10%
vào năm 2000, Nhà nước triển khai hàng loạt chương trình: định canh định cư và
kinh tế mới, phát triển sản xuất nông nghiệp và phi nông nghiệp, phát triển cơ sở
hạ tầng ở các xã khó khăn, khuyến nông-lâm-ngư, trợ giúp đồng bào dân tộc khó
khăn, tín dụng và tiết kiệm cho người nghèo, giáo dục cho người nghèo, sức
khoẻ cho người nghèo.
Tháng 7/1998, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt chương trình 135
(Chương trình phát triển Kinh Tế Xã Hội các xã đặc biệt khó khăn) hỗ trợ phát
triển 1715 xã nghèo đặc biệt khó khăn ở miền núi, vùng sâu, vùng xa..
Đây là hai chương trình lớn tác động mạnh mẽ tới công cuộc xoá đói giảm nghèo.
2.2. Thành tựu
Sau hơn một năm thực hiện, chương trình 133 và 135 đã tạo ra những kết quả
ban đầu tích cực. Trong năm 1999, cả nước đã thực hiện định canh định cư cho
47120 hộ, khai hoang mở rộng diện tích được 1387 ha, trồng thêm được 2300 ha
20
rừng mới và 1738 ha cây công nghiệp và ăn quả. Về tín dụng, sau một năm đã
có 1010 ngàn lượt hộ vay vốn để phát triển sản xuất với tổng doanh số vay đạt
2001 tỷ. Bên cạnh đó, hàng loạt công trình cơ sở hạ tầng nông thôn đặc biệt ở
các xã vùng sâu vùng xa phục vụ sản xuất và đời sống được xây dựng, nhiều
chương trình khuyến nông- lâm-ngư, giúp đỡ người nghèo làm ăn kinh tế được
thực hiện. Theo báo cáo của Bộ Lao động và Thương binh Xã hội, so với năm
1998, trong năm 1999 đã giảm được 340.000 hộ đói nghèo, đưa tỷ lệ hộ đói
nghèo của cả nước xuống còn 13%. Theo đánh giá sơ bộ, năm 2000 Chương
trình 133 sẽ đạt được kế hoạch đề ra là giảm tỷ lệ đói nghèo của cả nước xuống
còn 10%.
Những chương trình này phần nào đó đã hỗ trợ thực hiện hiệu qủa luật đất
đai,góp phần đẩy lùi đói nghèo ở đất nước ta thập kỉ vừa qua.
21
Phần IV
KẾT LUẬN
Cùng với sự cố gắng hết mình của Chính Phủ Việt Nam,với sự đồng lòng
nhất trí của các ban, các ngành,các cấp,của cả các tố chức quốc tế, đất nước
chúng ta đã dần dần từng bước đẩy lui được đói nghèo và là một trong những
nước đạt được thành tựu to lớn nhất về xoá đói giảm nghèo trong thập niên 90
của thế kỉ qua.Tuy vậy hiện nay vẫn còn tồn tại rất nhiều những vùng miền trên
Tổ Quốc, nơi mà đồng bào ta đang hàng ngày phải vật lộn với đói nghèo và
thiên tai dồn dập. Để thực sự cải thiện được chất lượng cuộc sống cho những
đồng bào nơi đó, Chính Phủ cần sự chung tay góp sức của chính chúng ta,những
người Sinh Viên ưu tú, những người chủ tương lai của đất nước này.
22
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nghèo đói và xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam. NXB Nông nghiệp, 2001.
2. Xoá đói giảm nghèo ở vùng dân tộc thiểu số nước ta hiện nay thực
trạng và giải pháp. Hà Quế Lâm, NXB Chính trị quốc gia, 2002.
3 . Các văn bản pháp luật về chính sách hỗ trợ đối với người nghèo và
bảo trợ cứu trợ xã hội. NXB Chính trị quốc gia.
4. Xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam. Thông tin kinh tế xã hội số 11, 2003.
23