Tải bản đầy đủ (.pdf) (136 trang)

Thực trạng và giải pháp thực hiện thành công 19 tiêu chí xã nông thôn mới tại huyện lâm hà, tỉnh lâm đồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.34 MB, 136 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP & PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
***

TRẦN XUÂN VƯỢNG

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
THÀNH CÔNG 19 TIÊU CHÍ XÃ NÔNG THÔN MỚI
TẠI HUYỆN LÂM HÀ,TỈNH LÂM ĐỒNG

Chuyên ngành: Kinh tế nông nghiệp
Mã số: 60.62.01.15

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS CHU TIẾN QUANG

Đồng Nai 2014


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
1.Tính cấp thiết của đề tài
Lâm Hà là huyện miền núi, tổng diện tích tự nhiên là 93.976ha, có hệ thống
đường giao thông đang từng bước phát triển, thuận lợi cho giao lưu kinh tế. Nông dân
năng động và có khả năng tiếp thu, ứng dụng khoa học kỹ thuật. Trên địa bàn huyện


đang hình thành các vùng sản xuất nông nghiệp theo hướng công nghệ cao, chất lượng
cao.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế huyện những năm vừa qua tuy khá cao, nhưng chưa
bền vững, còn mang tính tự phát, chưa huy động hiệu quả các nguồn lực có sẵn tại chỗ
để phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn theo hướng hiện đại. Sản xuất nông
nghiệp còn phụ thuộc nhiều vào điều kiện tư nhiên, quy mô sản xuất của các hộ nông
dân nhỏ bé, sức cạnh tranh yếu, kết cấu hạ tầng chưa phát triển…Những yếu kém này
đang hạn chế phát triển nông nghiệp hàng hóa lớn và xây dựng nông thôn mới theo chủ
trương của Đảng và Nhà nước.
Thực hiện Quyết định 800/2010/QĐ-TTg ngày 4/6/2010 của Thủ tướng Chính
phủ về Chương trình MTQG xây dựng NTM giai đoạn 2010-2020 và Quyết định
491/QĐ-TTg ngày 16/4/2009 của Thủ tướng Chính phủ về Bộ tiêu chí quốc gia về xã
NTM, trong đó đề ra 19 tiêu chí mà xã/huyện/tỉnh cần đạt để được công nhận đạt chuẩn
NTM, UBND Tỉnh Lâm Đồng đã ban hành Quyết định số 2575/QĐ-UBND ngày
05/11/2010 về phê duyệt Chương trình xây dựng NTM giai đoạn 2010-2020 tại tỉnh,
Huyện Lâm Hà đã triển khai thực hiện xây dựng xã NTM tại các xã với mục tiêu đến
năm 2017 có 14/14 (100%) xã trên địa bàn huyện sẽ hoàn thành 19 tiêu chí xã NTM.
Tuy nhiên, đến hết năm 2013 Lâm Hà mới có 08 xã đạt từ 11-16 tiêu chí, 04 xã
đạt từ 7-10 tiêu chí, còn 02 xã mới đạt từ 5-6 tiêu chí. Như vậy mục tiêu đến năm 2017
tất cả các xã trong huyện đạt 19 tiêu chí là rất khó, nếu như không có các giải pháp
mạnh và mang tính đột phá để thực hiện thành công cả 19 tiêu chí ở những xã có nhiều
có khó khăn.
Để tìm ra các giải pháp mạnh và có tính đột phá như nói trên thì việc nghiên cứu,
đánh giá thực trạng kết quả thực hiện từng tiêu chí, phát hiện đúng những hạn chế, cản


2

trở trong thực hiện 19 NTM ở từng xã để có căn cứ khoa học đề xuất giải pháp đúng và
hữu hiệu tháo gỡ hạn chế, cản trở là rất cần thiết. Cho tới nay, Huyện ủy và UBND

huyện Lâm Hà đã và đang trăn trở, nỗ lực nghiên cứu, tổng kết thực tiễn để tìm kiếm
các giải pháp nhằm thực hiện thành công các tiêu chí xây dựng NTM.
Xuất phát từ nhu cầu trên đây, với tư cách là cán bộ của ngành kiểm tra tỉnh Lâm
Đồng, tôi chọn vấn đề :“Thực trạng và giải pháp thực hiện thành công 19 tiêu chí xã
NTM tại huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng” để làm luận văn thạc sĩ kinh tế.
Hy vọng kết quả nghiên cứu luận văn sẽ đóng góp với huyện Lâm Hà những giải
pháp hữu ích để thực hiện thành công 19 tiêu chí NTM mới ở các xã trong toàn huyện
theo đúng kế hoạch đề ra và đóng góp với Đảng và Chính phủ về những vấn đề cần sửa
đổi, hoàn thiện để thực hiện thành công QĐ 419/2009/ QĐ-TTg trên địa bàn nông thôn
cả nước.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu tổng quát
Đề xuất một số giải pháp góp phần thực hiện thành công 19 tiêu chí xây dựng xã
NTM tại huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng.
2.2. Mục tiêu cụ thể
-> Luận giải cơ sở lý luận, thực tiễn về thực hiện các tiêu chí xã NTM;
-> Đánh giá thực trạng thực hiện 19 tiêu chí xã NTM trên địa bàn huyện Lâm Hà
từ 2010 đến nay (2013); những tiêu chí đã đạt được, chưa đạt được và những nhân tố
ảnh hưởng đến thành công và hạn chế trong thực hiện xây dựng xã NTM;
-> Đề xuất một số giải pháp nhằm thực hiện thành công 19 tiêu chí xã NTM thuộc
huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng theo kế hoạch đề ra.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài:
Là cơ sở lý luận, kết quả thực hiện và giải pháp hoàn thành 19 tiêu chí xã NTM
tại huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng.
3.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
-> Phạm vi không gian: Chọn 3 xã thuộc 3 vùng sinh thái khác nhau của Huyện


3


Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng.
-> Phạm vi thời gian: Được giới hạn trong 4 năm từ 2010 đến 2013, đó là
khoảng thời gian triển khai thực hiện chương trình NTM trên địa bàn huyện Lâm Hà.
-> Phạm vi về nội dung. Các nội dung về: tổ chức triển khai và huy động nguồn
lực để thực hiện 19 tiêu chí xã NTM trên địa bàn huyện Lâm Hà
4. Nội dung nghiên cứu
+ Luận giải cơ sở lý luận, thực tiễn về thực hiện 19 tiêu chí xã NTM.
+ Đánh giá thực trạng thực hiện 19 tiêu chí xã NTM trên địa bàn huyện Lâm hà
theo kế hoạch đề ra; xác định các nhân tố ảnh hưởng đến kết quả thực hiện các tiêu chí.
+ Đề xuất một số giải pháp nhằm thực hiện thành công 19 tiêu chí xã NTM tại
huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng theo kế hoạch đề ra.


4

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN VỀ
XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
1.1.

Tổng quan các nghiên cứu có liên quan đến xây dựng NTM
Trong quá trình nghiên cứu luận văn, Học viên đã khảo cứu các tài liệu sau:

1.1.1. Tổng quan tài liệu nước ngoài
- Trên thế giới trước hết phải kể đến công trình của Frans Ellits về“Chính sách
nông nghiệp trong các nước đang phát triển” do Nhà xuất bản Nông nghiệp ấn hành
năm 1994. Trong tác phẩm này, tác giả đã nêu lên những vấn đề cơ bản của chính sách
nông nghiệp ở các nước đang phát triển thông qua nghiên cứu lý thuyết và khảo cứu
thực tiễn ở nhiều nước Châu Á, Châu Phi và Châu Mỹ La Tinh. Cuốn sách đã đề cập

những vấn đề về chính sách phát triển vùng, chính sách hỗ trợ đầu vào, đầu ra cho sản
xuất nông nghiệp, chính sách thương mại nông sản, những vấn đề phát sinh trong quá
trình đô thị hóa. Điều đặc biệt là, công trình này đã xem xét nền nông nghiệp của các
nước đang phát triển trong quá trình chuyển sang sản xuất hàng hóa gắn liền với thương
mại nông sản trên thế giới, đồng thời cũng nêu lên những mô hình thành công và thất
bại trong phát triển nông nghiệp, nông thôn và giải quyết những vấn đề của nông dân;
- Công trình nghiên cứu của của các tác giả Benedict j. tria kerkvliet, Jamesscott
Nguyễn Ngọc và Đỗ Đức Định về:“Một số vấn đề về nông nghiệp, nông dân nông thôn
ở các nước và Việt Nam”; Nhà xuất bản Hà Nội ấn hành năm 2000.
Trong công trình này tác giả đã nghiên cứu về vai trò, đặc điểm của nông dân,
thiết chế nông thôn của một số nước trên thế giới và những kết quả bước đầu trong
nghiên cứu về tính truyền thống của cộng đồng làng ở Việt Nam.
Nội dung của công trình nghiên cứu này có giá trị tham khảo trong việc giải
quyết những vấn đề về phát triển nông thôn nước ta hiện nay và những vấn đề về trang
trại nhỏ, áp dụng KHCN của nông dân, các hình thức sở hữu đất đai, những mô hình
phát triển nông thôn ở các nước nông nghiệp trồng lúa. Đặc biệt là những kết quả
nghiên cứu về làng truyền thống ở Việt Nam, quan hệ làng xóm – Nhà nước ở Việt
Nam trong quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế.


5

1.1.2. Tổng quan tài liệu trong nước
- Cuốn sách của PGS, PTS Nguyễn Văn Bích và KS.Chu Tiến Quang do nhà
xuất bản Chính trị Quốc Gia ấn hành năm 1996 với tiêu đề “Chính sách kinh tế và vai
trò của nó đối với phát triển nông nghiệp, nông thôn Việt Nam”. Trong đó đã luận giải
nhiều nội dung liên quan đến: khái niệm về chính sách, các nội dung của chính sách
kinh tế và quá trình thay đổi chính sách nông nghiệp Việt Nam trong 10 năm đổi mới và
những tác động của chúng.
- Kết quả nghiên cứu đề tài cấp Bộ, Bộ NN và PTNT về “ đánh giá tác động của

các chính sách xây dựng nôn thôn mới của Việc Nam” do TS.Hoàng Vũ Quang làm
Chủ nhiệm và đã nghiệm thu vào tháng 12/2013. Trong nghiên cứu này, tác giả đánh
giá tác động và đề xuất bổ sung hoàn thiện các chính sách xây dựng NTM phù hợp với
điều kiện Việt Nam; phân tích tác động tích cực, tiêu cực của chính sách xây dựng
NTM lên các đối tượng là cá nhân, tổ chức và cộng đồng tại các xã đang xây dựng
NTM;
- Luận văn thạc sĩ kinh tế của Phan Đình Hà, Đại học Nông nghiệp Hà Nội; năm
2011về“Giải pháp đẩy mạnh xây dựng xã NTM trên địa bàn huyện Thanh Chương,
Tỉnh Nghệ An”. Trong luận văn này, tác giả đã nghiên cứu và đánh giá thực trạng mô
hình và quá trình xây dựng xã NTM ở huyện Thanh Chương-Tỉnh Nghệ An thời gian
qua; Phân tích các yếu tố ảnh hưởng và những nguyên nhân dẫn đến thành công và
chưa thành công của xây dựng xã NTM trên địa bàn huyện. Từ các phân tích này, tác
giả đề xuất các giải pháp chủ yếu đẩy mạnh xây dựng xã NTM ở huyện Thanh Chương
trong những năm tới. Kết quả nghiên cứu luận văn này đã gợi mở cho Học viên trong
nghiên cứu luận văn của mình về “Thực trạng và giải pháp thực hiện thành công 19
tiêu chí NTM cấp xã tại huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng”;
- Công trình nghiên cứu “Nông nghiệp, nông thôn Việt Nam thời kỳ đổi mới”
của PGS.TS Nguyễn Sinh Cúc, nhà xuất bàn Thống kê, năm 2003 đã phân tích có tính
thuyết phục về quá trình đổi mới Nông nghiệp Việt Nam sau gần 20 năm và cung cấp
hệ thống tư liệu về phát triển nông nghiệp, nông thôn nước ta như là một niên giám
thống kê nông nghiệp thu nhỏ. Công trình đã luận giải rõ quá trình đổi mới, hoàn thiện


6

của chính sách nông nghiệp, nông thôn nước ta trong những năm đổi mới, những thành
tựu, vấn đề đặt ra trong quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn Việt Nam. Những
gợi mở về giải pháp xử lý phát triển nông nghiệp, nông thôn nước ta như: đầu tư, giảm
phân hóa giàu - nghèo, nâng cao khả năng cạnh tranh và xuẩt khẩu nông sản của Việt
Nam... đã được tác giả lý giải một cách thuyết phục;

- Công trình nghiên cứu về “Phát triển nông thôn” do GS Phạm Xuân Nam chủ
biên, NXB Khoa học xã hội ấn hành năm 1997 đã nghiên cứu sâu về phát triển nông
thôn. Tác giả đã phân tích khá sâu sắc một số nội dung về phát triển kinh tế-xã hội nông
thôn nước ta như dân số, lao động, việc làm, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, vấn đề sử dụng
và quản lý các nguồn tài nguyên, vấn đề phân tầng xã hội và xóa đói giảm
nghèo...Trong phân tích những thành tựu, yếu kém và thách thức đặt ra trong phát triển
nông nghiệp, nông thôn nước ta, các tác giả đã chỉ ra yêu cầu hoàn thiện hệ thống chính
sách và phương thức chỉ đạo của Nhà nước đối với phát triển nông thôn.
Tác giả Minh Đức có bài viết về: “Xây dựng nông thôn mới-Hãy để nông dân
làm” đăng trên Tạp chí Khoa học phát triển nông thôn Việt Nam của Hội khoa học phát
triển nông thôn Việt Nam số đặc biệt xuân Giáp ngọ 2014 đã đề cập về nguyên nhân
dẫn tới thành công của xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện Xuân Lộc, tỉnh
Đồng Nai là: Công tác dân vận khéo; đưa khoa học kỹ thuật vào đồng ruộng và phát
triển nhanh các Câu lạc bộ năng suất cao và liên hiệp câu lạc bộ hoạt động có hiệu quả
(tổng số câu lạc bộ năng suất cao là 282 và 15 liên hiệp câu lạc bộ năng suất cao). Nhờ
đó mà tới cuối năm 2013 toàn huyện Xuân Lộc đã có 11/13 xã hoàn thành 19/19 tiêu
chí NTM cấp xã của Trung ương và 56/56 tiêu chí NTM của địa phương. Dự kiến tới
cuối năm 2014 cả 14/14 xã sẽ hoàn thành 19/19 tiêu chí NTM. Tổng kết các giải pháp
đã triển khai xây dựng NTM trên địa bàn mới đã rút ra rằng: Tỉnh Đồng Nai có 14
nhóm giải pháp và huyện Xuân Lộc có 8 nhóm giải pháp để thực hiện đề án xây dựng
NTM cấp xã phù hợp với tình hình thực tế ở từng xã
1.1.3. Nhận xét chung về những kết quả và hạn chế của các công trình đã tổng quan.

Những công trình nghiên cứu trong và ngoài nước đã cung cấp những luận cứ,
luận chứng, dữ liệu rất quan trọng về chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn và


7

giải quyết vấn đề nông dân trong thời kỳ mới ở nước ta.

Điểm chung nhất của các công trình nghiên cứu là, sau khi phân tích thực tiễn
giải quyết vấn đề quản lý Nhà nước nói chung và việc chỉ đạo chính sách phát triển
nông nghiệp, nông thôn ở nước ngoài, các tác giả đã đưa ra các kiến nghị xứ lý và giải
quyết những vấn đề thực tiễn về phát triển NN, NT của Việt Nam hiện nay.
Những kết quả nghiên cứu trên đây đã tạo cơ sở lý luận và thực tiễn quan trọng
mà Học viên sẽ tiếp thu, sử dụng trong quá trình nghiên cứu đề tài luận văn này.
1.2. Cơ sở lý luận
1.2.1. Khái niệm về phát triển nông thôn; xã NTM và xây dựng xã NTM
1.2.1.1. Khái niệm phát triển nông thôn.
Bộ cẩm nang Đào tạo và thông tin về Phát triển nông thôn của Michael Dower
do Đặng Hữu Vĩnh dịch, NXB Nông nghiệp Chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh 58
Nguyễn Bỉnh Khiêm - Quận 1 in và phát hành đã đưa ra khái niệm phát triển nông thôn
như sau:
“Phát triển nông thôn là một quá trình tất yếu, làm thay đổi một cách bền vững về kinh
tế, xã hội, văn hóa và môi trường và nhằm cải thiện chất lượng cuộc sống của dân cư
nông thôn.”.[8]
Đặc điểm của phát triển nông thôn là: toàn diện, dựa vào cộng đồng và bền
vững.
Trong phát triển nông thôn, phải có sự hợp tác giữa chính phủ, người dân và
hàng loạt các tổ chức khác nhau có liên quan đến NN, NT. Một hình mẫu về sự hợp tác
nhằm phát triển nông thôn trên một khu vực địa lý cụ thể, đó là Chương trình phát triển
nông thôn có tên gọi “LEADER” ở Liên hiệp châu Âu. [8]
1.2.1.2. Khái niệm xã NTM và xây dựng xã NTM.
- Nghị quyết 26-NQ/T.Ư ngày 05/08/2008 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa XI về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, đã xác định: “Xây dựng nông thôn mới
có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức
sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ, đô thị
theo quy hoạch; xã hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hoá dân tộc; dân trí được



8

nâng cao, môi trường sinh thái được bảo vệ; hệ thống chính trị ở nông thôn dưới sự
lãnh đạo của Đảng được tăng cường. Xây dựng giai cấp nông dân, củng cố liên minh
công nhân - nông dân - trí thức vững mạnh, tạo nền tảng kinh tế - xã hội và chính trị
vững chắc cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”. [2]
Nghị quyết cũng chỉ ra năm nội dung cơ bản của xây dựng xã NTM bao gồm:
Thứ nhất. Xây dựng nông thôn có làng xã văn minh, sạch đẹp, hạ tầng hiện đại. Hai là.
Sản xuất bền vững, theo hướng hàng hóa. Ba là đời sống vật chất và tinh thần của người
dân ngày càng được nâng cao. Bốn là bản sắc văn hóa dân tộc được giữ gìn và phát
triển. Năm là xã hội nông thôn được quản lý tốt và dân chủ.
- Xây dựng xã NTM là quá trình hàm chứa bao gồm:
+ Quá trình chuyển nông thôn từ lạc hậu tới văn minh;
+ Quá trình vận động nông dân và cộng đồng dân cư nông thôn cùng tham gia
xây dựng hạ tầng, kinh tế toàn diện (nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ) và đời sống tại
xã, thôn và ở từng gia đình theo hướng giàu có, khang trang, văn minh sạch đẹp; xã hội
văn minh, văn hóa truyền thống lành mạnh;
+ Quá trình không ngừng nâng cao thu nhập, đời sống vật chất, tinh thần của
người dân nông thôn;
+ Quá trình duy trì và phát môi trường sinh thái mang đậm tính nông thôn.
1.2.2. Sự cần thiết phải tiến hành xây dựng xã NTM:
Nông nghiệp, nông thôn nước ta sau 28 năm đổi mới kể từ Nghị quyết số 10 của
Bộ Chính trị ngày 5/4/1988 đã đạt được thành tựu khá toàn diện và to lớn. Nông nghiệp
tiếp tục phát triển với tốc độ khá cao theo hướng hàng hoá, nâng cao năng suất, chất
lượng và hiệu quả; đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia; một số mặt hàng
xuất khẩu chiếm vị thế cao trên thị trường thế giới. Kinh tế nông thôn chuyển dịch theo
hướng tăng công nghiệp, dịch vụ, ngành nghề; các hình thức tổ chức sản xuất tiếp tục
đổi mới.
Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được tăng cường, đời sống vật chất và tinh thần

của dân cư ở hầu hết các vùng nông thôn ngày càng được cải thiện. Tuy nhiên, những


9

thành tựu đạt được chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế và chưa đồng đều giữa các
vùng nên Đảng và Nhà nước Việt Nam đã chủ động đề ra Chương trình xây dựng
NTM, trong đó đề cập xây dựng xã NTM với các lý do sau :
- Kết cấu hạ tầng nội thôn cấp xã như: điện, đường, trường, trạm, chợ, thủy lợi,
còn nhiều yếu kém, vừa thiếu, vừa không đồng bộ; nhiều hạng mục công trình đã xuống
cấp, tỷ lệ giao thông nông thôn được cứng hoá thấp; giao thông nội đồng ít được quan
tâm đầu tư; hệ thống thuỷ lợi cần được đầu tư nâng cấp; chất lượng lưới điện nông thôn
chưa thực sự an toàn; cơ sở vật chất về giáo dục, y tế, văn hoá còn rất hạn chế, mạng
lưới chợ nông thôn chưa được đầu tư đồng bộ, trụ sở xã nhiều nơi xuống cấp. Mặt bằng
để xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn đạt chuẩn quốc gia rất khó khăn, dân cư phân bố
rải rác, kinh tế hộ kém phát triển.
- Do sản xuất nông nghiệp manh mún, nhỏ lẻ, bảo quản chế biến còn hạn chế,
chưa gắn chế biến với thị trường tiêu thụ sản phẩm; chất lượng nông sản chưa đủ sức
cạnh tranh trên thị trường. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế, ứng dụng khoa học công nghệ
trong nông nghiệp còn chậm, tỷ trọng chăn nuôi trong nông nghiệp còn thấp; cơ giới
hoá chưa đồng bộ.
- Thu nhập của nông dân thấp; số lượng DN đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn
còn ít; sự liên kết giữa người sản xuất và các thành phần kinh tế khác ở khu vực nông
thôn chưa chặt chẽ. Kinh tế hộ, kinh tế trang trại, hợp tác xã còn nhiều yếu kém. Tỷ lệ
lao động nông nghiệp còn cao, cơ hội có việc làm mới tại địa phương không nhiều, tỷ lệ
lao động nông lâm nghiệp qua đào tạo thấp; tỷ lệ hộ nghèo còn cao.
- Đời sống tinh thần của nhân dân còn hạn chế, nhiều nét văn hoá truyền thống
đang có nguy cơ mai một (tiếng nói, phong tục, trang phục...); nhà ở dân cư nông thôn
vẫn còn nhiều nhà tạm, dột nát. Hiện nay, kinh tế - xã hội khu vực nông thôn chủ yếu
phát triển tự phát, chưa theo quy hoạch.

- Yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, cần 3 yếu tố
chính: đất đai, vốn và lao động kỹ thuật. Qua việc xây dựng xã NTM sẽ triển khai quy
hoạch tổng thể, đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa.
- Mục tiêu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp. Vì vậy,


10

một nước công nghiệp không thể để nông nghiệp, nông thôn lạc hậu, nông dân nghèo
khó.[4]
1.2.3.Mục tiêu của xây dựng xã NTM
Xây dựng xã NTM nhằm đạt các mục tiêu cơ bản sau:
- Không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của dân cư nông thôn;
- Nâng cao dân trí, đào tạo nông dân có trình độ sản xuất cao, có nhận thức chính
trị đúng đắn, đóng vai trò làm chủ xã NTM;
- Phát triển nông nghiệp bền vững theo hướng hiện đại; nâng cao năng suất, chất
lượng và hiệu quả trong sản xuất; sản phẩm nông nghiệp có sức cạnh tranh cao;
- Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ và hiện đại, nhất là đường giao thông,
thủy lợi, trường học, trạm y tế, khu dân cư...;
- Xã hội nông thôn dân chủ, ổn định, văn minh, giàu đẹp, bảo vệ môi trường sinh
thái, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc; an ninh trật tự được giữ vững theo định hướng
XHCN;
- Hệ thống chính trị, xã hội ở nông thôn được vững mạnh, xây dựng giai cấp
nông dân tiên tiến, củng cố liên minh công nhân - nông dân - trí thức.
1.2 4.Nguyên tắc và các bước xây dựng xã NTM
- Các nguyên tắc xây dựng xã NTM gồm 6 nguyên tắc sau :
Nguyên tắc 1. Các nội dung, hoạt động của Chương trình xây dựng xã NTM
phải hướng tới thực hiện 19 tiêu chí của Bộ tiêu chí quốc gia về NTM ban hành tại
Quyết định số 491/QĐ-TTg ngày 16 tháng 4 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ (sau
đây gọi chung là Bộ tiêu chí quốc gia NTM).

Nguyên tắc 2. Phát huy vai trò chủ thể của cộng đồng dân cư địa phương là
chính, Nhà nước đóng vai trò định hướng, ban hành các tiêu chí, quy chuẩn, chính sách,
cơ chế hỗ trợ, đào tạo cán bộ và hướng dẫn thực hiện. Các hoạt động cụ thể do chính
cộng đồng người dân ở thôn, xã bàn bạc dân chủ để quyết định thực hiện.
Nguyên tắc 3. Kế thừa và lồng ghép chương trình mục tiêu quốc gia, chương
trình mục tiêu, các dự án khác đang triển khai trên địa bàn nông thôn.
Nguyên tắc 4. Thực hiện Chương trình NTM phải gắn với kế hoạch phát triển


11

kinh tế - xã hội của địa phương, có quy hoạch và cơ chế đảm bảo thực hiện các quy
hoạch xây dựng NTM đã được phê duyệt.
Nguyên tắc 5. Công khai, minh bạch về quản lý, sử dụng các nguồn lực.
Tăng cường phân cấp, trao quyền cho cấp xã quản lý và tổ chức thực hiện các
công trình, dự án của Chương trình xây dựng NTM; phát huy vai trò làm chủ của người
dân và cộng đồng, thực hiện dân chủ cơ sở trong quá trình lập kế hoạch, tổ chức thực
hiện và giám sát, đánh giá.
Nguyên tắc 6. Xây dựng NTM là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và toàn xã
hội; Cấp ủy đảng, chính quyền đóng vai trò chỉ đạo, điều hành; Mặt trận Tổ quốc và các
tổ chức chính trị, xã hội vận động mọi tầng lớp nhân dân tham gia NTM. [3]
- Các bước xây dựng xã NTM:
Được quy định tại Điều 3 Thông tư liên tịch số 26/2011/TTLT-BNNPTNTBKHĐT-BTC ngày 13/4/2011 của Bộ Nông nghiệp PTNT, Bộ Kế hoạch đầu tư, Bộ Tài
chính quy định về các bước xây dựng xã NTM, như sau:
Bước 1. Thành lập hệ thống quản lý, thực hiện
Bước 2. Tổ chức thông tin, tuyên truyền về thực hiện Chương trình xây dựng
NTM (được thực hiện trong suốt quá trình triển khai thực hiện)
Bước 3. Khảo sát đánh giá thực trạng nông thôn theo 19 tiêu chí của Bộ tiêu chí
quốc gia về xây dựng xã NTM
Bước 4. Xây dựng quy hoạch NTM của xã

Bước 5. Lập, phê duyệt đề án xây dựng NTM của xã
Bước 6. Tổ chức thực hiện đề án
Bước 7. Giám sát, đánh giá và báo cáo tình hình thực hiện Chương trình. [7]
1.2.5. Nội dung xây dựng xã nông thôn mới.
Với cách hiểu về xã nông thôn mới là: có kinh tế phát triển cao hơn, đời sống về
vật chất văn hoá và tinh thần của người dân tốt hơn; bộ mặt nông thôn hiện đại, bao
gồm cả kết cấu hạ tầng phục vụ tốt cho sản xuất, đời sống văn hóa của người dân; văn
hoá và xã hội trên địa bàn xã được phát triển hài hòa giữa truyền thống và những điểm
mới, thì xây dựng xã nông thôn mới bao gồm 6 nội dung chủ yếu sau:


12

1.2.5.1. Phát triển kinh tế
Trong nội dung phát triển kinh tế thì phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hoá
là quan trọng và là điều kiện cơ bản để ổn định đời sống cho người dân, trên cơ sở đó sẽ
phát triển các hoạt động kinh tế phi nông nghiệp của cộng đồng ở mỗi địa bàn nông
thôn. Kinh tế phát triển thì mới tạo đủ điều kiện để phát triển xã hội, văn hóa và các lĩnh
vực khác của nông thôn. Phát triển kinh tế nông thôn phải dựa trên sản xuất hàng hoá
(kinh tế hàng hóa) vì sản xuất hàng hóa là điều kiện căn bản để tăng thu nhập cho người
dân nông thôn và là căn cứ để phát triển đời sống văn hóa, xã hội nông thôn. Tuy nhiên
sản xuất hàng hóa ở các vùng nông thôn khác nhau là không giống nhau, mà phải theo
lợi thế tự nhiên sinh thái từng vùng, có thể là sản xuất nông nghiệp hàng hóa hoặc có
thể là sản xuất hàng hóa phi nông nghiệp, nhưng gắn với điều kiện tại chỗ.
Nói một cách cụ thể, những vùng nông thôn có lợi thế về nông nghiệp thì tập
trung phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa bằng các hình thức kinh tế trang trại
hàng hóa phù hợp để tạo kết cấu cho phát triển nông thôn và xây dựng nông thôn mới
gắn chặt với sản xuất nông nghiệp. Các ngành nông nghiệp có thể là trồng trọt, chăn
nuôi hàng hóa với quy mô lớn và sử dụng có hiệu quả đất nông nghiệp, duy trì môi
trường nông nghiệp trong lành, bền vững. Cùng với sản xuất nông nghiệp các vùng này

có thể phát triển mạnh công nghiệp chế biến nông sản để làm tăng giá trị sản phẩm
nông nghiệp và gắn sản xuất nông nghiệp với thị trường tiêu thụ thông qua các chuỗi
giá trị sản phẩm nông nghiệp.
Những vùng nông thôn có lợi thế phát triển ngành nghề phi nông nghiệp thì
không nhất thiết phát triển nông nghiệp mà đẩy mạnh và mở rộng quy mô ngành nghề
phi nông nghiệp để phát triển kinh tế hàng hoá phi nông nghiệp và duy trì môi trường
sinh thái tự nhiên mang tính nông thôn. Nông thôn mới với kinh tế phi nông nghiệp.
Tóm lại, phát triển kinh tế là nội dung căn bản, nền tảng của phát triển nông
thôn theo lợi thế từng vùng. Kinh tế nông thôn bao gồm nhiều ngành: nông nghiệp,
công nghiệp, xây dựng, thương mại và dịch vụ đa dạng.
1.2.5.2. Phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội nông thôn
Nội dung tiếp theo của xây dựng nông thôn mới là xây dựng kết cấu hạ tầng


13

thiết yếu. Kết cấu hạ tầng là nhân tố đảm bảo thúc đẩy sản xuất và phát triển kinh tế và
còn là yếu tố tạo cơ hội nâng cao đời sống của người dân. Kết cấu hạ tầng bao gồm:
đường giao thông, hệ thống thuỷ lợi, các công trình chăm sóc y tế, trường học, công
trình văn hoá...được xếp thứ tự là các hạng mục ưu tiên cần được phát triển để đáp ứng
với yêu cầu phát triển đời sống, sản xuất ở nông thôn.
Những công trình hạ tầng trực tiếp ảnh hưởng đến sản xuất ở nông thôn là hệ
thống thuỷ lợi, kho tàng, hệ thống chuồng trại chăn nuôi tập trung…cần được quan tâm
đầu tư thích đáng để thúc đẩy sản xuất và tạo điều kiện phát triển các kết cấu hạ tầng
phục vụ cho phát triển kinh tế và đời sống ở nông thôn.
Bên cạnh hạ tầng phục vụ sản xuất, trong xây dựng nông thôn mới còn phải
chú trọng phát triển các loại hạ tầng xã hội như công trình y tế, giáo dục, văn hoá, thể
dục thể thao, thông tin, lễ hội truyền thống…
1.2.5.3. Phát triển văn hoá và nâng cao dân trí.
Việc nâng cao dân trí, phát triển văn hoá là một trong những động lực để giải

phóng sức lao động, kích thích sáng tạo, đẩy mạnh sản xuất trong nông thôn. Người dân
nông thôn có thu nhập cao, có trình độ văn hoá, có lối sống văn minh hiện đại là mẫu
người nông dân trong xã hội nông thôn mới, đây là mục tiêu lâu dài của công cuộc phát
triển nông thôn ở mỗi quốc gia.
Để thực hiện được nội dung này, việc xây dựng kết cấu hạ tầng văn hoá xã hội
tốt hơn, khang trang hơn... là yêu cầu thiết thực để xây dựng con người có trình độ văn
hoá chuyên môn, vừa có văn hoá có tính lâu dài.
Xây dựng nông thôn mới không chỉ tạo ra các nhà văn hoá, các công trình phúc
lợi công cộng hiện đại, mà phải xây dựng cho được các phong trào văn hoá, thể thao,
phát triển dân trí mang tính cộng đồng cao, thiết thực và được lôi kéo từng người dân
tham gia. Do đó, cùng với xây dựng các hạ tầng văn hoá xã hội phải đi đôi với phát
triển các hoạt động cộng đồng trong nông thôn.
Một địa phương tiến hành xây dựng nông thôn mới phải triển khai các phong
trào văn hoá mới, vì văn hoá mới là tiêu chí cần thiết trong xây dựng con người mới,
phát huy nền dân chủ nhân dân, xây dựng một cuộc sống văn hoá tinh thần nông thôn


14

lành mạnh.
1.2.5.4. Đảm bảo môi trường dân chủ ở nông thôn
Sự tham gia của người dân, của cộng đồng trong xây dựng nông thôn mới, yếu
tố cơ bản để nâng cao tính dân chủ ở nông thôn và từ đó mở rộng hơn nữa vấn đề dân
chủ ở nông thôn trong nhiều lĩnh vực khác kể cả những vấn đề về kinh tế, chính trị, xã
hội. Cộng đồng dân cư nông thôn cần tham gia vào mọi quá trình ra quyết định cũng
như thực hiện hoạt động xây dựng nông thôn mới với mục tiêu cuối cùng là phát triển
nông thôn giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
1.2.5.5. Phát triển nguồn lực con người
Trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp nông
thôn, yêu cầu cấp thiết là nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực, tạo ra nguồn nhân

lực có chất lượng cao. Nông dân trong điều kiện CNH, HĐH phải là người nông dân có
tinh thần tự chủ cao, luôn vươn lên nắm bắt thị trường, dụng TBKT và quy trình mới
vào sản xuất để làm giàu trên mảnh đất của mình.
Nhà nước cần đầu tư và giúp đỡ nông dân để nông dân đạt được yêu cầu trên
đây, đặc biệt là giúp đỡ về kỹ thuật sản xuất, tiếp cận thị trường, quản lý tài chính…. Do
vậy, các chương trình, dự án khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, khuyến công,
khuyến thương cần được đẩy mạnh trong phát triển nông thôn.
1.2.5.6. Bảo vệ môi trường và tài nguyên
Trong phát triển kinh tế, việc giữ gìn và bảo vệ môi trường là yếu tố quan
trọng để tăng trưởng một cách bền vững. Vì vậy, giữ gìn và bảo vệ môi trường cũng là
một trong những nội dung đảm bảo cho cuộc sống tốt đẹp, hơn nữa nếu có điều kiện có
thể kết hợp hài hòa giữa bảo vệ môi trường với phát triển các cảnh quan thiên nhiên ở
khu vực nông thôn, còn có thể tạo điều kiện lớn cho mục tiêu khai thác tiềm năng du
lịch sinh thái.
Về lâu dài, nông thôn phải là nơi có cảnh quan và môi trường tự nhiên trong
lành, là lá phổi xanh cho cả quốc gia trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Sáu nội dung chủ yếu trên đây đồng thời là 6 yêu cầu cơ bản phải được thực
hiện trong suốt quá trình xây dựng nông thôn mới. Tuy nhiên, đây là vấn đề rất phức


15

tạp, khó khăn đối các xã ở Việt Nam với trình độ phát triển kinh tế thấp, tính đa dạng
cao và điều kiện khởi đầu rất khác biệt. Từ đó, tuỳ điều kiện cụ thể của mỗi địa phương
mà lựa chọn thứ tự ưu tiên để thực hiện các nội dung NTM cho phù hợp điều kiện về
nhân lực và tài chính để thu được thành công.
1.2.6. Tiêu chí xây dựng nông thôn mới
Bảng số 1.1. Các chỉ tiêu của từng tiêu chí theo Quyết định 491/2009/QĐ-TTg
Tiêu chí 1: Quy hoạch và thực hiện qui hoạch (gồm 3 chỉ tiêu)
Tiêu chí 2 : Giao thông (gồm 4 chỉ tiêu)

Tiêu chí 3 : Thủy lợi (gồm 2 chỉ tiêu)
Tiêu chí 4 : Điện (gồm 2 chỉ tiêu)
Tiêu chí 5 : Trường học (gồm 1 chỉ tiêu)
Tiêu chí 6: Cơ sở vật chất văn hóa (gồm 2 chỉ tiêu)
Tiêu chí 7 : Chợ nông thôn (gồm 1 chỉ tiêu)
Tiêu chí 8 : Bưu điện (gồm 2 chỉ tiêu)
Tiêu chí 9 : Nhà ở dân cư (gồm 2 chi tiêu)
Tiêu chí 10 : Thu nhập (gồm 1 chỉ tiêu)
Tiêu chí 11 : Hộ nghèo (gồm 1 chỉ tiêu)
Tiêu chí 12 : Tỷ lệ lao động có việc làm thường xuyên (gồm 1 chỉ tiêu)
Tiêu chí 13 : Hình thức tổ chức sản xuất (gồm 1 chi tiêu)
Tiêu chí 14 : Giáo dục (gồm 3 chỉ tiêu)
Tiêu chí 15 : Y tế (gồm 2 chỉ tiêu)
Tiêu chí 16 : Văn hóa (gồm 1 chi tiêu)
Tiêu chí 17 : Môi trường (gồm 5 chỉ tiêu)
Tiêu chí 18: Hệ thống tổ chức chính trị-xã hội vững mạnh (gồm 4 chỉ tiêu)
Tiêu chí 19: An ninh trật tự xã hội (gồm 1 chỉ tiêu)

Ngày 16/4/2009, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Bộ tiêu chí quốc gia nông
thôn mới tại Quyết định 491/2009/QĐ-TTg, tiếp đó ngày 20/2/2013 ban hành thêm
Quyết định 342/QĐ-TTg về sửa đổi một số tiêu chí, trong đó qui định :
- Một xã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới phải hoàn thành 19 tiêu chí theo các
Quyết định trên, trong đó chia thành 5 nhóm sau: về quy hoạch; về phát triển hạ tầng


16

kinh tế - xã hội; về phát triển kinh tế sản xuất; về phát triển văn hóa-xã hội-môi trường
và về hệ thống chính trị. Mỗi tiêu chí ở từng nhóm được cụ thể hóa thành các chỉ tiêu
phải hoàn thành. Tổng cộng cho 5 nhóm là 39 chỉ tiêu, được tổng hợp ở bảng 1.1.

Như vậy, một xã được công nhận là nông thôn mới khi đạt đủ 39 chỉ tiêu trong
bảng trên; một huyện được công nhận là nông thôn mới khi có ít nhất 75% số xã trong
huyện được công nhận nông thôn mới; một tỉnh được công nhận nông thôn mới có ít
nhất 80% số huyện trong tỉnh được công nhận huyện nông thôn mới.
Tuy nhiên, do điều kiện từng vùng, miền trong cả nước khác nhau, do đó việc áp
dụng các tiêu chí trên đây có sự khác nhau giữa các vùng gồm: Trung du Miền núi phía
Bắc; Đồng bằng sông Hồng; Bắc Trung Bộ; Nam Trung Bộ; Tây Nguyên; Đông Nam
Bộ và vùng Đồng bằng Sông Cửu Long.
1.2.7. Chủ thể xây dựng xã nông thôn mới
Mục tiêu của xây dựng xã nông thôn mới là nâng cao toàn diện đời sống vật
chất và tinh thần của người dân nông thôn, do vậy người dân nông thôn chính là chủ thể
của xây dựng nông thôn mới. Trong triển khai các chương trình, dự án xây dựng nông
thôn mới cần thu hút sự tham gia chủ động và tích cực của người dân nông thôn với
phương châm “ dân làm, lãnh đạo xã, huyện, tỉnh hướng dẫn, chỉ đạo”, Thể hiện như
sau:
- Dân biết: người dân tham gia vào các giai đoạn của quá trình xây dựng các
công trình liên quan đến xây dựng NTM, biết và nắm được thông tin đầy đủ về công
trình mà họ tham gia như: mục đích xây dựng công trình, quy mô công trình, các yêu
cầu đóng góp từ cộng đồng, trách nhiệm và quyền lợi của cộng đồng người dân được
hưởng lợi;
- Dân bàn: bao gồm sự tham gia ý kiến của người dân vào đến kế hoạch phát
triển sản xuất, liên quan đến các giải pháp, mọi hoạt động của nông dân trên địa bàn;
- Dân đóng góp: không chỉ vật chất, tiền bạc mà còn ở cả nhận thức về quyền
sở hữu và tính trách nhiệm. Hình thức đóng góp có thể bằng tiền, sức lao động, vật tư
tại chỗ hoặc đóng góp bằng trí tuệ;
- Dân làm: Người dân tham gia lao động trực tiếp vào các hoạt động phát triển


17


NTM. Người dân trực tiếp tham gia vào việc lập kế hoạch có sự tham gia cho từng hoạt
động thi công, quản lý và duy tu, bảo dưỡng các công trình hạ tầng đã xây dựng. Từ sự
tham gia đó người dân có cơ hội về việc làm và thu nhập;
- Dân kiểm tra: thông qua các chương trình, hoạt động có sự giám sát và đánh
giá của người dân để kiểm tra, giám sát việc xây dựng, khai thác, vận hành và sử dụng
các công trình hạ tầng, đảm bảo tính minh bạch trong việc sử dụng các nguồn lực của
Nhà nước và của người dân đã đầu tư xây dựng;
- Dân quản lý: Người dân quản lý các công trình hạ tầng đã xây dựng xong
thông qua một tổ chức do nông dân tự lập ra, để thể hiện rõ quyền chủ sở hữu công
trình. Người dân có quyền quyết định việc duy tu, bảo dưỡng công trình nhằm nâng cao
tuổi thọ và phát huy tối đa hiệu quả trong việc sử dụng công trình;
- Dân hưởng lợi: Từ các hoạt động mà họ tham gia mang lại, bao gồm lợi ích
trực tiếp và lợi ích gián tiếp. Nhóm trực tiếp bao gồm các lợi ích từ tăng năng suất cây
trồng do thực hiện thâm canh, tăng vụ, áp dụng các giống mới trong thực hiện phát triển
kinh tế sản xuất,... Nhóm gián tiếp bao gồm các lợi ích do các hoạt động văn hóa xã hội
cộng đồng mang lại như: phát triển các hoạt động văn hóa cộng đồng, phát triển các
dịch vụ xã hội, cải thiện môi trường sinh thái....
1.2.8. Các nhân tố ảnh hưởng tới xây dựng xã NTM
Các tài liệu trong và nước ngoài về phát triển nông thôn và xây dựng NTM đã xác
định các nhân tố ảnh hưởng đến xây dựng NTM ở cấp xã bao gồm:
Thứ nhất. Nhận thức của người dân.
Nhận thức của người dân là nhân tố cốt lõi để thực hiện thành công các tiêu chí.
Khi người dân không hiểu hết được mục đích và lợi ích của chương trình xây dựng
nông thôn mới thì việc triển khai thực hiện sẽ rất khó khăn. Ngược lại, nếu người dân
hiểu rõ về nội dung, yêu cầu của xây dựng xã nông thôn mới thì việc triển khai tại địa
phương sẽ đồng thuận, tạo ra sức mạnh chung đưa đến thuận lợi và hiệu quả.
Thứ hai. Các hình thức và mức độ tham gia của người dân vào hoạt động cụ thể
của từng chỉ tiêu của xã NTM ảnh hưởng mạnh tới sự thành công của xây dựng NTM.
Trong xây dựng nông thôn mới, người nông dân phải tham gia từ khâu quy



18

hoạch, đồng thời góp công, góp của và trực tiếp lao động sản xuất trong quá trình làm ra
của cải vật chất, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, xây dựng nâng cấp nhà cửa, xây dựng
các công trình vệ sinh, tham gia trực tiếp ngày công lao động cho các công trình công
cộng ở khu dân cư nơi gia đình sinh sống, hiến và góp đất để mở rộng đường làng ngõ
xóm, đường giao thông thuỷ lợi...
Thứ ba. Năng lực, tầm nhìn của cán bộ quản lý cơ sở là nhân tố quan trọng ảnh
hưởng tới thành công của xây dựng xã NTM.
Cán bộ quản lý giữ vai trò then chốt cũng như cầu nối trong hoạt động xây
dựng nông thôn mới tại mỗi địa phương, vì thế năng lực cũng như tầm nhìn của cán bộ
quản lý là hết sức quan trọng. Để xác định được hướng đi trong sản xuất nông nghiệp,
hướng phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, người lãnh đạo phải có năng lực, tầm
nhìn để có thể chọn hướng đi đúng đắn nhằm phát huy hết khả năng và tiềm lực của địa
phương đưa cuộc sống của người dân lên cao hơn, kinh tế của địa phương phát triển, xã
hội văn minh.
Thứ tư. Hỗ trợ của Nhà nước cho các xã xây dựng NTM về xây dựng các công
trình hạ tầng kinh tế-xã hội như: điện, đường, trường, trạm, thủy lợi, giao thông qua huy
động vốn đầu tư từ các doanh nghiệp để xây dựng hạ tầng kinh tế - xã hội có ảnh hưởng
mạnh tới kết quả xây dựng xã NTM.
Thực hiện các chỉ tiêu về phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội đòi hỏi nhiều vốn
đầu tư mà không thu lời, vì thế các doanh nghiệp không sẵn lòng đầu tư vào các công
trình này. Do vậy vốn đầu tư vào hạ tầng kinh tế-xã hội ở các xã NTM chủ yếu nhờ vào
nguồn vốn đầu tư của ngân sách nhà nước và đóng góp của chính người dân trong xã
Tuy nhiên, theo quy định tại các văn bản pháp luật thì, nguồn lực để xây dựng xã
nông thôn mới gồm: ngân sách Trung ương, địa phương sẽ hỗ trợ 40%; còn 60% sẽ huy
động từ các nguồn như doanh nghiệp, tổ chức tín dụng, hợp tác xã và người dân đóng
góp 10%, có thể bằng tiền, ngày công, hoặc hiến đất cho xây dựng xã nông thôn mới.
Như vậy có thể thấy rằng, để huy động được đủ vốn theo các nguồn này với tỷ lệ quy

định trên thực tế là không dễ dàng.
- Thứ năm. Tuyên truyền, hướng dẫn người dân tham gia xây dựng NTM.


19

Để xây dựng NTM, Nhà nước cần tuyên truyền, hướng dẫn người dân về phương
pháp, cách làm trong triển khai chương trình xây dựng xã nông thôn mới; giải thích cho
người dân hiểu mục đích và lợi ích của chương trình. Khi chủ trương xây dựng xã nông
thôn mới đã được người dân thấu hiểu, thấm nhuần thì ý thức tự giác chung tay, góp sức
vào công cuộc xây dựng nông thôn mới của người dân sẽ được phát huy.
- Thứ sáu. Hệ thống cơ chế, chính sách và văn bản pháp luật chỉ đạo triển khai
Chương trình xây dựng nông thôn mới.
Chính sách và văn bản pháp luật quy định về xây dựng NTM có vai trò đưa ra
khung pháp lý về cách làm và các chế độ hỗ trợ của Nhà nước. Vì vậy, chính sách và
pháp luật liên quan đến phát triển nông thôn và xây dựng NTM có có ảnh hưởng mạnh
tới thành công của quá trình xây dựng NTM ở từng xã.
1.3. Cơ sở thực tiễn về xây dựng nông thôn mới
1.3.1. Kinh nghiệm xây dựng nông thôn ở một số nước trên thế giới
1.3.1.1. Kinh nghiệm của Hàn Quốc
Cuối thập kỷ 60 thế kỷ trước, Hàn Quốc là nước đói nghèo, GDP bình quân đầu
người chỉ có 85 USD/năm. Phần lớn người dân thậm chí không đủ ăn. Kinh tế Hàn
Quốc chủ yếu vẫn dựa vào nông nghiệp, Mối lo lớn nhất cùa Chính phủ là làm sao thoát
khỏi đói nghèo, Tổng thống Park nhận ra rằng viện trợ của Chính phủ cũng là vô nghĩa
nếu người dân không nghĩ cách tự giúp chính mình. Hơn thế nữa, khuyến khích người
dân tự hợp tác và giúp đỡ nhau là điểm mấu chốt để phát triển nông thôn. Những ý
tưởng này chính là nền tảng của Saemaul Undong - phát triển nông thôn mới.
Mô hình Saemaul Undong được bắt đầu bằng việc Chính phủ giao quyền tự
quản rộng rãi cho chính quyền cấp xã. Theo đó, Hội đồng xã và Hội đồng thị trấn thành
lập Ủy ban điều hành để đảm bảo kế hoạch xây dựng làng mới được thực thi suôn sẻ.

Các làng đều có một người lãnh đạo điều hành cùng với ban phát triển tự quản. Ban
phát triển có hai phân ban chính của phụ nữ và thanh niên cùng với một số tiểu ban
khác. Họ có nhiệm vụ lập kế hoạch và điều hành các tiểu ban để tăng được thu nhập xã
và thúc đẩy những giá trị và tư tưởng tiến bộ. Các dự án Saemaul do hội đồng cấp
huyện quyết định và phải có sự nhất trí của Chánh án.


20

Trong thập kỷ 70 Chính phủ không có kinh phí để thực hiện kế hoạch này. Tuy
nhiên, với khoản viện trợ ít ỏi của Chính phủ, nhiều nhu cầu thiết yếu đã được giải
quyết. Chính phủ đưa ra thử nghiệm 10 dự án lớn trong phát triển nông thôn, bao gồm
mở rộng và nâng cấp đường xá làm lại mái nhà bếp và hàng rào cho các hộ dân. Nhờ
khơi dậy nội lực của nông dân mà nông thôn Hàn Quốc đã có những biến đổi to lớn.
Cuối những năm 80, nông thôn Hàn Quốc đã có những dấu hiệu của sự phát triển và đô
thị hóa.
Ý nghĩa của phong trào Saemau1 Undong là một cuộc cải tổ về ý thức dựa trên
tinh thần sáng tạo của người dân. Mục tiêu của Saemaul Undong là xây dựng một nông
thôn toàn quốc hoà bình và kỷ cương cho tất cả mọi người. Để hiện thực hóa mục tiêu
này, chính phủ Hàn Quốc đã đề cao ba phẩm chất mấu chốt trong phong trào Saemaul
Undong là: cần cù, tự lực và hợp tác. Hai lý do thành công của Saemaul Undong là:
- Lý do thứ nhất là chính sách cạnh tranh của Chính phủ đã tạo ra động lực thu

hút sự tham gia của khu vực nông thôn. Chính đội ngũ lãnh đạo đầy sáng tạo và mẫn
cán của Chính phủ đã thúc đẩy những người nông dân tham gia. Thêm nữa, việc tôn
vinh và trao thưởng cho những địa phương thực hiện thành công cũng là một yếu tố
thúc đẩy đáng kẻ.
- Lý do thứ hai phải kể đến là sự tham gia một cách toàn diện của người dân. Ai

cũng ngạc nhiên trước thành quả đạt được. Những thành quả đó làm họ tự tin hơn và là

động lực thúc đẩy cho những thành công tiếp theo. Người dân cần cù lao động và thực
sự hiểu được ý nghĩa của sự hợp tác.
Những kinh nghiệm đã tổng kết và rút ra từ phong trào Saemaul Undong bao
gồm: (i). Đoàn kết nhân nhân, khơi dậy tinh thần tự lực, tự cường trong nhân dân để xây
dựng nông thôn mới; (ii). Kích thích sự tham gia bằng những lợi ích thiết thực; (iii).
phát triển kinh tế hộ và các loại hình kinh tế có sức cạnh tranh cao. (iv). Đẩy mạnh
nghiên cứu và chuyển giao khoa học kỹ thuật cho nông dân. (v). Xây dựng trật tự, kỷ
cương và nếp sống lành mạnh trong xã hội; (vi). Phân cấp phân quyền và thực hiện dân
chủ trong quản lý và thực hiện dự án; (vii). Tăng cường năng lực của lãnh đạo địa
phương; (viii). Thực hiện các chính sách hỗ trợ cho nông dân.


21

Từ một đất nước mà GNP đầu người chưa đầy 100 USD/năm trở thành một
quốc gia với GNP đầu người ở mức trên 10.000USD/năm sau một thời gian phát triển
kinh tế và xây dựng NTM, điều thần kỳ này đã được hiện thực hóa bằng bàn tay và khối
óc người của người dân Hàn quốc. Saemaul Undong đã trở thành nền tảng cho sự thịnh
vượng, một bước ngoặt lịch sử trên con đường phát triển nông thôn của Hàn Quốc.[29]
1.3.1.2.Kinh nghiệm của Trung Quốc
Trung Quốc là một quốc gia rộng lớn, có dân số trên 1,3 tỷ người, trong đó nông
dân sống ở nông thôn gần 900 triệu người. Dân số của Trung Quốc chiếm 21% dân số
thế giới, trong khi đó, diện tích đất canh tác chỉ chiếm có 9% của thế giới. Xuất phát
điểm là một nước nghèo nhưng nhờ có công cuộc cải cách mở cửa, Trung Quốc đã trỗi
dậy như một hiện tượng thần kỳ của khu vực Châu Á và trên thể giới. Với một diện tích
đất canh tác ít ỏi như vậy, để nuôi sống 21% dân số của thế giới là một bài toán hóc
búa, để giải cho bài toán đó chính là chính sách Tam nông của Trung Quốc mà nhiều
người gọi là “Quốc sách”. Thành công của chính sách Tam nông ở Trung Quốc đã được
tổng kết lại như sau:
Thứ nhất. Cải tổ việc quản lý trong nông nghiệp bao gồm các nội dung: xóa bỏ

công xã nhân dân; đổi mới cơ chế quản lý, thực hiện cơ chế “hai mở một điều chỉnh”1
Thứ hai. Nguồn lực của Nhà nước tập trung cho xây dựng kết cấu hạ tầng.
Chính phủ Trung Quốc đã huy động nhiều nguồn lực cho xây dựng kết cấu hạ
tầng ở nông thôn. Ngân sách nhà nước chủ yếu được sử dụng cho làm đường giao
thông, xây dựng công trình thủy lợi, trường học, cơ sở y tế... chỉ một phần nhỏ dùng để
xây nhà cho người dân. Nhờ tập trung nguồn lực của Nhà nước vào xây dựng kết cấu hạ
tầng ở nông thôn nên hạ tầng nông thôn Trung Quốc khá đồng bộ, thu hẹp khoảng cách
giữa nông thôn - thành thị.
Thứ ba. Phát triển công nghiệp, dịch vụ ở nông thôn để tạo việc làm tại chỗ,
nâng cao nhu nhập cho người dân.

1

Hai mở là mở cửa giá thu mua theo cơ chế thị trường, mở cửa thị trường mua bán lương thực; Một điều chỉnh là chuyển

từ trợ cấp gián tiếp qua lưu thông thành trợ cấp trực tiếp cho nông dân như trợ cấp giống, phân bón, vật tư, máy móc...


22

Trong xây dựng nông thôn Trung Quốc phát triển mạnh các doanh nghiệp ở
nông thôn, đẩy mạnh phát triển công nghiệp, dịch vụ ở nông thôn, nhanh chóng đưa tiến
bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất; phát triển các ngành sản xuất càng nhiều lao động;
mở rộng các ngành nghề dịch vụ ở nông thôn là chìa khóa giúp Trung Quốc thành công
trong chính sách “Li nông, bất ly hương”. Nhờ đó, cơ cấu lao động nông thôn Trung
Quốc chuyển dịch rất mạnh, có tới 226 triệu lao động nông thôn chuyển sang làm thuê
trong các xí nghiệp hoặc các ngành dịch vụ khác. Việc thực thi chính sách “cho nhiều,
thu ít, tạo nhiều việc làm” đã mở rộng con đường giúp nông dân tăng thu nhập.
Thứ tư. Thực hiện nhiều chính sách hỗ trợ nông dân.
Trong xây dựng NTM, Chính phủ Trung Quốc đã áp dụng nhiều chính sách hỗ

trợ nông dân, đảm bảo an sinh xã hôi như: Xóa bỏ thuế nông nghiệp (gồm cả thuế chăn
nuôi, thuế đặc sản); Thực hiện giáo dục nghĩa vụ (9 năm) miễn phí; Hỗ trợ học nghề
cho các tầng lớp thu nhập thấp; Hỗ trợ về giá mua giống, mua thiết bị, máy móc và vốn
cho nông dân; hỗ trợ thu mua lương thực cho nông dân không thấp hơn giá thị trường.
Bên cạnh việc áp dụng các chính sách trên, Chính phù Trung Quốc đã xử lý nghiêm nạn
loạn thu phí và công bố công khai, minh bạch về giá và phí nông nghiệp, chính sách trợ
cấp, đền bù và việc chuyển đổi thành tiền mặt đối với trợ cấp lương thực... Nhờ đó, đời
sống vật chất lẫn tinh thần cũng như các thể chế về chính trị, văn minh tinh thần không
ngừng mở rộng.
Chính sách hỗ trợ tài chính cho Tam nông tập trung 3 mục tiêu là nông nghiệp
gia tăng sản xuất, nông thôn phát triển, nông dân tăng thu nhập. Định hướng phát triển
tài chính hỗ trợ tam nông ở Trung Quốc là nông nghiệp hiện đại, nông thôn đô thị hóa,
nông dân chuyên nghiệp hóa.
Thứ năm. Phát triển nền nông nghiệp hiệu quả cao.
Trung Quốc đã tái cơ cấu lại ngành nông nghiệp theo hướng khai thác lợi thế,
nâng cao năng suất, chất lượng, đồng thời căn cứ vào nhu cầu của thị trường, đưa ra các
biện pháp thích hợp cho từng khu vực để điều chỉnh và nâng cao hiệu quả sản xuất nông
nghiệp. Theo đó, Trung Quốc đã thực hiện kế hoạch sản xuất lương thực trên quy mô
lớn để đảm bảo an ninh lương thực, đồng thời đẩy mạnh xuất khẩu rau quả là những sản


23

phẩm có tỷ trọng lao động cao, tập trung làm vườn, nuôi trồng thủy sản, sản xuất đậu
nành, chăn nuôi bò sữa.
Thứ sáu. Trừng trị tham nhũng trong xây dựng NTM để tạo thể chế chính trị
mạnh ở nông thôn.
Trung Quốc tập trung xây dựng hệ thống chính trị mạnh, ngăn ngừa tham nhũng
không những có ý nghĩa về chính trị mà còn thúc đẩy nông nghiệp, nông thôn Trung
Quốc phát triển trên cơ sở lấy được lòng tin của nông dân, từ đó lãnh đạo nông dân

trong công cuộc xây dựng nông thôn mới.[29]
1.3.2.Một số kinh nghiệm về xây dựng NTM ở Việt Nam
1.3.2.1. Xây dụng nông thôn mới ở tỉnh Quảng Ninh
Công tác xây dựng nông thôn mới được các cấp, các ngành, các địa phương
trong tỉnh đồng loạt triển khai thực hiện với phương châm: Cùng với sự đầu tư của nhà
nước, phải huy động sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, doanh nghiệp và toàn thể nhân
dân, dựa vào nội lực của cộng đồng dân cư, mọi việc phải được dân biết, dân bàn, dân
làm và dân hưởng thụ. Đồng thời, tỉnh không làm thí điểm mà triển khai đồng bộ xây
dựng NTM ở 125 xã của 13 huyện, thị, thành phố (trừ thành phố Hạ Long vì không còn
xã) và thực hiện đồng bộ tất cả các tiêu chí. Trong đó, lựa chọn 2 xã ở 2 huyện Hoành
Bồ và Đông Triều làm mẫu Nông thôn mới cấp xã trước để các đơn vị khác rút kinh
nghiệm trước khi các huyện phê duyệt trên phạm vi toàn tỉnh.
Sau hơn hai năm thực hiện, bộ mặt nông thôn Quảng Ninh có sự thay đổi toàn
diện, cùng với sự đầu tư của nhà nước vào khoảng 2.600 tỷ đồng bằng nhiều nguồn và
đóng góp của các tổ chức, cá nhân cho hạ tầng cơ sở hạ tầng điện, đường, trường,
trạm... do đó, toàn tỉnh đã có 51/125 xã thuộc chương trình xây dựng NTM có đường
trục thôn, xóm được cứng hóa đạt chuẩn; 56 xã có đường ngõ, xóm sạch và không lầy
lội vào mùa mưa; trên 130 trường học các cấp đạt chuẩn; 100% xã có bưu điện văn hóa
xã; tất cả các thôn bản đã có điện; 90% hộ nông thôn được dùng nước hợp vệ sinh...
Quảng Ninh là tỉnh đầu tiên trên cả nước có 100% số xã hoàn thành xây dựng
quy hoạch xây dựng nông thôn mới cấp xã; 100% huyện lập xong đề án và xây dựng
được kế hoạch 5 năm xây dựng nông thôn mới; 100% số thôn có nhà văn hóa đủ điều


24

kiện hoạt động... Đến nay, Quảng Ninh đã có 8 xã đạt 19 tiêu chí về xây dựng xã NTM.
Thu nhập bình quân của người dân khu vực nông thôn đạt 14 triệu đồng/năm 2012.
Thành công này là nhờ có sự chung tay của các cấp chính quyền, đoàn thể, các
tổ chức, doanh nghiệp và người dân. Để nâng cao nhận thức trong cộng đồng dân cư và

doanh nghiệp về mục tiêu, phương pháp, cơ chế chính sách của Nhà nước về xây dựng
nông thôn mới, tỉnh Quảng Ninh xác định tuyên truyền là nhiệm vụ trọng tâm xuyên
suốt của chương trình xây dựng nông thôn mới. Thông qua đa dạng hóa các hình thức
thông tin, tuyên truyền, cụm từ “xây dựng nông thôn mới” đã trở thành quen thuộc và
của mọi tầng lớp nhân dân, nâng cao nhận thức, cùng chung vai gánh vác.
Người dân đã tự nguyện đóng góp sức người, vật chất như hiến đất để làm
đường, xây dựng các công trình hạ tầng. Các sở, ban, ngành, các doanh nghiệp, các nhà
hảo tâm vừa ủng hộ tiền mặt vào Quỹ chung sức xây dựng nông thôn mới được gần 13
tỷ đồng, vừa giúp các xã xây dựng các công trình hạ tầng, trị giá hàng chục tỷ đồng; hỗ
trợ gần 10.000 tấn xi măng, trên 1,5 triệu viên gạch chỉ... để làm các công trình giao
thông, thủy lợi, nhà văn hóa.
Đặc biệt, đề án “Mỗi xã, mỗi phường một sản phẩm” đã được triển khai trong
xây dựng xã NTM và phát huy hiệu quả. Nhờ đó, việc hàng chục mặt hàng nông - lâm thủy sản của bà con nông dân dần tạo dựng được thương hiệu và vị thế ở thị trường
trong và ngoài tỉnh. Hiện trên địa bàn tỉnh đang dần hình thành các vùng sản xuất nông
sản tập trung, quy mô lớn, gắn với thương hiệu và nguồn gốc sản phẩm. Như vậy có thể
khẳng định với sự quyết tâm cao, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, sự đồng thuận
trong nhân dân đã huy động được sức mạnh tổng hợp trong toàn dân tham gia thực hiện
Chương trình NTM cấp xã. [5]
Kinh nghiệm bước đầu xây dựng NTM đạt hiệu quả ở Quảng Ninh là tinh thần
đoàn kết cùng chung sức xây dựng NTM của các cấp ủy, chính quyền, các ngành, đoàn
thể và cộng đồng dân; Chú trọng công tác tuyên truyền về NTM để người dân hiểu và
tự giác tham gia chương trình; Khai thác có hiệu quả tiềm năng về nông nghiệp, xây
dựng thương hiệu các mặt hàng nông-lâm-thủy sản của bà con nông dân, nhân rộng mô
hình đạt hiệu quả; huy động tốt các nguồn lực cho xây dựng cơ sở hạ tầng.


×