TÀI NGUYÊN ĐẤT VÀ CÁC QUÁ TRÌNH CHÍNH TRONG ĐẤT
Việt Nam - một trong những quốc gia khan hiếm đất trên thế giới
Việt Nam có diện tích tự nhiên khoảng 33.000.000ha, trong đó, diện tích sông suối và núi
đá khoảng 1.370.100ha (chiếm khoảng 4,16% diện tích đất tự nhiên), phần đất liền
khoảng 31,2 triệu ha (chiếm khoảng 94,5% diện tích tự nhiên), xếp hàng thứ 58 trong
tổng số 200 nước trên thế giới, nhưng vì dân số đông (khoảng 80 triệu người) nên diện
tích đất bình quân đầu người thuộc loại rất thấp, xếp thứ 159 và bằng 1/6 bình quân của
thế giới. Diện tích đất canh tác vốn đã thấp nhưng lại giảm theo thời gian do sức ép tăng
dân số, đô thị hoá, công nghiệp hoá và chuyển đổi mục đích sử dụng (Bảng I.1).
Bảng I.1 Giảm diện tích đất canh tác trên đầu người ở Việt Nam
Năm 1940 1960 1970 1992 2000
Bình quân đầu người (ha/người) 0,2 0,16 0,13 0,11 0,10
Nguồn: Hội Khoa học Đất Việt Nam
Các quá trình chính trong đất của Việt Nam bao gồm: quá trình phong hoá, trong đó
phong hoá hoá học và sinh học xảy ra mạnh hơn so với phong hoá lý học; quá trình mùn
hoá; quá trình bồi tụ hình thành đất đồng bằng và đất bằng ở miền núi; quá trình glây
hoá; quá trình mặn hoá; quá trình phèn hoá; quá trình feralít hoá; quá trình alít; quá
trình tích tụ sialít; quá trình thục hoá và thoái hoá đất. Tuỳ theo điều kiện địa hình, điều
kiện môi trường và phương thức sử dụng mà quá trình này hay khác chiếm ưu thế, quyết
định đến hình thành nhóm, loại đất với các tính chất đặc trưng.
Nhìn chung, đất của Việt Nam đa dạng về loại, phong phú về khả năng sử dụng. Căn cứ
vào nguồn gốc hình thành có thể phân thành hai nhóm lớn: nhóm đất được hình thành do
bồi tụ (đất thuỷ thành) có diện tích khoảng 8 triệu ha, chiếm 28,27% tổng diện tích đất tự
nhiên, trong đó đất đồng bằng 7 triệu ha.
- Nhóm đất được hình thành tại chỗ (đất địa thành) có khoảng 25 triệu ha.
Các nhóm đất chính và sự phân bố
Việt Nam có nhiều nhóm và loại đất khác nhau, gồm 31 loại và 13 nhóm. Riêng khu vực
miền núi chiếm khoảng 25 tri ệu ha, bao gồm 6 nhóm, 13 loại đất chính phân bố trên bốn
vành đai cao:
Từ 25 - 50m đến 900 - 1.000m: 16,0 triệu ha, chiếm 51,14%;
Từ 900 - 1.000m đến 1.800-2.000m: 3,7 triệu ha, chiếm 11,8%;
Từ 1.800 - 2000m đến 2.800m: 0,16 triệu ha, chiếm 0,47%;
Từ 2.800m đến 3.143m: 1.200ha, chiếm 0,02%.
Bảng I.2. Hiện trạng sử dụng đất năm 2001
Nguồn: Niên giám Thống kê, 2002
Nhóm đất mùn thô trên núi cao
Trên đỉnh các dãy núi cao mà cao nhất là đỉnh Phanxipăng, với
những điều kiện phong phú của đá mẹ, khí hậu lại có phần giá
lạnh của mùa đông ôn đới và á nhiệt đới, thực vật đa phần là
những loài cây xứ lạnh, ưa ẩm. Đất ở đây có tầng mùn thô dày
đến 10-50cm nằm phủ trên tầng đá mẹ phong hoá yếu, hoặc
nằm trên tầng đọng nước bị glây mạnh. Vì vậy, đất này được gọi
là đất mùn trên núi cao, đất có màu nâu đen hoặc màu vàng
xám. Loại đất này có diện tích không lớn, chỉ gặp trên các đỉnh
núi cao vùng Hoàng Liên Sơn (Ngọc Lĩnh; Ngọc Áng, Chư Yang
Sinh,...) và Nam Trường Sơn. Đúng với tên gọi của nó, đất mùn
núi cao rất giàu chất hữu cơ, thường có hàm lượng trên 10% ở
lớp đất mặt. Nằm trên mái nhà của Tổ quốc, vùng đất này cần
phải giữ thảm rừng che phủ, vừa hạn chế lũ lụt mùa mưa, vừa
giữ nguồn sinh thuỷ mùa khô, đồng thời bảo vệ các loài sinh vật
quý hiếm.
Nhóm đất mùn vàng đỏ trên núi
Tiếp tục đi xuống những vùng có độ cao từ 2.000m đến 900m sẽ
gặp những nhóm đất mùn vàng đỏ trên núi. Nơi đây có khí hậu
lạnh và ẩm, nhiệt độ trung bình từ 15 - 20oC. Thảm thực vật nhìn
chung còn tốt hơn vùng đồi, chỉ có một số loại đất là đất mùn
vàng đỏ trên núi, phân bố ở các tỉnh miền núi cả nước.
Do ở địa hình cao, dốc, hiểm trở nên đất thường bị xói mòn mạnh. Mặt khác, do quá trình
phong hoá yếu nên tầng đất không dày quá 1,5m. Đất có phản ứng chua vừa đến chua ít,
pH từ 4 - 5, lân tổng số và dễ tiêu từ nghèo đến trung bình, nghèo các cation kiềm, đất có
hàm lượng mùn thô khá cao. Nhóm đất này thích hợp cho việc sử dụng theo phương thức
nông lâm kết hợp với nhiều loại cây ăn quả ôn đới, cây dược liệu.
Nhóm đất đỏ vàng - feralít
Rời độ cao 900m xuống vùng thấp đến 25m có nhóm đất đỏ vàng - feralít. Đây là nhóm
đất có diện tích lớn nhất (khoảng gần 20 triệu ha) được hình thành trên nhiều loại đá mẹ,
phân bố rộng khắp các tỉnh trung du và miền núi cả nước và thích hợp với nhiều loại cây
trồng. So với đất vùng Đồng bằng sông Hồng thì những yếu tố hình thành đất nổi bật nhất
của vùng đồi núi là địa hình, đá mẹ và rừng.
Nhóm đất này có rất nhiều loại, tuỳ theo đá mẹ và địa hình, nhưng đáng quý hơn cả trong
các lĩnh vực kinh tế - xã hội là đất nâu đỏ phát triển trên đá badan hay đất đỏ badan.
Đất nâu đỏ trên badan
Cách đây vài chục vạn năm, ở vùng Tây Nguyên hùng vĩ, núi lửa đã
hoạt động liên tục. Những dung nham nóng chảy từ sâu trong lòng
đất ra ngoài, lắng đọng lại thành những tầng đá badan. Loại đá này
bị phong hoá, tạo điều kiện để các thế hệ cỏ cây hoa lá nối tiếp
nhau phát triển và dần hình thành nên nhiều loại đất đỏ phì nhiêu
mà chúng ta thường gọi là đất đỏ badan. Thực ra màu đỏ là màu
chiếm ưu thế, còn thực tế, đâu đâu cũng bắt gặp nhiều màu sắc có
tính pha trộn: màu nâu đỏ, đỏ nâu, đỏ vàng, đỏ tím, vàng đỏ,... thể
hiện tính đặc thù của quá trình feralít phát triển mạnh.
Đây là những loại đất tốt nhất trên các vùng đồi núi của nước ta -
một viên ngọc đồ sộ và vô cùng quý giá. Đất đỏ badan tập trung
nhiều nhất ở các tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Lâm Đồng, Đồng
Nai, phía nam Bình Thuận, Phú Yên, phần giữa của Thừa Thiên -
Huế, và một diện tích nhỏ ở Quảng Trị, Nghệ An. Tổng diện tích
khoảng 2.425.28ha, riêng Tây Nguyên có khoảng 1 triệu ha. Tầng
đất dày lại cấu trúc tốt, độ xốp cao, dung trọng thấp, tỷ lệ khoáng
đang phong hoá và chưa phong hoá thấp. Do có nhiều sét nên khả năng giữ nước của đất
rất cao. Sau trận mưa lớn, qua 3 - 4 ngày lượng nước mà đất giữ được vẫn còn tới 40 -
50%. Về mặt hoá tính, đất khá giàu lân tổng số, ở vùng mới khai hoang, hàm lượng lân
đạt 0,5%, ở các nương cà phê, trung bình là 0,2 - 0,3%, song lân dễ tiêu lại rất nghèo vì
Fe
3+
, Al
3+
giữ chặt. Tuy nhiên đất chua, đặc biệt khoáng vật sét rất đơn điệu, chỉ có
kaolinít, các khoáng vật hyđrômica không còn tồn tại, do đó, đất rất nghèo kali. Đất đỏ
badan thích hợp với nhiều loại cây trồng, riêng "bộ ba" cà phê, cao su và chè đã đem lại
cho nền kinh tế quốc dân một nguồn thu nhập đáng kể. Ngày nay, một số vùng còn phát
triển nhiều loại cây trồng khác như bông, mía đường, điều và nhiều loại cây ăn quả có giá
trị kinh tế cao cũng đang hứa hẹn nhiều triển vọng. Đất có khả năng giữ ẩm cao, cũng có
nghĩa là độ ẩm cây héo lớn (27 - 30%) nên vào mùa khô thường bị hạn hán nghiêm trọng,
cây trồng thường bị thiếu nước. Chính vì vậy, đất này tỏ ra "khó tính" đối với một số loại
cây trồng, nhất là ở vụ Đông Xuân. Đất miền rừng núi đa dạng, diện tích đất thì rộng
nhưng khai thác và sử dụng còn nhiều bất cập, cần thiết phải có những giải pháp thích
hợp vì các loại đất này giữ vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của nước ta.
Trong nhóm đất này có loại đất đỏ nâu phát triển trên đá vôi, phân bố ở nhiều tỉnh như:
Sơn La, Hoà Bình, Cao Bằng, Quảng Ninh, Ninh Bình,... Loại đất này có tiềm năng nông
nghiệp lớn, đặc biệt, có khả năng phục hồi nhanh sau nương rẫy (Khung I.1). Hầu hết
những vùng đất đỏ nâu phát triển trên đá vôi còn giữ được độ phì nhiêu trung bình và
khá, hàm lượng hữu cơ 1,6%, N 0,15%, lân tổng số 0,14%, riêng kali nghèo 0,20% mặc
dầu đất có thành phần cơ giới nặng 57 - 65% sét, nhưng cấu trúc tốt, độ xốp đạt 50 -
51%.
Khung I.1. MAI SƠN ĐANG CHUYỂN MÌNH
Đất đỏ nâu phát triển trên đá vôi tuy bảo vệ sử dụng chưa tốt nhưng đất và người đã vào
cuộc mở ra những triển vọng mới. Trạm Khuyến nông Mai Sơn (Sơn La) đã vui mừng
thông báo với chúng tôi những chuyển biến nhanh về ý thức và cố gắng của huyện.
Trong khoảng 10 năm gần đây tỷ lệ che phủ tăng từ 30 lên 40%. Đó là do đất rừng đã có
chủ và tốc độ tái sinh nhanh trên nền đất nâu đỏ màu mỡ. Trên 141.000ha đất tự nhiên
và 26.000ha đất nông nghiệp của huyện đã phát triển mạnh cây lâu năm gồm: 1.200ha
cà phê, 520ha chè, 4.000ha cây ăn quả như nhãn, na, xoài; 150ha dâu, diện tích lúa
nương giảm còn 1.500ha, nhưng cây ngô lai lại "lên ngôi" chiếm 6.000ha; đã xây dựng
đồng cỏ, sản xuất thức ăn gia súc để chuyển đổi mục đích sử dụng đất. Hiện đã có 600
con bò sữa, 17.000 bò thịt, 11.000 trâu, 35.000 lợn. Đã tiếp nhận 1.500 hộ di dân đến.
Người nông dân đã biết gắn cuộc sống với đất đai, sử dụng chúng có hiệu quả hơn.
Nguồn: Báo cáo của đoàn Khảo sát về sử dụng đất Tây Bắc, 7-2003
Những loại đất đỏ nâu phát triển trên đá vôi tuy có
diện tích không lớn, nhưng có độ pH trung tính hoặc ít
chua, thích hợp với nhiều loại cây trồng như ngô, lạc,
đậu đỗ các loại và nhiều cây ăn quả khác. Ở vùng này
có những bãi bằng, thung lũng chứa các sản phẩm bồi
tụ là những tiềm năng lớn để phát triển các cây trồng
nông nghiệp. Tuy nhiên, nếu sử dụng không đi đôi với
những biện pháp cải tạo, đất vẫn bị chua dần và cần
thiết phải có những giải pháp thích hợp để khử chua
(Khung I.2).
Khung I.2. TRẠM KHUYẾN NÔNG MỘC CHÂU XÂY DỰNG MÔ HÌNH CẢI TẠO ĐẤT
CHUA TRÊN ĐẤT RUỘNG HAI VỤ
Năm 2002 Trạm Khuyến nông huyện Mộc Châu đã xây dựng mô hình cải tạo đất chua với
15ha ruộng lúa hai vụ ở bản Nà Bó, xã Hua Păng. Khu đất này thường xuyên bị ngập úng,
nước chảy tràn bờ, mặt ruộng nổi váng rỉ sắt màu nâu vàng, lúa non thường nghẹt và thối
rễ, đẻ nhánh kém, sâu bệnh nhiều và năng suất thấp. Cán bộ khuyến nông hướng dẫn các
hộ dùng vôi bột rải đều mặt ruộng sau khi cày bừa và trước khi cấy 15 - 20 ngày với định
mức: 50kg vôi bột/1.000m
2
.
Sau đó, cày bừa lại lần nữa để vôi thấm vào đất, ngâm nước 4 - 5 ngày, rồi tháo cạn.
Tháo rửa nước trong ruộng từ 2 - 3 lần và làm đồng bộ ở tất cả các ruộng. Trước khi cấy
lại cày bừa kỹ, bón lót 40kg phân lân cho 1.000m2. Với quy trình cải tạo này, vụ Xuân
2002, 90 hộ nông dân bản Nà Bó đã có một vụ lúa bội thu với giống lúa lai sán ưu 63.
Năng suất lúa khô bình quân đạt 7,9 tấn/ha.
Nguồn: Tạp chí Khuyến nông Sơn La, số 22, 12-2002
Nhóm đất xám bạc màu
Đất này có diện tích không lớn chỉ chiếm 1.791.020ha, phân bố
nơi giáp ranh giữa đồng bằng và miền núi, bạc màu là tên gọi dân
gian và có thể hiểu theo hai nghĩa: đất có màu xám nhạt và kém
màu mỡ, phẫu diện toàn cát, thành phần cơ giới nhẹ, nghèo dinh
dưỡng.
Trước đây, năng suất lúa trên đất bạc màu rất thấp, đến mức ví
von hình ảnh "Chó chạy thò đuôi", nhưng hiện nay lại khác. Những
tính chất "nghèo, chua, khô, rắn" dần dần được cải thiện. Giờ đây
Vĩnh Phúc, Bắc Giang đất vẫn còn màu xám trắng nhưng đậm đà
hơn, có chất lượng hơn, năng suất lúa không phải vài tấn mà phổ
biến 5-7 tấn/ha, không kém đất phù sa đồng bằng trù phú. Ở
Đông Nam Bộ, rải rác một số nơi ở duyên hải miền Trung, Tây
Nguyên, người dân biết rõ mặt mạnh, mặt yếu, từ đó cải tạo lớp
đất mặt, tăng lượng hữu cơ và các chất dinh dưỡng khác như:
đạm, lân và kali đi đôi với áp dụng giống mới. Do địa hình cao, đất
nhẹ, dễ thoát nước nên cũng dễ tăng vụ, dễ đưa các cây trồng
khác vào, hiệu quả kinh tế cao hơn lúa (Khung I.3).
Khung I.3. LÀM GIÀU TRÊN ĐẤT XÁM
Đất xám trên đá mẹ granít ở vùng Quỳ Hợp (Nghệ An), trước đây làm nương rẫy, người
dân quanh năm xoay sở sống với vốn rừng và đất dốc nên diện tích rừng bị thu hẹp mau
chóng. Hiện nay, dân bản đã được giao đất khoán rừng, màu xanh của núi rừng đã trở lại,
hiện tượng đốt phá rừng không còn nữa. Mới vài năm qua mà đồng bào xã Thọ Hợp,
huyện Quỳ Hợp, 100 hộ, đã trồng được 4.800 cây ăn quả các loại trên đất xám như:
nhãn, vải, táo, xoài, khế... Trồng chuối xen với rừng để tăng thu nhập và chống xói mòn.
Nguồn: Báo cáo của đoàn Khảo sát về môi trường nông thôn KC 08.06, 2003
Nhóm đất phù sa
Các dòng sông có vai trò quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển các loại đất.
Hoạt động của các sông ngòi đã tạo nên các vùng đồng bằng, các châu thổ lớn nhỏ khác
nhau. Theo tính toán, sông Hồng và sông Cửu Long mỗi năm chuyển tải gần hai tỷ tấn
phù sa, khối lượng phù sa này phụ thuộc theo mùa. Ví dụ, sông Hồng vào mùa khô trong
1m3 nước chứa 0,5kg phù sa, về mùa mưa lũ chứa tới 2 - 3kg. Cặn phù sa lơ lửng trong
nước sông chứa rất nhiều chất dinh dưỡng và là nguồn thức ăn quý giá đối với cây trồng.
Nguồn phù sa của các con sông có chất lượng khác nhau, phụ thuộc vào các loại đá mẹ
nằm theo lưu vực và do đó các loại đất được hình thành cũng rất khác nhau. Ở Việt Nam,
tuyệt đại đa số dân cư sinh sống dọc theo ven biển và các đồng bằng phù sa trù phú. Nơi
đây xa xưa là biển, sản phẩm rửa trôi từ thượng nguồn xuống bồi đắp dần, nên tuổi đời
của đất còn rất trẻ, chưa quá một vài triệu năm. Có những vùng rộng hàng chục km2 như
Kim Sơn (Ninh Bình) khoảng 100 năm trước, nơi đây vẫn còn là biển.
Địa phương nào có nhiều đất phù sa thì có nhiều thuận lợi giải quyết vấn đề lương thực,
thực phẩm. Không phải chỉ lúa, ngô, khoai, các loại rau màu phát triển tốt mà các loại cây
ăn quả quý hiếm cũng cho hiệu quả cao.
Nước ta có diện tích đất phù sa không nhiều, khoảng 3.400.000ha chiếm hơn 10% diện
tích tự nhiên cả nước. Đồng bằng sông Cửu Long là nơi tập trung đất phù sa rộng lớn hơn
cả, sau đó đến Đồng bằng sông Hồng, tiếp đó là những đồng bằng ven biển nằm rải rác ở
các tỉnh với diện tích nhỏ hơn. Nếu đánh giá chung về chất lượng đất, ngoài đặc tính xếp
lớp, nước ngầm giàu K
+
, Ca
2+
, Mg
2+
, ít sắt, nhôm thì ở mỗi một vùng cũng có những tính