Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

Chế độ bảo hiểm thai sản theo quy định của luật bảo hiểm xã hội năm 2014 với vấn đề bảo đảm quyền lợi của người hưởng bảo hiểm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 102 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
-----o0o-----

TRẦN THỊ KIM ANH

CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM THAI SẢN THEO QUY ĐỊNH
CỦA LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI NĂM 2014 VỚI VẤN ĐỀ
BẢO ĐẢM QUYỀN LỢI CỦA NGƢỜI HƢỞNG BẢO HIỂM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2016


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
-----o0o-----

TRẦN THỊ KIM ANH

CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM THAI SẢN THEO QUY ĐỊNH
CỦA LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI NĂM 2014 VỚI VẤN ĐỀ
BẢO ĐẢM QUYỀN LỢI CỦA NGƢỜI HƢỞNG BẢO HIỂM
Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số: 60 38 01 07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Xuân Thu


HÀ NỘI - 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính
xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh
toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc
gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN

Trần Thị Kim Anh


MỤC LỤC
Người cam đoan
Danh mục các chữ viết tắt
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM
THAI SẢN ........................................................................................................ 6
1.1. Khái niệm chế độ bảo hiểm thai sản .......................................................... 6
1.1.1. Bảo hiểm xã hội ....................................................................................... 6
1.1.2. Chế độ bảo hiểm thai sản ........................................................................ 9
1.1.3 Vai trò của chế độ bảo hiểm thai sản .................................................... 15

1.1.4 Các nguyên tắc của chế độ bảo hiểm thai sản ....................................... 16
1.2. Điều chỉnh pháp luật đối với chế độ bảo hiểm thai sản ........................... 17
1.2.1. Khái niệm pháp luật về chế độ bảo hiểm thai sản ................................ 17
1.2.2. Nội dung pháp luật về chế độ bảo hiểm thai sản .................................. 18
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 .............................................................................. 25
Chƣơng 2:THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH CỦA LUẬT BẢO HIỂM XÃ
HỘI NĂM 2014 VỀ CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM THAI SẢN ............................ 26
2.1. Chế độ bảo hiểm thai sản theo Luật bảo hiểm xã hội năm 2014 ............ 26
2.1.1. Đối tượng áp dụng chế độ bảo hiểm thai sản ....................................... 26
2.1.2 Điều kiện hưởng chế độ bảo hiểm thai sản ............................................ 28
2.1.3. Thời gian hưởng, mức hưởng bảo hiểm thai sản ................................ 34
2.1.4. Quỹ bảo hiểm ốm đau, thai sản............................................................. 50
2.2. Tác động của chế độ bảo hiểm thai sản đến quyền lợi của của người
hưởng bảo hiểm ............................................................................................... 54


KẾT LUẬN CHƢƠNG 2.............................................................................. 63
Chƣơng 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ
THỰC HIỆN CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM THAI SẢN Ở VIỆT NAM NHẰM
BẢO ĐẢM QUYỀN LỢI CỦA NGƢỜI HƢỞNG BẢO HIỂM ............... 65
3.1. Yêu cầu của việc hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện chế
độ bảo hiểm thai sản ........................................................................................ 65
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện chế độ bảo
hiểm thai sản.................................................................................................... 70
3.2.1. Hoàn thiện pháp luật về chế độ bảo hiểm thai sản ............................... 70
3.2.2. Các giải pháp khác nâng cao hiệu quả thực hiện chế độ bảo hiểm thai
sản nhằm bảo đảm quyền lợi của người hưởng bảo hiểm .............................. 75
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3.............................................................................. 86
KẾT LUẬN .................................................................................................... 88
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 90



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CHỮ VIẾT TẮT

VIẾT ĐẦY ĐỦ

BHXH

Bảo hiểm xã hội

BHYT

Bảo hiểm y tế

NLĐ

Người lao động

NSDLĐ

Người sử dụng lao động

NXB

Nhà xuất bản


MỞ ĐẦU
1.


Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Bảo hiểm thai sản là một bộ phận thuộc hệ thống an sinh xã hội. Là một

chế độ thực sự cần thiết cho NLĐ vì nó bảo đảm một phần thu nhập bị giảm
và chi phí tăng thêm cho NLĐ nói chung khi mang thai, thực hiện các biện
pháp tránh thai, nạo hút thai, thai chết lưu, sinh con, khi nhận nuôi con sơ
sinh. Điều 34 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Công dân có quyền được bảo
đảm an sinh xã hội”. Điều này đã cho thấy quyền được hưởng bảo hiểm thai
sản là một trong những quyền cơ bản của công dân.
Chế độ trợ cấp thai sản có vị trí quan trọng trong hệ thống chính sách
BHXH, không chỉ bởi tính nhân văn, nhân đạo sâu sắc mà còn góp phần
táisản xuất sức lao động xã hội. Hàng năm, trợ cấp thai sản góp phần bảo vệ
quyền lợi chính đáng cho hàng triệu phụ nữ, trẻ em, góp phần bảo đảm an
ninh, trật tự, an toàn xã hội.
Cũng như các chế độ BHXH khác, ngay từ khi giành được chính quyền
đến nay, chế độ bảo hiểm thai sản đã được Nhà nước ta quan tâm, xây dựng
và phát triển trong các văn bản pháp luật qua các thời kỳ. Trong nhiều năm
qua, chế độ bảo hiểm thai sản đã phần nào giảm bớt gánh nặng cho NLĐ, đặc
biệt là lao động nữ. BHXH Việt Nam đã giải quyết kịp thời, đúng chế độ,
chính sách cho NLĐ nghỉ sinh con và NLĐ nhận nuôi con nuôi qua đó bảo vệ
quyền lợi chính đáng cho hàng triệu NLĐ và trẻ em. Triển khai quy định của
Luật BHXH năm 2006 và các văn bản hướng dẫn, số lượt người được giải
quyết hưởng chế độ thai sản không ngừng tăng lên qua các năm. Năm 2015,
BHXH đã giải quyết cho 7.528.520 lượt người hưởng chế độ ốm đau, thai
sản, dưỡng sức phục hồi sức khỏe, tăng 16,43% so với năm 2014.
Để giải quyết phần nào những bất cập của Luật BHXH năm 2006, Luật
1



BHXH năm 2014 (được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
khóa XIII, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 20 tháng 11 năm 2014 bắt đầu có
hiệu lực từ ngày 01/01/2016) đã có những đổi mới nhằm mở rộng, bảo đảm
quyền của người hưởng chế độ trợ cấp thai sản. Mặt khác vẫn còn một số hạn
chế về chế độ bảo hiểm thai sản của Luật BHXH năm 2006 mà Luật BHXH
năm 2014 chưa giải quyết được. Luận văn sẽ phân tích và chỉ ra những điểm
mới và những điểm còn tồn tại mà Luật BHXH năm 2014 chưa giải quyết
được, từ đó đề xuất biện pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực
hiện chế độ bảo hiểm thai sản để bảo quyền của người hưởng bảo hiểm.
Từ những lý do trên, tác giả đã quyết định chọn đề tài: “Chế độ bảo hiểm
thai sản theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 với vấn đề bảo đảm
quyền lợi của người hưởng bảo hiểm” làm Luận văn tốt nghiệp của mình.
2.

Tình hình nghiên cứu đề tài
Chế độ bảo hiểm thai sản là chế độ bảo hiểm quan trọng của BHXH nên

đã có một số công trình khoa học nghiên cứu như: Luận văn thạc sĩ luật học
của Đàm Thị Nhàn về “Thực hiện pháp luật trong việc giải quyết chế độ ốm
đau, thai sản trên địa bàn tỉnh Ninh Bình” năm 2013. Luận văn đã nghiên
cứu chế độ bảo hiểm thai sản dưới góc độ thực hiện pháp luật trên một địa
bàn nhất định để qua đó có biện pháp nâng cao hiệu quả thực hiện. Luận văn
thạc sĩ Luật học của Chu Hà Mi về “Những điểm mới của Luật Bảo hiểm xã
hội” năm 2015. Luận văn đã phân tích những điểm mới của Luật Bảo hiểm xã
hội trong đó có chế độ bảo hiểm thai sản.
Một số bài viết trên các tạp chí như: bài viết “Chế độ bảo hiểm thai sản
và hướng hoàn thiện nhằm bảo đảm quyền lợi cho lao động nữ” của tác giả
Đỗ Thị Dung trên tạp chí Luật học số 3/2006. Bài viết này đã phân tích và
đánh giá các quy định về chế độ bảo hiểm thai sản trong Luật BHXH năm
2006 và đề ra những phương hoàn hoàn thiện Luật BHXH năm 2014. Bài

2


viết “Bảo vệ quyền làm mẹ trong pháp luật lao động và luật bảo hiểm xã hội”
của tác giả Nguyễn Hiền Phương trên tạp chí Luật học số 6/2014. Tác giả
Nguyễn Hiền Phương đã phân tích rõ các quy định của pháp luật về quyền
làm mẹ trong Luật lao động và Luật Bảo hiểm xã hội. Chế độ bảo hiểm thai
sản cũng được đề cập một khía cạnh nhất định trong việc bảo đảm quyền làm
mẹ của NLĐ nữ.
Chế độ bảo hiểm thai sản cũng là đối tượng nghiên cứu của một số khóa
luận tốt nghiệp đại học, như: khóa luận tốt nghiệp của Đào Duy Phương về
“Chế độ bảo hiểm thai sản theo pháp luật hiện hành”năm 2006; khóa luận tốt
nghiệp của Phạm Thị Quỳnh về “Chế độ bảo hiểm thai sản”năm 2010; khóa
luận tốt nghiệp của Lục Việt Dũng về “Chế độ bảo hiểm thai sản – Thực
trạng và phương hướng hoàn thiện” năm 2012.
Các công trình nghiên cứu, các bài viết trên nghiên cứu về chế độ bảo
hiểm thai sản dưới những khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên, có thể nói hiện nay
chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu chuyên sâu về chế độ bảo hiểm
thai sản với vấn đề bảo đảm quyền lợi cho người hưởng bảo hiểm theo Luật
BHXH năm 2014.
3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu
Mục đích của luận văn là nhằm nghiên cứu một số vấn đề lý luận về chế
độ bảo hiểm thai sản. Trên cơ sở đó, luận văn sẽ đi vào nghiên cứu các quy
định của Luật BHXH Việt Nam 2014 về chế độ bảo hiểm thai sản để thấy
được những quy định mới, tiến bộ cũng như những hạn chế trong các quy
định của Luật BHXH năm 2014 về chế độ này để đề xuất việc tiếp tục hoàn
thiện pháp luật và những biện pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chế độ bảo
hiểm thai sản nhằm đảm bảo quyền lợi cho người hưởng bảo hiểm.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là chế độ bảo hiểm thai sản trong Luật
BHXH năm 2014, cụ thể bao gồm các nội dung sau đây:

- Đối tượng áp dụng chế độ bảo hiểm thai sản;
3


- Điều kiện hưởng bảo hiểm thai sản;
- Mức hưởng, thời gian hưởng và phương thức chi trả bảo hiểm thai sản;
- Quỹ bảo hiểm thai sản.
Từ những quy định của pháp luật về chế độ bảo hiểm thai sản, luận văn
sẽ đánh giá những tác động của chế độ này đến đời sống của người hưởng chế
độ bảo hiểm này.
Để làm sâu sắc vấn đề nghiên cứu, luận văn tham khảo các văn bản pháp
luật có liên quan, pháp luật quốc tế trong các công ước, khuyến nghị của ILO.
4. Đối tƣợng và nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận, các quy định của
pháp luật về chế độ bảo hiểm thai sản, đề xuất giải pháp tiếp tục hoàn thiện
quy định của pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện chế độ bảo hiểm thai
sản để đảm bảo quyền lợi của người hưởng bảo hiểm.
Từ mục đích và đối tượng nghiên cứu trên, Luận văn thực hiện các
nhiệm vụ chính sau đây:
- Thứ nhất, nghiên cứu và làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận của chế độ
bảo hiểm thai sản. Cụ thể là các vấn đề như khái niệm về BHXH, bảo hiểm
thai sản, vai trò của chế độ bảo hiểm thai sản, điều chỉnh pháp luật đối với bảo
hiểm thai sản. Những vấn đề lý luận này được khái quát từ sự nghiên cứu các
quy định của pháp luật lao động quốc tế và pháp luật lao động quốc gia.
- Thứ hai, phân tích các quy định của Luật BHXH năm 2014 về chế độ
bảo hiểm thai sản, cụ thể là các quy định về đối tượng áp dụng chế độ bảo
hiểm thai sản, điều kiện hưởng bảo hiểm thai sản, mức hưởng, thời gian
hưởng và phương thức chi trả bảo hiểm thai sản, quỹ bảo hiểm thai sản. Từ đó
đánh giá tác động của chế độ bảo hiểm thai sản đến quyền lợi của người
hưởng bảo hiểm.

- Thứ ba, luận giải các yêu cầu hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực
hiện chế độ bảo hiểm thai sản ở Việt Nam nhằm đảm bảo quyền lợi của người
hưởng bảo hiểm trên cở sở những vấn đề lý luận và quy định của pháp luật
4


hiện hành về vấn đề này.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình tiếp cận và giải quyết những vấn đề mà luận văn đặt ra,
tác giả sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ
nghĩa Mác- Lênin. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng trong
quá trình nghiên cứu đề tài là phân tích, chứng minh, tổng hợp, so sánh…
6. Những đóng góp của đề tài nghiên cứu
Luận văn có những đóng góp mới về mặt lý luận và thực tiễn như sau:
- Cung cấp những kiến thức tổng quát về chế độ bảo hiểm thai sản trong
hệ thống các chế độ của BHXH.
- Phân tích được những điểm mới của chế độ bảo hiểm thai sản trong
Luật BHXH năm 2014 so với Luật BHXH năm 2006 và các văn bản khác.
- Đánh giá được những tác động của chế độ bảo hiểm thai sản theo Luật
BHXH năm 2014 đến quyền lợi của người hưởng bảo hiểm.
- Đưa ra những kiến nghị cụ thể nhằm tiếp tục hoàn thiện các quy định
của pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện chế độ bảo hiểm thai sản theo
Luật BHXH năm 2014 nhằm đảm bảo quyền lợi của người hưởng bảo hiểm.
Luận văn có thể được sử dụng để làm tài liệu tham khảo trong công tác giảng
dạy, học tập cũng như là tài liệu tham khảo trong quá trình rà soát, sửa đổi, bổ
sung pháp luật về chế độ bảo hiểm thai sản ở nước ta trong thời gian tới.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần Lời nói đầu, Kết Luận và các phụ lục, Danh mục tài liệu
tham khảo, Luận văn được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về chế độ bảo hiểm thai sản;

Chương 2: Bảo đảm quyền lợi của người hưởng bảo hiểm thai sản theo
Luật BHXH năm 2014;
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện chế độ bảo
hiểm thai sản ở Việt Nam nhằm bảo đảm quyền lợi của người hưởng bảo hiểm.

5


Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM THAI SẢN
1.1. Khái niệm chế độ bảo hiểm thai sản
1.1.1. Bảo hiểm xã hội
Con người muốn tồn tại và phát triển trước hết phải ăn, mặc, ở…Để thoả
mãn nhu cầu tối thiểu này, con người phải lao động làm ra những sản phẩm
cần thiết. Khi sản phẩm được tạo ra ngày càng nhiều thì đời sống con người
ngày càng đầy đủ và hoàn thiện, xã hội ngày càng văn minh hơn. Như vậy,
việc thoả mãn những nhu cầu sinh sống và phát triển của con người phụ thuộc
vào chính khả năng lao động của họ. Nhưng trong quá trình lao động không
phải lúc nào con người cũng gặp thuận lợi mà nhiều khi gặp khó khăn, bất lợi
làm cho bị giảm sút hoặc mất thu nhập hoặc các điều kiện sinh sống khác.
Chẳng hạn, bị ốm đau, tai nạn hay già, yếu, chết hoặc thiếu công việc làm do
những ảnh hưởng của tự nhiên, của những điều kiện sống và sinh hoạt cũng
như các tác nhân xã hội khác… Khi rơi vào những trường hợp này, các nhu
cầu cần thiết trong cuộc sống không vì thế mà mất đi. Trái lại, có cái còn tăng
lên, thậm chí còn xuất hiện thêm một số nhu cầu mới như: cần được khám
chữa bệnh và điều trị khi ốm đau; tai nạn thương tật nặng cần phải có người
chăm sóc nuôi dưỡng. Bởi vậy, muốn tồn tại và ổn định cuộc sống, con người
và xã hội loài người phải tìm ra và thực tế đã tìm ra nhiều cách giải quyết
khác nhau như: san sẻ, đùm bọc lẫn nhau trong nội bộ cộng đồng, đi vay, đi
xin hoặc dựa vào sự cứu trợ của Nhà nước. Rõ ràng, những cách đó là hoàn

toàn thụ động và không chắc chắn.
Khi nền kinh tế hàng hoá phát triển, việc thuê mướn công nhân trở nên
phổ biến thì mối quan hệ kinh tế giữa NLĐ làm thuê và giới chủ cũng trở nên
phức tạp. Lúc đầu người chủ chỉ cam kết trả công lao động, nhưng về sau đã
6


phải cam kết cả việc bảo đảm cho người làm thuê có một số thu nhập nhất
định để họ trang trải những yêu cầu thiết yếu khi không may bị ốm đau, tai
nạn, thai sản. Trong thực tế, nhiều khi các trường hợp trên không xảy ra và
người chủ không phải chi ra một đồng nào. Nhưng cũng có khi xảy ra dồn
dập, buộc họ phải bỏ ra một lúc nhiều khoản tiền lớn mà họ không muốn. Vì
thế, mâu thuẫn chủ - thợ phát sinh, giới thợ liên kết đấu tranh buộc giới chủ
thực hiện cam kết. Cuộc đấu tranh này diễn ra ngày càng rộng lớn và có tác
động nhiều mặt đến đời sống kinh tế - xã hội. Do vậy, Nhà nước đã phải đứng
ra can thiệp và điều hoà mâu thuẫn nhằm xác định mối quan hệ giữa các chủ
thể: giới chủ, giới thợ, Nhà nước trong việc bảo đảm cho NLĐ khi họ gặp rủi
ro. Sự can thiệp này một mặt làm tăng được vai trò của Nhà nước, mặt khác
buộc cả giới chủ và giới thợ phải đóng góp một khoản tiền nhất định hàng
tháng được tính toán chặt chẽ dựa trên cơ sở xác suất rủi ro xảy xa đối với
người làm thuê. Số tiền đóng góp của cả chủ và thợ hình thành một quỹ tiền tệ
tập trung trên phạm vi toàn quốc gia - được gọi là quỹ BHXH. Quỹ này còn
được bổ sung từ Ngân sách Nhà nước khi cần thiết nhằm đảm bảo đời sống
cho NLĐ khi gặp phải những biến cố bất lợi. Chính nhờ những mối quan hệ
ràng buộc đó mà rủi ro, bất lợi của NLĐ được dàn trải, cuộc sống của NLĐ và
gia đình họ ngày càng được đảm bảo ổn định. Giới chủ cũng thấy mình có lợi
và được bảo vệ, sản xuất kinh doanh diễn ra bình thường, tránh được những
xáo trộn không cần thiết. Vì vậy, nguồn quỹ tiền tệ tập trung được thiết lập
ngày càng lớn và nhanh chóng, khả năng giải quyết các phát sinh lớn của quỹ
ngày càng đảm bảo.

Sự xuất hiện của BHXH là một tất yếu khách quan khi mà mọi thành
viên trong xã hội đều cảm thấy sự cần thiết phải tham gia hệ thống BHXH và
sự cần thiết phải tiến hành bảo hiểm cho NLĐ. Vì vậy, BHXH đã trở thành
nhu cầu và quyền lợi của NLĐ và được thừa nhận là một nhu cầu tất yếu
7


khách quan. BHXH đã được pháp luật nhiều quốc gia ghi nhận, đã trở thành
một trong những quyền con người và được Đại Hội đồng Liên hợp quốc thừa
nhận và ghi vào Tuyên ngôn Nhân quyền ngày 10/12/1948 như sau: “Tất cả
mọi người với tư cách là thành viên của xã hội có quyền hưởng BHXH.
Quyền đó được đặt cơ sở trên sự thoả mãn các quyền về kinh tế, xã hội và văn
hoá cần cho nhân cách và tự do phát triển của con người”.
Tuy nhiên, khái niệm BHXH trước khi Luật BHXH ra đời được tiếp cận
dưới các góc độ, khía cạnh khác nhau. Theo từ điển tiếng Việt, bảo hiểm xã
hội là sự: “Bảo đảm những quyền lợi vật chất cho công nhân, viên chức khi
không làm việc được vì ốm đau, sinh đẻ, già yếu, bị tai nạn lao động...”[78. tr
36]. Giáo trình luật lao động của Khoa Luật Đại học Quốc Gia Hà Nội định
nghĩa: “Dưới góc độ pháp lý, bảo hiểm xã hội là tổng hợp các quy định của
Nhà nước để điều chỉnh các quan hệ kinh tế - xã hội hình thành trong lĩnh vực
bảo đảm trợ cấp nhằm ổn định đời sống cho NLĐ khi gặp những rủi ro, hiểm
nghèo trong quá trình lao động hoặc khi già yếu không còn khả năng lao
động” [77. tr 312 - 313]. Có tác giả lại cho rằng: “Bảo hiểm xã hội là sự bảo
đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với NLĐ khi họ gặp phải
những biến cố làm giảm hoặc làm mất khả năng lao động hoặc mất việc làm
bằng cách hình thành và sử dụng một quỹ tài chính tập trung do sự đóng góp
của NSDLĐ và NLĐ, nhằm bảo đảm an toàn cho đời sống của NLĐ và gia
đình họ, góp phần bảo đảm an toàn xã hội”. [76. tr 11]...
BHXH kể từ khi xuất hiện đến nay luôn luôn phát huy tác dụng trong
những lúc NLĐ gặp khó khăn hiểm nghèo do bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao

động, tuổi già...trên cơ sở những cam kết đóng góp của NLĐ và NSDLĐ cho
một bên thứ ba là cơ quan bảo hiểm trước khi xảy ra những biến có đó.
Vì vậy, dưới góc độ kinh tế: BHXH là phạm trù kinh tế tổng hợp, là sự
bảo đảm thu nhập nhằm bảo đảm cuộc sống cho NLĐ khi bị giảm hoặc mất
8


khả năng lao động.
Dưới góc độ pháp lý, chế độ BHXH là tổng hợp những quy định của Nhà
nước, quy định những hình thức đảm bảo điều kiện vật chất và tinh thần cho
NLĐ và trong một số trường hợp là thành viên gia đình họ khi bị giảm hoặc
mất khả năng lao động.
Hiện nay, Khoản 2 Điều 3 Luật BHXH 2014 định nghĩa về BHXH như
sau: “Bảo hiểm xã hội là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập
của NLĐ khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao
động, bệnh nghề nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ
bảo hiểm xã hội”.
Ở nước ta hiện nay thực hiện một số chế độ BHXH sau:
- Chế độ bảo hiểm ốm đau;
- Chế độ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp;
- Chế độ bảo hiểm thai sản;
- Chế độ bảo hiểm hưu trí;
- Chế độ bảo hiểm thất nghiệp;
- Chế độ tử tuất;
Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, luận văn chỉ nghiên cứu chế độ
bảo hiểm thai sản trong hệ thống các chế độ của BHXH.
1.1.2. Chế độ bảo hiểm thai sản
1.1.2.1. Cơ sở và quá trình hình thành chế độ bảo hiểm thai sản
BHXH và bảo hiểm y tế là hai chính sách xã hội quan trọng, là trụ cột
chính của hệ thống an sinh xã hội, góp phần thực hiện tiến bộ và công bằng xã

hội, bảo đảm ổn định chính trị - xã hội và phát triển kinh tế - xã hội. Vì vậy để
thực hiện mục tiêu đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hướng
tới một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, đảm bảo quyền con người, tất
cả vì con người, do con người cho nên vấn đề bảo đảm chính sách an sinh xã
9


hội nhất là chế độ bảo hiểm thai sản là một trong những mục tiêu lớn của các
quốc gia trên thế giới.
Với sự phát triển của nền kinh tế thị trường sự thuê mướn nhân công
phát triển, sức lao động được coi là hàng hóa, quan hệ lao động trở nên bất ổn
cho NLĐ làm công ăn lương như ốm đau, tai nạn lao động, thai sản nên rất
cần có sự chia sẻ rủi ro và chính sách trợ giúp của nhà nước và NSDLĐ.
Những nguyên nhân khách quan và chủ quan đã khiến NLĐ gặp bất lợi, bị
mất hoặc gián đoạn thu nhập nên rất cần các chính sách an sinh xã hội để bảo
bảo cuộc sống cho NLĐ. Chế độ bảo hiểm thai sản chi trả cho các trường hợp
NLĐ sinh con, nuôi con nuôi sơ sinh, khám thai, nạo, hút thai... Đối tượng
chủ yếu của chế độ bảo hiểm thai sản là lao động nữ, với những đặc thù về
giới như thể lực, tâm sinh lý, cùng với chức năng làm mẹ và trách nhiệm
chăm sóc gia đình đã gặp rất nhiều khó khăn. Vì thế, cần phải có chế độ bảo
hiểm thai sản khuyến khích tạo điều kiện thuận lợi cho NLĐ khi tham gia vào
quan hệ lao động.
Trong hệ thống các chế độ trợ cấp xã hội, bảo hiểm thai sản là chế độ
xuất hiện từ rất sớm. BHXH đã xuất hiện từ rất lâu mà mầm mống của nó từ
thế kỉ XIII ở Nam Âu khi nền công nghiệp và kinh tế hàng hoá đã bắt đầu
phát triển. Tuy nhiên ban đầu BHXH chỉ mang tính chất sơ khai, với phạm vi
nhỏ hẹp. Từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVIII một số nghiệp đoàn thợ thủ công ra
đời, để bảo vệ lẫn nhau trong hoạt động nghề nghiệp họ đã thành lập nên các
quỹ tương trợ để giúp đỡ lẫn nhau. Ở Anh năm 1973 đã thành lập hội “bằng
hữu” để giúp đỡ các hội viên khi bị ốm đau, tai nạn nghề nghiệp. Tuy nhiên

trong thời gian đầu này chế độ bảo hiểm thai sản chưa được thiết lập, hệ thống
chế độ của BHXH chưa được quy định cụ thể trong luật mà mới chỉ là những
quỹ để giúp đỡ lẫn nhau giữa những NLĐ: quỹ ốm đau, quỹ tai nạn lao động
bệnh nghề nghiệp.
10


Năm 1883, nước Phổ đã ban hành luật bảo hiểm ốm đau đầu tiên trên thế
giới, đánh dấu sự ra đời của BHXH. BHXH đã trở thành một trong những
quyền của con người và được xã hội thừa nhận. Tuyên ngôn nhân quyền của
Liên Hợp Quốc (10/12/1948) đã ghi nhận: “Tất cả mọi người với tư cách là
thành viên của xã hội có quyền hưởng BHXH”. Ngày 04/6/1952, Tổ chức Lao
động Quốc tế (ILO) đã kí Côngước Giơnevơ (102) về “cho NLĐ” đã khẳng
định tất yếu các nước phải thực hiện BHXH cho NLĐ và gia đình họ. Theo
Công ước 102 tháng 6 năm 1952 tại Giơnevơ của ILO phạm vi của BHXH là
trợ cấp cho 9 chế độ sau:
- Chăm sóc y tế;
- Trợ cấp ốm đau;
- Trợ cấp thất nghiệp;
- Trợ cấp tuổi già;
- Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp;
- Trợ cấp gia đình;
- Trợ cấp thai sản;
- Trợ cấp khi tàn phế;
- Trợ cấp cho người còn sống (trợ cấp mất người nuôi dưỡng);
Như vậy, chế độ bảo hiểm thai sản đã được ghi nhận tại văn bản luật cụ
thể tạo tiền đề cho việc xây dựng chế độ này trong pháp luật của các quốc gia
khi xây dựng hệ thống BHXH. Chế độ bảo hiểm thai sản đã được ILO ghi
nhận ngay tại kỳ họp đầu tiên và trong suốt quá trình hoạt động thể hiện qua
các Công ước, khuyến nghị như: Công ước số 3 năm 1919, Công ước 102 và

103 năm 1952, Công ước 118 năm 1958, Công ước 183 năm 2000 và Khuyến
nghị 191... Ngoài ra, Tổ chức Liên hợp quốc (UN) cũng có một số công ước
đề cập vấn đề này, đó là: Công ước về quyền kinh tế, xã hội, văn hóa năm
1966, Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử đối với phụ nữ năm
11


1979... Mục đích của những công ước và khuyến nghị này là nhắm bảo đảm
cho lao động nữ, trẻ sơ sinh được chăm sóc cần thiết, được bảo vệ mức sống
trong thời kỳ người mẹ sinh con phải nghỉ việc, đồng thời bảo vệ lao động nữ
trong thời kỳ sinh đẻ không bị mất việc làm và sau thời gian nghỉ vẫn được
làm đúng công việc cũ với mức lương giữ nguyên. Theo đó, các công ước này
đã ấn định chế độ chăm sóc y tế, thời gian nghỉ cũng như các khoản trợ cấp
đối với lao động nữ trong thời gian mang thai và sinh con.
Từ các công ước và khuyến nghị đó, đến nay pháp luật của hầu hết các
nước trên thế giới về chế độ bảo hiểm thai sản. Tuy nhiên, tùy thuộc vào đặc
điểm kinh tế, chính trị - xã hội của mỗi nước mà chế độ bảo hiểm thai sản
được quy định khác nhau.
1.1.2.2. Định nghĩa chế độ bảo hiểm thai sản
Trong hệ thống các chế độ của BHXH, chế độ bảo hiểm thai sản là chế
độ được áp dụng chủ yếu đối với lao động nữ. Chính sách về bảo hiểm thai
sản thể hiện trách nhiệm của Nhà nước, của cộng đồng xã hội đối với NLĐ
cũng như đối với thế hệ tương lai và thể hiện sự bình đẳng giữa những NLĐ.
Chính vì thế mà Nhà nước cần phải đề ra những chính sách đối với đối tượng
này với mục đích bù đắp, thay thế một phần thu nhập khi NLĐ phải nghỉ việc
trong thời gian sinh con, nhận nuôi con nuôi hoặc thực hiện các biện pháp kế
hoạch hóa gia đình nhằm đảm bảo cho họ có cuộc sống bình thường để chăm
con và nghỉ phục hồi sức khỏe.
Có thể hiểu bảo hiểm thai sản là sự bảo đảm một phần thu nhập bị giảm
và chi phí tăng thêm cho NLĐ nói chung khi mang thai, thực hiện các biện

pháp tránh thai, nạo hút thai, thai chết lưu, sinh con, khi nhận nuôi con sơ
sinh. Bảo hiểm thai sản do quỹ bảo hiểm ốm đau và thai sản chi trả.
Chế độ bảo hiểm thai sản có vị trí quan trọng đối với NLĐ nói chung
nhằm động viên, khuyến khích và hỗ trợ khi có sự kiện thai sản tạo sự ổn định
12


công việc sau khi nghỉ thai sản, tâm lý NLĐ ổn định giúp tạo nên lòng tin của
NLĐ đối với NSDLĐ và đối với nhà nước. Và có vai trò đặc biệt quan trọng
đối với lao động nữ nói riêng, lao động nữ ngày nay đã tự lao động để đảm
bảo cuộc sống và cống hiến cho xã hội qua đó họ ngày càng khẳng định được
vị trí quan trọng của bản thân trong xã hội, họ đã có mặt trong hầu hết các
ngành nghề và đã thể hiện một cách xuất sắc năng lực của mình. Khác với
nam giới họ còn có nhiệm vụ quan trọng là tái sản xuất con người, do đó khi
mang thai và sinh con là giai đoạn khó khăn nhất của họ nên họ cần được sự
quan tâm ngược lại từ phía xã hội. Đó chính là khoản tiền trợ cấp phù hợp với
công sức mà họ đã đóng góp trong suốt quá trình lao động.
Theo quy định của pháp luật về BHXH, có thể hiểu chế độ bảo hiểm thai
sản là một trong các chế độ của BHXH, bao gồm các quy định của Nhà nước
nhằm bảo đảm thu nhập và bảo đảm sức khỏe cho lao động nữ khi mang thai,
nuôi con và cho NLĐ nói chung khi nhận nuôi con nuôi sơ sinh. Mục đích của
chế độ thai sản là bảo đảm thu nhập và ổn định cuộc sống đối với NLĐ nói
chung và NLĐ nữ nói riêng khi mang thai, sinh đẻ hoặc nuôi con trong một
thời gian ngắn. Nó có vị trí quan trọng đối với NLĐ, nhằm hỗ trợ NLĐ khi họ
trả qua quá trình thai sản hoặc nuôi con nuôi sơ sinh.
Như vậy, chế độ thai sản là một chế độ mang tính xã hội hoá cao, nó
được thực hiện thường xuyên và đều đặn, kế tiếp từ thế hệ này sang thế hệ
khác. Nói cách khác, nó diễn ra một cách liên tục vì sự sống luôn phát triển vì
vậy, nó tạo ra sự ràng buộc và đoàn kết giữa các thế hệ, làm cho mọi người
trong xã hội quan tâm và gắn bó với nhau hơn, thể hiện mối quan tâm sâu sắc

giữa người với người.
1.1.2.3. Đặc điểm của chế độ bảo hiểm thai sản
Bảo hiểm thai sản là một chế độ của BHXH nên có những đặc điểm
chung của BHXH. Đó là: bảo hiểm cho NLĐ trong và sau quá trình lao động;
13


các rủi ro của NLĐ liên quan đến thu nhập của họ như: ốm đau, thai sản, hết
khả năng lao động…Do những rủi ro này khiến cho NLĐ bị giảm sút hoặc
mất nguồn thu nhập, họ cần thu nhập để bù đắp và ổn định cuộc sống; chủ sử
dụng lao động cũng có nghĩa vụ đóng BHXH cho NLĐ mà mình sử dụng; các
hoạt động của BHXH trong khuôn khổ của pháp luật, các chế độ BHXH do
luật định, nhà nước bảo hộ các hoạt động của BHXH.
Ngoài những đặc điểm chung của BHXH thì chế độ bảo hiểm thai sản có
những đặc điểm riêng của mình, đó là:
Thứ nhất, chế độ bảo hiểm thai sản có đối tượng áp dụng chủ yếu là lao
động nữ. Các chế độ bảo hiểm khác như chế độ bảo hiểm ốm đau, chế độ bảo
hiểm hưu trí, chế độ bảo hiểm thất nghiệp có đối tượng là cả lao động nam và
lao động nữ. Chế độ bảo hiểm thai sản có đối tượng chủ yếu là lao động nữ,
lao động nam chỉ hưởng chế độ bảo hiểm trong trường hợp nhận nuôi con
nuôi dưới 6 tháng tuổi và thực hiện biện pháp kế hoạch hóa gia đình. Luật
BHXH năm 2014 đã mở rộng đối tượng được hưởng chế độ bảo hiểm thai sản
trong đó lao động nam đang đóng BHXH có vợ sinh con cũng được hưởng
chế độ bảo hiểm thai sản. Chế độ bảo hiểm thai sản được coi là chế độ bảo
hiểm đặc thù cho lao động nữ vì sự kiện mang thai, sinh con, nuôi con… gắn
liền với thiên chức làm mẹ của người phụ nữ.
Thứ hai, thực hiện chế độ bảo hiểm thai sản với mục đích bảo vệ sức
khỏe cho NLĐ và bảo vệ thế hệ tương lai. Mục đích của BHXH là bù đắp một
lượng vật chất nhất định cho NLĐ khi tham gia bảo hiểm, song ý nghĩa khoản
trợ cấp đó của từng loại BHXH đã tạo nên sự khác biệt. Chẳng hạn như mục

đích của chế độ bảo hiểm ốm đau là nhằm bảo đảm thu nhập cho NLĐ tham
gia BHXH tạm thời gián đoạn do nghỉ việc vì ốm đau, tai nạn, chăm sóc con
ốm. Nhờ có trợ cấp ốm đau mà bản thân và gia đình họ được hỗ trợ một phần
kinh phí chữa trị bệnh tật, duy trì cuộc sống, giúp NLĐ nhanh tróng quay trở
14


lại làm việc, ổn định thu nhập, ổn định cuộc sống. Hay mục đích của chế độ
bảo hiểm tai nạn lao động là nhằm bù đắp một phần thu nhập khi NLĐ bị
giảm hoặc mất khả năng lao động do bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.
Còn mục đích của chế độ bảo hiểm thai sản đó là bù đắp một phần chi phí
tăng lên trong quá trình thai nghén, sinh con, nuôi con sơ sinh, thực hiện việc
biện pháp tránh thai, bảo hiểm thai sản nhằm giữ căn bằng về thu nhập, tạo sự
bình ổn về vật chất, bảo vệ sức khỏe cho NLĐ và trẻ sơ sinh góp phần phát
triển bền vứng về dân số, chất lượng lao động của thế hệ tương lai của đất
nước. Chính điều này đã tạo nên sự khác biệt về mục đích bảo vệ của chế độ
bảo hiểm thai sản so với các chế độ BHXH khác.
1.1.3 Vai trò của chế độ bảo hiểm thai sản
Trong hệ thống các chế độ BHXH có thể nói chế độ thai sản là một trong
những chế độ quan trọng và được thực hiện sớm nhất. Các quốc gia quy định
về đối tượng hưởng, thời gian nghỉ thai sản, mức hưởng chế độ thai sản là
khác nhau. Ở Thụy Điển, cha mẹ được nghỉ thai sản như nhau. Ở Bulgaria,
thời gian nghỉ thai sản áp dụng cho cả cha và mẹ, ngoài ra ông bà còn có thể
xin phép nghỉ thay cho mẹ để chăm sóc cháu [49. Tr 3]. Dù quy định khác
nhau nhưng pháp luật các nước giống nhau về mục đích hướng tới của chế độ
bảo hiểm thai sản. Đó là việc thông qua việc bù đắp một phần chi phí tăng lên
trong quá trình thai nghén, sinh con, nuôi con sơ sinh, thực hiện các biện pháp
tránh thai, bảo hiểm thai sản nhằm giữ cân bằng về thu nhập, tạo sự bình ổn
về mặt vật chất, bảo vệ sức khỏe cho NLĐ và trẻ sơ sinh. Từ mục đích trên,
có thể thấy chế độ bảo hiểm thai sản có ý nghĩa rất lớn đối với bản thân NLĐ

và gia đình họ, đối với đơn vị sử dụng lao động cũng như đối với sự phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước [76. tr 149]. Cụ thể:
Đối với bản thân và gia đình người lao động, chế độ bảo hiểm thai sản là
cơ sở để NLĐ, đặc biệt là lao động nữ nghỉ việc mà vẫn được đảm bảo cuộc
15


sống. Với thời gian nghỉ việc và khoản bù đắp thu nhập từ quỹ BHXH, NLĐ
sẽ sớm ổn định và phục hồi sức khỏe; con sinh ra được chăm sóc tốt hơn; kinh
tế gia đình nhờ đó cũng được ổn định hơn. Hơn nữa, do được đảm bảo việc
làm và thu nhập sau thời gian nghỉ thai sản sẽ giúp NLĐ yên tâm thực hiện
thiên chức của mình. Vì vậy, bảo hiểm thai sản góp phần quan trọng trong
việc bảo vệ sự phát triển của mỗi gia đình, từ đó góp phần phát triển kinh tế
xã hội của đất nước.
Đối với người sử dụng lao động, chế độ bảo hiểm thai sản tăng cường
trách nhiệm của người sử dụng trong việc đóng phí vào quỹ BHXH cũng như
bảo đảm việc làm cho NLĐ sau thời gian nghỉ thai sản. Nếu các đơn vị sử dụng
lao động thực hiện tốt vấn đế này sẽ là yếu tố để thu hút lao động, kích thích sản
xuất, tăng khả năng cạnh tranh. Từ đó cùng với nhà nước kết hợp hài hòa chính
sách kinh tế và chính sách xã hội, góp phần đảm bảo an sinh xã hội.
Đối với nhà nước, chế độ bảo hiểm thai sản không chỉ có ý nghĩa trước
mắt là đảm bảo ổn định thu nhập, việc làm, sức khỏe cho NLĐ khi thực hiện
quyền làm cha, làm mẹ, góp phần đảm bảo bình đẳng giới và an sinh xã hội,
mà lâu dài hơn đó là thúc đẩy sự phát triển ổn định, bền vững về dân số, chất
lượng lao động thế hệ tương lai của đất nước. [76. tr 150-151].
1.1.4 Các nguyên tắc của chế độ bảo hiểm thai sản
Là một chế độ của BHXH nên chế độ bảo hiểm thai sản phải tuân theo
các nguyên tắc của Bảo hiểm xã hội. Đó là những nguyên tắc: mức hưởng
BHXH được tính trên cơ sở mức đóng, thời gian đóng BHXH và có chia sẻ
những người tham gia BHXH; mức đóng BHXH bắt buộc được tính trên cơ

sở tiền lương, tiền công của NLĐ; quỹ bảo hiểm xã hội được quản lý thống
nhất, dân chủ, công khai, minh bạch, được sử dụng đúng mục đích, được hạch
toán độc lập theo các quỹ thành phần của BHXH bắt buộc.
Bên cạnh những nguyên tắc chung của BHXH thì chế độ bảo hiểm thai
16


sản phải tuân theo một nguyên tắc đặc thù đó là: người hưởng chế độ thai sản
được quỹ bảo hiểm xã hội đóng thay phí bảo hiểm trong thời gian nghỉ việc
hưởng bảo hiểm thai sản. Người lao động khi có sự kiện thai sản nếu có tham
gia bảo hiểm xã hội đáp ứng yêu cầu quy định của pháp luật thì được nghỉ
việc hưởng chế độ bảo hiểm thai sản. Người lao động trong trường hợp này sẽ
được nghỉ việc với một thời gian nhất định, được trợ cấp bằng tiền cho những
ngày nghỉ thai sản đó. Bên cạnh đó, do thu nhập của người lao động bị giảm
đi, chi phí sinh hoạt tăng lên do có sự kiện thai sản nên NLĐ nghỉ việc hưởng
chế độ bảo hiểm thai sản còn được quỹ BHXH đóng thay phí bảo hiểm tương
ứng với thời gian nghỉ thai sản đó.
1.2. Điều chỉnh pháp luật đối với chế độ bảo hiểm thai sản
1.2.1. Khái niệm pháp luật về chế độ bảo hiểm thai sản
Chế độ bảo hiểm thai sản là một chế độ của BHXH, luôn là nội dung
quan trọng được pháp luật quốc tế và pháp luật các nước trên thế giới ghi
nhận và điều chỉnh. Tuy nhiên, do điều kiện kinh tế - xã hội của từng quốc gia
khác nhau nên việc quy định chế độ này ở các quốc gia có sự khác nhau.
ILO ghi nhận chế độ bảo hiểm thai sản là một trong ba chế độ BHXH
quan trọng. Cụ thể, Điều 2 Công ước 102 của ILO quy định:“mọi nước thành
viên chịu hiệu lực của Công ước này sẽ phải áp dụng: ít nhất là 3 phần trong
các phần II, III, IV, V, VI, VII, VIII, IX và X; bao gồm ít nhất là một trong các
phần IV, V, VI, IX và X”. Trong đó phần II quy định về chế độ chăm sóc y tế,
phần III quy định về chế độ trợ cấp ốm đau, phần IV quy định về chế độ trợ
cấp thất nghiệp, phần V quy định về chế độ trợ cấp tuổi già, phần VI quy định

về chế độ trợ cấp tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp, phần VII quy định về
chế độ trợ cấp gia đình, phần VIII quy định về chế độ trợ cấp thai sản, phần
IX quy định về chế độ trợ cấp tàn tật, phần X quy định về chế độ trợ cấp chôn
cất và mất người nuôi dưỡng.
17


Như vậy, một quốc gia có hệ thống BHXH và là thành viên của công
ước phải thiết lập ít nhất ba trong các chế độ: chế độ chăm sóc y tế, trợ cấp
ốm đau, trợ cấp tuổi già, trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp tai nạn lao động bệnh
nghề nghiệp, chế độ trợ cấp thai sản.
Chế độ bảo hiểm thai sản có mục đích nhằm thực hiện an sinh xã hội. Cụ
thể bảo hiểm thai sản nhằm bảo đảm một phần thu nhập bị giảm và chi phí
tăng thêm cho NLĐ nói chung khi mang thai, thực hiện các biện pháp tránh
thai, nạo hút thai, thai chết lưu, sinh con, khi nhận nuôi con sơ sinh. Còn pháp
luật là hệ thống quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do nhà nước ban
hành hoặc thừa nhận nhằm điều chỉnh những mối quan hệ xã hội theo mục
tiêu và định hướng cụ thể.
Do đó, có thể hiểu pháp luật về chế độ bảo hiểm thai sản là tổng hợp
những quy định của Nhà nước về vấn đề bảo đảm sức khỏe và thu nhập của
NLĐ khi có sự kiện mang thai, thực hiện các biện pháp tránh thai, nạo hút
thai, thai chết lưu, sinh con, khi nhận nuôi con sơ sinh.
Pháp luật về chế độ bảo hiểm thai sản quy định về đối tượng áp dụng;
điều kiện hưởng; mức hưởng, thời gian hưởng, phương thức chi trả bảo hiểm
thai sản và quỹ bảo hiểm thai sản.
1.2.2. Nội dung pháp luật về chế độ bảo hiểm thai sản
Pháp luật về chế độ bảo hiểm thai sản bao gồm nhiều nội dung trong,
trong đó có các nội dung cơ bản như: đối tượng áp dụng chế độ bảo hiểm thai
sản; điều kiện hưởng chế độ bảo hiểm thai sản; mức hưởng, thời gian hưởng
và phương thức chi trả chế độ bảo hiểm thai sản; quỹ bảo hiểm thai sản.

- Về đối tượng áp dụng chế độ bảo hiểm thai sản:
ILO đã thiết lập, xây dựng các chương trình liên quan đến chế độ BHXH
thai sản: Công ước số 03 năm 1919, Công ước số 102 và 103 năm 1952, Công
ước 118 năm 1958, Công ước 183 năm 2000. Trong các quy định này (đặc
18


biệt là Công ước 102 năm 1952) chế độ bảo hiểm thai sản được thiết kế với
quy phạm tối thiểu về điều kiện hưởng, mức hưởng về thời gian và các khoản
trợ cấp.
Theo Điều 43 Công ước 102 của ILO, đối tượng được bảo vệ bởi chế độ
thai sản bao gồm: mọi phụ nữ là lao động làm công ăn lương với số lượng
tham gia tối thiểu là 50% hoặc toàn bộ phụ nữ hoạt động kinh tế thường trú
trong nước với số lượng tham gia tối thiểu là 20%; hoặc toàn bộ dân cư
thường trú trong nước với số lượng tham gia tối thiểu là 50%. Đối với các
quốc gia có nền kinh tế và phương tiện y tế chưa phát triển đủ mức và có bản
tuyên bố được phê chuẩn việc thực hiện chưa đầy đủ các khuyến cáo theo
Công ước 102 thì diện bảo vệ bao gồm những NLĐ làm công ăn lương nhưng
tối thiểu là 50% số người làm việc trong các cơ sở công nghiệp sử dụng ít
nhất 20 lao động [52. Điều 43].
Ở hầu hết các quốc gia đối tượng bảo vệ của chế độ bảo hiểm thai sản là
những người trong độ tuổi lao động có tham gia BHXH khi đáp ứng đủ điều
kiện được hưởng chế độ bảo hiểm thai sản của quốc gia đó.
- Về điều kiện hưởng chế độ bảo hiểm thai sản:
Điều 47 Công ước số 102 của ILO quy định: “Trường hợp bảo vệ bao
gồm thai nghén, sinh đẻ và những hậu quả tiếp theo, và sự gián đoạn thu
nhập nảy sinh như pháp luật của quốc gia quy định”.
Đồng thời, để tránh lạm dụng chế độ trợ cấp thai sản, có thể bổ sung quy
định về điều kiện hưởng trợ cấp thai sản là phải có một khoảng thời gian tham
gia BHXH tối thiểu, gọi là thâm niên BHXH. Thời gian này được quy định

theo điều kiện cụ thể của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ.
Ở đa số các quốc gia trên thế giới điều kiện để được hưởng chế độ bảo
hiểm thai sản nói riêng là:
- Những người đang mang thai hoặc sinh đẻ thì điều kiện là có tham gia
19


×