Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

DTTS DT kor

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (68.93 KB, 13 trang )

Học phần: DÂN TỘC THIỂU SÔ
Đề tài : DÂN TỘC KOR TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NGÃI
I.Kiến thức địa phương của dân tộc Kor:
1.Dân số và địa bàn cư trú:
Dân tộc Kor là dân tộc có số dân đông thứ ba trong tỉnh Quảng
Ngãi và là dân tộc có số dân đông thứ hai trong các dân tộc thiểu số, sau
dân tộc Hre. Theo điều tra dân số năm 2009 là 33.817 người. Năm 2005,
dân tộc Cor trong tỉnh Quảng Ngãi có hơn 24.550 người.
Địa bàn cư trú của dân tộc Cor ở các huyện Trà Bồng, Tây Trà của
tỉnh Quảng Ngãi và một ít ở huyện Trà My tỉnh Quảng Nam. Xưa kia,
người ta hay gọi người Kor là người Cua, người Trầu. Sau này, căn cứ
vào phát âm khác nhau, người ta cũng ghi là Co, Cool,… Tên tự gọi của
dân tộc là Kor, là tộc danh chính thức. Đồng bào có ý thức tự giác tộc
người cao, có ý thức bản địa và tự hào về truyền thống của tổ tiên.
Người Kor có ngôn ngữ thuộc ngữ hệ Môn - Khơme và thuộc nhóm
ngôn ngữ Bahnaric phía bắc.
2.Đặc điểm kinh tế:
Người Kor làm rẫy là chính, trồng lúa, ngô, sắn và nhiều loại cây
khác. Đặc biệt, cây quế, quế ở vùng người Kor có chất lượng và năng
suất cao được các địa phương trong nước và nhiều nơi trên thế giới biết
tiếng. Bên cạnh đó trầu không của người Kor cũng là một thứ nổi tiếng.


Người Kor còn chăn nuôi trâu, lợn, gà trước hết để cúng tế; chó hầu như
nhà nhà đều có. Nghề đang lát phát triển. Việc hát lượm và săn bắt mang
ý nghĩa quan trọng.
3.Tổ chức cộng đồng:
Từng làng của người Kor có tên gọi riêng theo tên người trưởng
làng hoặc tên sông, suối, tên đất, tên rừng. Trong xã hội Kor, các bô lão
luôn được nể trọng. Ông già được suy tôn làm trưởng làng phải là người
hiểu biết phong tục, giàu kinh nghiệm sản xuất và ứng xử xã hội, được


dân làng tín nhiệm cao và thuộc dòng họ có công lập làng. Người Kor
xưa kia không có tên gọi của mỗi dòng họ, về sau người Kor nhất loạt
mang họ Đinh. Từ mấy chục năm nay một số người Kor lại lấy họ Hồ,
họ Phạm, họ Huỳnh.(của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Thủ tướng Phạm văn
Đồng, cụ Huỳnh Thúc Kháng của Việt nam, thời sau 1945).
Nội bộ làng Kor bao gồm các quan hệ láng giềng và quan hệ thân
tộc cùng tồn tại và chi phối đời sống con người. Người trong làng, phần
đông là họ hàng, dâu rể gần xa, quan hệ chằng chéo với nhau, số người
thuần túy cộng cư, không có liên hệ huyết thống hay hôn nhân với gia
đình khác chỉ là số người rất ít ỏi. Hình thái gia đình nhỏ của người Kor
phát triển phổ biến, bên cạnh đó còn một ít tàn dư gia đình lớn. Tộc
trưởng là người đóng vai trò quan trọng trong việc điều hành đời sống
gia đình, giao tiếp với khách, cùng đại diện của các gia đình khác họp
bàn, giải quyết những công việc chung dưới sự chủ trì của chủ làng.


Trước đây, hàng chục gia đình cùng dòng họ, hoặc thân thiết, chung sức
làm thành một nhà sàn dài trên sườn đồi, bên suối nước, gần nương rẫy.
Mỗi nhà sàn gọi là một nóc, mang tên người đứng đầu nóc. Mỗi nóc chia
thành nhiều cửa, mỗi cửa là một bếp, mỗi bếp là nơi cư trú của một gia
đình.
4.Văn hóa:
Người Kor thích múa hát, thích chơi chiêng, cồng, trống. Các điệu
dân ca phổ biến của người Kor là Xru, Klu và Agiới. Các truyện cổ của
người Kor truyền miệng từ đời này sang đời khác luôn làm say lòng cả
người kể và người nghe.
Nghệ thuật điêu khắc truyền thống của dân tộc Kor rất đặc sắc:
Cây nêu, gur, lavang. Nghệ thuật cồng chiêng, đàn Bro, đàn Katak, đàn
môi, sáo talía, kèn amáp và các làn điệu dân ca như: Xà ru, Agiới, Cà lu,
Alát, Xaru - xalía, hát đối đáp… Có thể nói, âm nhạc đã đi vào đời sống,

sinh hoạt hằng ngày của bà con, đi vào đời sống tâm linh, chảy trong
huyết quản của mỗi người Kor. Khi vui cũng như khi buồn, khi hạnh
phúc và cả lúc khổ đau họ cũng đều tấu lên, hát lên như muốn sẻ chia
cùng cộng đồng, giao tiếp với thần linh.
5.Nhà cửa:
Trước kia vòng rào làng được dựng lên cao, dày, chắc chắn với
cổng ra vào đóng mở theo quy định chặt chẽ, với hệ thống chông thò,
cạm bẫy để phòng thủ... Tùy theo số dân mà làng có một hay vài một


nhà ở, dài ngắn, rộng hẹp khác nhau. Thường nóc cũng là làng vì rất phổ
biến hiện tượng làng chỉ có một nóc nhà. Nay vẫn thấy có nóc dài tới
gần 100m. Người Kor ở nhà sàn. Dân làng góp sức làm chung ngôi nhà
sau đó từng hộ được chia diện tích riêng phù hợp với nhu cầu sử dụng.
Ngôi nhà có thể nối dài thêm cho những gia đình đến nhập cư sau. Dưới
gầm sàn xếp củi, nhốt lợn, gà. Hầu hết người Kor đã và đang chuyển
sang làm nhà đất. Không ít người ưu kiểu nhà "xuyên trĩnh" ở đồng bằng
miền Trung. Xưa kia, khi dân làng phát triển đông đúc mà việc nối nhà
dài ngôi nhà thêm nữa không thuận tiện cũng không muốn chia làng mới
thì họ kiến trúc kiểu "nhà kép", mở rộng theo chiều ngang. Như vậy là
người Kor đã đặt song song mặt hành mặt bằng sinh hoạt của hai dãy
nhà, phần gưl của chúng ghép liền với nhau, tạo thành khoảng rộng dài ở
giữa gồm gưl và truôk càn hai dãy tum ở đôi bên.
6.Phong tục tập quán:
- Ăn: Bữa ăn thông thường là cơm gạo tẻ, muối ớt, các loại rau rừng và
thịt cá kiếm được. Đồng bào có tục ăn trầu, hút thuốc.
- Ở: Nhà truyền thống của đồng bào là nhà sàn dài, cửa ra vào ở hai đầu
hồi.
- Phương tiện vận chuyển: Người Kor có các loại gùi tự đan dùng để vận
chuyển rất tiện lợi, thích hợp với điều kiện đất dốc, rừng núi và suối.



Mọi thứ đều bỏ trong gùi và gùi được cõng trên lưng, có 2 quai quàng
qua đôi vai.
- Hôn nhân: Hình thức hôn nhân cư trú đằng chồng là phổ biến. Ðám
cưới đơn giản, gọn nhẹ.
-Tang ma: Quan tài gỗ, đẽo theo kiểu độc mộc. Người chết được "chia
của" và chôn trong bãi mộ của làng, đặt không xa chỗ ở. Tang gia cho
người mới chết
- Lễ hội: Người Cor có nhiều lễ, lớn nhất là lễ có đâm trâu tế thần - đây
cũng là ngày hội lớn trong làng.
7.Tín ngưỡng:
Những đỉnh núi cao được người Kor gọi là núi Ông núi Bà. Họ cho
rằng có "thần linh" trú ngụ ở đó. Hệ thống "ma" và "thần" rất đông: ma
người chết bình thường, ma người chết bất bình thường, ma quế, ma cây
đa, ma nước, thần bếp lửa..
II.Phân tích kĩ thuật bản địa của dân tộc Kor
1.Kĩ thuật sản xuất:
- Kĩ thuật canh tác đất rẫy là nguồn sống chủ yếu, lúa chính là nguồn
lương thực chính chiếm 57% kỹ thuật sản xuất
- Canh tác theo hình thức phát rừng, đốt, chọc lỗ tra hạt giống chiếm
35% kỹ thuật sản xuất


- Kĩ thuật xen canh, đa canh trên từng đám rẫy và luân canh giữa các
đám rẫy chiếm 8% kỹ thuật sản xuất
- Đặc trưng sinh hoạt kinh tế của người Kor là lấy kĩ thuật nương rẫy
làm nguồn thu nhập chính.
 Với phương pháp đa canh, xen canh, rẫy cho nhiều loại sản phẩm


đã đáp ứng được phần lớn nhu cầu thiết yếu hằng ngày của người
dân, tư lương thực cho đến rau xanh, trái cây, thuốc hút, thuốc
phiện…
2.Trồng trọt:
- Dân tộc Kor nổi tiếng với trầm và quế chiếm 56% thu nhập bình quân
của mỗi gia đình . Đây là một nguồn hàng quen thuộc và chủ yếu được
thương khách chú ý và ưa chuộng bởi số lượng nguồn hàng nhiều và rất
ngon. Đây là một sản phẩm góp phần tăng quan hệ giao lưu giữa đồng
bằng với vùng núi.
- Quế: Nhiều và quý. Nhờ bán quế mà các gia đình có điều kiện hơn để
mua sắm được các vật phầm cần thiết và có giá trị trong nhà. Người dân
ở đây trồng quế bằng phương pháp ươm hạt. Quế là một sản phẩm có vai
trò quan trọng bởi giá trị đắt đỏ, thượng hạng và vượt trội của nó. Trong
điều kiện rẫy không cung cấp đủ và ổn định được lúa và hoa màu thì quế
được xem là một loại quả mang lại nguồn thu nhập cho người dân ở đây.
- Ngoài ra, thì các sản phẩm hái lượm, săn bắt có ý nghĩa không nhỏ
trong đời sống của người dân nơi đây.


III.Kiến thức truyền thống của dân tộc Kor
1.Những vốn kinh nghiệm trong trồng trọt:
- Nhờ quế mà đồng bào có nhiều vật dụng cho sự sinh tồn của mình. Cây
quế góp phần xóa đói giảm nghèo cho đồng bào Kor.
Kinh nghiệm về trồng quế được truyền qua nhiều thế hệ: Áp dụng
biện pháp ươm hạt lấy cây con, đem tỉa lên rẫy, đến tháng 6,7 hàng năm
là đến mùa thu hoạt lột vỏ quế. Quế lột vỏ xong tất cả để ngoài rừng cho
khô, không được đưa quế về nhà.
- Làm nương rẫy: Cây lúa trồng trên nương theo phương pháp cổ
truyền, phát cành chặt cây, đốn trỉa.
2.Tinh thần tương thân tương ái:

- Cộng đồng người Kor có sự gắn kết bền chặt, nam nữ bình đẳng, tự do
chọn người mình yêu.
- Nếu 1 gia đình không ăn nên làm ra, túng bẩn thì cả làng giúp đỡ cho
cái ăn cái mặc, cho cơm giống để trồng.
- Cuộc sống hòa thuận, vui vẻ, bình yên đã trở thành phẩm chất tốt đẹp.
3.Trang phục truyền thống của đồng bào ( Y phục, trang sức, cồng
chiêng,...):
- Theo sắc phục truyền thống, nam giới thường ở trần, đóng khố, nữ
quấn váy, mặc áo cộc tay, yếm. Trời lạnh mỗi người khoác tấm vải dài,
rộng. Người Kor thích đeo vòng cổ, vòng tay, hoa tai bằng đồng hoặc
bạc, nhưng thích nhất là bằng hạt cườm. Phụ nữ quấn nhiều vòng cườm
các màu quanh eo lưng.


- Trang phục truyền thống của người Kor còn hàm chứa giá trị sáng tạo,
giá trị văn hóa, giá trị thẩm mỹ và cả giá trị nhân văn của cộng đồng.
Trang phục truyền thống của họ còn ẩn chứa tâm lý, tình cảm của tộc
người và mối quan hệ của tộc người với môi trường thiên nhiên xung
quanh được đúc kết từ đời sống hằng này và từ lao động sản xuất..
4.Truyền thống yêu quê hương, đất nước nồng nàn:
- Từ trước Cách Mạng tháng Tám, người Kor đã xây dựng những căn cứ
chống Pháp tại núi Cà Đam (1935- 1936). Nhiều già làng đã chiến đấu
rất dũng cảm, cùng với nhiều người ở làng khác tham gia nổi dậy phong
trào Săn Bram.
5.Lễ hội văn hóa truyền thống:
- Tiêu biểu như lễ cầu mưa, lễ ăn cơm mới, lễ hội ăn trâu. Lễ hội trong
văn hóa Kor hàm chứa một tổng thể diễn xướng và nghi lễ mang đậm
dấu ấn nguyên thủy với tư duy hồn nhiên, từ cách bài trí đến cách thức
cúng, thực hiện nghi lễ và vui chơi.
- Lễ ăn trâu - lễ hội lớn của người Kor, được tổ chức vào khoảng cuối

năm đến đầu năm sau, khi việc thu hoạch đã xong xuôi để mừng cho
mùa màng bội thu, tai qua nạn khỏi và cầu mong thần linh phù hộ cho
cuộc sống được yên bình, sung túc. Để tổ chức lễ ăn trâu, người Kor
chuẩn bị rất công phu, đặc biệt là không thể thiếu cây nêu. Cây nêu của
người Kor hết sức đặc biệt, không chỉ ở hình tượng chim plít mà còn
chạm khắc nhiều hình ảnh hết sức công phu, tỉ mỉ, thể hiện sự giao hòa
giữa con người và vũ trụ. Người Kor dựng nêu với ý nghĩ mời ông bà,
thần linh về dự lễ cùng cháu con, dân làng.


6.Âm nhạc truyền thống:
- Người Cor nói chung và người Cor huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng
Nam nói riêng có một hệ thống âm nhạc phong phú, sinh động và giàu
sức biểu cảm… Vốn âm nhạc truyền thống đặc sắc đó được người Cor
thể hiện trong sinh hoạt đời sống hằng ngày, trong các lễ hội truyền
thống và nó luôn được người Cor gìn giữ và bảo tồn. Trong số đó phải
kể đến những điệu hát sau:





Hát Clu
Hát Xadru
Hát A giới
Hát A ly

- Hát Clu thể hiện rõ truyền thống uống nước nhớ nguồn, tấm lòng thành
của con cháu đồng bào Kor đối với ông bà, cha mẹ, tổ tiên của mình.
Nó như một bài văn tế. còn thể hiện sự cầu khẩn thần linh hoặc người đã

khuất bỏ qua những sai sót, lỗi lầm của người còn sống phù hộ cho cá
nhân, gia đình, cồng đồng được khỏe mạnh, an lành trong cuộc sống.
7.Nghệ thuật diễn xướng dân gian của người Cor:
- Dân tộc Cor ở Quảng Ngãi còn bảo lưu nhiều loại hình dân ca, khá đa
dạng và phong phú, có những sắc thái riêng. Phổ biến có các làn điệu
sau:
• Xà ru
• A giới
• A lát


• Cà lu
• Cà rùa

8.Nhạc cụ truyền thống:
- Âm nhạc của dân tộc Cor khá phong phú, được dùng để biễu diễn trong
các dịp lễ hội và trong sinh hoạt hàng ngày. Cuộc sống người Cor xưa
phần lớn dựa vào sản vật của rừng nên nhạc cụ dân tộc Cor phần nhiều
được chế tác từ vật liệu nứa, tre, gỗ, lá… Họ có hơn 10 loại khác nhau,
gồm nhóm gõ, nhóm hơi, nhóm dây như cồng chiêng, đàn đá, trống đất,
đàn Vơró, đàn Kađác, kèn Amáp, sáo Talía, kèn môi… Trong kho tàng
âm nhạc này, dù tự sáng tạo hay tiếp thu của các dân tộc khác, người Cor
cũng tạo ra những âm thanh độc đáo, trở thành tài sản riêng biệt của dân
tộc mình. Trong đó tiêu biểu nhất là cồng chiêng, đàn đá, trống đất, kèn
Amáp.
9.Cây nêu – biểu tượng văn hóa trong các lễ hội của người Cor:
- Hàng năm, khi đã thu hoạch lúa mùa xong (vào độ tháng 10 và 11), là
lúc rảnh rỗi để người Cor tổ chức nhiều lễ hội truyền thống tưng bừng
như: Lễ ăn mừng lúa mới (Xa-pa-nưu), Lễ ăn mừng nhà mới (Xa-nhưra-vát), Lễ ăn trâu huê (Xa-ô-piêu), Tết mùa (Xa-aní)… để cúng và cầu
cho Thần linh, ông bà, tổ tiên… luôn phù hộ dân làng. Khi người Cor tổ

chức các lễ hội trên, nhất là trong dịp ăn trâu huê, họ đều dựng cây nêu.
Gỗ để làm cây nêu là gỗ cây chò vì theo sự giải thích của một số người
lớn tuổi dân tộc Cor: cây rất chắc biểu tượng cho sự cứng cáp, sức mạnh,
dẻo dai của người Cor”.


IV.Kết luận
• Kiến thức truyền thống đã mang lại cho đồng bào Kor tỉnh Quảng
Nam:
- Có những kinh nghiệm lao động cần thiết để phát triển kinh tế, tăng thu
nhập cho gia đình và buôn làng.
- Có được đời sống văn hóa tinh thần vô cùng sống động và điều đó góp
phần tạo nên hình tương đồng bào Kor hài hòa, lạc quan, yêu nghệ
thuật,…
- Những giá trị xưa cũ nhưng tốt đẹp trên đã hình thành nên nếp sống
luôn quan tâm đến đồng bào, tình thương người, yêu gia đình, bản làng,
yêu quê hương, đất nước.
- Đời sống tâm linh, tín ngưỡng sống động. Đồng bào Kor đã truyền lại
cho các thế hệ con cháu của mình những lễ hội đặc sắc, góp phần gìn giữ
những nét văn hóa truyền thống qua nhiều thế hệ.
• Truyền thống đồng bào Kor trước nhiều thử thách:
- Vì nhiều nguyên nhân, tài sản văn hóa của dân tộc Kor đang bị mai
một nhanh chóng. Hiện nay, nhà dài Kor không còn thấy ở chính quê
hương của nó nữa mà chỉ được phục dựng lại ở một số nơi. Những tác
phẩm mỹ thuật, trang trí dân gian ở ngôi nhà dài vào các dịp lễ hội như
bộ gu, cây nêu thì rất ít nghệ nhân còn biết chế tác.
- Tại một số làng văn hóa đã xây dựng được một số công trình kiến trúc
nhưng đã bị “bê tông hóa”, “tôn hóa”, không giữ được bản sắc dân tộc.




DANH SÁCH NHÓM
1.Hoàng Thị Ý Nhi
2.Lê Thị Hồng Sương
3.Nguyễn Thị Ngà
4.Đoàn Thị Như
5.Nguyễn Thị Lan Anh
6.Văn Thị Tường Vy
7.Phạm Thị Lệ Trinh
8.Nguyễn Thành Nhân
9.Nguyễn Quốc Huy



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×