Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Đề tài: gốm phù lãng làng gốm cổ truyền Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (71.98 KB, 13 trang )

GỐM PHÙ LÃNG
LÀNG GỐM CỔ TRUYỀN
VIỆT NAM
***
Giảng viên: Ths. Hồ Thu Hà
Bài làm: Nhóm 4.
***
Danh sách thành viên :
1.

Nhóm trưởng: Nguyễn Thị Hồng Nhung

2.

Nguyễn Thị Vân Anh

3.

Tống Thị Huyền

4.

Nguyễn Thu Hiền

5.

Trần Minh Nguyệt

6.

Giang Anh Minh



7.

Vũ Thị Thu Huyền

8.

Lang Thị Thư

9.

Đặng Thị Thùy Linh

10.

Cao Thị Hoài Thu

11.

Nguyễn Thị Thủy

12.

Nguyễn Văn Hưng

13.

Phạm Thùy Dung



BẢNG PHÂN CÔNG CÔNG VIỆC
ST
T
1

HỌ VÀ TÊN

CÔNG VIỆC

Nguyễn Thu Hiền
Giang Anh Minh

Sơ lược về lịch sử làng
gốm

ĐÁNH
GIÁ
Hiền:4/5*
Minh:4/5*

Quy trình sản xuất gốm

Thư:4/5*
Linh:4/5*

2
Nguyễn Thị Thủy
Phạm Thùy Dung
3


GHI
CHÚ
Nộp
đúng
hạn
Nộp
đúng
hạn

Các sản phẩm gốm
Phù Lãng

3/5*

Nộp
muộn

Nét đẹp của làng gốm

5

Lang Thị Thư
Đặng Thị Thùy Linh
Lê Văn Hưng
Tống Thị Huyền

Nghệ nhân làng gốm

Thư:4/5*
Linh:4/5*

Hưng:4/5*
4/5*

Nộp
đúng
hạn
Nộp
đúng
hạn

6

Vũ Thị Thu Huyền

Hiện trạng của làng gốm

4/5*

7

Nguyễn Thị Vân Anh
Trần Minh Nguyệt

Làm powerpoint

8

Nguyễn Thị Hồng Nhung

Phân chia công việc,

tổng hợp tài liệu, chỉnh
sửa và hoàn thiện word,
thuyết trình, đánh giá.

V.Anh:5/5
*
Nguyệt:4/
5*
5/5*

Nộp
đúng
hạn
Tích cực

Cao Thị Hoài Thu
4

Nhóm
trưởng


CẤU TRÚC BÀI
PHẦN 1: SƠ LƯỢC VỀ LỊCH SỬ LÀNG GỐM
PHẦN 2: QUY TRÌNH SẢN XUẤT GỐM
PHẦN 3: NÉT ĐẸP ĐỘC ĐÁO CỦA GỐM PHÙ LÃNG
PHẦN 4: NHỮNG NGHỆ NHÂN NỔI TIẾNG
PHẦN 5: HIỆN TRẠNG PHÁT TRIỂN CỦA LÀNG NGHỀ GỐM
PHẦN 6: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN GỐM PHÙ LÃNG
***

PHẦN 1: Sơ lược về lịch sử làng gốm.
Vị trí địa lý:
Làng gốm Phù Lãng thuộc xã Phù Lãng, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh, cách Hà
Nội khoảng 60 km và cách sông Lục đầu khoảng 4 km. Cùng với gốm Bát Tràng
(Gia Lâm) và gốm Thổ Hà (Bắc Giang), cái tên gốm Phù Lãng đã và đang dành
được nhiều sự chú ý của khách du lịch trong và ngoài nước, đặc biệt là dân ham mê
chụp ảnh.
Phù Lãng nằm bên bờ sông Cầu và có nhiều bến đò ngang suốt ngày chở khách
qua lại.
Địa danh Phù Lãng có thể có từ cuối thời Trần đầu thời Lê. Vào thời kỳ này, Phù
Lãng có 3 thôn: Trung thôn, Thượng thôn, Hạ thôn. Phù Lãng được trong và ngoài
nước biết đến với nghề gốm truyền thống.
Lịch sử hình thành:
Làng nghề gốm Phù Lãng đã tồn tại từ lâu đời, Ông tổ nghề gốm Phù Lãng là Lưu
Phong Tú (Theo Tô Nguyễn, Trình Nguyễn trong sách Kinh Bắc-Hà Bắc)
Vào cuối thời Lý, ông được triều đình cử đi sứ sang Trung Quốc. Trong dịp đi này,
ông học được nghề làm gốm và truyền dạy cho người trong nước. Đầu tiên, nghề
này dược truyền vào vùng dân cư đôi bờ sông Lục Đầu sau đó chuyển về vùng Vạn
Kiếp (Hải Dương). Vào khoảng đầu thời Trần (thế kỷ XIII) nghề được truyền đến
đất Phù Lãng Trung.


Nghề gốm Phù Lãng được hình thành và phát triển ở đây vào khoảng thời Trần(thế
kỷ XIV.)
Hiện nay, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, một số nhà sưu tập còn lưu giữ và trưng bày
một số sản phẩm gốm Phù Lãng có niên đại khoảng thế kỷ XVII - XIX. Đó là sản
phẩm gốm men nâu và những sắc độ của nó như men da lươn, vàng nhạt, vàng
thẫm, vàng nâu...
PHẦN 2: Quy trình sản xuất gốm Phù Lãng.
Một xưởng sản xuất gốm gồm năm nhóm chính: tổ lò, tổ chuốt, tổ họa tiết, tổ men,

tổ làm sạch.
Tương ứng với các tổ là các bước để hoàn tất một sản phẩm gốm Phù Lãng như
sau:
Bước 1: Chọn đất và xử lý đất sét
Khác với những sản phẩm gốm lấy chất liệu từ "xương" đất sét xanh của Thổ Hà,
sét trắng của Bát Tràng, gốm Phù Lãng được tạo nên từ "xương" đất đỏ hồng lấy từ
vùng Thống Vát, Cung Khiêm (Bắc Giang). Đất được chở về Phù Lãng theo đường
sông (chủ yếu là sông Cầu). Điều này rất thuận lợi do Phù Lãng không phải lấy đất
sét tại chính làng họ, tránh phá vỡ cấu trúc địa chất và cảnh quan làng nghề.
Ðất để làm đồ sành phải là loại đặc biệt, có độ dẻo. Lấy được đất về, người thợ
phải phơi cho đất bạc màu trộn lẫn các lần đất, đập thành những viên nhỏ bằng
ngón chân cái rồi mới cho "ngậm" nước, sau đó xéo tròn, nề đất, chọn sạn, phá, sa
cho tới khi đất phải nhuyễn mịn như một miếng giò mới thôi. Một miếng đất trước
khi chuốt phải nề, xéo tới chục lần mới thành khoanh cho lên bàn xoay nắn thành
sản phẩm.
Dưới bàn tay của người thợ thủ công, đất sét được luyện thật nhuyễn, đảm bảo độ
dẻo, mịn nhất định và được tạo hình trên bàn xoay bằng tay hoặc trên khuôn.
Bước 2: Tạo hình.
Về mặt tạo hình, gốm Phù Lãng được sử dụng nhiều phương pháp khác nhau trong
nghệ thuật tạo dáng, với những hình khối đa dạng. Nhưng nhìn chung có thể quy


vào hai phương pháp cơ bản:phương pháp thứ nhất tạo hình trên bàn xoay (làm
trong gốm gia dụng và trên gốm trang trí) ; phương pháp thứ hai đó là, in trên
khuôn gỗ hoặc khuôn đất nung rồi dán ghép lại ( làm trên đồ tín ngưỡng). Mỗi loại
hình sản phẩm, mỗi chủng loại hàng đều có những kỹ thuật, kỹ xảo riêng, tất cả
đều nhằm đạt được hiệu quả tối đa về hai phương diện kinh tế và thẩm mỹ.
Cũng như nghề gốm Bát Tràng (Gia Lâm), và Thổ Hà (Bắc Giang), phương pháp
tạo hình sản phẩm (có tiết diện tròn) là chuốt. Tất cả các sản phẩm được đưa lên
bàn xoay tay. Hoạt động xung quanh bàn xoay tay cần phải có 2 người, trong đó

một người chuyên ngồi chuốt, một người vần bàn xoay. Người vần bàn xoay đồng
thời làm nhiệm vụ lăn đất thành đòn để chuốt (còn gọi là xe đòn). Sản phẩm sau
khi đã tạo hình xong, để cho se dần, đến khi sờ tay vào không thấy dính, lúc bấy
giờ người thợ tiến hành chúng, đấm, thúc bên trong của sản phẩm cho thành hình
đồ vật, rồi lại để cho ráo. Lúc này nếu thấy sản phẩm có vết rạn nứt thì được vá lại
bằng đất mịn và nát.
Bước cuối cùng trong khâu hoàn thành sản phẩm là ve, nạo sản phẩm sau khi sản
phẩm đã thành bạc hàng (chuyển màu trắng). Ve, nạo xong sản phẩm dược tráng
một lớp men lên, tạo màu sắc.
PHẦN 3: Các sản phẩm gốm Phù Lãng:
Các sản phẩm gốm Phù Lãng có sắc thái riêng biệt, đó là những sản phẩm gốm
men nâu, nâu đen, vàng nhạt, vàng thẫm, vàng nâu, mà người ta gọi chung là men
da lươn. Thêm nữa, nét đặc trưng nổi bật của gốm Phù Lãng là phương pháp đắp
nổi theo hình thức chạm bong, còn gọi là chạm kép, màu men tự nhiên, bền và lạ,
dáng của gốm mộc mạc, thô phác nhưng khỏe khoắn, chứa vẻ đẹp nguyên sơ của
đất với lửa và rất đậm nét của điêu khắc tạo hình.
Gốm Phù Lãng tập trung vào 3 loại hình:
1.

Gốm dung trong tín ngưỡng ( lư hương, đài thờ, đỉnh,…)

2.

Gốm gia dụng ( lọ, bình, ang, chum, vại, bình vôi, ống điếu,…)

3.

Gốm trang trí ( bình, ấm hình thú như ngựa, voi,…)

PHẦN 4: Nét đẹp của gốm Phù Lãng



Gốm Phù Lãng có nét sắc thái riêng biệt, đó là những sản phẩm gốm men nâu, nâu
đen, vàng nhạt, vàng thẫm, vàng nâu… mà người ta gọi chung là men da lươn.
Thêm nữa, nét đặc trưng nổi bật của gốm Phù Lãng là sử dụng phương pháp đắp
nổi theo hình thức chạm bong, còn gọi là chạm kép, màu men tự nhiên, bền và lạ;
dáng của gốm mộc mạc, thô phác nhưng khỏe khoắn, chứa đựng vẻ đẹp nguyên sơ
của đất với lửa, và rất đậm nét của điêu khắc tạo hình.
Nếu Bát Tràng ồn ào, nhộn nhịp sầm uất với những sản phẩm hiện đại được
tạo ra đặc trưng từ chất liệu đất sét trắng và Thổ Hà một thời huyên náo đò đầy dọc
ngang với những sản phẩm từ đất sét xanh. Còn Phù Lãng luôn mộc mạc, bình dị
như chính sản phẩm mà họ tạo ra từ đất sét đỏ trầm đặc trưng.
Nổi bật so các dòng gốm khác, gốm Phù Lãng được phủ một lớp men đặc
trưng nhất, được các nghệ nhân gọi tên như: da lươn, quả duối, hạt na, cua đá rất
đặc trưng, thanh nhã và bền đẹp những lớp men này được các nghệ nhân đúc kết từ
kinh nghiệm theo thời gian và truyền thống lâu đời của làng nghề. những sản phẩm
đạt tiêu chuẩn phải có màu da lươn vàng óng hay màu cánh gián, khi gõ vào sản
phẩm có tiếng vang.
Nếu vẻ đẹp của Bát Tràng là sự đa dạng về nước men, những nét vẽ tinh tế,
thì hồn cốt của Phù Lãng được tạo nên từ sự dân dã, mộc mạc, dáng gốm đơn giản,
khỏe khắn tăng thêm điểm nhấn từ nước men da lươn này.
Đặc trưng nghệ thuật của gốm Phù Lãng
Đặc trưng của gốm Phù Lãng là màu sành nâu tráng men da lươn cùng các
họa tiết, hoa văn thường là rồng, phượng, hổ phù, hoa sen, lá đề. Do được làm
hoàn toàn thủ công nên sản phẩm của mỗi nhà một khác từ hình dáng cho đến màu
men vàng da lươn (vàng nhạt, vàng thẫm, vàng lục, vàng nâu, vàng đỏ...) - và đó là
kỹ thuật, là bí quyết của từng hộ, có khi chỉ nhìn vào sản phẩm, những khách quen
có thể nhận biết được đó là hàng của nhà nào.
Loại gốm sành nâu của Phù Lãng được phát triển từ loại gốm đất nung với
nhiệt độ lò nung được nâng dần từ 600, 700 độ C đến 1.200 độ C. Gốm sành nâu

được làm từ đất sét thường. Ở nhiệt độ 1.200 độ C, xương gốm đã chớm chảy, kết
dính hạt mịn và rắn chắc, trở thành sành sứ.
Gốm sành nâu xuất hiện từ đầu Công nguyên. Những phát hiện kho cổ học
cho thấy: hàng loạt lò nung gốm sành nâu cổ ở Thanh Hoá, Hi Dưng, Bắc Ninh...
Tới thế kỷ XIV, XV và những thế kỷ sau, gốm sành nâu bắt đầu nổi tiếng khắp
trong nước với các địa danh Hưng Canh (Vĩnh Phúc), Thổ Hà, Phù Lãng (Bắc


Ninh), Móng Cái, Đông Triều (Qung Ninh), Việt Hưng (Thái Bình), Bến Ngự
(Thanh Hoá), Mường Chanh (Sơn La), Vân Đình, Quế Quyển (Hà Tây), Biên Hoà
(Đồng Nai), Lái Thiêu (Bình Dưng), v.v...
Gốm sành nâu: màu đỏ tía, nâu đỏ, nâu thẫm, mận chín, đồng hun hoặc màu
chu hồng. Được nung ở nhiệt độ cao, gốm sành nâu có lớp da ngoài đanh mặt,
nhẵn bóng. Không phải bất kỳ loại đất sét nào cũng cho sản phẩm gốm sành nâu có
chất lượng tốt.
Ở thế kỷ XIV-XV, khi men trên gốm sành xốp hoa nâu và gốm hoa lam
phát triển thì một số lò gốm sành nâu có men, trong đó nổi tiếng nhất là gốm Phù
Lãng. Có thể phân biệt gốm của ba làng Bát Tràng, Thổ Hà, Phù Lãng qua xương
gốm và bề mặt ngoài sản phẩm.
Gốm Bát Tràng thuộc loại sành trắng, xương gốm trắng mịn, mặt ngoài phủ
một lớp men mỏng màu trắng hoặc trắng ngà, dưới men có thể nhìn thấy những
hoạ tiết mà lam. Sau này, Bát Tràng sản xuất cả những loại gốm men màu với kỹ
thuật tạo tác và thủ pháp trang trí đạt trình độ điêu luyện được khách nước ngoài ưa
chuộng. Nhưng cơ bản, gốm ni đây vẫn giữ được những đặc điểm cốt yếu của loại
gốm sành trắng (ảnhư xương gốm trắng, mịn, men mỏng, trong, bóng đều, thường
có màu nền trắng hoặc trắng ngà).
Gốm Thổ Hà thuộc loại gốm sành nâu, xương gốm màu nâu đỏ hoặc nâu
đen. Tuy không phủ men, nhưng do đất gốm được luyện kỹ, rồi nung ở nhiệt độ
cao, xưng gốm đã chớm chảy nên khi ra lò, trên bề mặt sản phẩm loại gốm này như
được tráng một lớp men nâu mỏng, bóng loáng. Chính lớp men ấy cùng với cốt

gốm dày, nặng đã tạo nên vẻ mộc mạc, thô khoẻ của sản phẩm, phù hợp với thẩm
mỹ bình dân, lại có chiều kín đáo, sâu sắc.
Về kỹ thuật tạo dáng, tạo khối nung, gốm Phù Lãng không khác nhiều so
với gốm Thổ Hà. Nhưng về mặt nghệ thuật, gốm Phù Lãng đã vượt xa gốm Thổ
Hà, bởi nó là loại gốm sành nâu đã được tráng một lớp nước men hoàng thổ, huyền
thổ có sắc nâu vàng hoặc nâu đen khá dầy, thường gọi là men da lưn. Men của nó
không bóng như men gốm sành trắng Bát Tràng, không đều màu mà có chỗ đậm,
chỗ nhạt, chỗ rạn men, chỗ co men, rất phù hợp với nét đặc trưng nổi bật của dáng
gốm sành nâu nói chung là đầy đặn, chắc khoẻ.
Đặc biệt mặt hàng gốm trang trí của Phù Lãng rất được khách hàng quốc tế
yêu thích bởi nét đặc trưng là sử dụng phương pháp đắp nổi theo hình thức chạm


bong, mà người Phù Lãng gọi là chạm kép các đề tài truyền thống- tứ linh, cảnh
sinh hoạt và phong cảnh làng quê…
PHẦN 5: Nghệ nhân nổi tiếng làng gốm Phù Lãng.
Bên cạnh những sản phẩm gốm đẹp chuẩn mực từng chi tiết , từng hoa văn và có
thể an tâm đem đến cho người dùng thì không thể không nhắc đến công sức , nói
chính xác hơn là bàn tay tâm huyết của những người dùng đôi tay của mình để tạo
lên – đó chính là những nghệ nhân của làng nghề, người nối tiếp của cha ông để
rồi sau này cũng sẽ trao truyền lại cho đời con cháu.
Nằm ven con sông Cầu thơ mộng quê hương gốm sứ tấp nập bởi những chuyến xe
chở hàng đi tiêu thụ, các công xưởng nhộn nhịp với những gian trưng bày đang thu
hút hàng trăm lượt khách du lịch đến từ mọi miền tổ quốc và cả khách nước ngoài.
Dưới bến là những con tàu trở đất sét xuôi ngược đến từ Yên Tập, Yên Dũng ( Bắc
Giang). Du nhập từ thế kỉ 18 , gốm sứ Phù Lãng nổi bật với ba loại hình truyền
thống: gốm dùng trong tín ngưỡng, dùng trong gia đình, trang trí. Thế nhưng hiện
nay, thay vì những dáng vẻ đơn điệu , thô sơ , một số nghệ nhân trẻ đã khẳng định
được thương hiệu gốm Phù Lãng bằng cách mạnh dạn thay đổi loại hình gốm sứ cổ
xưa sang mặt hàng gốm sứ mỹ nghệ mới. Gốm Nhung và gốm Ngọc được coi là 2

thương hiệu đặc trưng của gốm Phù Lãng với nhiều mặt hàng được nhiều người
tiêu dùng ưa chuộng.
Nghệ nhân Vũ Hữu Nhung – sinh năm 1974 : “ Chúng tôi luôn cố gắng tìm tòi, thể
hiện các sản phẩm trên các chất liệu khác nhau như gạch, gỗ,đá… Đôi khi là lấy
cảm hứng từ gỗ cỏ, cây ,hóa,lá để chế tạo ra những mẫu gốm tinh xảo và độc đáo”
đây là những gì mà anh đã tâm sự khi được hỏi đến mục đích để anh tạo dựng lên
thương hiệu mới sáng tạo gây dựng trên làng nghề của mình. Anh được đồng
nghiệp trong và ngoài nước biết đến từ năm 24 tuổi với các giải thưởng và những
tác phẩm gốm sứ chiếm được nhiều thiện cảm của một só bạn hàng khó tính trên
thị trường như Nhật Bản, Hàn Quốc … Anh đã tạo điều kiện công ăn việc làm cho
hơn 200 lao động trong làng , với mức lương từ 2 – 2,5 triệu đồng / tháng. Ngoài
làng gốm lớn tại Quế Võ, anh còn mở thêm chi nhánh tại Hà Nội và các tỉnh phía
Nam. Yêu nghê, tâm huyết với nghề nên hiện tại anh đang làm giảng viên của
trường Đại học Mỹ thuật Công nghiệp Hà Nội. Anh chia sẻ rằng “ Tôi muốn các
bạn trẻ hôm nay sẽ có nhiều đổi mới hơn nữa để phát triển và làm lớn mạnh thương
hiệu gốm sứ Phù Lãng”.
Bên cạnh xưởng gốm của anh Nhung thì một nghệ nhân khác cũng với long tâm
huyết yêu nghề cũng đã tạo dựng cho mình một cơ sở gốm và có thương hiệu trên


thị trường . Anh Nguyễn Minh Ngọc , sinh ra trong một gia đình có truyền thống
làm gốm, trước sự biến chuyển mạnh mẽ của toàn xã hội, những chiếc chum, vò
màu đất của làng gốm Phù Lãng không còn giữ được vị thế của mình trên thị
trường trước tình hình “ế ẩm” này, Nguyễn Minh Ngọc cũng giống như nhiều bạn
trẻ ở Bắc Ninh khi ấy, từng nghĩ đến việc chọn một con đường khác để có thể thoát
ly khỏi công việc nông nghiệp ở quê nhà , anh tâm sự “ Trước kia, những nghệ
nhân Phù Lãng chỉ quen với những mặt hàng gốm cổ , năm 2001 , tôi đã quyết tâm
thi đỗ vào trường đại học Mỹ Thuật Công nghiệp Hà Nội để về quê phát triển nghề
gốm sứ” và niềm đam mê , sự cố gắng không nghừng của bản thân đã giúp anh tìm
tòi và sáng tạo ra những sản phẩm độc đáo mới mang thương hiệu của riêng mình

trên mảnh đất làng nghề , anh cũng tạo điều kiện cho hơn 100 công nhân ở đây có
công ăn việc làm ổn định.
Ngoài ra cũng còn có một số nghệ nhân khác như Trần Mạnh Thiều với thương
hiệu gốm Thiều, Nguyễn Minh Nhật với sản phẩm gốm Thương Nguyên…..
PHẦN 5: Hiện trạng phát triển của nghề làm gốm Phù Lãng
Hiện nay sự phát triển gốm Phù Lãng gặp rất nhiều khó khăn và chính những khó
khăn chồng chất đang tồn tại đã tác động trực tiếp đến nghề gốm truyền thống Phù
Lãng. Nếu như trước đây người Phù Lãng sống chết, ăn ngủ cùng gốm thì giờ đây
chỉ còn rất ít lò gốm “sáng lửa và tỏa khói”. Các sản phẩm gốm Phù Lãng ngày nay
đa phần là đồ gia dụng cấp thấp được chất lên xe thồ bán dạo phục vụ nhu cầu địa
bàn và một vài tỉnh lân cận.
Việc giảm dần các lò gốm, cùng giá trị kinh tế thấp của sản phẩm đã tác động
không nhỏ đến tâm lý người làng nghề đặc biệt là chất lượng sản phẩm. Cùng với
sự thu nhỏ làng nghề, gốm Phù Lãng cũng phải đối mặt với thực trạng mất chỗ
đứng trên thị trường tiêu dùng bởi chất lượng mẫu mã sản phẩm.
Nhiều người tâm huyết với gốm Phù Lãng không khỏi xót xa lo lắng khi chứng
kiến gốm Phù Lãng cứ đều đều ra lò song lại theo một quy trình cẩu thả, trượt xa
về mặt chất lượng so với các sản phẩm của các nước trong khu vực như: Trung
Quốc, Nhật Bản.... Trước kia người Phù Lãng luôn đặt công thức sản xuất: “Nhất
xương nhì da, thứ ba dạc lò” hay “Đời cha luyện đất đời con làm đồ” lên hàng đầu.
Ngày nay, dưới sức ép của thời hạn hợp đồng, người sản xuất gốm đã không ngần
ngại bỏ qua các khâu xử lý kỹ thuật về xương, men gốm... Thậm chí, đất luyện đến
đâu được cho vào lò đến đó, các công đoạn chế tạo men, bí quyết của nghệ nhân bị
bỏ qua và thất truyền. Sẵn khuôn sẵn mẫu, người thợ chỉ có công việc đắp, nặn...
rồi cho vào lò nung bởi vậy mẫu mã hàng hoá ngày càng đơn điệu, thiếu sáng tạo.


Một vài cơ sở có quy mô lớn, hướng tới mục tiêu sản xuất tạo ra những nét mộc
mạc của làng gốm Phù Lãng trên các mặt hàng trang trí, phục vụ nhu cầu trong
nước và xuất khẩu. Tuy nhiên, do chạy theo nhu cầu thị trường lại thiếu hụt đội

ngũ nghệ nhân lành nghề nên gốm trang trí phần nhiều là những mẫu sao chép,
nhái lại...
Khi nghề truyền thống không đủ sức mạnh để nuôi sống, lôi cuốn, để người lao
động tâm huyết với nghề thì cũng đồng nghĩa với việc mất dần nghệ nhân. Cho đến
nay số nghệ nhân còn lại của Phù Lãng nhiều lắm cũng chỉ đếm trên đầu ngón tay.
Tre thì cứ già mà măng thì chẳng mọc. Việc đào tạo nghệ nhân, lưu giữ nghề
truyền thống, xây dựng một thương hiệu gốm Phù Lãng dường như vẫn là bài toán
khó giải mà các cấp có thẩm quyền đang bỏ ngỏ. Và, cũng thật khó mà đòi hỏi sự
bình tâm sáng tạo của các nghệ nhân trong bối cảnh thị trường gốm sứ luôn sôi
động mà người làng nghề thì vẫn nghèo khó nên không thể dành nhiều thời gian
cho các ý tưởng ra đời.
PHẦN 6: Giải pháp.
Vấn đề bảo tồn và phát huy các giá trị của làng nghề luôn là bài toán, là thách thức
đồng thời cũng là mục tiêu hướng đến của các nhà quản lý, các doanh nghiệp, làng
nghề trong điều kiện mới, thời kỳ CNH – HĐH đất nước. Các giải pháp tác giả đưa
ra dưới đây hi vọng sẽ phần nào đó giúp các làng nghề và những đơn vị liên quan
giải quyết được những khó khăn, bất cập đang tồn tại, mặt khác đó cũng là những
việc làm cần thiết cho công tác bảo tồn và phát triển làng nghề hiện nay.
Thứ nhất, cơ chế chính sách và nguồn vốn:
Ngày 24 tháng 11 năm 2000 Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số
132/2000/QĐ-TTg về một số chính sách khuyến khích phát triển ngành nghề nông
thôn; tiếp đó là Nghị định số 66/2006/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 7
tháng 7 năm 2006 về phát triển ngành nghề nông thôn với các chính sách, chủ
trương quan trọng nhằm khuyến khích ngành nghề nông thôn, các doanh nghiệp,
làng nghề phát triển. Cần đề ra những chính sách mềm dẻo, có cơ chế thông
thoáng, khuyến khích sự đầu tư của các nguồn vốn trong và ngoài nước vào các
hoạt động phát triển du lịch làng nghề, bảo tồn tài nguyên thiên nhiên và các giá trị
văn hóa tại đây.
Thứ hai, tìm đầu ra cho sản phẩm:
Việc tìm kiếm thị trường, dự báo và phân khúc thị trường là những công việc có ý

nghĩa hết sức quan trọng để tìm đầu ra cho sản phẩm của làng nghề. Hiện nay,


nhiều sản phẩm tại các làng nghề sản xuất ra nhưng lại bị tồn kho không có hướng
giải quyết, điều cần thiết trước mắt là tìm thị trường cho các sản phẩm ấy, kích cầu
trong nước là giải pháp trước tiên và lâu dài. Cần thiết phải có các khu trưng bày
sản phẩm của làng nghề.
Việc ký kết bán hàng độc quyền cho 1 số quốc gia ví như việc làm của cơ sở sản
xuất gốm Nhung đang làm với Nhật Bản được xem là hướng đi mới, bền lâu và
hiệu quả để các cơ sở sản xuất gốm khác cần học tập và đi theo. Cùng với đó là
công tác đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu tại chỗ thông qua việc phát triển hoạt động
du lịch làng nghề đây là con đường nhanh nhất để đưa khách hàng tới với sản
phẩm làng nghề, là biện pháp quảng cáo hữu hiệu nhất và có sức lan tỏa lớn không
chỉ đối với người dân đất Việt mà còn với bạn bè thế giới.
Thứ ba, đào tạo nguồn nhân lực:
Cần có các biện pháp tôn vinh và gìn giữ các nghệ nhân tài năng như những báu
vật của quốc gia, như giữ những giá trị văn hóa dân tộc đang tồn tại trên từng sản
phẩm của làng nghề. Ngoài việc truyền nghề, dạy nghề theo lối cầm tay chỉ việc
cần phải có các lớp học trong nhà trường nhằm nâng cao hiệu quả làm nghề trong
giai đoạn hiện nay, tạo ra một đội ngũ thợ thủ công có trình độ tay nghề cao, đáp
ứng nhu cầu và đòi hỏi ngày một cao của xã hội.
Khuyến khích các làng nghề truyền thống tự mở các lớp, trung tâm dạy nghề.
Thành lập các trung tâm giới thiệu việc làm tại các làng nghề nhằm giúp người lao
động có thêm các thông tin, cơ hội tìm được việc làm phù hợp với năng lực và đam
mê của mình. Kết hợp với các trường Đại học, Cao đẳng đào tạo mang tính đặc thù
như Đại học Sư phạm Nghệ thuật Trung ương, trường Đại học Mỹ thuật Công
nghiệp,.... giúp người lao động có cơ hội được tiếp cận với những ứng dụng nghệ
thuật, công nghệ để nâng cao trình độ kỹ thuật, bồi dưỡng kỹ năng quản lý doanh
nghiệp. Đẩy mạnh việc giáo dục tinh thần yêu nước, yêu quê hương dân tộc trong
đó có giáo dục về lòng tự hào và yêu mến nghề thủ công truyền thống, làng nghề

truyền thống là rất quan trọng.
Bốn là, phát triển làng nghề truyền thống gắn với du lịch:
“Làng nghề truyền thống được xem là một dạng tài nguyên du lịch nhân văn có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng. Bởi các sản phẩm du lịch làng nghề luôn bao gồm trong
nó cả nội dung giá trị vật thể và phi vật thể” Phát triển du lịch làng nghề chính là
giải pháp tạo xuất khẩu tại chỗ các sản phẩm của làng nghề thông qua việc tham
quan mua sắm của du khách trong các chương trình du lịch làng nghề. Các cơ quan


chức năng của Tổng cục Du lịch phải có biện pháp phối hợp quản lý, chỉ đạo giữa
địa phương với các công ty lữ hành tiến hành mở tour đến Phù Lãng. Hình thành
tuyến du lịch gốm sứ: Hà Nội – Bát Tràng – Phù Lãng (Bắc Ninh) – Chu Đậu (Hải
Dương). Tuyến du lịch văn hóa tâm linh – làng nghề ví dụ như: Hà Nội – Đền Đô –
Chùa Dâu – gốm Phù Lãng.
Nghiên cứu về mô hình du lịch sinh thái cộng đồng, tại khu vực có thể phù hợp
với những thị trường khách như: khách du khảo đồng quê, khách du lịch tìm hiểu
về làng nghề, khách dã ngoại....; Khai thác các sản phẩm hàng hóa trong vùng (do
người dân địa phương sản xuất) phục vụ nhu cầu mua sắm hàng, quà lưu niệm của
du khách...
Thứ năm, đầu tư, cải tạo và nâng cấp cơ sở hạ tầng kỹ thuật:
Nâng cấp xây dựng hoàn thiện các cơ sở vật chất dọc theo tuyến đường từ
Quốc lộ 18 đi vào làng và tới các xưởng sản xuất. Xây dựng khu tập kết nguyên
liệu chung. Tăng cường các dịch vụ vận chuyển thô sơ tại địa phương vào hoạt
động du lịch như xe đạp, xe bò, thuyền bè chèo tay… vừa tạo tính gắn kết vừa tạo
nét độc đáo của làng nghề.
Thứ sáu,xây dựng thương hiệu cho làng nghề:
Đối với làng nghề truyền thống như làng nghề gốm Phù Lãng thì việc tạo
dựng thành công thương hiệu sẽ kéo theo hiệu quả kinh doanh tăng lên và đòi hỏi
chất lượng sản phẩm tương ứng để có thể cam kết giữ vững niềm tin nơi khách
hàng; thương hiệu chính là kênh quảng cáo hiệu quả nhất, nhanh nhất cho sản

phẩm; tránh được những rủi ro trong việc bị mất thương hiệu vào tay các cơ sở sản
xuất khác.
Thứ bảy, liên kết, hợp tác bền vững theo thế kiềng ba chân: Nhà thiết kế, sản xuất –
Nhà doanh nghiệp – Nhà quản lý:
Quá trình liên kết, hợp tác để đưa từ ý tưởng, sáng tạo đến sản xuất rồi tiêu thụ sản
phẩm dưới sự quan tâm, chỉ đạo của các cấp quản lý diễn ra nhuần nhuyễn bao
nhiêu thì hiệu quả kinh tế, xã hội của quá trình phát triển nghề thủ công truyền
thống càng thuận lợi và tốt đẹp bấy nhiêu.
Thứ tám, chiến lược cạnh tranh:
Cạnh tranh bằng sự khác biêt (differentiation). Cần xem đây là phương hướng,
chiến lược cạnh tranh cơ bản, quan trọng và lâu dài nhất.


Cạnh tranh bằng giá (cost leadership). Là phương thức quen thuộc của các đơn vị
sản xuất. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay không nên xem đây là chiến lược
cạnh tranh chính.
Đầu tư tập trung, đúng mực (Investment focus)
Nói tóm lại, làng nghề là tài sản quý giá không chỉ của địa phương nói riêng mà
của cả nước nói chung, cần thiết phải bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa tại đó.
Tuy quan trọng là vậy nhưng, sự quan tâm đầu tư phát triển làng nghề còn chưa
được chú trọng, ưu tiên. Những năm gần đây, làng nghề nói chung và làng nghề
gốm Phù Lãng nói riêng đang có những bước phát triển đồng đều trên các bình
diện về kinh tế - văn hóa – xã hội và môi trường, hướng gần nhất đến sự phát triển
bền vững. Đó là tín hiệu vui và là hi vọng cho sự phát triển mạnh mẽ trở lại của các
làng nghề Việt trong bối cảnh kinh tế - văn hóa – xã hội hiện nay.



×