Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

ỨNG DỤNG LÝ THUYẾT hội THOẠI VÀO DẠY tập LÀM văn NÓI CHO HỌC SINH lớp 2, 3 ở TRƯỜNG TIỂU HỌC số 2 bắc LÝ – ĐỒNG hới – QUẢNG BÌNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.55 MB, 94 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH
KHOA SƯ PHẠM TIỂU HỌC - MẦM NON
-----------------

TRƯƠNG THỊ NHƯ QUỲNH

ỨNG DỤNG LÝ THUYẾT HỘI THOẠI VÀO DẠY
TẬP LÀM VĂN NÓI CHO HOC SINH LỚP 2, 3 Ở TRƯỜNG
TIỂU HỌC SỐ 2 BẮC LÝ – ĐỒNG HỚI – QUẢNG BÌNH

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

NGÀNH: GIÁO DỤC TIỂU HỌC
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: 2012 - 2016

Người hướng dẫn khoa học:
TS. NGUYỄN THỊ NGA

QUẢNG BÌNH, NĂM 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan công trình nghiên cứu này là của riêng tôi, các số liệu và kết
quả trong khóa luận là trung thực và chưa được công bố trong bất kì công trình nào
khác.

Tác giả

Trương Thị Như Quỳnh



Lời Cảm Ơn
Trong suốt quá trình hoàn thành khóa luận
này, tôi đã may mắn nhận được sự hướng dẫn,
giúp đỡ quý báu của quý thầy cô, bạn bè,
người thân.
Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tôi xin
được bày tỏ lời cảm ơn chân thành tới quý thầy
cô trong Khoa Sư phạm Tiểu hoc – Mầm non, Trường
Đại học Quảng Bình đã tận tình giảng dạy tôi trong
suốt quá trình tôi tham gia học tập tại cơ sở đào
tạo.
Xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn đến Tiến
só Nguyễn Thò Nga người đã không quản ngại khó
khăn hướng dẫn cho tôi nghiên cứu và thực hiện
khóa luận.
Xin gửi lời cảm ơn đến Ban giám hiệu, các
giáo viên cùng các học sinh Trường Tiểu học số
II Bắc Lý đã hợp tác và giúp đỡ tận tình tôi
trong suốt quá trình thực hiện khóa luận.
Một lời cảm ơn nữa xin gửi đến gia đình và
những người bạn đã luôn giúp đỡ, động viên,
có những ý kiến đóng góp hết sức bổ ích giúp
tôi hoàn thành khóa luận này.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng song không
tránh khỏi những thiếu sót nhất đònh. Kính mong
nhận được ý kiến đóng góp của hội đồng khoa
học để khóa luận được hoàn thện hơn.
Xin chân thành cảm ơn.



Đồng
năm 2016

Hới,

tháng

5

Tác giả: Trương Thò Như
Quỳnh


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

TT

Viết tắt

Nghĩa đầy đủ

1

TLV

Tập làm văn

2


GV

Giáo viên

3

HS

Học sinh

4

TN

Thử nghiệm

5

ĐC

Đối chứng

6

BT

Bài tập

7


SGK

Sách giáo khoa


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài: ........................................................................................................1
2. Lịch sử vấn đề: ............................................................................................................2
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài: ..................................................................................3
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu của đề tài: ...........................................................4
5. Giả thuyết khoa học: ....................................................................................................4
6. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài: .................................................................................4
7. Giới hạn nghiên cứu của đề tài: ...................................................................................4
8. Phương pháp nghiên cứu của đề tài:............................................................................4
9. Đóng góp mới của đề tài: ............................................................................................5
10. Thời gian thực hiện đề tài ..........................................................................................5
11. Cấu trúc đề tài ............................................................................................................5
PHẦN NỘI DUNG ..........................................................................................................6
CHƯƠNG I: CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC DẠY ....................................................6
TẬP LÀM VĂN NÓI ......................................................................................................6
1.1. CƠ SỞ LÍ THUYẾT .................................................................................................6
1.1.1. Lý thuyết hội thoại.................................................................................................6
1.1.2. Cơ sở tâm lí học:..................................................................................................14
1.1.3. Cơ sở của việc dạy nói.........................................................................................16
1.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN ..............................................................................................18
1.2.1 Nội dung chương trình dạy – học Tập làm văn nói ở lớp 2, 3 .............................18

1.2.2. Các kiểu bài tập dạy hội thoại trong tập làm văn nói ở lớp 2, 3: ........................21
1.3 THỰC TRẠNG DẠY – HỌC TẬP LÀM VĂN NÓI CHO HỌC SINH LỚP 2: ...30
1.3.1. Qua dự giờ: ..........................................................................................................30
1.3.2 Qua phiếu hỏi .......................................................................................................32
1.3.3 Nhận xét:...............................................................................................................36
CHƯƠNG II: ĐỀ XUẤT CÁC BIỆN PHÁP DẠY TẬP LÀM VĂN NÓI ..................38
CHO HỌC SINH LỚP 2 TRƯỜNG TIỂU HỌC SỐ 2 BẮC LÍ THEO .......................38
LÍ THUYẾT HỘI THOẠI .............................................................................................38
2.1. NÂNG CAO NHẬN THỨC CHO GIÁO VIÊN TIỂU HỌC VỀ VAI TRÒ, Ý
NGHĨA CỦA VIỆC VẬN DỤNG LÍ THUYẾT HỘI THOẠI VÀO DẠY TẬP LÀM
VĂN NÓI ......................................................................................................................38
2.1.1 Vai trò, ý nghĩa của việc vận dụng lí thuyết hội thoại vào dạy Tập làm văn nói. 38


2.1.2 Một số điểm chú ý trong dạy tập làm văn nói cho học sinh Tiểu học: ................39
2.2. VẬN DỤNG LINH HOẠT CÁC PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TIẾNG VIỆT ĐỂ
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY – HỌC TẬP LÀM VĂN NÓI THEO LÍ
THUYẾT HỘI THOẠI..................................................................................................42
2.2.1 Phương pháp rèn luyện theo mẫu: ........................................................................43
2.2.2 Phương pháp giao tiếp ..........................................................................................45
2.2.3 Các bước vận dụng lí thuyết hội thoại, tích hợp giáo dục văn hóa giao tiếp vào
dạy tập làm văn nói. .......................................................................................................48
2.3. ĐỔI MỚI CÁC HÌNH THỨC TỔ CHỨC DẠY HỌC TẬP LÀM VĂN NÓI
THEO HƯỚNG VẬN DỤNG LÍ THUYẾT HỘI THOẠI. ..........................................53
2.3.1. Hình thức tổ chức đóng vai: ...............................................................................53
2.3.2. Hình thức tổ chức thảo luận nhóm: .....................................................................55
2.3.3. Hình thức tổ chức đàm thoại ...............................................................................56
2.3.4. Hình thức tổ chức diễn giảng ..............................................................................57
2.4. TĂNG CƯỜNG CÁC HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC NGOÀI GIỜ LÊN LỚP ........57
CHƯƠNG III: THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM TẠI TRƯỜNG TIỂU HỌC SỐ 2 BẮC

LÍ ...................................................................................................................................59
3.1 MỤC ĐÍCH THỰC NGHIỆM: ...............................................................................59
3.2. Nội dung thực nghiệm ............................................................................................59
3.3. ĐỐI TƯỢNG VÀ ĐỊA BÀN THỰC NGHIỆM: ...................................................61
3.4. KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM..................................................................................62
3.4.1. Kết quả định tính (qua điều tra quan sát và phiếu hỏi)........................................62
3.4.2. Kết quả định lượng (qua các bài kiểm tra) ..........................................................62
3.4.3.Nhận xét chung .....................................................................................................63
PHẦN KẾT LUẬN .......................................................................................................85
TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................................86


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Có thể nói, quan điểm phát triển lời nói là một trong những phương hướng xây
dựng chương trình môn Tiếng Việt cải cách giáo dục ở Tiểu học. Sự phát triển của ngữ
dụng học trong những năm gần đây đã đặt giao tiếp và hội thoại vào một vị thế mới.
Trong chương trình Tiếng Việt Tiểu học, hội thoại gắn với tình huống giao tiếp
đã trở thành một nội dung học tập. Phân môn Tập làm văn là phân môn có vai trò đặc
biệt quan trọng trong việc rèn kỹ năng này cho học sinh Tiểu học mà đặc biệt là trong
tập làm văn nói.
Mục tiêu của chương trình Tập làm văn lớp 2, 3 thực chất là thông qua hệ thống
các bài tập thực hành tổng hợp về Tiếng Việt, giúp hình thành và phát triển cho học
sinh các kỹ năng sử dụng Tiếng Việt để học tập, giao tiếp. Qua đó, góp phần rèn luyện
các thao tác tư duy, giáo dục tư tưởng, tình cảm và mĩ cảm cho các em.
Yêu cầu của tiết tập làm văn nói ở lớp 2 phần lớn ở mức độ bước đầu cho học
sinh làm quen với việc tạo lập ngôn bản nói qua từng công đoạn, với những yêu cầu
đơn giản như: nhắc lại lời người nói trong tranh, nói lời đáp phù hợp với tình huống đã
cho…Ở lớp 3 thì nghi thức lời nói được giảm bớt mà tăng các văn bản nhật dụng trong
cuộc sống cho các em.

Chương trình Tập làm văn nói ở lớp 2 và 3 gồm có 31 tiết (1 tiết/1 tuần) trên
tổng số 35 tuần học. Trong 4 tuần ôn tập giữa học kỳ I và giữa học kỳ II, cuối học kỳ I
và cuối học kỳ II (mỗi tuần 10 tiết). Cũng có rất nhiều bài tập thuộc phân môn Tập làm
văn.
Khi học sinh học phân môn Tập làm văn, các em sẽ được rèn luyện cả 4 kỹ
năng: nghe, nói, đọc, viết. Đặc biệt là kỹ năng nói, ở hầu hết các nội dung học sinh đều
được rèn luyện kỹ năng này, các em được rèn luyện kỹ năng trao lời, đáp lời – những
nghi thức lời nói quan trọng và phổ biến của cuộc sống, gắn với hội thoại trong những
tình huống giao tiếp cụ thể.
Thế nhưng, một nét tâm lý khá phổ biến của các thầy, cô giáo trong nhà trường
phổ thông nói chung và các thầy, cô giáo trong nhà trường Tiểu học nói riêng lại rất
ngại dạy học sinh Tập làm văn nói. Điều này có nhiều nguyên nhân, trong đó có một
nguyên nhân hết sức quan trọng là giáo viên chưa được trang bị một cách đầy đủ
những vấn đề lý thuyết về Tập làm văn nói đủ để hướng dẫn, rèn luyện cho các em
một cách có hiệu quả. Nhưng cho đến tận bây giờ, những vấn đề mang tính lý thuyết
khoa học chứ không phải là những vấn đề lí thuyết của sự đúc kết kinh nghiệm giảng
1


dạy về Tập làm văn nói, cũng vẫn chưa được nghiên cứu đầy đủ, mặc dù ai cũng thấy
được tầm quan trọng của Tập làm văn nói trong nhà trường.
Vì thế có thể nói rằng, trên con đường tìm tòi một lý thuyết riêng cho Tập làm
văn nói, lí thuyết hội thoại đã góp phần không nhỏ tạo cơ sở lí luận cho việc nghiên
cứu Tập làm văn nói ở những giai đoạn tiếp theo. Tuy vậy, trong khi chờ đợi những
kết quả nghiên cứu mới về Tập làm văn nói, chúng ta vẫn có thể sử dụng những kết
quả nghiên cứu được từ lí thuyết hội thoại ứng dụng vào dạy tập làm văn nói trong nhà
trường Tiểu học. Chắc chắn rằng, việc ứng dụng lí thuyết hội thoại vào dạy tập làm
văn nói ở trường Tiểu học cũng sẽ góp phần nào đó giúp người giáo viên – học sinh
khắc phục một số khó khăn đang mắc phải hiện nay.
Đó cũng chính là những lý do cơ bản khiến em chọn đề tài: “ỨNG DỤNG LÝ

THUYẾT HỘI THOẠI VÀO DẠY TẬP LÀM VĂN NÓI CHO HỌC SINH LỚP
2, 3 Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC SỐ 2 BẮC LÝ – ĐỒNG HỚI – QUẢNG BÌNH.”
2. Lịch sử vấn đề
2.1 Lịch sử nghiên cứu vấn đề hội thoại
Hội thoại là hoạt động cơ bản của ngôn ngữ, vì vậy lí thuyết hội thoại là một
phần không thể thiếu của ngữ dụng học. Từ năm 1970 hội thoại trở thành đối tượng
chính thức của một phân ngành ngôn ngữ học, ngành phân tích hội thoại. Cho đến nay,
ngôn ngữ học của hầu hết các quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam đều bàn đến
hội thoại.
Trong cuốn Đại cương ngôn ngữ học – tập 2 ngữ dụng học, tác giả Đỗ Hữu Châu
giải thích “Hội thoại là một hoạt động giao tiếp căn bản, thường xuyên, phổ biến trong
sự hành chức của ngôn ngữ”. Lí thuyết hội thoại là lĩnh vực nghiên cứu cuối cùng của
ngôn ngữ học quan tâm đến các diễn ngôn trong hoạt động, trong hoàn cảnh giao tiếp.
Chính vì vậy, nghiên cứu hội thoại phải nghiên cứu tổng hòa những tri thức về cấu trúc
ngôn ngữ, những tri thức ngữ dụng và cả những tri thức xã hội học, tâm lí học, văn hóa
học. Mặt khác qua nghiên cứu hội thoại, chúng ta mới có được những hiểu biết đầy đủ,
toàn diện tất cả những thành tố tạo nên ngôn ngữ và những thành phần nằm trong lĩnh
vực ngữ dụng học vốn từng được xem xét riêng lẽ trước đây.
Ở cuốn Dụng học Việt ngữ, tác giả Nguyễn Thiện Giáp đã trình bày những vấn đề
của lí thuyết hội thoại bằng những dẫn chứng sinh động cụ thể, bằng sự sáng rõ trong
phân tích, mạch lạc trong cách trình bày. Trong cuốn sách này tác giả cũng không
quên đề cập đến mối liên quan giữa văn hóa và ngôn ngữ. Ngoài hai công trình đó còn
rất nhiều những công trình nghiên cứu có tính dẫn luận về Ngữ dụng học nói chung và
lí thuyết hội thoại nói riêng.

2


- Nguyễn Đức Dân (1998), Ngữ dụng học, tập 1, NXB giáo dục.
- Đỗ Hữu Châu (2002), giáo trình giản yếu về Ngữ dụng học, NXB Đại học Quốc

gia Hà Nội.
2.2 Lịch sử nghiên cứu vấn đề dạy – học phân môn Tập làm văn nói ở trường Tiểu
học
Về phân môn Tập làm văn trong trường Tiểu học đã có rất nhiều tác giả nghiên
cứu và thể hiện rõ quan điểm của mình qua các công trình nghiên cứu như: Nguyễn
Trí, Lê Phương Nga, Nguyễn Minh Thuyết…
Tác giả Nguyễn Trí trong một công trình cùng tác giả Lê Phương Nga trong cuốn
“Phương pháp dạy học Tiếng Việt” đã thể hiện chiến lược dạy – học Tiếng Việt theo
quan điểm giao tiếp. Đó là hướng đi đúng đắn có cơ sở khoa học vững chắc song tác
giả chưa đi sâu vào vấn đề dạy Tập làm văn nói, đặc biệt là kĩ năng trao lời – đáp lời.
Trong một cuốn khác: Một số vấn đề dạy Tiếng Việt theo quan điểm giao tiếp ở
Tiểu học của tác giả Nguyễn Trí đã đưa ra được quy trình dạy Tập làm văn có vận
dụng lí thuyết hội thoại. Tuy nhiên tác giả mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu lí thuyết,
lí luận, giới thiệu kinh nghiệm ban đầu chứ chưa có được những hướng dẫn cụ thể về
việc rèn kĩ năng đáp lời – một phần quan trọng của kĩ năng nói – trong phân môn Tập
làm văn.
Ở cuốn “Một số vấn đề dạy hội thoại cho học sinh Tiểu học”, tác giả Nguyễn Trí
đã đưa ra quan điểm dùng thực hành giao tiếp để hình thành các kĩ năng nói trong dạy
Tập làm văn.
Cuốn “Luyện tập Tiếng Việt 2”, do Hoàng Văn Thung – Đỗ Xuân Thảo biên
soạn đưa ra hệ thống câu hỏi và bài tập chung cho các phân môn Tiếng Việt, phần Tập
làm văn có đưa ra một số bài tập tình huống để học sinh sản sinh lời nói thích hợp theo
nghi thức lời nói. Tuy nhiên, chương trình Tập làm văn hiện nay đã có một số thay đổi
với những dạng bài và mức độ, yêu cầu cũng phát triển hơn nên nhận định của các tác
giả cũng có phần bị hạn chế.
Những công trình nghiên cứu trên đây chưa bàn đến một cách cụ thể những vấn
đề mà đề tài quan tâm. Song đó chắc chắn là những gợi ý cần thiết định hướng cho
việc nghiên cứu đề tài “Ứng dụng lí thuyết hội thoại vào dạy Tập làm văn nói cho
học sinh lớp 2, 3 Trường Tiểu học số 2 Bắc Lý – Đồng Hới – Quảng Bình”
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài

- Làm rõ mối liên hệ chặt chẽ giữa lí thuyết hội thoại với việc rèn kĩ năng nói, kĩ
năng giao tiếp thông qua Tập làm văn nói cho học sinh lớp 2, 3.
- Làm rõ sự cần thiết của việc vận dụng lí thuyết hội thoại vào việc rèn kĩ năng
nói, kĩ năng giao tiếp cho học sinh lớp 2, 3.
3


- Làm rõ hiệu quả của việc ứng dụng lí thuyết hội thoại vào dạy Tập làm văn nói
cho học sinh lớp 2, 3.
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu của đề tài
- Khách thể: Là phân môn Tập làm văn 2, 3 và học sinh lớp 2, 3 giáo viên dạy
lớp 2, 3.
- Đối tượng nghiên cứu: Lí thuyết hội thoại, phân môn Tập làm văn, học sinh và
giáo viên khối lớp 2, 3
5. Giả thuyết khoa học
Đề tài thực hiện thành công sẽ giúp học sinh rèn kĩ năng nói, kĩ năng giao tiếp
phù hợp với hoàn cảnh giao tiếp sao cho đúng cấu trúc và quy tắc hội thoại. Từ đó có ý
thức rèn luyện kĩ năng nói, kĩ năng giao tiếp tích cực, yêu thích phân môn Tập làm
văn, yêu thích bộ môn Tiếng Việt, yêu thích tiếng mẹ đẻ cũng như tôn trọng nó và có
mĩ cảm trong giao tiếp, ứng xử của người học sinh.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
- Nghiên cứu về lí thuyết hội thoại
- Nghiên cứu về đặc điểm tâm lí và ngôn ngữ lứa tuổi lớp 2, 3
- Nghiên cứu về chương trình SGK, tài liệu giảng dạy thực tế thuộc phân môn
Tập làm văn nói ở lớp 2, 3
- Thực nghiệm sư phạm
7. Giới hạn nghiên cứu của đề tài
- Sơ lược về lí thuyết hội thoại
- Phân môn Tập làm văn nói ở lớp 2, 3
- Trường Tiểu học số 2 Bắc Lý

8. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
* Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận
* Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp quan sát sư phạm: Phương pháp này được sử dụng khi thực hiện
nghiên cứu, quan sát thực tiễn diễn ra của quá trình dạy học Tập làm văn nói ở lớp 2, 3
– Trường Tiểu học số 2 Bắc Lý.
- Phương pháp phân tích và tổng hợp các tài liệu: Phương pháp này được sử
dụng khi nghiên cứu, phân tích các tài liệu về lí thuyết hội thoại, các tài liệu về tâm lí
lứa tuổi, đặc điểm ngôn ngữ lứa tuổi của học sinh Tiểu học, các tài liệu về chương
trình, SGK, phương pháp dạy học đặc biệt là tài liệu về việc đổi mới phương pháp

4


trong dạy Tập làm văn nói cho học sinh lớp 2, 3 theo hướng vận dụng lí thuyết hội
thoại.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm giáo dục: Sử dụng phương pháp này vào
quá trình phân tích thực tiễn, quá trình dạy - học Tập làm văn ở trường Tiểu học từ đó
nhằm rút ra nghững lí luận giáo dục cần thiết.
- Phương pháp thực nghiệm: Phương pháp này vận dụng trong quá trình quan
sát, dự giờ, tìm hiểu để nắm bắt tình hình dạy học Tập làm văn nói cho học sinh lớp 2,
3 bao gồm: Hoạt động dạy – học, chất lượng dạy – học để rút ra được những nhận định
về thực trạng cũng như hướng phát triển của phương pháp dạy Tập làm văn nói cho
học sinh lớp 2, 3 hiện nay. Phương pháp này cũng vận dụng trong việc định hướng
thiết kế các bài dạy Tập làm văn nói vận dụng từ lí thuyết hội thoại.
9. Đóng góp mới của đề tài
Đề tài mong muốn góp một phần tích cực trong việc dạy – học Tập làm văn nói,
giúp người giáo viên có lựa chọn và vận dụng phương pháp dạy học Tập làm văn nói
phù hợp, giúp học sinh nâng cao kĩ năng hội thoại, kĩ năng giao tiếp của mình.
10. Thời gian thực hiện đề tài

Từ ngày 15 /02/2016 đến 05/2016
11. Cấu trúc đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và phụ lục, khóa luận được chia thành 3 chương:
Chương I: Cơ sở khoa học của việc dạy Tập làm văn nói
Chương II: Đề xuất các biện pháp dạy Tập làm văn nói cho học sinh lớp 2, 3
trường Tiểu học số 2 Bắc Lý theo lí thuyết hội thoại
Chương III: Thực nghiệm sư phạm

5


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC DẠY
TẬP LÀM VĂN NÓI
1.1. CƠ SỞ LÍ THUYẾT
1.1.1. Lý thuyết hội thoại
* Khái niệm hội thoại
Hội thoại là hoạt động giao tiếp bằng lời ở dạng nói giữa các nhân vật giao tiếp.
nhằm thay đổi các nội dung miêu tả và liên cá nhân theo đích được đặt ra.[4]
Hội thoại là hoạt động giao tiếp bằng miệng giữa các nhân vật tham dự giao tiếp
nhằm trao đổi những thông tin hoặc trao đổi tư tưởng, tình cảm…theo một mục đích
đã được đặt ra.[10]
Để có thể đi sâu hơn nữa vào việc tìm hiểu hội thoại, chúng ta cùng xem xét đoạn
trích sau:
- Mẹ Sơn: Chào cháu
- Nam: Cháu chào cô ạ!
- Mẹ Sơn: Cháu cho cô hỏi đây có phải nhà bạn Sơn không?
- Nam: Vâng ạ! Cháu là Nam đây! Cô hỏi gì cháu ạ?
- Mẹ Sơn: Tốt quá cô là mẹ bạn Sơn đây
- Nam: Thế ạ!

- Mẹ Sơn: Sơn bị sốt. Cô nhờ cháu chuyển giúp cô đơn xin phép cho Sơn nghỉ
học.
- Nam: Vâng ạ. Cháu sẽ chuyển
(Tập làm văn 2 –tập 2- tr12)
Trên đây là nội dung của bài tập 3 – tiết Tập làm văn đáp lời chào, lời tự giới
thiệu – sách Tiếng Việt 2- tập 2- tr12
Cuộc nói chuyện trên đây là một cuộc hội thoại
Hội thoại có thể chia thành nhiều kiểu khác nhau tùy thuộc vào những nhân tố
giao tiếp được lấy làm cơ sở phân chia
Nếu dựa vào nhân vật tham dự giao tiếp, chúng ta có thể có các kiểu hội thoại
sau:
- Xét về số lượng người tham gia hội thoại, ta có: hội thoại giữa hai người (song
thoại), ba người (tam thoại), bốn người (tứ thoại) hoặc nhiều người hơn nữa (đa thoại).
Hội thoại trong đoạn trích trên là song thoại.
- Xét về sự hiện diện hay không hiện diện của những người tham gia hội thoại, ta
có: Hội thoại đều có mặt người nói và người nghe, hội thoại chỉ có mặt người nói và
6


vắng mặt người nghe (nói trên đài phát thanh, truyền hình). Cuộc hội thoại trên là cuộc
hội thoại trực tiếp, có sự hiện diện của cả người nói lẫn cả người nghe.
- Xét về tính chủ động hay thụ động trong việc tham gia hội thoại, ta có: Hội
thoại giữa người nói và người nghe, cả hai đều chủ động tham gia, hội thoại chỉ có một
người chủ động nói còn những người khác chỉ nghe. Cuộc hội thoại đang được chúng
ta nhắc tới trong ví dụ trên là cuộc hội thoại mà cả hai đều chủ động tham gia giao
tiếp.
- Xét về mối quan hệ vị thế trong hội thoại, ta có: hội thoại trong quan hệ bố
mẹ/con cái, thầy giáo/ học sinh…Cuộc hội thoại trên là cuộc hội thoại giữa một người
lớn tuổi với một người nhỏ tuổi hơn.
Nếu dựa vào nội dung đề tài được thể hiện trong hội thoại, chúng ta lại có thể

chia thành các kiểu hội thoại sau:
- Xét theo phạm vi xã hội của đề tài hội thoại
- Xét theo tính chất tự do hay bắt buộc của đề tài trong hội thoại.
Nếu căn cứ vào hoàn cảnh giao tiếp hẹp diễn ra hội thoại chúng ta chia hội thoại
thành.
- Hội thoại có tính chất nghi thức chính thức, mang tính chất quy phạm
- Hội thoại không mang tính nghi thức
Như vậy, để giao tiếp có hiệu quả, bên cạnh việc nắm các quy tắc ngôn ngữ để
xây dựng ngôn bản, chúng ta còn phải nắm các quy tắc nói năng để chủ động tạo ra
những lời nói phù hợp với hoàn cảnh giao tiếp miệng.
1.1.1.1. Các vận động hội thoại
Khi theo dõi một cuộc hội thoại, ví dụ như cuộc hội thoại giữa Nam và mẹ Sơn
đã dẫn ra ở trên, chúng ta có thể hình dung được những nét chung nhất về những vận
động chính trong một cuộc hội thoại. Đó là sự vận động trao lời, sự vận động đáp lời
và sự vận động tương tác. Chúng ta sẽ cùng xem xét về các vận động này.
a, Vận động trao lời
Trong một cuộc thoại, một người nào đó nói ra, hướng tới người nghe đang ở
trước mặt, ta gọi vận động đó là vận động trao lời. Lời trao có những đặc điểm riêng
khác biệt về nội dung và hình thức với lời đáp. Do đó, khi đóng vai trò là người trao
lời, người nói cần đảm bảo một số yêu cầu nhất định.
- Biết tự quy chiếu vị thế xã hội trong việc trao lời. Tùy vào mối quan hệ xã hội,
tuổi tác, trình độ học vấn…giữa người nghe và người trao mà người trao lời sẽ chọn
một từ xưng hô phù hợp nhất. Xác định vị thế xã hội sai thì việc giao tiếp chắc chắn sẽ
không đạt hiệu quả.
7


- Giữ vai trò khởi xướng hội thoại, lời trao phải biết định hướng hội thoại, nêu đề
tài hội thoại và thường giữ thế chủ động lái hội thoại theo chiều đã định.
- Phải bộc lộ rõ ràng sự quan tâm, chú ý đến nội dung cuộc thoại và thể hiện

được thái độ, tình cảm, sự tôn trọng của người trao lời đối với người nghe.
Tóm lại, trong hội thoại lời trao có những yêu cầu riêng, thường sẽ bị quy định từ
cả phía người nghe những nghi thức giao tiếp, những chuẩn mực giao tiếp do xã hội
quy định.
b, Vận động đáp lời
Sự đáp lời là một nhu cầu bức thiết của việc nói năng. Trong thực tế, khi đã có
trao lời thường có đáp lời dù việc đáp lời đó có khi chỉ là một hành động, một cử chỉ
hay là một sự im lặng. Nhưng ở đây chúng ta tạm gạt ra ngoài những hành động đáp
lời phi ngôn ngữ mà chỉ tập trung những hành động đáp lời mang tính ngôn ngữ. Vì
thế chúng ta coi khi đã có trao lời mà không có đáp lời thì không thành hội thoại.
Vận động trao lời và vận động đáp lời là vận động cơ bản của hội thoại. Vận
động trao đáp chịu sự chi phối bởi:
- Sự có mặt của người nghe trong lời trao và trong lời đáp
- Vị thế xã hội
Vận động trao lời và đáp lời phải là một sự vận động cần có sự phối hợp nhịp
nhàng. Trao lời phải lịch sự, văn hóa thì đáp lời phải cởi mở, nhiệt tình. Nếu giữa trao
lời và đáp lời thiếu sự hòa nhập, liên kết hay không có sự tích cực cộng tác thì đó là
dấu hiệu tan vỡ mối quan hệ giữa các đối tượng tham gia hội thoại.
c, Vận động tương tác
Vận động tương tác là vận động tác động lẫn nhau, cùng làm cho nhau biến đổi.
Hội thoại là một vận động tương tác.
Có thể chia vận động hội thoại thành hai phương diện tương tác chính.
- Tương tác đối với nhân vật giao tiếp
- Tương tác đối với chính cuộc hội thoại.
Muốn cuộc hội thoại tiến triển theo hướng mong muốn cần có sự hòa phối hội
thoại giữa những người tham dự giao tiếp. Sự hòa phối trong hội thoại được thực hiện
bằng hệ thống các lượt lời và bằng những yếu tố phi ngôn ngữ như nét mặt, cử chỉ,
động tác…
Lượt lời là một lời trao mà đến lượt mình một nhân vật phải nói, khi nhân vật kia
đã kết thúc lời trao.Trong hội thoại có sự luân phiên lượt lời giữa những người tham

gia giao tiếp.

8


Sự hòa phối tốt là sự hòa phối nhịp nhàng giữa lời người nói và lời người nghe.
Điều quan trọng là người tham dự giao tiếp phải chú ý tiếp nối lượt lời của mình đúng
lúc, đúng chỗ, đảm bảo cuộc hội thoại được tiến hành liền mạch.[10]
1.1.1.2. Các quy tắc hội thoại
a, Quy tắc thương lượng hội thoại.
Thương lượng hội thoại là sự thỏa thuận giữa những người tham dự giao tiếp về
đề tài, về nội dung, về vị thế giao tiếp… để việc giao tiếp được tiến hành thuận lợi.
Khi đã có sự thỏa thuận thống nhất, việc giao tiếp mới có thể tiếp tục. Sự thương
lượng thường nhằm vào một số điểm chính sau:
- Thương lượng về hình thức hội thoại.
- Thương lượng về nội dung hội thoại.
- Thương lượng về cấu trúc hội thoại.
Việc kết thúc có thể là lời cảm ơn, lời tạm biệt, lời hứa hẹn hoặc lời nhắn nhủ, lời
khuyên răn, cảnh báo.
VD: Đoạn thoại trong phần a của bài tập 2 (tiết Tập làm văn đáp lời đồng ý,
sách Tiếng Việt 2, tập 2, tr 66).
- Hương cho tớ mượn cái tẩy nhé.
- Ừ.
- Cảm ơn cậu nhé.
(Tập làm văn 2 – tập 2 – tr66)
- Thương lượng về vị thế hội thoại.
b, Quy tắc luân phiên lượt lời.
Khi có hai người tham dự giao tiếp thì hai người này phải biết luân phiên lượt lời
cho nhau. Khi người này nói, người kia phải biết nhường lời, phải biết dừng lại để
nghe. Dấu hiệu của sự kết thúc lượt lời là sự trọn vẹn về ý, về cú pháp, ngữ điệu, các

câu hỏi, các kiểu từ tình thái cuối câu như: “nhé”, “ nghen”, “đấy”, “hả”,…
Trong sự luân phiên lượt lời, những cặp kế cận là lõi của một cuộc hội thoại. Cặp
lượt lời kế cận là những cặp có sự hòa phối chặt chẽ với nhau.
VD:
- Mẹ Sơn: Cháu cho cô hỏi đây phải nhà bạn Nam không?
- Sơn: Vâng ạ! Cháu là Nam đây. Cô hỏi gì cháu đấy ạ?
Cặp lượt lời trên là cặp kế cận.
Quy tắc luân phiên lượt lời không phải lúc nào cũng được chỉ ra rành mạch
nhưng rõ ràng quy tắc này có sự chi phối hội thoại buộc những người tham gia hội
9


thoại phải có sự chú ý đến việc trao – đáp lời cũng như nhường lời, tiếp lời trong quá
trình giao tiếp. Dấu hiệu của sự kết thúc lượt lời là sự trọn vẹn về ý, về cú pháp, ngữ
điệu, các câu hỏi, các kiểu từ tình thái cuối câu “nhé”, “nghe” ...
VD: Đoạn đối thoại trong phần a của Bài tập 2 (Tiết TLV Đáp lời đồng ý - sách
Tiếng Việt 2, tập 2, tr. 66):
- Hương cho tớ mượn cái tay nhé.

- Ừ.
- Cảm ơn cậu nhé.

c, Quy tắc liên kết hội thoại.
Nếu như trong hội thoại, những người giao tiếp nói với nhau theo kiểu “ông
chằng bà chuộc” hay kiểu “ông nói gà, bà nói vịt” các lời nói được ghép với nhau
một cách ngẫu nhiên thì hội thoại sẽ bất thành. Bởi thế, trong hội thoại các lượt lời
phải có sự liên kết chặt chẽ với nhau. Sự liên kết hội thoại này được thể hiện ở cả nội
dung hội thoại lẫn hình thức hội thoại.
Về nội dung, các lượt lời phải thống nhất về đề tài. Ngoài ra các lượt lời cũng cần
phải có sự thống nhất và liên kết chặt chẽ với nhau về lập luận.

Về hình thức, các lượt lời cũng cần có những dấu hiệu cụ thể. Việc dùng các
phép thế, phép lặp, phép nối…chính là những dấu hiệu liên kết hội thoại về hình thức.
d, Quy tắc tôn trọng thể diện của nhau
Chính là quy tắc buộc người tham dự giao tiếp phải giữ thể diện cho nhau. Khi
giao tiếp cả người nói lẫn người nghe cần nói sao cho phù hợp, lựa chọn lời sao cho
phù hợp để giữ được thể diện cho cả hai phía.
e, Quy tắc khiêm tốn
Quy tắc này đòi hỏi người nói khi hội thoại không nên nói về mình quá nhiều,
không nên nói lời khen, lời tán dương bản thân. Điều này khiến cho người nghe khó
chịu. Hãy nói về mình ít hơn, hãy hạ mình đi một chút thì hiệu quả giao tiếp chắc sẽ
tăng lên. Đó là điều nên lưu ý khi hội thoại.
f, Quy tắc cộng tác
Chỉ có người nói không có người nghe hoặc ngược lại thì không thành hội thoại.
Trong hội thoại cần có sự cộng tác hội thoại với nhau thì quá trình giao tiếp mới diễn
ra được. Do đó, khi hội thoại người nói cần phải:
- Nói những thông tin đúng như đích hội thoại yêu cầu
- Đừng nói những điều gì không đúng hoặc chưa đủ bằng chứng
10


- Nói những gì có quan hệ với hội thoại
- Tránh nói tối nghĩa, nói mập mờ
- Nói ngắn gọn, rõ ràng
Những quy tắc hội thoại nói trên là những quy tắc cần thiết trong hội thoại, trong
giao tiếp. Chúng ta cần tôn trọng những quy tắc này. Khi hội thoại những người nào
liên tục vi phạm những quy tắc đó thì người đó chắc chắn chưa nắm được tính văn hóa
trong giao tiếp.[10]
1.1.1.3 Các nhân tố giao tiếp và hội thoại
* Ngữ cảnh
Nhân vật hội thoại là những người tham gia hội thoại, mối quan hệ giữa các nhân

vật tham gia hội thoại rất chặt chẽ và mật thiết với nhau. Điều đó được iểu hiện qua sơ
đồ sau:
Ngữ cảnh

Hiện thực bên ngoài hội thoại

Nhân vật giao tiếp

Vai giao tiếp

Người
nói

Quan hệ liên cá nhân

Người
nghe

Vị thế xã
hội
Chức
quyền,
tuổi tác,
nghề
nghiệp, địa

11

Vị thế hội
thoại

Mạnh hoặc
yếu

Quan hệ thân
cận
Thân – Sơ
Thân thiết –
Lạnh lùng
Quý mến – Xa
lạ


Môi trường
hội thoại

Hoàn cảnh
xã hội

Hội thoại

Tình huống
hội thoại

Hiện thực –
Đề tài hội
thoại

Hiện thực bên ngoài hội thoại gồm có nhiều yếu tố tác động lẫn nhau, có thể sơ
đồ hóa như sau:


* Ngôn ngữ
Ngôn ngữ nói có đặc thù đó là có thể sử dụng tất cả các lớp từ trong vốn từ của
một ngôn ngữ.
+ Thường sử dụng các cấu trúc đơn giản, giản lược, kể cả các cách diễn đạt
không theo nguyên tắc ngữ pháp chuẩn mực…
+ Chú trọng sử dụng ngữ điệu để diễn đạt một số nội thông tin và nội liên quan
đến tình cảm, biểu đạt thái độ… của người nói.
+ Được sự phụ trợ rất nhiều và có hiệu quả của các yếu tố phi ngôn ngữ của
người tham gia hội thoại.
1.1.1.4 Cấu trúc hội thoại
a, Hành động ngôn trung
Hành động ngôn trung là đơn vị hành động nhỏ nhất tạo nên hội thoại.
Khi tìm hiểu về câu, chúng ta thấy một câu thường gồm có một nội dung miêu tả
và một cách thức nói năng nào đó thể hiện nội dung miêu tả. Cách thức nói năng ấy
chính là hành động ngôn trung. Từ một lõi miêu tả, chúng ta có thể có nhiều hành
động ngôn trung khác nhau. Ta gọi nội dung miêu tả của câu là lõi miêu tả còn hiệu
quả mà các hành động ngôn trung mang lại cho người nghe là lực ngôn trung.
b, Nghi thức ngôn trung
Nghi thức ngôn trung là việc người nói sử dụng những phương tiện ngôn ngữ để
báo cho người nghe biết hành động ngôn trung của mình dùng là hành động ngôn
trung gì.
Nếu hành động ngôn trung là hành động hỏi thì phương tiện ngôn ngữ có thể
dùng là các từ sao, phải không, gì, nào… khi hành động ngôn trung là hành động
khuyên nhủ, răn bảo thì có thể dùng các từ như: hãy đừng, chớ, nên, phải…các đấu
hiệu này được cả cộng đồng người chấp nhận và sử dụng, việc lặp đi, lặp lại chúng
12


trong giao tiếp đã hình thành nên các nghi thức ngôn trung. Việc sử dụng đúng lúc,
đúng chổ các nghi thức ngôn trung chứng tỏ sự giao tiếp có văn hóa ở những người

tham dự.
c, Các đơn vị hội thoại
Hội thoại gồm những loại đơn vị sau:
- Các đơn vị lưỡng thoại:
Đó là những đơn vị phải có ít nhất hai nhân vật giao tiếp cùng tạo nên. Đơn vị
lưỡng thoại gồm có:
+ Cuộc thoại
- + Đoạn thoại
- + Cặp thoại
- Các đơn vị đơn thoại:
- Đó là những đơn vị do một người tạo ra trong một lần trao lời. Đơn vị đơn thoại
bao gồm
+ Tham thoại
+ Hành vi ngôn ngữ
Dưới đây chúng ta chỉ xem xét những biểu hiện của các đơn vị này trong kiểu hội
thoại thường gặp nhất, đặc trưng cho những cuộc hội thoại trong xã hội. Đó là kiểu hội
thoại có sự hiện diện của các người nói và người nghe tại một địa điểm và trong một
thời gian liên tục.
* Các đơn vị lưỡng thoại
+ Cuộc thoại
Cuộc thoại là toàn bộ cuộc trao đáp, trò chuyện giữa các nhân vật tham dự hội
thoại kể từ khi kết thúc cuộc trò chuyện đó. Một cuộc thoại có thể có nhiều đề tài.
Nhiều đích mà cũng có thể có một đề tài, một đích duy nhất.
+ Đoạn thoại
Đoạn thoại chỉ là một bộ phận của cuộc thoại. Việc tách biệt đoạn thoại này với
đoạn thoại khác trong cuộc thoại phải dựa trên đề tài và đích hội thoại. Mỗi một đoạn
thoại được đánh dấu bởi một đề tài và một đích. Khi chuyển đề tài và chuyển đích ta sẽ
có một đoạn thoại khác.
Người ta có thể nhận biết được đoạn thoại trong cuộc thoại vì những dấu hiệu
hình thức của nó. Mỗi một đoạn cũng có thể có những dấu hiệu mở đoạn, thân đoạn và

kết đoạn.
+ Cặp đoạn
Cặp thoại là những cặp kế cận, gồm một hành động dẫn nhập và một hành động
hồi đáp. Tuy nhiên, một cặp thoại bình thường lại nhiều hơn hai hành động.
13


Cần chú ý phân biệt cặp thoại với lượt lời. Một cặp thoại có thể trùng với hai lượt
lời. Nhưng cũng có thể một cặp lượt lời chứa hai cặp thoại. Như vậy một hành động bộ
phận của lượt lời cùng với một hành động bộ phận của lượt lời kia lập thành một cặp
thoại chú không nhất thiết phải toàn bộ lượt lời này với toàn bộ lượt lời kia mới lập
thành một cặp thoại. Cặp thoại là đơn vị lưỡng thoại nhỏ nhất trong hội thoại.
* Các đơn vị đơn thoại
+Tham thoại
Tham thoại là đơn vị đơn thoại do một người nói ra cùng với tham thoại khác lập
thành một cặp thoại
Hai tham thoại lập thành một cặp thoại phải có một nội dung và hình thức tương
ứng với nhau. Một lượt lời có thể là một tham thoại nhưng cũng có thể là hai hoặc một
số tham thoại.
+ Hành động ngôn ngữ
Đơn vị tố thiểu tạo nên tham thoại là hành động ngôn ngữ. Mỗi một tham thoại
cần được đáp lại bằng một hành động ngôn trung tương ứng, phù hợp. Nhưng một
tham thoại có thể do nhiều hành động ngôn ngữ tạo nên, song trong đó chỉ có một
hành động đòi hỏi người nghe phải sử dụng một hành động ngôn trung tương ứng đáp
lại, còn hành động kí thì không cần.[10]
1.1.2. Cơ sở tâm lí học
1.1.2.1. Đặc điểm tâm lí của lứa tuổi học sinh Tiểu học
Trong hoạt dộng học và các hoạt động khác, tâm lí học sinh Tiểu học được hình
thành và phát triển đạt trình độ mới. Đó là quá trình tâm lí có chủ định, như chú ý có
chủ định, ghi nhớ có chủ định, tư duy, logic…Đặc biệt nhờ có hoạt động học được tổ

chức một cách khoa học mà ở học sinh tiểu học hình thành được những cơ sở ban đầu
của kiểu tư duy mới ( tư duy khoa học hay còn gọi là tư duy lí luận), mà trước khi đến
trường hay học theo phương pháp cũ các em không thể đạt được. Đó là tiền đề tốt đẹp
cho việc hình thành ở học sinh mối quan hệ có tính sáng tạo đối với thế giới xung
quanh.
Học sinh tiểu học có tình cảm hồn nhiên, mang nặng màu sắc cảm tính. Cùng với
quá trình học tập và phát triển tâm lí, tình cảm đó được củng cố và phát triển trên cơ sở
nhận thức ngày càng đứng đắn hơn, đầy đủ và chuẩn mực hơn của các mối liên hệ
trong cuộc sống của các em.
Có thể nói, ở mỗi độ tuổi khác nhau, việc tiếp nhận tiếng mẹ đẻ của trẻ đều chịu
sự chi phối của sự phát triển tâm sinh lí. Dạy Tiếng Việt nói chung, dạy tập làm văn
nói riêng, chúng ta phải chú ý đến đặc điểm tâm lí lứa tuổ để từ đó tìm ra phương
hướng, biện pháp giảng dạy thích hợp. Đối với học sinh lớp 2, 3 ở độ tuổi này thì đặc
14


điểm của tri giác còn đượm màu sắc cảm xúc, chưa có khả năng quan sát tinh tế, chú ý
đến các chi tiết ngẫu nhiên, chưa có khả năng tổng hợp. Tri giác vẫn chưa thực sự
mang tính mục đích và có phương hướng rõ ràng. Khả năng tư duy vẫn còn mang tính
cảm tính, mang tính trực quan cụ thể.
Khả năng tưởng tượng của các em phát triển. Tuy nhiên quá trình tưởng tượng
còn tản mạn và ít tổ chức. Hình ảnh của tưởng tượng chưa được gọt giũa, chưa được
bền vững. Học sinh Tiểu học rất hồn nhiên và có khả năng phát triển, còn bở ngỡ. Do
đó, trong dạy học người giáo viên cần nắm chắc những đặc điểm tâm lí của các em học
sinh. Ở cùng một độ tuổi nhưng sự phát triển tâm lí của các em khác nhau. Các em
thường tiếp nhận những hình ảnh cảm tính, những biểu tượng cụ thể. Chương trình tập
làm văn ở Tiểu học nói chung và ở lớp 2, 3 nói riêng đã bước đầu chú ý đến đặc điểm
tâm sinh lí lứa tuổi để xây dựng nội dung cũng như cấu trúc chương trình.
Vì vậy, để có phương pháp giảng dạy đúng đắn, phù hợp, khoa học nhằm đạt
hiệu quả dạy – học cao. Bên cạnh nắm trình độ, năng lực của học sinh người giáo viên

cần nắm chắc đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi của học sinh. Như vậy, việc dạy học Tập
làm văn sẽ đạt kết quả như mong muốn.[11]
1.1.2.2. Đặc điểm ngôn ngữ của lứa tuổi học sinh lớp 2,3
Khi bước chân vào lớp 1 hầu hết các em đã có ngôn ngữ nói thành thạo. Các em
đã biết diễn đạt suy nghĩ của mình, yêu cầu của mình bằng lời nói cũng như thông hiểu
được ngôn ngữ nói của người khác. Lúc này ngôn ngữ của các em phát triển ở cả ba
mặt: ngữ âm, ngữ pháp và từ ngữ. Vốn từ của các em được tăng lên nờ học được nhiều
môn học và phạm vi tiếp xúc được mở rộng. Không chỉ là số lượng từ mà việc hiểu ý
nghĩa khái quát của từ cũng phát triển ở trẻ. Trẻ sử dụng từ ngày càng chính xác và
hợp văn cảnh hơn. Ngôn ngữ phát triển tạo điều kiện cho quá trìh nhận thức của trẻ
Tiểu học phát triển nhanh. Tư duy, tưởng tượng chỉ có thể mang tính khái quát và trừu
tượng khi dựa trên phương tiện ngôn ngữ. Do đó, việc phát triển ngôn ngữ cho học
sinh đặc biệt là ngôn ngữ nói là nhiệm vụ cực kỳ quan trọng của người giáo viên cần
chú ý chuẩn xác trong phát âm, tìm biện pháp làm giàu vốn từ cho trẻ, rèn luyện ngôn
ngữ nói cho các em ngay từ các lớp đầu bậc Tiểu học, uốn nắn kịp thời những sai sót
trong ngôn ngữ của học sinh, đặc biệt là những thói quen như nói ngọng, nói lắp, nói
trống không ,…Muốn vậy, bản thân giáo viên phải có ngôn ngữ chuẩn mực, trong sáng,
ngữ điệu phù hợp khi dạy học – giao tiếp với học sinh. Vốn từ của HS lớp 2, 3 tăng lên
rất nhiều do được học nhiều môn học, phạm vi tiếp xúc được mở rộng. Không chỉ là số
lượng từ mà việc hiểu ý nghĩa khái quát của từ cũng phát triển ở trẻ. Trẻ ngày càng
dùng từ chính xác hơn, hợp văn cảnh hơn. Có thế nói, ngôn ngữ của HS lớp 2, 3 phát
triển ở cả ba mặt: ngữ âm, ngữ pháp và từ vựng. Nhờ có ngôn ngữ viết, trẻ có khả
năng tự học mà không cần sự giúp đỡ trực tiếp của giáo viên. Ngôn ngữ phát triển đã
15


trở thành điều kiện cho các quá trình nhận thức của trẻ tiểu học phát triển mạnh. Tư
duy, tưởng tượng chỉ có thế mang tính khái quát và trừu tượng khi dựa trên phương
tiện ngôn ngữ. Vì vậy, việc phát triển ngôn ngữ cho HS là nhiệm vụ cực kì quan trọng
của GV và nhà trường Tiếu học. Trong quá trình dạy học, GV cần chú ý: chuẩn xác

trong phát âm, tìm biện pháp làm giàu vốn từ cho trẻ, rèn luyện ngôn ngữ nói, viết cho
các em ngay từ lớp 1, uốn nắn kịp thời những sai sót trong ngôn ngữ của HS, đặc biệt
là những thói quen như nói ngọng, nói lắp, nói trống không,... Muốn vậy bản thân GV
phải có ngôn ngữ chuẩn mực, trong sáng, ngữ điệu phù hợp khi dạy học - giao tiếp với
các em.[11]
1.1.3. Cơ sở của việc dạy nói
1.1.3.1. Mối quan hệ giữa hoạt động lời nói với các kỹ năng làm văn
Lý thuyết hoạt động lời nói là một lĩnh vực được các nhà khoa học nghiên cứu
trên cơ sở vận dụng những thành tựu của tâm lí học hoạt động đi sâu nghiên cứu trong
các mối quan hệ qua lại, các giai đoạn của quá trình hoạt động lời nói. Lí thuyết hoạt
động lời nói cho rằng, hành vi nói năng rất đa dạng nhưng lại có chung một cấu trúc
gồm bốn giai đoạn: định hướng, lập chương trình, hiện thực hóa và kiểm tra. Chúng
được thực hiện kế tiếp nhau một cách liên tục. Theo A.N.Lê – Ôn chép “Để giao tiếp
được trọn vẹn, về nguyên tắc, con người cần nắm được các kĩ năng: kĩ năng định
hướng giao tiếp, kĩ năng lập chương trình lời nói, kĩ năng xác định được những
phương tiện hợp lí để truyền đạt nội dung và cuối cùng là cần phải đảm bảo mối quan
hệ qua lại giữa các kĩ năng đó. Nếu như một mắt xích nào đó của hoạt động giao tiếp
bị phá hủy thì kết quả giao tiếp sẽ không hiệu quả”.[5]
Các nhà nghên cứu cũng nhận thấy, giữa hệ thống kĩ năng hoạt động lời nói và
hệ thống kĩ năng làm văn có những mối quan hệ tương đồng. Vì vậy, các kĩ năng làm
văn được dạy ở Tiểu học cũng được xây dựng trên cơ sở quy trình sản sinh lời nói.
Cấu trúc hoạt động lời nói

Hệ thống kĩ năng làm văn

1. Định hướng

- Nhận diện đặc điểm văn bản
- Phân tích đề bài, xác định yêu cầu


2. Lập chương trình

- Xác định dàn ý của bài văn đã cho

3. Hiện thực hóa chương
trình

- Kĩ năng xây dựng đoạn (chọn từ, tạo câu, viết đoạn)
- Kĩ năng liên kết các đoạn thành bài văn

4. Kiểm tra, đánh giá

- Kĩ năng phát hiện và chữa lỗi về nội dung và hình
thức diễn đạt

Bảng hệ thống hóa mối liên quan giữa cấu trúc hoạt động lời nói và kĩ năng làm
văn.
16


Hiện nay, để xem xét khái niệm lời nói được chặt chẽ, người ta thường đặt lời nói
trong các hành vi giao tiếp.
1.1.3.2 Ngôn bản nói và việc tạo lập ngôn bản nói theo hướng giao tiếp
Hiểu một cách khái quát, dạng nói của ngôn bản là sự giao tiếp bằng âm thanh
diễn ra trực tiếp giữa người nói và người nghe. Đặc điểm của ngôn bản nói là sử dụg
ngữ điệu để thể hiện nội dung. Sự thay đổi ngữ điệu có tác động đến việc tiếp nhận
thông tin ở người nghe. Ngôn bản dưới dạng nói có thể sử dụng những yếu tố phi ngôn
ngữ ( cử chỉ, điệu bộ, nét mặt..) để hỗ trợ cho việc truyền tải nội dung, đồng thời giúp
người nghe hiểu về ngôn bản một cách chính xác hơn, tinh tế hơn. Việc sử dụng từ và
câu trong ngôn bản nói cũng có một số điểm khác biệt so với ngôn ngữ viết. Ngôn bản

nói thường dùng nhiều từ chêm., xen, đưa đẩy hoặc có hiện tượng dư thừa một số từ
ngữ nhất định. Về mặt đặt câu, ngôn bản nói cũng thường dùng kiểu câu ngắn, kết cấu
đơn giản. Loại câu này giúp người ta dễ theo dõi. Bên cạnh đó, ngôn bản nói có thể
dùng nhiều câu tỉnh lược mà do điều kiện cho phép, người ta vẫn hiểu đúng nội dung
của câu.
Sản phẩm Tập làm văn của học sinh được xem là một ngôn bản. Vì vậy, trong
quá trình rèn luyện kĩ năng làm văn, kĩ năng hội thoại cho học sinh, giáo viên cần chú
ý đến đặc điểm của dạng ngôn bản nói để rèn luyện cho các em. Đồng thời, xây dựng
các đề bài gắn với tình huống giao tiếp tự nhiên của Học sinh, tạo cho các em nhu cầu
giao tiếp tự nhiên. Việc đánh giá cũng căn cứ vào mục đích giao tiếp của ngôn bản.[7]
1.1.3.3. Vai trò của việc dạy nói đối ớ học sinh lớp 2, 3
Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của xã hội loài người, ngôn
ngữ tồn tại dưới hai dạng: nói và viết. Cùng diễn đạt một nội dung nào đó bằng
phương tiện ngôn ngữ, có thể sử dụng dạng nói hoặc viết theo yêu cầu, mục đích, đối
tượng, điều kiện, hoàn cảnh giao tiếp. Việc rèn kĩ năng nói rất có ích đối với sự phát
triển và trưởng thành của học sinh đồng thời giúp học sinh phát triển sự nhận thức về
thế giới xung quanh.
Tác giả M.R.Lvov trong bài viết cơ sở lí luận của việc dạy ngôn ngữ đã khẳng
định “ Ngôn ngữ chỉ có sự sống trong quá trình của nó, trong hành động nghĩa là
trong lời nói. Chỉ trong lời nói ngôn ngữ mới có ý nghĩa thực hành, chỉ trong lời nói
ngôn ngữ mới thể hiện những khả năng tiềm tàng”.[7]
Trong cuốn “Dạy học Tiếng Việt – giáo trình đào tạo cử nhân GD Tiểu học –
NXB ĐHSP Hà Nội – 1995” cũng đã chỉ rõ nguyên tắc giao tiếp đòi hỏi phải tổ chức
hoạt động nói năng cho học sinh để dạy học Tiếng Việt. Nghĩa là phải sử dụng giao
tiếp như là một phương pháp dạy học chủ đạo vì: Nếu ngôn ngữ được coi là phương
tiện giao tiếp thì lời nói được coi là bản thân sự giao tiếp bằng ngôn ngữ. Dạy Tiếng
17


Việt theo phương pháp giao tiếp tức là dạy phát triển lời nói cho từng cá nhân học sinh.

Phương pháp giao tiếp coi trọng sự phát triển lời nói còn những kiến thức lí thuyết thì
được nghiên cứu trên cơ sở phân tích các hiện tượng đưa ra trong bài khóa. Có thể nói,
ở trường Tiểu học dạy Tiếng Việt là quá trình tổ chức hoạt động lời nói cho học sinh.
Với học sinh lớp 2, 3 đây là đối tượng thuộc đầu bậc học Tiểu học, kĩ năng nói và
sử dụng lời nói trong hoạt động giao tiếp còn rất hạn chế. Vấn đề dùng từ, đặt câu,
cách lập luận cũng như sử dụng ngữ điệu để trình bày miệng một vấn đề nào đó cho
chính xác, hấp dẫn và phù hợp đối với người nghe là một vấn đề còn khó khăn đối với
các em. Do đó việc dạy nói, dạy giao tiếp cho các em là rất quan trọng và cần thiết.
1.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN
1.2.1 Nội dung chương trình dạy – học Tập làm văn nói ở lớp 2, 3
Làm văn nói có nghĩa là tạo lập văn bản nói. Nhiệm vụ chính cả tập làm văn nói
là rèn luyện cho học sinh kĩ năng tạo lập văn bản nói. Thuật ngữ văn bản ở đây có thể
hiểu là sản phẩm hoàn chỉnh của lời nói trong một hoàn cảnh giao tiếp cụ thể. Nó có
thể chỉ là một câu chào, một lời cảm ơn…Đối với lớp 2 dạy tập làm văn nói trước hết
là rèn luyện kĩ năng nói, kĩ năng phục vụ học tập và giao tiếp hàng ngày cụ thể là:
a, Dạy các nghi thức lời nói tối thiểu như chào hỏi, tự giới thiệu, cảm ơn, xin lỗi,
nhờ vả, yêu cầu, đề nghị, khẳng định, từ chối, chia buồn…
b, Dạy một số kĩ năng phục vụ học tập và đời sống như: Khai bản tự thuật ngắn,
gọi và nhận điện thoại, đọc thời khóa biểu…
c, Bước đầu dạy cách tổ chức đoạn văn, bài văn thông qua nhiệm vụ kể một sự
việc đơn giản…
Có thể hình dung nội dung học tập làm văn ở lớp 2 thông qua bảng hệ thống sau:
Học kì 1:
Tuần

Các nghi thức lời nói

Các kĩ năng làm việc

Cách tổ chức thực

hiện đoạn, bài

1

Tự giới thiệu

Tự thuật

Câu và bài

2

Chào hỏi, tự giới thiệu

Tự thuật

3
4

Sắp xếp câu trong bài

Tra mục lục sách

Kể ngắn theo tranh

Cảm ơn, xin lỗi

5
6


Lập danh sách học sinh

Khẳng định, phủ định

Tra mục lục sách

18


×