Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Khóa luận tốt nghiệp Biện pháp khắc phục lỗi chính tả trong dạy học tiếng việt lớp 5 trường tiểu học số 2 bắc lý – TP đồng hới – quảng bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.25 MB, 80 trang )



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu và kết
quả nghiên cứu nêu trong khóa luận là trung thực và chưa từng được công bố trong bất
kỳ một công trình khác.
Quảng Bình, tháng 5 năm 2015
Tác giả khóa luận


Lê Thị Cẩm Hằng



























Trong quá trình thực hiện khóa luận tốt nghiệp, em đã được nhận sự giúp
đỡ tận tình của giảng viên hướng dẫn và các giảng viên trong khoa Sư phạm
Tiểu học – Mầm non; sự quan tâm, tạo điều kiện của Ban giám hiệu nhà trường.
Lời cảm ơn đầu tiên và chân thành nhất em xin gửi tới Tiến sĩ Mai Thị Liên
Giang – người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em trong quá trình nghiên cứu và
hoàn thành đề tài này.
Xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các thầy cô giáo trong khoa Sư phạm
Tiểu học – Mầm non nói riêng và trường Đại học Quảng Bình nói chung, xin
gửi đến gia đình và bạn bè đã tạo điều kiện và đóng góp ý kiến giúp em hoàn
thành khóa luận.
Qua đây, em xin bày tỏ lòng biết ơn đến quý thầy cô khối 5 và tập thể các
lớp 5
1
, 5
2
, 5
3
trường Tiểu học Số 2 Bắc Lý – TP.Đồng Hới – Quảng Bình đã tạo
điều kiện và giúp đỡ em tiến hành tốt phần thực nghiệm sư phạm.

Đồng Hới, tháng 5 năm 2015
Sinh viên



Lê Thị Cẩm Hằng








MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1 Lí do chọn đề tài 1
2 Mục đích nghiên cứu 2
3 Khách thể và đối tượng nghiên cứu 2
3.1 Khách thể 2
3.2 Đối tượng nghiên cứu 2
4 Giả thuyết khoa học 2
5 Nhiệm vụ nghiên cứu 2
6 Phạm vi nghiên cứu 2
7 Phương pháp nghiên cứu 2
7.1 Phương pháp nghiên cứu lí thuyết 2
7.2 Phương pháp phân tích, thống kê – phân loại, thống kê – so sánh 3
7.3 Phương pháp quan sát 3
7.4 Phương pháp nghiên cứu thực tiễn 3
7.5 Phương pháp xử lý số liệu 3
7.6 Phương pháp thực nghiệm sư phạm 3
8 Đóng góp của đề tài 3
9 Cấu trúc khóa luận 4
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI 5

1.1 Tổng quan về vấn đề nghiên cứu 5
1.2 Các khái niệm công cụ 6
1.2.1 Dạy học 6
1.2.2 Điều chỉnh 6
1.2.3.1 Kỹ năng 6
1.2.3.2 Khái niệm viết chính tả 7
1.3 Những vấn đề lí luận về dạy học cho học sinh lớp 5 7
1.3.1 Điều chỉnh chương trình day học phù hợp với năng lực và trình độ của học sinh … 7
1.3.2 Thiết kế và tiến hành bài học có hiệu quả 9
1.4 Những vấn đề lí luận về dạy học cho học sinh lớp 5 trong phân môn Chính tả 10

1.4.1 Cơ sở tâm lý học của việc dạy chính tả ở Tiểu học 10
1.4.2 Một số đặc điểm của học sinh ảnh hưởng đến việc rèn kỹ năng viết chính tả 11
1.4.3 Môi trường giáo dục học sinh 12
1.4.4 Dạy học kỹ năng viết chính tả cho học sinh lớp 5 12
1.4.4.1 Vị trí dạy học phân môn chính tả ở Tiểu học 12
1.4.4.2 Mục tiêu và nhiệm vụ của phân môn chính tả ở Tiểu học 13
1.4.4.3 Nội dung dạy học trong phân môn chính tả lớp 5 13
1.4.4.3.1 Chính tả đoạn bài 13
1.4.4.3.2 Chính tả âm, vần và chính tả viết hoa 14
1.4.4.4 Phương pháp dạy viết đúng chính tả lớp 5 14
1.4.4.5 Hình thức tổ chức dạy học phân môn chính tả cho học sinh lớp 5 15
1.4.4.6 Những yêu cầu về kỹ năng viết chính tả trong phân môn chính tả lớp 5 17
1.4.4.7 Trình tự lên lớp của tiết chính tả lớp 5 18
1.4.5 Nguyên tắc dạy chính tả ở Tiểu học 19
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG KỸ NĂNG VIẾT CHÍNH TẢ CỦA HỌC SINH LỚP 5
TRƯỜNG TIỂU HỌC SỐ 2 BẮC LÝ – TP.ĐỒNG HỚI – QUẢNG BÌNH 21
2.1 Khái quát quá trình khảo sát 21
2.1.1 Địa bàn nghiên cứu 21
2.1.2 Qúa trình khảo sát 26

2.1.3 Phương pháp khảo sát 26
2.1.3.1 Phương pháp điều tra bằng phiếu 26
2.1.3.2 Phương pháp quan sát 26
2.1.3.3 Phương pháp phỏng vấn, trò chuyện 26
2.1.3.4 Phương pháp trắc nghiệm 26
2.2 Nội dung khảo sát 26
2.3 Phân tích kết quả khảo sát 28
2.3.1 Đánh giá về mức độ điều chỉnh các yếu tố dạy học viết chính tả lớp 5 28
2.3.2 Thực trạng kỹ năng viết chính tả của học sinh lớp 5 trường Tiểu học Số 2 Bắc Lý –
TP.Đồng Hới – Quảng Bình 38
2.3.2.1 Đánh giá về khả năng viết chính tả của học sinh lớp 5 trường Tiểu học Số 2 Bắc Lý
– TP.Đồng Hới – Quảng Bình. 38

2.3.2.2 Thực trạng tốc độ viết chính tả của học sinh lớp 5 trường Tiểu học Số 2 Bắc Lý –
TP.Đồng Hới – Quảng Bình 38
2.3.2.3 Lỗi chính tả của học sinh lớp 5 trường Tiểu học Số 2 Bắc Lý – TP.Đồng Hới –
Quảng Bình 40
2.4 Đánh giá chung 46
2.4.1 Những khó khăn của sinh lớp 5 trường Tiểu học Số 2 Bắc Lý – TP.Đồng Hới – Quảng
Bình khi học môn chính tả 46
2.4.2 Những thuận lợi của sinh lớp 5 trường Tiểu học Số 2 Bắc Lý – TP.Đồng Hới – Quảng
Bình khi học môn chính tả 46
2.4.3 Nguyên nhân thực trạng kỹ năng viết chính tả của sinh lớp 5 trường Tiểu học Số 2
Bắc Lý – TP.Đồng Hới – Quảng Bình khi học môn chính tả 46
CHƯƠNG 3. BIỆN PHÁP VÀ THỰC NGHIỆM 48
3.1 Các biện pháp khắc phục kỹ năng viết chính tả cho học sinh lớp 5 trường Tiểu học Số 2
Bắc Lý – TP.Đồng Hới – Quảng Bình 48
3.1.1 Biện pháp điều chỉnh thiết kế bài dạy 48
3.1.2 Biện pháp sử dụng các phương pháp đặc thù 49
3.1.2.1 Luyện phát âm 49

3.1.2.2 Phân tích, so sánh 50
3.1.2.3 Ghi nhớ mẹo luật chính tả 50
3.1.3 Biện pháp rèn kỹ năng viết chính tả thông qua trò chơi 51
3.2 Thực nghiệm về tính phù hợp và khả thi của biện pháp 52
3.2.1 Mục đích thực nghiệm 52
3.2.2 Đối tượng thực nghiệm 52
3.2.3 Khái quát quá trình thực nghiệm 53
3.2.4 Nội dung thực nghiệm 53
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 65
TÀI LIỆU THAM KHẢO 67

1

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
Ngôn ngữ không chỉ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất mà còn là công cụ
tư duy của một dân tộc nói chung và của các em học sinh trong nhà trường nói riêng.
Là hệ thống ký hiệu bằng các con chữ và các dấu, chữ viết ghi lại ngôn ngữ âm thanh,
thành tiếng của con người, giúp con người vượt qua những trở ngại về không gian và
thời gian, ghi lại những kinh nghiệm ngàn đời về tự nhiên và xã hội, lịch sử dân tộc,
sáng tạo ra các tác phẩm văn chương cho muôn đời. Đối với nhà trường phổ thông ở
Việt Nam, việc phát âm chuẩn và viết đúng chính tả có tầm quan trọng đặc biệt, trong
việc xây dựng và rèn luyện ngôn ngữ là tiếng Việt. Môn tiếng Việt có chức năng là rèn
luyện các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết nhằm đổi mới và nâng cao chất lượng dạy học
ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ trong nhà trường. Mục tiêu đầu tiên của giáo dục Tiểu học là rèn
luyện cho học sinh kỹ năng đọc thông viết thạo chữ quốc ngữ. Chính tả là một phần
trong nội dung chương trình môn tiếng Việt ở bậc Tiểu học. Đây là môn học có vị trí
đặc biệt trong chương trình vì nó đảm nhiệm việc hình thành và phát triển các kỹ năng
cơ bản: nghe, nói, đọc, viết. Có các kỹ năng chính tả thành thạo sẽ giúp cho học sinh

học tập, giao tiếp và tham gia các quan hệ xã hội được thuận lợi, nắm bắt được những
thông tin một cách chính xác, đồng thời việc mỗi thành viên xã hội phát âm chuẩn và
viết đúng chính tả sẽ góp phần giữ gìn sự trong sáng, thống nhất của tiếng Việt mà học
sinh là một trong những thành phần của xã hội đó. Tuy nhiên hiện nay chất lượng dạy
kỹ năng viết chính tả cho học sinh lớp 5 Trường Tiểu học Số 2 Bắc Lý – TP.Đồng Hới
– Quảng Bình còn một số điểm chưa phù hợp với xu hướng đổi mới dạy học ở Tiểu
học hiện nay. Việc viết chính tả của học sinh lớp 5 còn mắc lỗi thông thường như: Viết
hoa tự do, các lỗi do cách phát âm thực tế phương ngữ, lỗi viết sai thanh điệu… Trong
dạy học giáo viên phải đánh giá chính xác kỹ năng viết trong phân môn chính tả của
học sinh lớp 5 để từ đó có những biện pháp khắc phục phù hợp. Đây chính là lý do
khiến chúng tôi chọn đề tài “Biện pháp khắc phục lỗi chính tả trong dạy học tiếng Việt
lớp 5 trường Tiểu học Số 2 Bắc Lý – TP.Đồng Hới – Quảng Bình”. Nhằm bước đầu tìm
hiểu kỹ năng viết chính tả của học sinh lớp 5 Trường Tiểu học Số 2 Bắc Lý, nắm được
thực trạng kỹ năng viết chính tả của học sinh, phân loại các lỗi mà học sinh thường mắc
phải và đề ra các biện pháp để khắc phục lỗi chính tả, sử dụng linh hoạt các phương pháp
trong dạy học chính tả nhằm nâng cao kỹ năng viết chính tả cho học sinh.

2

2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu lí luận và thực tiễn việc dạy học phân môn chính tả cho hoc sinh lớp
5 trường Tiểu học Số 2 Bắc Lý – TP.Đồng Hới – Quảng Bình. Trên cơ sở đó đề xuất
một số biện pháp, góp phần nâng cao chất lượng viết chính tả cho học sinh.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể
Các bài viết chính tả của học sinh lớp 5 trường Tiểu học Số 2 Bắc Lý – TP.Đồng
Hới – Quảng Bình.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Thực trạng viết chính tả của học sinh lớp 5 trường Tiểu học Số 2 Bắc Lý –
TP.Đồng Hới – Quảng Bình.

4. Giả thuyết khoa học
Nếu có biện pháp khắc phục phù hợp thì sẽ giúp học sinh nâng cao kỹ năng viết
chính tả.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu các vấn đề lí luận về kỹ năng viết chính tả của học sinh lớp 5 trường
Tiểu học Số 2 Bắc Lý, đánh giá thực trạng dạy viết chính tả cho học sinh lớp 5 trường
Tiểu học Số 2 Bắc Lý – TP.Đồng Hới – Quảng Bình, từ đó đề xuất các biện pháp khắc
phục lỗi chính tả cho học sinh lớp 5 trường Tiểu học Số 2 Bắc Lý – TP.Đồng Hới –
Quảng Bình.
6. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu trên học sinh khối lớp 5 trường Tiểu học Số 2 Bắc Lý –
TP.Đồng Hới – Quảng Bình.
7. Phương pháp nghiên cứu
Nhằm giải quyết các vấn đề đặt ra trong đề tài, chúng tôi đã kết hợp sử dụng các
phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau:
7.1. Phương pháp nghiên cứu lí thuyết
Nghiên cứu, thu thập, xử lý, chọn lọc và khái quát hóa các thông tin, những
nghiên cứu thuộc các vấn đề có liên quan đến đề tài của các tác giả trong và ngoài
nước. Làm sáng tỏ các thuật ngữ liên quan đến đề tài. Xây dựng các cơ sở khoa học về
mặt lí luận cho đề tài.

3

7.2 Phương pháp phân tích, thống kê – phân loại, thống kê – so sánh
Phương pháp phân tích, thống kê – phân loại được sử dụng trong phân tích liệt
kê, phân loại hệ thống bài tập, phân loại hệ thống bài chính tả nhằm đưa ra những con
số chính xác về các dạng bài tập chính tả và số lượng các bài chính tả trong sách tiếng
Việt Tiểu học. Từ đó làm cơ sở cho những nghiên cứu tiếp theo. Phương pháp thống
kê – so sánh được sử dụng trong đối chứng kết quả thực nghiệm.
7.3 Phương pháp quan sát

Phương pháp này được sử dụng trong các tiết dự giờ, quan sát học sinh trong các
hoạt động khác… để đánh giá mức độ và khả năng viết chính tả của học sinh.
7.4 Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Phương pháp nghiên cứu thực tiễn được sử dụng trong tìm hiểu thực tiễn dạy học
chính tả ở lớp 5 nói riêng, ở trường Tiểu học nói chung. Thông qua dự giờ, quan sát
sư phạm, giáo viên lập phiếu điều tra để nắm khả năng viết chính tả của học sinh. Từ
đó nghiên cứu, xử lí kết quả và rút ra được những kết luận làm cơ sở để xây dựng các
biện pháp khắc phục lỗi viết chính tả cho học sinh lớp 5.
7.5 Phương pháp xử lý số liệu
Tổng hợp số liệu bằng phương pháp thống kê toán học như: tính tần suất mắc
lỗi…
7.6 Phương pháp thực nghiệm sư phạm
Phương pháp này được sử dụng trong khâu hoàn tất quá trình nghiên cứu nhằm
xem xét, xác nhận tính khả thi của các biện pháp khắc phục lỗi chính tả cho học sinh
lớp 5 mà đề tài nghiên cứu. Các thực nghiệm được sử dụng gồm: Thực nghiệm thăm
dò nhằm thăm dò khả năng thực hiện của các biện pháp mà đề tài đưa ra. Thực nghiệm
dạy học nhằm kiểm chứng, đánh giá khả năng ứng dụng của các biện pháp vào các tiết
dạy cụ thể trong phân môn Chính tả ở lớp 5…
8. Đóng góp của đề tài
Đề tài góp phần tìm hiểu thêm về phương pháp dạy học chính tả cho học sinh lớp
5, thực trạng kỹ năng viết Chính tả của học sinh, góp phần làm phong phú thêm lí luận
dạy học chính tả nói riêng và dạy học tiếng Việt nói chung qua việc xây dựng các biện
pháp khắc phục lỗi chính tả cho học sinh lớp 5.


4

9. Cấu trúc khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị, tài liệu tham khảo và phụ lục, khóa
luận gồm có 3 chương nội dung chính:

Chương 1: Cơ sở lý luận của đề tài.
Chương 2: Thực trạng kỹ năng viết chính tả của học sinh lớp 5 trường Tiểu học
Số 2 Bắc Lý – TP.Đồng Hới – Quảng Bình.
Chương 3: Biện pháp và thực nghiệm

























5


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI

1.1 Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
Vấn đề kỹ năng, kỹ năng viết và kỹ năng viết chính tả đã được nghiên cứu dưới
nhiều lĩnh vực như ngôn ngữ học, tâm lý học và cho ra đời nhiều công trình nghiên
cứu của nhiều tác giả khác nhau. Về kỹ năng, các nhà tâm lý học nghiên cứu từ lâu
dưới nhiều góc độ khác nhau. Nhìn chung có hai hướng chính. Đó là: Hướng nghiên
cứu kỹ năng ở mức độ khái quát. Đại diện của hướng nghiên cứu này có:
K.K.Platonov, V.X.Cudin, P.Ia.Galperin, P.V.Peetropxki… P.Ia.Galperin chủ yếu đi
sâu vào vấn đề hình thành tri thức, kỹ năng theo lý thuyết hình thành hành động trí tuệ
theo giai đoạn. K.K.Platonov thì trình bày khái quát ba khái niệm: Tri thức, kỹ xảo, kỹ
năng và mối quan hệ giữa chúng theo quan niệm của ông và các nhà tâm lý khác.
Hướng nghiên cứu kỹ năng ở mức độ cụ thể. Đây là hướng nghiên cứu lớn về kỹ năng,
gắn liền với nhiều nhà tâm lý lớn và trong nhiều hoạt động cụ thể như: Kỹ năng hoạt động
sư phạm (A.A.Leonchive,…), Kỹ năng học tập (G.X.kchiuc, N.A.Menchinxcaia…), Kỹ
năng lao động (V.G.Look, V.V.Tsebbuseva, E.A.Milerian…). Về kỹ năng viết và kỹ
năng viết chính tả nhiều tác giả đã nghiên cứu từ các góc độ khác nhau. Năm 1989 nhà
xuất bản Giáo dục có biên dịch cuốn “ Phương pháp dạy tiếng mẹ đẻ - Các nguyên tắc
tâm lý của việc dạy chính tả” của Đ.N.Bôgôiavlenxki. Năm 2007 nhà xuất bản Đại học
Huế có biên dịch cuốn “ Dạy đọc viết cho tất cả học sinh ở Trường Tiểu học và
chuyên biệt” của tác giả Kristin Bostelman & Vivien Heller. Nhiều tác giả đã đi sâu
vào nghiên cứu những vấn đề liên quan tới kỹ năng viết ở các khía cạnh như: Xây
dựng phương pháp dạy viết chữ, quy trình dạy viết chữ, quá trình dạy đọc viết – thủ
thuật viết… với các tác giả như: E.N.Sokolova, Usinxki, F.de.Saussure và
L.Hiclmslev. Ở trong nước cũng có nhiều công trình nghiên cứu tập trung chính vào
hướng nghiên cứu về kỹ năng viết và kỹ năng viết chính tả: Chẳng hạn, Lê Phương
Nga có công trình “ Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học”, tác giả đã đưa ra
những vấn đề chung của phương pháp dạy học tiếng Việt, nêu ra các phương pháp dạy

học từng phân môn cụ thể trong dạy học tiếng Việt ở Tiểu học . Hà Quang Năng “Từ
thực trạng mắc lỗi của học sinh Tiểu học, suy nghĩ về cách dạy học và sách giáo khoa

6

hiện nay”(Kỉ yếu hội thảo khoa học – 1997), Lê A với cuốn “ Chữ viết và dạy chữ viết
ở Tiểu học”, Nguyễn Đức Dương “Về chiến lược dạy chính tả” (Kỉ yếu hội nghị khoa
học – 1997), Hoàng Trọng Canh “Chữ quốc ngữ với vấn đề luyện chính tả ở trường
phổ thông” (Ngữ học trẻ - 1996). Ngoài ra hiện nay, trên các trang mạng Internet có
đăng tải khá nhiều công trình về biện pháp khắc phục lỗi chính tả như: Trần Văn
Thanh “Đồng âm dẫn giải và mẹo luật chính tả”. Tài liệu giáo dục “Những cách khắc
phục lỗi chính tả cho học sinh các vùng miền”… Nhìn chung các công trình của tác
giả trong và ngoài nước đã làm sáng tỏ nhiều vấn đề về kỹ năng, kỹ năng viết – kỹ
năng viết chính tả. Thế nhưng chưa có một công trình nào đi sâu nghiên cứu một cách
có hệ thống về biện pháp khắc phục lỗi chính tả cho học sinh lớp 5 trường Tiểu học Số
2 Bắc Lý.
1.2 Các khái niệm công cụ
1.2.1 Dạy học
Dạy học là một quá trình dưới sự lãnh đạo, tổ chức, điều khiển của người giáo
viên, người học tự giác, tích cực, chủ động, biết tự tổ chức, tự điều khiển hoạt động
nhận thức – học tập của mình nhằm thực hiện những nhiệm vụ dạy học; Theo từ điển
Tiếng Việt: Dạy học là dạy để nâng cao trình độ văn hóa và phẩm chất đạo đức theo
chương trình nhất định.
1.2.2 Điều chỉnh
Điều chỉnh là sự thay đổi mục tiêu, nội dung, phương pháp, phương tiện dạy học
nhằm giúp học sinh phát triển tốt nhất phù hợp với những năng lực và trình độ của học
sinh.
1.2.3 Kỹ năng viết chính tả
1.2.3.1 Kỹ năng
Có rất nhiều khái niệm về kỹ năng, cụ thể:

Theo Từ điển Tiếng Việt “Kỹ năng là khả năng vận dụng những kiến thức thu
nhận được trong một lĩnh vực nào đó vào thực tế”. Khái niệm kỹ năng của nhà tâm lý
học Nga K.K.Platonov: “Kỹ năng là khả năng của con người thực hiện một hoạt động
bất kỳ nào đó hay các hành động trên cơ sở của kinh nghiệm cũ”. Trong từ điển tâm lý
học của A.V.Peetrovxki và M.G.Jarosecxki chủ biên năm 1990 cho rằng: “ Kỹ năng là
phương thức thực hiện thông thạo hành động của chủ thể dựa trên cơ sở tổ hợp những

7

tri thức, kỹ xảo đã có”. Kỹ năng được hình thành bằng con đường luyện tập, tạo cho
con ngưởi khả năng thực hiện hành động không chỉ trong điều kiện quen thuộc mà cả
trong điều kiện đã thay đổi.
1.2.3.2 Khái niệm viết chính tả
Theo Từ điển tiếng Việt: “Viết chính tả là vạch những đường nét tạo thành chữ”.
Chữ viết là hệ thống ký hiệu bằng đường nét đặt ra để ghi tiếng nói và những quy tắc,
quy định riêng. Vậy chính tả là gì? Thuật ngữ chính tả hiểu theo nghĩa gốc là “Phép
viết đúng” hoặc “Lối viết hợp với chuẩn”. Cụ thể, chính tả là hệ thống các quy tắc về
cách viết thống nhất cho các từ của một ngôn ngữ, cách viết hoa tên riêng, cách phiên
âm tên riêng nước ngoài, cách viết đúng dấu câu… Chính tả là sự quy định có tính
chất xã hội, nó không cho phép vận dụng quy tắc một cách linh hoạt có tính chất sáng
tạo cá nhân. Tóm lại, có thể hiểu kỹ năng viết chính tả là khả năng vận dụng những tri
thức và hiểu biết đã có vào trong hoạt động viết chính tả. Hình thành cho học sinh kỹ
năng viết chính tả nghĩa là giúp học sinh viết đúng chính tả theo quy định có tính chất
xã hội.
1.3 Những vấn đề lí luận về dạy học cho học sinh lớp 5
1.3.1 Điều chỉnh chương trình day học phù hợp với năng lực và trình độ của học sinh
Điều chỉnh sẽ giúp học sinh có hứng thú học tập và học tập có hiệu quả trên cơ sở
sử dụng tối đa các kiến thức và kỹ năng hiện có để lĩnh hội những tri thức và kỹ năng
mới; tránh những bất cập giữa những kỹ năng hiện có của học sinh và những nội dung
giáo dục phổ thông; nâng cao tính tương hợp giữa cách học của học sinh và phương

pháp giảng dạy của giáo viên. Trên cơ sở những đặc điểm khác nhau về khả năng, nhu
cầu, sở thích của học sinh, căn cứ vào nội dung của môn học, bài học, có thể áp dụng
một trong các cách điều chỉnh như: Phương pháp đồng loạt, căn cứ vào yêu cầu bài
học để xây dựng mục tiêu cho một bài dạy, thiết kế các hoạt động nhằm hoàn thành
các mục tiêu đặt ra. Phương pháp trùng lặp giáo án, cho học sinh viết đi viết lại nhiều
lần những từ khó, dễ mắc lỗi. Sử dụng các hình thức điều chỉnh như: Thay đổi hình
thức hoạt động của học sinh: Căn cứ vào khả năng và sở thích của học sinh, căn cứ vào
nội dung và thời điểm của bài học, giáo viên cần đưa ra các dạng hoạt động cho phù
hợp với học sinh. Có thể tổ chức các hoạt động theo hình thức: Hoạt động lớp, hoạt
động theo nhóm, hoạt động theo từng đôi qua sự giúp đỡ của bạn bè. Thay đổi hình

8

thức giảng dạy của giáo viên: Nhiều khi việc ghi nhớ kiến thức của trẻ không phải chỉ
thông qua việc giảng dạy, hướng dẫn của giáo viên mà còn được thông qua các hoạt
động khác như: Tổ chức hoạt động vui chơi, các giờ thực hành, tổ chức các giờ học
ngoài trời… Thay đổi phong cách giảng dạy của giáo viên: Trong giảng dạy giáo viên
cần thay đổi cách truyền đạt hay phong cách giảng dạy. Phải có giọng nói vui tươi,
diễn cảm giúp trẻ hứng thú trong học tập. Vận dụng các phương pháp dạy học khác
nhau: Giáo viên cần biết vận dụng một cách linh hoạt các phương pháp dạy học khác
nhau, đúng lúc, đúng chỗ, phù hợp với nội dung và đối tượng, thể hiện nghệ thuật và
phong cách sư phạm. Thay đổi nội dung, yêu cầu và tiêu chí đạt thành công của học
sinh: Mỗi học sinh có nhu cầu và khả năng khác nhau, cách tiếp nhận kiến thức khác
nhau. Do đó khi giảng dạy giáo viên giao nhiệm vụ và bài tập, giáo viên cần đảm bảo
cho học sinh có thể hoàn thành được. Cùng một nhiệm vụ nhưng tùy thuộc vào khả
năng của mỗi em mà giao những phần việc khác nhau. Cùng một nội dung nhưng khác
nhau về thời gian, số lượng và mức độ của kiến thức. Thay đổi cách trợ giúp: Trực tiếp
– gián tiếp, gần – xa, nhiều – ít. Điều chỉnh nội dung về thời gian: Tăng, giảm thời
gian, thường xuyên thay đổi các hoạt động, nghỉ giải lao sau mỗi hoạt động, dành ít
phút để các em xem lại bài, giao các bài tập để học sinh về nhà chuẩn bị trước. Về môi

trường trong lớp học: Phòng học sạch sẽ, thoáng mát. Có chỗ ngồi đảm bảo cân đối,
phù hợp với tầm nhìn, vừa với cơ thể. Sắp xếp lại phòng học. Làm giảm thiểu các tác
động bên ngoài gây mất tập trung như: tiếng ồn, bụi bẩn… Những vấn đề cần điều
chỉnh trong các môn học: Điều chỉnh cách học tập trong các môn học. Các biện pháp
tiến hành giảng dạy: Áp dụng những kĩ thuật giảng dạy để lôi cuốn học sinh, minh họa
bằng mô hình, nhấn mạnh những thông tin quan trọng. Các biện pháp tự quản: Thường
xuyên kiểm tra học sinh, dạy phương pháp học, cho học sinh nhắc lại những vấn đề đã
được hướng dẫn, có kế hoạch để tổng hợp và khái quát kiến thức, dạy cách ứng xử phù
hợp với hoàn cảnh. Kiểm tra bằng nhiều hình thức: Kiểm tra nói, đọc bài kiểm tra cho
học sinh, kiểm tra từng bài ngắn, giới hạn thêm thời gian. Tài liệu và học liệu: Sắp xếp
các tư liệu trong sách, các bài trọng tâm, sử dụng các bài tập bổ trợ kiến thức, các
phương tiện hỗ trợ cho việc ghi chép,… Giao bài tập: Chỉ dẫn từng bước cụ thể, rõ
ràng, giao nhiệm vụ rõ ràng, những bài tập ngắn và không quá khó, học nhóm…
Những biện pháp kích thích, động viên học sinh học tập: Tiếng nói, cử chỉ điệu bộ,

9

động viên những học sinh còn yếu kém trong những trường hợp cụ thể, tăng cường
tính sáng tạo, vận dụng điểm mạnh và sở thích của học sinh.
1.3.2 Thiết kế và tiến hành bài học có hiệu quả
Trong dạy học ở Tiểu học, nhiệm vụ của giáo viên đóng vai trò quan trọng:
Giảng dạy, giáo dục đảm bảo chất lượng theo chương trình giáo dục, kế hoạch bài học;
soạn bài, lên lớp, kiểm tra, đánh giá, xếp loại học sinh, quản lý học sinh trong các hoạt
động giáo dục do nhà trường tổ chức; chịu trách nhiệm về chất lượng, hiệu quả giảng
dạy và giáo dục. Giáo viên phải trau dồi đạo đức, nêu cao tinh thần trách nhiệm, giữ
gìn phẩm chất, danh dự, uy tín của nhà giáo, gương mẫu trước học sinh, thương yêu
đối xử công bằng và tôn trọng nhân cách của học sinh, đoàn kết, giúp đỡ đồng nghiệp.
Thực hiện nghĩa vụ công dân, các quy định của pháp luật. Học sinh cũng có những
nhiệm vụ không kém phần quan trọng: Thực hiện đầy đủ và có kết quả hoạt động học
tập, chấp hành nội quy nhà trường, đi học đều và đúng giờ. Kính trọng, lễ phép với

thầy cô giáo, với người lớn, đoàn kết thương yêu giúp đỡ bạn bè. Tham gia các hoạt
động tập thể… Chương trình phổ thông được coi là pháp lệnh của mỗi quốc gia, đòi
hỏi những kiến thức, kỹ năng chuẩn mực mà học sinh cần phải nắm bắt được sau mỗi
bậc học, năm học, thậm chí mỗi bài học, giờ học và phải có thái độ nhất định. Căn cứ
vào “đầu ra mong muốn” các kiến thức, kỹ năng được sắp xếp theo một trật tự nhất
định, thể chế qua các tư liệu học tập: sách giáo khoa, các phiếu bài tập, các phương
tiện,… trong các môn học, để đạt mục tiêu chung. Những học sinh yếu kém cần học
theo chương trình riêng, được xây dựng với những mục tiêu, kế hoạch cụ thể được thể
hiện trong sổ theo dõi tiến bộ của học sinh. Như vậy, khi thiết kế kế hoạch bài học,
giáo viên cùng một lúc phải lựa chọn, xem xét các biện pháp phù hợp với năng lực
trình độ của học sinh. Khi xây dựng kế hoạch giờ học tiếng Việt, giáo viên thiết kế
chung cho cả lớp, sau đó mới tiến hành điều chỉnh các hoạt động cho phù hợp với cá
nhân học sinh yếu kém. Việc làm này, thường mất nhiều thời gian, nhiều khi phù hợp
với học sinh hay mắc các lỗi chính tả mà không phù hợp với các học sinh khá, giỏi.
Với những học sinh yếu kém nên phải làm đi làm lại để khắc sâu kiến thức vừa học.
Để bài học trong phân môn tiếng Việt thiết kế có thể sử dụng ngay, tránh làm mất
nhiều thời gian, giáo viên cần sử dụng cách thiết kế bài dạy theo cách tiếp cận tổng
thể. Thiết kế tổng thể là khái niệm để chỉ việc tính trước các kết quả và môi trường để

10

khi thực hiện bài học, giáo viên đã có sẵn các giải pháp dự kiến cho từng nội dung
hoạt động của cả học sinh bình thường và học sinh hay mắc lỗi chính tả. Vận dụng mô
hình VNEN vào thiết kế và tiến hành bài học.
Trong bài học, mỗi học sinh có thể đạt đến một mức độ nhận thức nhất định, mức
độ đạt được đó biểu hiện qua các bài tập, qua các hoạt động cụ thể. Những mức độ trải
từ thấp đến cao. Đây là một công cụ quan trọng giúp giáo viên biên soạn và tiến hành
bài học có hiệu quả. Trước hết chúng ta cần chú ý Tiến trình thiết kế và tiến hành bài
học trong phân môn tiếng Việt có hiệu quả, theo tiếp cận tổng thể: Tìm hiểu năng lực,
nhu cầu và sở thích của học sinh. Xác định mục tiêu, lựa chọn nội dung và phương

pháp tiến hành bài học. Xác định nội dung bài học. Xác định, sắp xếp các hoạt động
dạy – học và phương pháp tiến hành. Thiết kế tiến trình giờ học. Cấu trúc của bất kì
giờ học nào cũng gồm các khâu: mở bài, giải quyết bài, và kết thúc bài. Toàn bộ các
khâu đều phải bám sát theo mục tiêu, hướng vào mục tiêu. Tuy nhiên, nhiệm vụ của
các khâu lại có những điểm khác nhau. Đặc biệt khi giải quyết bài học giáo viên cần
lưu ý để đảm bảo khâu này có hiệu quả trong giờ học: phải giải thích rõ ràng cho học
sinh hiểu, mô hình hóa các kiến thức, thu nhận phản hồi từ phía học sinh, khuyến
khích học sinh nêu ý kiến, những thắc mắc của mình về các vấn đề các em chưa hiểu
rõ, giáo viên ra quyết định điều chỉnh, tạo động cơ học tập cho học sinh. Từ đó các em
có thái độ tích cực trong học tập, ham muốn học hỏi để sửa chữa lỗi sai.
1.4 Những vấn đề lí luận về dạy học cho học sinh lớp 5 trong phân môn Chính tả
1.4.1 Cơ sở tâm lý học của việc dạy chính tả ở Tiểu học
Muốn viết đúng chính tả phải kết hợp rèn luyện chính tả bằng con đường có ý
thức và không có ý thức. Con đường có ý thức là dạy chính tả cho học sinh nắm vững
các quy tắc chính tả và mẹo chính tả để viết đúng. Đó là con đường ngắn nhất (tiết
kiệm được thời gian và công sức) và có hiệu quả cao. Đối với loại chính tả không có
quy tắc thì yêu cầu học sinh phải ghi nhớ cách viết đúng từ trong trường hợp cụ thể.
Theo cách này yêu cầu học sinh ghi nhớ từng mặt chữ, từng từ. Chẳng hạn, sẽ viết là d
trong da thịt, da dẻ, da diết,… sẽ viết là gi trong quốc gia, gia đình, gia tộc, gia vị,…
Con đường không có ý thức có thể áp dụng cho học sinh Tiểu học vì ở độ tuổi này, học
sinh có khả năng ghi nhớ máy móc khá tốt. Theo cách này, học sinh chỉ cần tập trung
nhớ mặt chữ của từng từ viết đúng. Khi dạy chính tả, cần kết hợp cả hai phương pháp

11

này. Cơ sở ngôn ngữ học: Muốn viết đúng chính tả cần nắm được đặc điểm của tiếng
Việt. Về cơ bản, chính tả tiếng Việt là chính tả ngữ âm (mỗi âm vị được ghi bằng một
con chữ), cách đọc và cách viết nhìn chung thống nhất, vì vậy đọc như thế nào thì viết
như thế ấy. Trong giờ học chính tả, học sinh sẽ xác nhận cách viết đúng bằng việc tiếp
nhận chính xác âm thanh của phát âm. Trước hết, giáo viên phải đọc đúng, tạo cơ sở

cho việc viết đúng của học sinh. Chẳng hạn, giáo viên phải đọc chuẩn từng trường hợp
chính tả: Suy nghĩ – nghỉ hè, áo cũ – củ khoai… Căn cứ vào cách phát âm chuẩn của
giáo viên, học sinh dễ dàng xác định được cách viết đúng trong từng trường hợp chính
tả. Tuy nhiên tiếng Việt có một số điểm chưa hợp lý: một âm có nhiều cách ghi Âm /k/
có 3 cách ghi, /z/ có 2 cách ghi…). Đối với loại chính tả có quy tắc, cần cung cấp quy
tắc chính tả ngay từ ban đầu, đối với loại chính tả không có quy tắc, cần cho học sinh
ghi nhớ từng trường hợp chính tả cụ thể, đặt vào một ngữ cảnh cụ thể để xác định cách
viết đúng. Đây là một đặc trưng quan trọng về phương diện ngôn ngữ của chính tả
tiếng Việt mà khi dạy chính tả giáo viên cần lưu ý.
1.4.2 Một số đặc điểm của học sinh ảnh hưởng đến việc rèn kỹ năng viết chính tả
Đặc điểm về cảm giác, tri giác như: Tính nhạy cảm chậm và hạn chế: Một số em
trong cùng một thời gian nhất định thì khối lượng đối tượng các em quan sát được ít
hơn so với các bạn. Tính không phân biệt thể hiện rõ: Khi viết chính tả các em phân
biệt các âm, các vần gần giống nhau, nên thường viết sai chính tả. Về đặc điểm chú ý:
Mức độ chú ý thấp, khó tập trung chú ý trong thời gian dài, dễ bị phân tán chú ý.
Không tập trung cao vào các giờ học. Luôn bị phân tán, không tuân theo các chỉ dẫn,
không kiên nhẫn, những từ khó thường viết qua loa. Về đặc điểm trí nhớ: Hiểu chậm
cái mới, nhanh quên cái vừa tiếp thu được. Qúa trình ghi nhớ chậm chạp, không bền
vững, không đầy đủ và thiếu chính xác. Dễ quên cái gì không liên quan, không phù
hợp với nhu cầu của các em. Ghi nhớ được bài học thông qua các hình ảnh nhanh hơn
các kiến thức lý thuyết có trong sách vở, khó nhớ những gì có tính khái quát, trừu
tượng, quan hệ lôgic. Có khả năng ghi nhớ máy móc, khó ghi nhớ ý nghĩa. Về đặc
điểm tư duy: Tư duy thường biểu hiện ở tính không liên tục, khi bắt đầu thực hiện
nhiệm vụ thì sôi nổi làm đúng, nhưng càng về sau càng trầm và mắc nhiều sai sót,
nhanh chóng mệt mỏi. Do đó, học sinh cần có chế độ nghỉ ngơi, giải lao xen kẽ giữa
các hoạt động, giao việc đảm bảo tính vừa sức, phù hợp với trình độ của học sinh,

12

tránh kích thích mạnh dẫn đến hiệu quả không mong muốn. Tư duy lôgic kém: Trẻ

thường không vận dụng được các thao tác tư duy đối với các hành động trí tuệ, không
định hướng được nhiệm vụ trước khi thực hiện nhiệm vụ, khi thực hiện thì lẫn lộn. Các
em khó vận dụng những kiến thức học được vào việc giải quyết các tình huống thực
tiễn. Vì vậy, đối với các dạng bài tập chính tả ngữ pháp, giáo viên nên cho học sinh
hoạt động nhóm cùng với các bạn. Về đặc điểm ngôn ngữ: Vốn từ: ít, nghèo nàn. Do
đặc điểm ảnh hưởng của phương ngữ: Sử dụng từ địa phương trong giao tiếp nên dẫn
đến viết sai chính tả. Ngữ pháp: Không nắm được quy tắc ngữ pháp, quy tắc chính tả
như quy tắc viết hoa tên riêng, danh từ riêng, quy tắc về dấu thanh… Viết chữ cẩu thả.
1.4.3 Môi trường giáo dục học sinh
Yếu tố môi trường có tác dụng quyết định trong việc giáo dục học sinh. Hơn nữa,
nhờ việc tổ chức môi trường, tổ chức các hoạt động trong môi trường và thông qua
những tác động trong các mối quan hệ tương tác mà người giáo viên có thể kiểm soát,
nâng cao được kết quả học tập của học sinh. Ngoài ra hiện nay, các trang mạng
Internet rất phổ biến với nguồn kho tàng tri thức phong phú, người giáo viên cần tham
khảo và chọn lọc lại những tri thức đúng đắn và cần thiết cho học sinh.
1.4.4 Dạy học kỹ năng viết chính tả cho học sinh lớp 5
1.4.4.1 Vị trí dạy học phân môn chính tả ở Tiểu học
Theo Lê Phương Nga thì: “Phân môn chính tả trong nhà trường giúp học sinh
hình thành năng lực và thói quen viết đúng tiếng Việt văn hóa, tiếng Việt chuẩn mực.
Vì vậy phân môn chính tả có vị trí quan trọng trong cơ cấu chương trình môn tiếng
Việt nói riêng, các môn học ở trường phổ thông nói chung. Ở bậc Tiểu học, phân môn
chính tả càng có vị trí quan trọng” [19, trang 121]. Bởi vì giai đoạn Tiểu học là giai
đoạn then chốt trong quá trình hình thành kỹ năng chính tả cho học sinh. Không phải
ngẫu nhiên mà ở Tiểu học, chính tả được bố trí thành một phân môn độc lập (thuộc
môn tiếng Việt), có tiết dạy riêng. Trong khi đó ở Trung học cơ sở và Trung học phổ
thông, chính tả được dạy xen kẽ trong các tiết thực hành ở phân môn tập làm văn, chứ
không tồn tại với tư cách là một phân môn độc lập như ở bậc Tiểu học. Tầm quan
trọng của phân môn chính tả còn thực hiện nhiệm vụ nặng nề hiện nay – khắc phục
tình trạng viết sai chính tả phổ biến ở học sinh.



13

1.4.4.2 Mục tiêu và nhiệm vụ của phân môn chính tả ở Tiểu học
Cụ thể hóa mục tiêu của phân môn tiếng Việt, phân môn chính tả nhằm hình
thành ở học sinh kỹ năng sử dụng tiếng Việt, trong đó đặc biệt chú ý tới kỹ năng viết
(có kết hợp kỹ năng nghe). Bên cạnh đó, chính tả cung cấp cho học sinh một số kiến
thức về chữ viết như: cấu tạo chữ, quy tắc chính tả, quy tắc ngữ pháp… Phân môn
chính tả còn góp phần rèn cho học sinh các thao tác tư duy như phân tích, tổng hợp,
thay thế, bổ sung, so sánh, khái quát…, cung cấp cho học sinh những hiểu biết sơ giản
về tự nhiên, xã hội, về con người, văn hóa, văn học Việt Nam và nước ngoài, để từ đó
bồi dưỡng lòng yêu cái đẹp, cái thiện, lòng trung thực, lòng tốt, lẽ phải và sự công
bằng trong xã hội; góp phần hình thành lòng yêu mến tiếng Việt và thói quen giữ gìn
sự trong sáng của tiếng Việt [19, trang 124]. Phân môn chính tả có nhiệm vụ chủ yếu
sau đây: Giúp học sinh nắm vững các quy tắc chính tả và hình thành kỹ năng chính tả.
Nói cách khác, phân môn chính tả có nhiệm vụ giúp học sinh hình thành năng lực và
thói quen viết đúng chính tả: Viết đúng chữ ghi âm đầu, âm đệm, âm chính, âm cuối
và thanh điệu, viết đúng tên người, tên địa lí, tên cơ quan, tổ chức trong và ngoài nước,
các từ phiên âm nước ngoài, cách sử dụng đúng dấu câu, tiến tới viết đẹp viết nhanh.
Mặt khác, môn chính tả còn kết hợp luyện tập chính tả với việc rèn luyện cách phát
âm, củng cố nghĩa của từ, trau dồi về ngữ pháp tiếng Việt, góp phần rèn luyện một số
thao tác tư duy (nhận xét, so sánh, liên tưởng, ghi nhớ…) [19, trang 124 – 125]. Ngoài
ra, rèn cho học sinh một số phẩm chất như tính cẩn thận, tinh thần trách nhiệm với
công việc, óc thẩm mỹ, tính sáng tạo nghệ thuật…; bồi dưỡng cho các em tình yêu
tiếng Việt và trau dồi chữ viết tiếng Việt.
1.4.4.3 Nội dung dạy học trong phân môn chính tả lớp 5
1.4.4.3.1 Chính tả đoạn bài
Về nội dung: Bài chính tả lớp 5 được trích từ bài tập đọc trước đó., hoặc là nội
dung tóm tắt của bài tập đọc hoặc các văn bản khác có nội dung phù hợp với chủ điểm
đang học tập trong tuần (độ dài khoảng 100 – 120 chữ). Yêu cầu chung là học sinh cần

viết đúng mẫu chữ, đúng chính tả, không mắc quá 5 lỗi/bài, tốc độ quy định theo
chuẩn. Về hình thức: Có 2 hình thức chính tả được sử dụng ở lớp 5 là: chính tả nhớ -
viết và chính tả nghe – viết. Độ dài mỗi bài khoảng 100 – 120 tiếng (chữ). Ở học kì I,

14

số bài chính tả ở hai hình thức chiếm tỉ lệ ngang nhau; ở học kì II, hình thức chính tả
nghe – viết chiếm tỉ lệ nhiều hơn – khoảng 60%).
1.4.4.3.2 Chính tả âm, vần và chính tả viết hoa
Nội dung các bài tập chính tả âm, vần là ôn lại quy tắc một số chữ như: c/k, g/gh,
ng/ngh và tiếp tục luyện viết các từ có âm, vần, thanh dễ lẫn. Dạng bài tập này được
dạy sau bài tập chính tả nghe – viết, nhớ - viết. Trong nội dung bài tập có phần bắt
buộc dạy cho tất cả học sinh ở các vùng miền trong cả nước, có những nội dung cho
phép các trường, lớp ở từng địa phương lựa chọn để dạy cho phù hợp với đặc điểm của
học sinh địa phương (ví dụ: BT3 tuần 16: Điền vào ô trống tiếng bắt đầu bằng r/gi; v/d.
Có thể thay bài tập khác đưa ra một đoạn văn (thơ) yêu cầu học sinh điền vào ô trống
tiếng bắt đầu bằng d/gi…). Trong phần nội dung tự chọn là phần viết đúng các từ mà
phát âm của tiếng địa phương lệch so với chuẩn trong mỗi bài học. Có trường hợp bài
tập trong sách giáo khoa không phù hợp thì giáo viên cũng có thể thay thế để phù hợp
lỗi chính tả địa phương (ví dụ: BT 2b không phù hợp vì các cặp từ báo/ báu, lao/
lau,… học sinh không sai từ (tiếng) có vần ao, có thể đổi thành: Tìm những từ chứa
tiếng: Béo/ báu, leo/ lau,…) Nội dung chính tả viết hoa: Ôn luyện cách viết hoa tên
người, tên địa lí Việt Nam và tên địa lí nước ngoài. Bước đầu rèn luyện để có ý thức
về cách viết hoa tên riêng tổ chức, danh hiệu, giải thưởng, huy chương.
1.4.4.4 Phương pháp dạy viết đúng chính tả lớp 5
Để dạy viết đúng chính tả giáo viên có thể sử dụng các phương pháp khác nhau.
Tuy nhiên trong quá trình dạy học cần chú ý một số phương pháp cơ bản:
Phương pháp trực quan: Thực hiện phương pháp này giáo viên cần đọc mẫu thông
thả, rõ ràng, phát âm chính xác các tiếng có âm, vần, thanh mà học sinh thường mắc
lỗi. Yêu cầu học sinh phân tích tiếng mắc lỗi thành âm đầu, âm đệm, âm chính, âm

cuối, thanh điệu. Từ đó học sinh nhớ cách ghi các bộ phận của tiếng để viết đúng, sau
đó giáo viên phải cho học sinh viết, phát âm lại cho đúng các tiếng (từ) đó. Phương
pháp thực hành giao tiếp: Thực hiện phương pháp này giáo viên cần cho học sinh đọc
toàn bộ đoạn văn sẽ viết, nắm được hoặc nhớ được nội dung đoạn, bài cần viết, viết
trước một số từ khó học sinh dễ viết sai. Giáo viên thực hiện đọc bài cho học sinh viết
hoặc học sinh tự nhớ viết. Cho học sinh tự soát lỗi; giáo viên chấm bài, chỉ ra các lỗi
trong bài, cách sửa lỗi. Phương pháp trò chơi học tập: Thực hiện phương pháp này

15

giáo viên cần xác định được mục đích trò chơi, sau đó lựa chọn trò chơi phù hợp với
mục đích. Giáo viên nên lựa chọn các trò chơi có luật chơi đơn giản, có thể dạy học
nhiều hiện tượng chính tả, dễ thực hiện trong khoảng thời gian ngắn mà vẫn kích thích
sự phấn khởi của học sinh. Ngoài ra còn có một số biện pháp khác cần thực hiện để
dạy chính tả là tổ chức cho học sinh thành lập nhóm học tập theo mô hình VNEN. Sử
dụng phương pháp này, các nhóm sẽ giúp đỡ nhau trong việc ôn các quy tắc chính tả,
sửa phát âm sai dẫn đến viết sai chính tả, các nhóm lập sổ tay chính tả của nhóm. Giáo
viên hướng dẫn cách ghi các lỗi chính tả mà nhóm hay mắc phải trong bài viết và cách
viết đúng các từ đó. Sau khi ghi các từ mắc lỗi các em cần ghi thêm các từ tương tự có
âm đầu, vần, thanh, tên riêng…tương tự để giúp các em viết đúng nhiều từ (ví dụ:
nhóm học sinh viết sai tiếng có vần au màu xanh/ mèo xanh, cho học sinh viết thêm
sáu/séo, tàu/tèo… Với học sinh viết sai quá nhiều lỗi chính tả, ngoài việc cho các em
luyện viết chính tả trong nhóm, giáo viên cần yêu cầu các em có sổ riêng, ghi lại nhiều
lần tiếng, từ hay viết sai để các em nhớ mặt chữ và sẽ không viết sai những chữ đó ở
lần sau. Tuy vậy khi sử dụng các phương pháp, giáo viên phải chú ý động viên, góp ý
nhẹ nhàng khi học sinh phát âm, phân tích, viết sai…, không chê trách hay tỏ ra bất mãn
với những sai sót của học sinh. Giúp học sinh sửa chữa kịp thời những lỗi sai chính tả mà
các em thường mắc phải. Xây dựng một số mẹo chính tả để giúp học sinh sửa chữa được
những lỗi sai phổ biến. Kết hợp được nhiều phương pháp (kết hợp cả phương pháp tích
cực và phương pháp tiêu cực: xây dựng cái đúng, loại bỏ cái sai) hình thức tổ chức dạy

học để giờ chính tả không trở thành giờ học khô khan, cứng nhắc.
1.4.4.5 Hình thức tổ chức dạy học phân môn chính tả cho học sinh lớp 5
Hình thức dạy học nhóm: Dạy học nhóm là hình thức tổ chức tổ chức dạy học
mới được sử dụng trong tất cả các môn học ở Tiểu học nói chung và phân môn tiếng
Việt nói riêng. Đây là phương pháp vận dụng mô hình dạy học mới vào dạy học ở Tiểu
học, viết tắt là VNEN, nhằm giúp học sinh phát huy tính tự giác tích cực vào học tập,
học sinh tự tìm ra kiến thức của mình dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Học nhóm là
hình thức tổ chức học tập của học sinh theo nhóm nhỏ trên lớp dưới sự điều khiển của
nhóm trưởng, trong đó nhấn mạnh đến các kỹ năng hợp tác mang tính xã hội mà học
sinh cần có, để đảm bảo sự hợp tác trong học tập của học sinh. Học nhóm có ý nghĩa
đối với việc dạy học phân môn chính tả. Phương pháp này tạo điều kiện cho học sinh

16

trung bình được tham gia vào các hoạt động học tập một cách tích cực, tạo cơ hội cho
các em có thể trình bày ý kiến của mình, rèn luyện một số kỹ năng sống, kỹ năng xã
hội, quan hệ bạn bè, tính mạnh dạn, ý thức trách nhiệm trong tập thể nhóm, chia sẻ
kinh nghiệm với nhau. Trong nhóm cùng hỗ trợ nhau để tìm ra lỗi sai và sửa chữa lỗi
sai đó. Như vậy, học sinh sẽ ghi nhớ và khắc phục được lỗi chính tả mà các em thường
mắc phải. Tuy nhiên cần lưu ý một số hạn chế của mô hình mới này là khi tổ chức
hình thức dạy học này, học sinh dễ gây mất trật tự, không hợp tác vào việc thực hiện
nhiệm vụ của nhóm, có thể do nhiệm vụ giáo viên đưa ra quá dễ hoặc quá khó khiến
học sinh không hứng thú tham gia vào hoạt động nhóm, do giáo viên chưa bao quát,
quản lý lớp được… Vì vậy, trong nhóm, nhóm trưởng điều khiển nhóm mình sao cho
từng thành viên trong nhóm không thể trốn tránh công việc, hoặc trách nhiệm học tập.
Mọi thành viên đều phải học, đóng góp phần mình vào công việc chung và thành công
của nhóm. Mỗi thành viên thực hiện một vai trò nhất định, các vai trò ấy được luân
phiên thường xuyên trong các nội dung hoạt động khác nhau. Mỗi thành viên trong
nhóm đều hiểu rằng không thể dựa vào công việc của người khác, giáo viên có trách
nhiệm phải nhắc nhở học sinh, phải phân công công việc một cách cụ thể cho nhóm

trưởng, để nhóm trưởng điều khiển nhóm phân công công việc cụ thể cho các thành
viên trong nhóm mình, và nhiệm vụ giáo viên đưa ra phải vừa sức với học sinh, không
quá khó cũng như không quá dễ. Tóm lại, dạy học theo mô hình dạy học mới, giáo
viên tổ chức cho học sinh học nhóm, trong nhóm cùng trao đổi, chia sẻ, tự tìm tòi
những kinh nghiệm, kiến thức mới hay giải quyết những nhiệm vụ học tập được giao,
thành viên trong nhóm có thể đổi chéo bài để kiểm tra kết quả của nhau, nhằm tìm ra
các lỗi sai và sửa chữa cho nhau, như vậy thì học sinh dễ khắc sâu kiến thức bài học.
Trong khi đó, giáo viên phải bao quát, theo dõi hoạt động của học sinh và sẵn sàng
làm cố vấn, trọng tài hay hỗ trợ các nhóm khi cần thiết. Hình thức trò chơi học tập:
Trò chơi học tập bao gồm các trò chơi có mục đích học tập rõ rệt. Trong dạy học chính
tả ở Tiểu học, đặc biệt là ở lớp 5, trò chơi học tập có nhiều tác dụng gây hứng thú học
tập, góp phần làm cho tiết học trở nên sinh động, kích thích trí tưởng tượng, trí nhớ,
tính nhanh nhẹn, chính xác… của học sinh. Hoạt động chủ yếu là tổ chức chơi theo
từng nhóm trong lớp. Khi chơi, học sinh phải sử dụng cùng một lúc nhiều kiến thức đã
học. Hình thức này được áp dụng khi giáo viên dạy chính tả về âm, vần như tổ chức thi

17

đua giữa các nhóm, các nhóm điền phụ âm đúng với vần đã có hoặc cho một cụm từ,
điền vần phù hợp với phụ âm đã cho để cụm từ có nghĩa… Để phát huy được tác dụng
tích cực của trò chơi học tập trong môn Chính tả, giáo viên cần chuẩn bị nội dung trò
chơi theo phiếu để mọi học sinh đều có thể tham gia trò chơi. Tùy theo yêu cầu, nội
dung từng tiết học mà chọn thời điểm tổ chức trò chơi, nên phối hợp giữa hoạt động cá
nhân, hoạt động nhóm và hoạt động của cả lớp khi tổ chức trò chơi học tập. Thực tế
cho thấy việc vận dụng hình thức trò chơi giúp học sinh trung bình dễ tiếp thu hơn và
nhớ lâu hơn kiến thức được học.
1.4.4.6 Những yêu cầu về kỹ năng viết chính tả trong phân môn chính tả lớp 5
Rèn kỹ năng viết chính tả và kỹ năng nghe: Nhớ - viết là kiểu bài yêu cầu học
sinh nhớ và viết lại chính xác tất cả các từ, câu trong một đoạn của một bài thơ đã học.
Kiểu bài này có tác dụng giúp học sinh nhớ lại kiến thức đã học, nhớ mặt chữ các từ

trong câu, đoạn. Yêu cầu đặt ra trong kiểu bài nhớ - viết là học sinh phải học thuộc
lòng bài thơ đã học, và nhớ để viết lại một cách chính xác. Kiểu bài chính tả nghe –
viết: Yêu cầu học sinh nghe từng từ, từng câu do giáo viên đọc, vừa nghe vừa tái hiện
lại dưới hình thức chữ viết các từ, câu ấy. Nói cách khác, học sinh phải có năng lực
chuyển hóa ngôn ngữ âm thanh thành ngôn ngữ viết. Yêu cầu đặt ra là học sinh phải
viết đủ số âm tiết đã nghe, viết đúng và nhanh theo tốc độ quy định (học sinh phải biết
phối hợp nghe, nhớ để viết). Các chỉ tiêu cần đạt [19, trang 129]: Viết đúng một bài
chính tả chưa được đọc với tốc độ nhanh, chữ viết rõ ràng, trình bày đúng quy định;
lập sổ tay chính tả, ôn tập quy tắc chính tả; chính tả phương ngữ, không mắc quá 5 lỗi/
1 bài trên dưới 100 chữ. Đạt tốc độ viết tối đa khoảng 100 chữ/ 15 phút hoặc 6 – 7
chữ/ 1 phút. Ngoài ra, kết hợp luyện tập chính tả với việc rèn luyện cách phát âm, củng
cố nghĩa của từ, trau dồi về ngữ pháp tiếng Việt, góp phần phát triển một số thao tác tư
duy (nhận xét, so sánh, liên tưởng, ghi nhớ, tái hiện…) Bồi dưỡng một số đức tính và
thái độ cần thiết trong công việc như: cẩn thận, chính xác, có óc thẩm mỹ, lòng tự
trọng và tinh thần trách nhiệm cao,… Trên đây chỉ là những tiêu chí, yêu cầu chung
mà học sinh cần đạt. Nhưng khi thiết kế tiết dạy (soạn giáo án), giáo viên cần xác định
mục tiêu bài học sao cho phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh. Trong lớp học,
mức độ lĩnh hội các kiến thức ở mỗi học sinh rất khác nhau, nếu học sinh học giỏi mà
học như mọi học sinh khác sẽ không phải động não, sinh ra chủ quan, học sinh nhận

18

thức kém thì không lĩnh hội được kiến thức dẫn đến chán nản, không tập trung, làm
việc riêng…Vì vậy giáo viên cần điều chỉnh phương pháp dạy học cho phù hợp với
từng loại đối tượng học sinh, để học sinh có thể khắc phục được lỗi chính tả và có kỹ
năng viết đúng chính tả.
1.4.4.7 Trình tự lên lớp của tiết chính tả lớp 5
Thông thường một tiết dạy chính tả thường theo trình tụ như sau [19, trang 132 –
133 – 134]:
A. Ôn lại bài cũ: (2-3 phút) Giáo viên cho học sinh nghe – viết một số từ ngữ đã

được luyện tập hoặc học sinh viết sai ở tiết học trước…
B. Dạy bài mới: 1. Giới thiệu bài: Nêu yêu cầu của bài tập chính tả. 2. Hướng dẫn
học sinh viết chính tả: Chính tả nghe – viết: a. Hướng dẫn chính tả (8 – 10 phút) Giáo
viên đọc toàn bài một lượt cho học sinh nghe trước khi học sinh viết. Khi đọc giáo
viên cần phát âm rõ ràng, tốc độ vừa phải, tạo điều kiện cho học sinh chú ý đến những
hiện tượng chính tả cần chú ý. Giúp học sinh hiểu nội dung bài chính tả. Hướng dẫn
học sinh nhận xét về các hiện tượng chính tả cần chú ý trong bài. Tổ chức cho học sinh
viết trước (giấy nháp, bảng con) những từ ngữ dễ viết sai chính tả (bước phát hiện và
luyện viết chữ khó viết, dễ sai chính tả rất quan trọng giúp học sinh không mắc vào lỗi
chính tả). b. Học sinh viết bài (13 – 15 phút) Đọc cho học sinh viết từng câu hay từng
cụm từ. Mỗi câu hoặc cụm từ đọc 2 lần: đọc lượt đầu chậm rãi cho học sinh nghe, đọc
nhắc lại một lần cho học sinh kịp viết theo tốc độ viết ở quy định lớp 5. Đọc toàn bài
lần cuối cho học sinh soát lại (dò bài). Chính tả nhớ - viết: Tiến hành các bước giống
chính tả nghe – viết: Tổ chức cho học sinh ôn lại đoạn, bài cần viết trước khi viết: một,
hai học sinh đọc thuộc lòng trước lớp, các học sinh khác nhẩm theo. Hướng dẫn học
sinh nhận xét về các hiện tượng chính tả cần chú ý trong bài. Tổ chức học sinh tập viết
trước (vào giấy nháp) những từ dễ viết sai chính tả. Tổ chức cho học sinh viết theo tốc
độ quy định của học sinh lớp 5 (được cụ thể trong từng giai đoạn). 3. Chấm và chữa
bài chính tả: (4 – 5 phút). Mỗi giờ chính tả, giáo viên chọn chấm một số bài của học
sinh. Đối tượng được chọn chấm bài ở mỗi giờ là: Những học sinh đến lượt được chấm
bài. Những học sinh hay mắc lỗi, cần được chú ý rèn luyện thường xuyên. Qua chấm
bài, giáo viên có điều kiện rút ra nhận xét và nêu hướng khắc phục lỗi chính tả cho cả
lớp. 4. Hướng dẫn học sinh làm bài tập chính tả (6 – 8 phút) Đây là bước giáo viên cần

19

lưu ý giúp học sinh rèn luyện kỹ năng chính tả. Thường có các loại bài tập bổ trợ như
sau: Bài tập bắt buộc (chung cho các vùng phương ngữ). Bài tập lựa chọn cho từng
vùng phương ngữ giúp học sinh nắm vững yêu cầu bài tập. Giúp học sinh chữa một
phần của bài tập làm mẫu. Tổ chức học sinh làm bài và báo cáo kết quả. Chữa bài.

C. Củng cố, dặn dò: ( 1 – 2 phút) Giáo viên nhận xét tiết học, lưu ý trường hợp dễ
viết sai trong bài chính tả, yêu cầu về nhà.
1.4.5 Nguyên tắc dạy chính tả ở Tiểu học
Nguyên tắc dạy chính tả theo khu vực: Khi dạy tiếng Việt, giáo viên cần chú ý
dạy chính tả theo khu vực nghĩa là nội dung chính tả phải sát hợp với tình hình thực tế
mắc lỗi chính tả của học sinh từng khu vực, từng miền. Việc xác định nội dung dạy
chính tả không chỉ sát hợp với học sinh cả nước mà còn phải sát hợp với học sinh từng
khu vực để khắc phục lỗi chính tả do ảnh hưởng của phương ngữ. Để thực hiện triệt để
nguyên tắc này, sách giáo khoa tiếng Việt Tiểu học đã xây dựng hai loại bài tập: bài
tập bắt buộc và bài tập tự chọn. Loại bài tập bắt buộc dành cho học sinh cả nước, bài
tập tự chọn phù hợp với học sinh từng khu vực. Nguyên tắc kết hợp phương pháp tích
cực với phương pháp tiêu cực (xây dựng cái đúng, loại bỏ cái sai): Bên cạnh phương
pháp tích cực (để viết đúng, cần cung cấp quy tắc chính tả ngay từ ban đầu, kết hợp
hướng dẫn học sinh thực hành, luyện tập nhằm hình thành kỹ năng về chính tả) cần sử
dụng phương pháp tiêu cực: đưa ra những hiện tượng chính tả sai, hướng dẫn học sinh
sửa chữa rồi từ đó hướng dẫn học sinh loại bỏ lỗi chính tả trong các bài viết. Để hướng
dẫn học sinh sửa chữa các lỗi chính tả theo hướng loại bỏ cái sai, xây dựng cái đúng,
đi từ cái sai đến cái đúng, giáo viên có thể đưa ra những đoạn văn, đoạn thơ có nhiều
lỗi chính tả, yêu cầu học sinh phát hiện ra lỗi sai, tìm nguyên nhân sai và sửa lại cho
đúng. Phương pháp tiêu cực giúp học sinh rèn luyện óc phân tích, xét đoán đồng thời
kiểm tra, củng cố lại kiến thức chính tả của học sinh. Phương pháp tiêu cực được coi là
thứ yếu, có tính chất bổ trợ cho phương pháp tích cực. Trong quá trình dạy chính tả,
giáo viên cần phối hợp một cách hợp lý, hài hòa cả hai phương tiện.
Như vậy giáo viên phải có sự chuẩn bị kỹ càng trong việc thiết kế bài dạy: Có
mục tiêu, lựa chọn phương pháp, nội dung dạy học phù hợp với năng lực và trình độ
của học sinh. Luôn luôn theo dõi, kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ học tập của học
sinh để có cách điều chỉnh, bổ sung kịp thời. Giáo viên cho học sinh luyện tập và nhắc

20


đi nhắc lại nhiều lần những chỗ sai, nhằm củng cố nhiều lần để hình thành kỹ năng
viết chính tả cho học sinh. Chính tả tiếng Việt là chính tả ngữ âm, vì vậy muốn học
sinh viết đúng, giáo viên phải đọc đúng, tạo cơ sở cho việc viết đúng. Giáo viên cần
nắm được các loại lỗi chính tả, nguyên nhân mắc lỗi, các quy tắc. Dạy học chính tả có
ý nghĩa rất to lớn ở Tiểu học. Để dạy học chính tả ở Tiểu học đạt hiệu quả, người giáo
viên cần nắm nội dung và phương pháp tổ chức quá trình dạy học.










×