Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Phân tích những câu ca dao than thân, yêu thương thương tình nghĩa số 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (79.06 KB, 13 trang )

Đề bài: Phân tích những câu ca dao than thân, yêu thương
thương tình nghĩa
Bài làm
Bài 1, 2: Ca dao là sản phẩm tinh thần của tập thể nhân dân, là
tấm gương phản chiếu tâm hồn người lao động một cách sâu sắc.
Tính chất "đồng sáng tạo" đó đã tạo ra trong ca dao nói riêng, trong
văn học dân gian nói chung các cơng thức truyền thống mang tính
thẩm mĩ cộng đồng trong sáng tạo nghệ thuật. Khi tìm hiểu ca dao
cần đặt bài ca dao đó trong hệ thống cơng thức nghệ thuật truyền
thống để chúng có thể âm vang trong nguồn mạch chung và thể
hiện được sắc thái riêng độc đáo. Trong ca dao có niềm vui và nỗi
buồn, có tiếng ca nghĩa tình và tiếng hát than thân. Khi nghĩ về thân
phận của mình, người nơng dân xưa kia thường cất lên tiếng ca
chứa chất nỗi buồn tủi, đắng cay. Trong dịng mạch đó nổi lên rõ
nhất là tiếng hát than thân về cuộc đời người phụ nữ mà hai bài ca
dao mở đầu bằng hai tiếng "Thân em" là minh chứng. Cuộc đời
người phụ nữ xưa kia có rất nhiều nỗi khổ cực, đắng cay. Nỗi khổ về
vật chất, phải thức khuya dậy sớm dãi gió, dầm sương : Thân em
như lá đài bi, Ngày thì dãi nắng, đêm thì dầm sương, Ngày ngày hai
bữa cơm đèn, Lấy gì má phấn răng đen hỡi chàng. Nhưng nỗi khổ
lớn nhất của họ vẫn là nỗi khổ tinh thần. Xã hội phong kiến xưa kia
với những quan niệm bất cơng như "tam tịng" (ở nhà phải theo cha,
lấy chồng phải theo chồng, chồng chết phải theo con) đã gây ra bao
nỗi khổ cực cho người phụ nữ trong suốt cả cuộc đời. Họ khơng có
quyền định đoạt hạnh phúc cũng như cuộc địi mình. Chính vì thế,
khi nghĩ về thân phận của mình, người phụ nữ thường cất lên tiếng


hát than thân chứa chất nỗi buồn tủi, đắng cay. Nếu thống kê, ta sẽ
thấy số bài ca mở đầu bằng cụm từ "Thân em như" chiếm số lượng
khá lớn. Nỗi khổ về thân phận bị phụ thuộc ấy được thể hiện rõ nét


qua biện pháp nghệ thuật so sánh quen thuộc của ca dao. Hai bài
ca dao mang nét chung trong biện pháp nghệ thuật và nội dung ý
nghĩa. Hai bài đều sử dụng cụm từ mở đầu "Thân em như". Sự
giống nhau ở cấu trúc mở đầu là đặc điểm của một số bài ca dao
tạo nên một hệ thống lối nói khắc sâu,ấn tượng chung về "thân
phận" con người. Hai bài ca dao đều sử dụng biện pháp so sánh
trực tiếp. Hai vế so sánh được nối bởi từ "như" tạo nên sự đối chiếu
những nét tương đồng giữa hai đối tượng khác loại, giúp người
nghe hiểu đặc điểm của sự vật và cảm thông với tâm sự của nhân
vật trử tình. Thân phận con ngựời có ý nghĩa vô cùng lớn lao lại
được tác giả dân gian so sánh với những vật, những đối tượng
mong manh, nhỏ bé, bị phụ thuộc, chỉ được đánh giá, xem xét ở giá
trị sử dụng, bị "đồ vật hoá" : Thân em như tấm lụa đào Phất phơ
giữa chợ biết vào tay ai. Đây là một trong số ít bài ca mà người phụ
nữ thể hiện rõ sự tự ý thức về vẻ đẹp hình thức của mình. Tấm lụa
mềm mại, óng ả lại nổi bật về màu sắc. "Tấm lụa đào" là biểu tượng
của tuổi thanh xuân tươi đẹp mà người phụ nữ đã ý thức được một
cách rõ ràng. Câu thơ thứ nhất nêu lên hình ảnh so sánh một cách
khái quát, còn câu thơ thứ hai mang tính chất bổ sung, làm rõ nghĩa
cho câu trên. "Tấm lụa đào" là tấm lụa đẹp về hình thức và có giá trị
nhưng lại "phất phơ giữa chợ". Chợ là nơi kẻ qua, người lại, nơi
người đời mua bán, trao đổi hàng hố, vật dụng. Người ta có thể
bán, có thể mua. "Tấm lụa đào" trở thành đối tượng sở hữu của bất
kì người nào có nhu cầu mua bán, nó khơng có quyền lựa chọn,


định đoạt số phận mình. Hình ảnh ẩn dụ và câu hỏi tu từ "biết vào
tay ai" chứa đựng biết bao lo lắng về thân phận phụ thuộc, nổi trôi,
mong manh của người phụ nữ trong xã hội xưa. Thân em như củ ấu
gai Ruột trong thì trắng vỏ ngồi thì đen. Ai ơi, nếm thử mà xem !

Nếm ra, mới biết rằng em ngọt bùi. Đày là bài ca dao có nét chung
với bài ca dao 1 như trên đã phân tích, nhưng lại có sắc thái riêng
độc đáo. Nếu ở bài 1, người phụ nữ ý thức được về vẻ đẹp hình
thức thì ở bài 2 này, người phụ nữ muốn khẳng định về vẻ đẹp nội
dung, phẩm chất bên trong dẫu bề ngồi khơng tương xứng. Củ ấu
gai có vỏ ngồi đen đúa, xấu xí, gai góc nhưng ẩn chứa sau vẻ
ngồi xấu xí ấy là ruột ấu trắng thơm, ngọt bùi. Ai đã một lần ăn
chắc sẽ nhớ và càng nhớ hơn bài học tự rút ra về cách đánh giá sự
vật trong cuộc đời. Bài ca sử dụng phương pháp đối lập ngay trong
một dòng thơ (tiểu đối) với các cặp tương phản : trong - ngồi, trắng
- đen "Ruột trong thì trắng vỏ ngồi thì đen". Lời mời mọc, nhắn gửi
của người phụ nữ với người đời vừa là sự tự khẳng định vẻ đẹp tâm
hồn của mình song nghe cũng thật tủi hờn, xót xa : Ai ơi, nếm thử
mà xem ! Nếm ra, mới biết rằng em ngọt bùi. Với người con gái, sự
mời mọc tha thiết và tự khẳng định ấy là sự "vạn bất đắc dĩ" bởi vì
vẻ đẹp bên trong - giá trị thực của họ chẳng được ai biết đến. Bài ca
dao có sự lựa chọn hình ảnh so sánh rất chính xác, vừa cụ thể vừa
biểu cảm, chắc chắn đây phải là người phụ nữ lao động gắn bó với
ruộng đồng mới có cái nhìn so sánh giản dị, tự nhiên như vậy. Hình
ảnh được so sánh đã cụ thể hoá tâm trạng tủi buồn của người phụ
nữ. Bài ca có ý nghĩa nhân văn và ý nghĩa ngầm phê phán những ai
không coi trọng giá trị đích thực của con người. Hai bài ca dao trên
bổ sung cho nhau, là sự tự khẳng định một vẻ đẹp bên ngoài, một


vẻ đẹp bên trong nhưng bao trùm là cảm hứng ngậm ngùi, xót xa về
thân phận người phụ nữ trong xã hội xưa. Đó là giá trị tố cáo và giá
trị nhân đạo sâu sắc trong tiếng hát than thân ướt đầm nước mắt
của người phụ nữ. Các bài ca dao có cùng cơng thức mở đầu gần
gũi nhau bởi nét tương đồng trong nội dung, ý nghĩa và cùng sử

dụng biện pháp nghệ thuật so sánh. Bên cạnh đó, mỗi bài có nét
riêng trong việc lựa chọn đối tượng miêu tả và biểu hiện. Cũng để
diễn tả thân phận chìm nổi của người phụ nữ mà có một loạt hình
ảnh khác nhau để so sánh khiến biện pháp nghệ thuật và nội dung
diễn đạt càng đa dạng, phong phú, tránh được sự đơn điệu, nhàm
chán. So sánh là sự khắc hoạ một cách cụ thể, làm sáng rõ hơn
những khái niệm trừu tượng : "Thân em" là khái niệm trừu tượng
được thể hiện thơng qua những hình ảnh giản dị, gần gũi vói cuộc
sống con người : "tấm lụa đào", "giếng giữa đàng", "miếng cau khô",
"hạt mưa sa",... Những vật thể rất khác nhau ấy được xích lại gần
nhau nhờ những nét tương đồng bởi sự lựa chọn của biện pháp so
sánh. Điều này giúp việc khắc hoạ sâu hon đặc điểm đối tượng
đuợc đem ra so sánh mà vẫn giàu giá trị biểu cảm. Ta có thể thấy
nhu có tiếng thở dài cam chịu, giọt nước mắt đắng cay của bao kiếp
người phụ nữ xưa kia. Trong ca dao cịn có rất nhiều bài khác cũng
sử dụng biện pháp nghệ thuật này để thể hiện nội dung tưong tự.
Bởi vì ca dao là sáng tác của nhân dân lao động, được diễn xướng
trong lao động, trong hát đối đáp nơi hội hè, đình đám. Từ đời này
qua đời khác, ca dao được lưu truyền, khắc hoạ rõ thêm tâm tình
người lao động : - Thân em như cái quả xồi trên cây, Gió đơng gió
tây, gió nam gió bắc Nó đánh lúc la lúc lắc trên cành. - Thân em như
chổi đầu hè Phịng khi mưa gió đi về chùi chân. - Thân em như


nước giếng trong Để cho bèo tấm, bèo ong lọt vào. Thân em như
giếng giữa đàng Người khôn rửa mặt, người phàm rửa chân. Chàng ơi phụ thiếp làm chi Thiếp như com nguội đỡ khi đói lịng.
Tiếp mạch cảm nghĩ chung về thân phận phụ thuộc, mỏng manh, nổi
nênh của người phụ nữ trong ca dao, nữ sĩ Hồ Xuân Hương đã
khắc hoạ rõ nét hon trong tiếng thơ đầy bản sắc của bà tạo nên một
tiếng nói chung, một mạch tiếp nối giữa văn học dân gian và văn

học viết : Thân em vừa trắng lại vừa tròn, Bảy nổi ba chìm với nước
non. Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn, Mà em vẫn giữ tấm lòng son.
Những bài ca dao trên cho ta hiểu hơn về nỗi khổ của cuộc đời
người phụ nữ xưa, giúp ta thêm yêu cuộc sống hiện nay. Người phụ
nữ hiện đại vẫn giữ những nét dịu dàng, khiêm nhường của người
phụ nữ truyền thống nhưng họ khơng cịn phải cam chịu cuộc sống
phụ thuộc mà đã ý thức được về vị thế xã hội của mình, chủ động và
xây dựng cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn : Một buổi sớm mai trớm
bước chân mình trên cát Người mẹ cho ra đời những Phù Đổng
Thiên Vương Dầu là nguyên thủ quốc gia hay là những anh hùng Là
bác học hay là ai đi nữa Cũng là con của người phụ nữ Người đàn
bà rất bình thường khơng ai biết tuổi tên.
Bài 3: Trong ca dao có một số lượng khá lớn những bài ca mở đầu
bằng công thức "Trèo lên". Như : "Trèo lên cây bưởi hái hoa...",
"Trèo lên cây gạo cao cao...", "Trèo lên trái núi Thiên Thai...",... Các
bài ca mở đầu theo kiểu này thường gây nên khơng ít cách hiểu
khác nhau, tạo nên những tranh luận thú vị trong cảm hiểu thơ ca
dân tộc. Bài "Trèo lên cây bưởi hái hoa" là một ví dụ, làm tốn khơng
ít giấy mực của các nhà nghiên cứu và độc giả yêu thích thơ ca.


Thơ ca tồn tại sâu đậm trong tâm hồn con người phải chăng cũng có
phần bởi sự mơ hồ, khơng dễ giải thích bằng lời ấy: Trèo lên cây
khế nửa ngày, Ai làm chua xót lịng này, khế ơi! Hỏi khế rằng ai đã
làm chua xót lịng khế thì quả là một câu hỏi tu từ q đỗi tài tình.
Khơng ít người thấy câu này khó hiểu ! Phải chăng theo kinh nghiệm
dân gian, trèo hái khế nói riêng, hái quả nói chung giữa nắng trưa
q mái thì quả sẽ bị chua hơn ? Phương pháp nghệ thuật nổi bật ở
hai câu mở đầu này là phương pháp nhân cách hố. Nhân cách hố
có hai hình thức : một là gọi những vật vơ tri vơ giác mà trị chuyện,

bộc bạch với chúng như với những người bạn ; hai là gửi gắm vào
các sự vật vô tri vô giác ấy những hành động, cảm xúc của con
người khiến thế giói vật thể vơ hồn trở nên sống động, tràn ngập
cảm xúc như con người. Hai câu thơ này đã sử dụng tài tình cả hai
hình thức ấy. Lựa chọn khế để hỏi vị chua là một sự lựa chọn tài tình
bởi trong lịng khế (trừ khế ngọt) chẳng bao giờ hết chứa đựng vị
chua. Hai câu đầu nghe sao da diết, xót xa. Lối nói ẩn dụ, kín đáo,
bóng bẩy càng làm cho người nghe cảm nhận được nỗi lịng đau
đớn khơn ngi của kẻ phải chịu lỡ dở dun tình, ở đây ẩn chứa
sự tương đồng kín đáo : khế chua - lịng người chua xót. Đại từ
phiếm chí "ai" và câu hỏi tu từ "ai làm chua xót" mang ý nghĩa khái
quát và mở ra nhiều trường liên tưởng, giống như câu hỏi hờn giận
duyên phận trong một bài ca khác "Ai làm cho bướm lìa hoa". Ai có
thể là hồn cảnh khách quan, là xã hội, là người ngồi cuộc, cũng
có thể là người trong cuộc tự chia xa. Chỉ biết rằng nhân vật trữ tình
(ở đây có thể nghiêng về cách hiểu là chàng trai giống như chàng
trai trong bài ca dao "Trèo lên cây bưởi hái hoa") dù dun tình lỡ
dở nhưng vẫn hồi niệm, ngóng vọng, thương nhớ khơn ngi


"người ấy" qua sự bộc bạch nỗi lòng ở nhũng câu tiếp theo : Mặt
trăng sánh với mặt trời, Sao Hôm sánh với sao Mai chằng chằng.
Tác giả đã lựa chọn hàng loạt hình ảnh ẩn dụ mang ý nghĩa biểu
trung cho con người, tình người. Các hình ảnh thiên nhiên, vũ trụ
biểu tượng của sự vĩnh cữu, tương ứng với nhau đồng thời cũng
biểu tượng của sự cách xa vơ vọng. Các cặp hình ảnh đối sánh :
mặt trang - mặt trời, sao Hôm - sao Mai như em và anh luôn tương
xứng dẫu phải xa cách. Hai lần từ "sánh với" được lặp lại và kèm
thêm tính từ "chằng chằng" khẳng định dù phải cách xa nhưng hai ta
vẫn đẹp đôi vừa lứa. Mặt trời lặn, mặt trăng lên là quy luật tự nhiên

bất biến ; sao Hôm và sao Mai vốn chỉ là một, đó là sao Kim (khi
mọc vào buổi sáng thì gọi là sao Mai, mọc vào buổi chiều thì gọi là
sao Hơm). Lấy hình ảnh thiên nhiên vĩnh cửu, vô cùng vô tận để
khẳng định tình u son sắt khơng đổi thay là biện pháp nghệ thuật
so sánh có hiệu quả cao. Đó là những vật thể vĩnh cứu, tương xứng
trong vũ trụ dẫu đối lập về thời gian xuất hiện nhưng chúng luôn là
sự hồi âm, phản chiếu của nhau. Câu kết trong ca dao giao duyên
thường là lúc nỗi lòng được bộc lộ trực tiếp hơn. Dường như nhân
vật trữ tình khơng cịn kìm nén lịng mình được nữa : Mình ơi! Có
nhớ ta chăng ? Ta như sao Vượt chờ trăng giữa trời. Đại từ nhân
xưng mình - ta quen thuộc trong ca dao đã xuất hiện trực tiếp. Nỗi
nhớ không kìm nén được đã bật tn trào theo lơgíc tình cảm rất tự
nhiên. Hỏi người (mình) có nhớ ta chăng và tiếp theo là lời khẳng
định tình yêu son sắt của ta dẫu duyên kiếp không thành - "Ta như
sao Vượt chờ trăng giữa trời". Sao Vượt cũng là sao Hôm hay sao
Mai. Sao Vượt mọc rất sớm từ lúc chiều hôm. Khi sao Vượt lên đến
đỉnh của bầu trời thì trăng mới mọc, vậy mà sao Vượt vẫn "chằng


chàng" ngóng đợi trăng lên. Sự chờ đợi, ngóng vọng dẫu cơ đon
nhưng kiên định biết bao. Bài ca nói về nỗi xót đau lỡ dở duyên
phận, nói về sự vơ vọng của kẻ thất tình mà sao người nghe vẫn
thấy ấm áp tình đời. Sự ấm áp ấy toả ra từ niềm tin yêu vào sự thuỷ
chung son sắt của tình u lứa đơi, của tình người cao đẹp.
Bài 4: Bài ca dao diễn tả nỗi nhớ thưong da diết, bồn chồn của
một cô gái đang yêu. Trạng thái yêu thương, mong nhớ, giận hờn,
nhất là trong tình yêu trai gái là những trạng thái tình cảm trừu
tượng nhưng con người luôn mong muốn được giãi bày, chia sẻ. Ca
dao có rất nhiều cách diễn tả các trạng thái tình cảm phong phú, tinh
tế thảm sâu trong tâm hồn con người. Có nỗi nhớ thương được diễn

tả trực tiếp : "Tôi thương người ấy nhiều nhiều - Người ấy thương lại
bao nhiêu mặc lịng". Có nỗi nhớ được so sánh trực tiếp bằng sự cụ
thể hoá, vật chất hoá các trạng thái tình cảm vốn ở dạng trừu tượng
"Nhớ ai bổi hổi bồi hồi - Như đứng đống lửa, như ngồi đống than".
Bài ca dao Khăn thương nhớ ai này lại có nét riêng, độc đáo trong
cách diễn tả. Nhà phê bình văn học Hồi Thanh đã nhận xét: "Tôi
cho đây là một trong những bài ca dao hay nhất Việt Nam" (tạp chí
Văn nghệ, số 1, 1982). Nét độc đáo của bài ca dao này là lối biểu
đạt vừa giản dị, kín đáo vừa tinh tế, sâu sắc. Nghệ thuật nhân cách
hoá, việc sử dụng điệp từ, điệp ngữ và sự lựa chọn hàng loạt các
biểu tượng khăn, đèn, mắt đã góp phần diễn tả tâm trạng cơ gái
đang yêu. Bài ca sử dụng năm lần câu hỏi thì ba lần vang lên điệp
khúc hỏi khăn, từ khăn xuất hiện liên tiếp sáu lần ở vị trí mở đầu
dòng thơ. Trong ca dao giao duyên, khăn hay được nhắc đến bởi nó
là vật thể quen thuộc thường quấn quýt bên người : khi đội đầu, khi


chùi nước mắt hoặc là kỉ vật thiêng liêng gợi hình bóng, lưu giữ "hơi
hương" của người thương, trai gái trao tặng khăn cho nhau kín đáo
gủi gắm lời thề nguyền, ước hẹn: - Gửi khăn gửi áo gửi lời, Gửi đôi
chàng mạng cho người đàng xa. - Nhớ khi khăn mở trầu trao, Miệng
thì cười nụ biết bao nhiêu tình. Ở bài ca dao Khăn thương nhớ ai,
biện pháp nhân cách hố quen thuộc được sử dụng tài tình. Nỗi nhớ
thưong của nhân vật trữ tình được gửi gắm kín đáo qua các vật thể
quen thuộc, gần gũi với cuộc sống con người. Lựa chọn biểu tượng
khăn để gửi gắm nỗi nhớ đã là sự lựa chọn chính xác, song điều
đáng chú ý ở đây là sự biểu hiện trạng thái của cái khăn. Khăn
không nằm yên một chỗ mà luôn vận động trong các trạng thái đa
chiều, đối lập : rơi xuống, vắt lên, chùi nước mắt,... Trạng thái vận
động của khăn biểu trưng cho nỗi nhớ thương bồn chồn, khắc khoải,

ngồi đứng không yên của nhân vật trữ tình. Nhiều bài ca dao đã
diễn tả sinh động nỗi lòng tương tư, sầu muộn của những kẻ đang
yêu : "Nhớ ai nhớ mãi thế này - Nhớ đêm quên ngủ, nhớ ngày quên
ăn", "Đêm nằm lưng chẳng dính giường - Mong cho đến sáng, ra
đường gặp em". Cô gái hỏi khăn rồi hỏi đèn. Đèn là hình ảnh biểu
tượng của thời gian về đêm với sự ngóng vọng, đợi chờ. Nếu khăn
rơi xuống, vắt lên, chùi nước mắt xơ lệch trong khơng gian đa chiều
thì đèn biểu trưng cho sự chuyển hoá của thời gian. Nỗi nhớ từ ngày
chuyển sang đêm thường được biểu trưng bằng hình ảnh ngọn đèn
trong ca dao : - Đèn thương ai mà đèn chẳng tắt, Ta thương mình
nước mắt nhỏ sa. Đêm khuya thắp chút dầu dư, Tim lan cháy lụn,
sầu tư một mình. - Đêm qua thắp đọi dầu đầy, Bấc non chẳng cháy,
oan mày dầu ơi. Và cuối cùng cô gái hỏi mắt : Mắt thương nhớ ai,
Mắt ngủ không yên. Nếu những câu hỏi dồn dập trên đây hỏi khăn,


hỏi đèn thể hiện qua biện pháp ẩn dụ, nhân cách hố, thì tâm trạng
nhân vật trử tình đến lúc này được bộc lộ trực tiếp. Dường như cô
gái không kìm giữ được tiếng lịng thổn thức của mình nữa mà nỗi
nhớ được trào dâng theo sự bộc lộ tự nhiên. Sự lựa chọn hình
tượng để biểu đạt tâm trạng thật họp lí, nhất quán. Từ khăn đến đèn
rồi đến mắt. Đôi mắt là cửa sổ tâm hồn. Tác giả dân gian đã dùng
phép hoán dụ, lấy mắt để chỉ nhân vật trử tình. Đèn khơng tắt vì
thương nhớ, làm sao mà mắt có thể ngủ yên khi khăn, đèn cũng
thao thức, khắc khoải, cũng chính là những hình ảnh biểu đạt cụ thể
nhất của tình yêu. Đại từ phiếm chỉ ai được sử dụng trong bài ca
này rất phù họp với lối biểu đạt tâm trạng kín đáo của con người.
Thể thơ bốn chữ gọn, chắc chuyển tải những câu hỏi dồn dập. Lối
gieo vần thiên về thanh trắc đất, vắt, mắt, tắt khá độc đáo đan xen
với thanh bằng ai tạo nên sự đối xứng nhịp nhàng. Hai câu thơ cuối

nói về nỗi lo âu chính đáng của người con gái trong xã hội cũ : Đêm
qua em những lo phiền, Lo vì một nỗi khơng n một bề... Đến đây
ta hiểu thêm vì sao cơ gái dằn vặt, nhớ thương, phấp phỏng nhường
ấy. Ngoài nỗi nhớ thương, cơ cịn lo cho tình u, cho dun phận.
Một cơ gái tinh tế, kín đáo, có tình u ngập tràn và sâu sắc thế thì
làm sao khơng lo âu cho duyên phận của mình khi trong xã hội xưa,
mỗi lần nghĩ đến thân phận của mình là người phụ nữ lại cất lên
tiếng hát than thân ướt đẫm nước mắt. Biện pháp nhân cách hoá
với hệ thống biểu tượng được chọn lọc, cách diễn tả tài tình, giàu
sắc thái biểu cảm là những biện pháp nghệ thuật nổi bật của bài ca
dao. Thiên nhiên là chất liệu nghệ thuật đắc lực giúp sự biểu đạt tình
cảm đầy hiệu quả. Năm lần lặp lại năm câu hỏi chỉ thay bằng ba
hình tượng khác nhau khăn, đèn, mắt theo sự bộc lộ tình cảm tăng


dần. Đại từ phiếm chỉ ai quen thuộc giúp cho lối nói ẩn dụ diễn tả
được đối tượng cần hướng tới vừa mơ hồ vừa gợi cảm. Chỉ mười
dòng thơ, mỗi dòng bốn chữ cùng với các cặp lục bát cuối bài, các
câu hỏi tu từ dồn dập đã diễn đạt thật tài tình nỗi nhớ thương, bồn
chồn, da diết của cô gái.
Bài 5: Để hiểu được bài này, cần đặt bài ca dao trong hệ thống
những câu hát mở đầu theo cơng thức truyền thống "Ước gì" và mơ
típ "cái cầu" quen thuộc. Khi yêu nhau người ta có nhiều ước muốn
nhưng ước muốn cháy bỏng nhất đối với những đôi lứa cách xa
nhau là được ở bên nhau: - Ứớc gì em hố ra dưa, Để cho anh tắm
nước mưa chậu đồng. - Ước gì anh hố ra hoa, Để em nâng lấy rồi
mà cài khăn. Ước gì anh hoá ra chăn, Để cho em đắp, em lăn, em
nằm. Ước gì anh hố ra gương, Để cho em cứ ngày thường em soi.
Ước gì anh hố ra coi, Để cho em đựng cau tươi, trầu vàng. Trong
ước muốn đó, có ước muốn hai bên trai gái được vượt qua đôi bờ

xa cách. Cái cầu trở thành biểu tượng của những sứ giả nối liền tình
yêu. Cái cầu xuất hiện trong ca dao khá đa dạng. Ngoài những cây
cầu có thực như cầu tre lắt lẻo, cầu ván đóng đinh,... thì trong ca
dao cịn một loạt hình tượng những cây cầu ảo, chỉ tồn tại trong
tưởng tượng như cầu cành hồng, cầu ngọn mùng tơi, cầu cành trầm
: - Đôi ta cách một con sông Muốn sang anh ngả cành hồng cho
sang. - Gần đây mà chẳng sang chơi, Để em ngắt ngọn mùng tơi
bắc cầu. - Sợ rằng chàng chẳng đi cầu, Cho tốn cơng thợ, cho sầu
lịng em. Đặt trong hệ thống những bài ca ấy thì chiếc "cầu dải yếm"
trong bài ca này độc đáo nhất. Những "cầu cành hồng", "cầu ngọn
mùng toi" là những cây cầu ảo, biểu tượng cho điều khơng thể có


dẫu đẹp như cành hồng, dẫu thơm, quý như "cầu cành trầm" thì
cũng chỉ là cách nói vừa biểu đạt sự trân trọng vừa là lối nói vui
trong đối đáp giao duyên. Chưa có cái cầu nào độc đáo như "cầu
dải yếm" trong sự mong ước cũng khôn cùng - "Ước gì sơng rộng
một gang". "Cầu dải yếm" mềm mại, gợi cảm về vẻ đẹp đặc trưng
của người phụ nữ, có sức gợi bao nhiêu cho những điều khơng thể
gợi bằng lời, vừa tinh nghịch hồn nhiên trong ước vọng tình yêu mà
nhân vật trữ tình là người con gái dám thổ lộ. Chúng tơi cho rằng khi
tìm hiểu bài ca dao này, khơng nên coi đây hồn tồn, bắt nguồn từ
một cảm hứng nghiêm túc mà là câu hát đùa vui trong đối đáp chứ
khơng hẳn để nói thầm vói một chàng trai nào đó. Nó vừa thật vừa
ảo tồn tại trong tình cảm con người: Bao giờ rau diếp làm đình, Gỗ
lim làm ghém thì mình lấy ta. Điều cần khẳng định rằng, chỉ bàng hai
dòng thơ lục bát ngắn gọn, lối biểu hiện trực tiếp với cảm hứng đậm
chất dân gian hồn nhiên, đầy ngẫu hứng sáng tạo, bài ca đã hát lên
thật mãnh liệt ước vọng của tình yêu. Bài 6: Lấy những sự vật quen
thuộc, phổ biến trong tự nhiên để diễn tả tình cảm nhớ mong, thề

nguyền, ước hẹn là thủ pháp nghệ thuật tiêu biểu của ca dao. Ở
những bài ca dao trên, tác giả dân gian chọn những biểu tượng mặt
trăng, mặt trời, sao Hôm, sao Mai, khăn, đèn, mắt,... để diễn tả tình
u đơi lứa.
Bài 6: Cịn ở bài ca dao này, những vật được nhắc đến lại là
những vật rất bình dị: muối, gừng. Muối, gừng là những gia vị trong
bữa ăn hằng ngày của mỗi người, mỗi gia đình (không cao sang, đắt
đỏ nhưng vô cùng cần thiết). Vị mặn của muối, vị cay nóng của
gừng khơng thay đổi theo thời gian, ngược lại, thời gian càng làm


cho nó thêm được thử thách vói những thuộc tính vốn có của nó, trở
thành biểu tượng của những gì không thay đổi: - Bao giờ muối lạt
chanh thanh Em đây mói dám bỏ anh lấy chồng. - Gừng già, gừng
rụi, gừng cay, Anh hùng càng cực càng dày nghĩa nhân. - Muối ba
năm muối đang cịn mặn Gừng chín tháng gừng hãy cịn cay. Vì
những đặc tính ấy mà muối, gừng trở thành biểu tượng của sự thử
thách đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi để càng đậm đà tình
nghĩa. Những cặp từ sóng đơi như gừng cay - muối mặn, ba năm chín tháng, tình nặng - nghĩa dày với sự đối thanh đối ý hài hoà, có
sắc thái thành ngữ dân gian như lời ăn tiếng nói hằng ngày của
những người lao động bình dị. Nếu ca dao tình yêu thề, nguyền,
ước hẹn bằng những hình tượng lãng mạn như trong bài 3, bài 4 thì
bài ca dao này với biểu tượng muối, gừng biểu trưng cho tình nghĩa
vợ chồng chung thuỷ, đã qua thử thách gian nan, cam khổ của cuộc
đời. Ca dao nói về tình nghĩa vợ chồng thường nhắc đến tình và
nghĩa. Đạo lí của con người Việt Nam nói chung, tình cảm vợ chồng
nói riêng ln đề cao cả tình và nghĩa : "Củi than nhem nhuốc với
tình - Ghi lời vàng đá xin mình chớ qn". Nói về gừng cay, muối
mặn cũng để tạo tiền đề cho lời thề nguyền ước hẹn : Đơi ta tình
nặng nghĩa dày Có xa nhau đi nữa cũng ba vạn sáu ngàn ngày mới

xa. "Ba vạn sáu ngàn ngày" là một trăm năm, lối nói mới lạ biểu đạt
thời gian trọn vẹn của một đời người. Một lời thề nguyền tạo ấn
tượng sâu sắc cho người nghe về sự bình dị, chân tình nhưng son
sắt. Thể thơ lục bát có sự biến thể, kéo dài câu bát thành 13 chữ
họp với sự khẳng định thời gian trăm năm trong lời thề ước.



×